Bản chất thật sự của tình thương yêu - Cháu ruột Bác Hồ, TT. Thích Chân Quang

Tâm từ, hay thường được gọi chung là từ bi, là tình thương không điều kiện, không đòi hỏi phải được đáp trả trở lại.

Thật sự thì chữ bi có nghĩa là thương xót khi thấy chúng sinh đau khổ. Chỉ khi nào có thương yêu ai, ta mới thấy xót xa khi người đó đau khổ. Bi là dấu hiệu chứng minh có sự hiện hữu của từ nên chúng ta hay ghép chung thành từ bi. Nhưng nếu cẩn thận thì ta chỉ dùng chữ từ cho đúng bài bản chữ nghĩa.

Vì tâm từ là tình thương không điều kiện nên cũng không hạn cuộc nơi một số ít người mà luông có khuynh hướng trải rộng vô tận. Để hiểu rõ hơn về tâm từ, ta nên so sánh với tâm luyến ái của thế gian.

Tâm luyến ái cũng là tình thương yêu của chúng sinh này với chúng sinh kia, nhưng bắt buộc phải có một trong những điều kiện sau đây:

- Thứ nhất, do duyên nghiệp ân nghĩa đời trước tạo thành. Chúng ta thương người nào vì trong kiếp trước ta có nợ có duyên với người đó. Ví dụ như giữa cha mẹ và con cái với nhau cũng là duyên nợ qua lại mới tạo thành. Trong đó, cha mẹ mắc nợ người con nào nhiều sẽ cảm thấy thương yêu người con đó hơn. Trong số những bạn bè huynh đệ mà ta gặp gỡ trong cuộc đời cũng vậy, không phải ai ta cũng có thiện cảm đều như nhau mà là người thì ta thương nhiều, người thì ta thương ít. Đó là vì duyên giữa mọi người với chúng ta không đồng.
Ân nghĩa đời trước sẽ tạo thành tình thương yêu đời này rất rõ rệt. Ví dụ như ta chịu ơn ai nhiều từ kiếp trước vì người đó đã ưu ái ta, giúp đỡ ta nhiều. Đời này gặp lại, tự nhiên ta thấy thương mến người đó một cách không giải thích được và cứ muốn giúp đỡ ân cần. Người kia thì thấy bình thản vì họ thi ân chứ không chịu ơn. Chúng ta chịu ơn thì cứ bị một tình cảm thúc đẩy trong tâm để phải muốn làm cho người đó vui. Cho nên ta thấy rằng tình cảm thế gian chỉ là hư ảo, chỉ là trung gian làm chất xúc tác để chúng sinh trả nợ lẫn nhau chứ không có thật. Tình thương yêu thế gian rất mong manh, nợ trả hết rồi thì thương yêu cũng hết. Khi thương nhau, ta cứ tưởng tình thương đó sẽ bền vững lâu dài, nhưng rồi “ thế rồi cuộc đời là, những cuộc tình chia xa, đi lạc vào những phía không đường về…”

Tình thương yêu nam nữ là đại biểu mãnh liệt nhất cho loại tình thương thế gian này. Tình yêu nam nữ là mãnh liệt nhất nên cũng ích kỷ nhất. Trước hết khi yêu, ai cũng nghĩ rằng tình yêu đem lại cho ta hạnh phúc vì cảm xúc của tình yêu rất cháy bỏng. Xưa nay không biết bao nhiêu thơ, văn, nhạc, tranh, tượng ca ngợi tình yêu. Tình yêu nam nữ và sáng tác nghệ thuật gần như bất khả phân ly vì những cảm xúc tình yêu giúp nghệ sĩ cảm hứng để sáng tác. Nhưng đến khi tình yêu tan vỡ thì người ta mới biết đó là đau khổ nhất. Vì sao, bởi vì bản chất của tình yêu là ích kỷ nhất nên nó cũng gây ra đau khổ nhất.

Triết gia Schopenhauer nói: “Chỉ có những triết gia mới có thể sống hạnh phúc trong hôn nhân, nhưng tiếc rằng một triết gia thật sự thì không chịu lấy vợ.”

Cuộc sống gia đình rất phức tạp, vợ chồng đòi hỏi sự săn sóc ân cần từng li từng tí. Yêu cầu của tình yêu rất cao nên hầu hết không ai đáp ứng được đầy đủ. Chỉ có những người rất thông minh và rất đạo đức mới đáp ứng nỗi. Người vừa thông minh vừa đạo đức đó, Schopenhauer gọi là triết gia.

Người ta gặp nhau rồi có tình cảm với nhau, rồi thích nhau gì đó chứ không thật là có tình yêu. Tình yêu thật sự rất mạnh và đòi hỏi sự ứng xử khéo léo để được bền vững lâu dài, để kềm chế sự ích kỷ của mình lại. Sự ích kỷ trong tình yêu rất dữ dội mà bộc lộ rõ nhất là sự ghen tuông. Khi ghen tuông, người ta có thể đánh, giết, tạt acid… đủ màn ác độc. Vì ích kỷ nên người ta cũng đòi hỏi lẫn nhau, trói buộc lẫn nhau, ghen tuông với nhau, hành hạ lẫn nhau.

Để sống êm ấm hạnh phúc trong gia đình phải là những triết gia thông minh và đạo đức. Nhưng như Schopenhauer nói, triết gia thì không chịu lấy vợ. Đa phần người ta sống không hạnh phúc trong hôn nhân. Trong một cuộc thăm dò ý kiến, nhiều cụ già đã lắc đầu ngao ngán về cuộc sống hôn nhân đã qua của mình. Tình yêu quả thật là một cái gì hư ảo mong manh!.

So sánh Đạo đức và Pháp luật - Cháu ruột Bác Hồ, TT. Thích Chân Quang

a) Ở mức độ cạn:

Ở mức độ cạn thì Đạo đức cao hơn Giới luật. Vì sao?

Bởi vì Đạo đức là cái tốt ở trong tâm, trong khi Giới luật chỉ là sự ngăn cấm bên ngoài. Giới luật ngăn cấm những sai lầm ở hành vi và lời nói, như cấm giết hại, cấm trọm cắp, cấm nói dối vân vân… còn Đạo đức giữ gìn tâm ta thoát khỏi sự độc ác, sự tham lam, sự gian trá…

Có những trường hợp hành vi bên ngoài là phạm giới nhưng nội tâm bên trong là có đạo đức. Một người sư đệ đã lấy đôi dép đẹp của người sư huynh, mà không hỏi xin phép, để đem cho một người nghèo, vì biết rằng người sư huynh của mình tâm rất tốt. Hành vi lấy không hỏi xin là vi phạm giới luật, nhưng động cơ là giúp người nghèo, và cũng biết chắc sư huynh mình sẽ hoan hỷ, nên được xem là phù hợp với đạo đức.

Một câu chuyện nổi tiếng trong Góp nhặt cát đá ,” có hai sư huynh sư đệ cùng đi trên một con đường sình lầy. Có lẽ hai vị quần áo cũng lam lũ nên để như vậy mà lội sình luôn. Đến một đoạn, chợt hai vị thấy một cô gái mặc kimono có vẻ quý tộc đứng loay hoay bên đường không dám băng qua vì sợ lấm y phục. Lúc đó trên đường cũng không có ai khác có thể giúp cô gái. Người sư đệ bước lại bảo:

- Này cô bé, để ta giúp cho.

Rồi ông bế cao cô gái lên, đưa qua bên kia lề đường, đặt xuống, sau đó tiếp tục đi với sư huynh mình. Thế là người sư huynh làm mặt ngầu, lầm lì không thèm nói chuyện nữa. Sư đệ có hỏi gì cũng không thèm đáp. Đến một khá lâu cũng gần về đến chùa, sư huynh mới trách:

- Chúng ta là tu sĩ không được phép đụng chạm đến phụ nữ, tại sao sư đệ làm như thế?

- Ha ha, em đã bỏ cô ta lại đó rồi, sư huynh còn mang tới đây sao !”

Nghe câu chuyện trên ta thấy người sư đệ đã khá tự tại, dù chạm người nữ mà tâm không dính. Xét về giới luật thì đã phạm, nhưng xét về Đạo đức thì không sao vì đó là việc làm vị tha giúp người với tâm vô nhiễm. Chúng ta vẫn khâm phục người sư đệ mỗi khi nghe kể câu chuyện trên. (Tuy nhiên dù có khâm phục, tu sĩ cũng không nên bắt chướt đi ngoài đường kiếm phụ nữ để bồng qua đường.)

Vì sao không nên gộp Tết Ta vào Tết Tây và Ý nghĩa đặc biệt của ngày Tết cổ truyền Việt Nam (*)


[…] Người ta đặt ngày 1-6 là ngày Quốc Tế Thiếu Nhi, để các cơ quan, đoàn thể và gia đình nhắc nhau biết chăm sóc, dạy dỗ thiếu nhi. Vì có những nơi mà thiếu nhi sống mà không có tuổi thơ, không được học hành, chẳng được yêu thương, phải lao động vất vả. Nên có ngày Thiếu Nhi để nhắc nhở mọi người quan tâm thiếu nhi, vì thiếu nhi là tương lai của nhân loại. Rồi lại có ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8-3 bởi vì phụ nữ vốn chân yếu tay mềm, đa phần là vậy, phụ nữ yếu sức hơn đàn ông nên dễ bị bắt nạt, ức hiếp, ngược đãi bằng luật rừng, và ở những xứ đàn ông dâm dục nhiều thì phụ nữ dễ bị cưỡng hiếp. Vì vậy nên thế giới lập ra ngày Phụ Nữ để vinh danh giá trị người phụ nữ và để nhắc người đàn ông phải biết bảo vệ, yêu thương những người phụ nữ bên cạnh mình. Rồi có ngày 1-5 là ngày Quốc Tế Lao Động, bởi vì thân phận người lao động cực khổ quá. Số phận của họ, cuộc đời của họ bị ảnh hưởng nhiều, thậm chí là quyết định bởi người chủ. Vì để nhắc cho thế giới biết thân phận cũng như sự đóng góp của người lao động nên người ta lập ra ngày Quốc Tế Lao Động 1-5.


 Vậy, đố chư tôn đức, đố quý Phật tử, người ta lập ra ngày Tết để làm gì? Ngày Tết ở đâu ra? Ngày Tết được cho là ngày bắt đầu của một năm mới. Tại sao ngày bắt đầu của một năm mới lại quan trọng đến như vậy? Chúng ta có 2 ngày bắt đầu năm mới khác nhau. Một ngày của dương lịch. Một ngày của âm lịch. Cùng là ngày 1-1, nhưng hai ngày đó thường chênh lệch nhau khoảng từ 1 tháng đến gần 2 tháng. Vậy, ngày đầu năm của dương lịch với ngày đầu năm của âm lịch, ngày nào mới thật sự đúng là ngày đầu năm? Những người yêu văn hoá phương Tây thì cho rằng ngày 1-1 của dương lịch mới là ngày đầu năm. Sự thật điều đó là sai. Sự thật là, xét theo thời tiết, thì ngày 1-1 của dương lịch vẫn còn nằm trong mùa đông. Chỉ có ngày 1-1 của âm lịch mới chính xác nằm trong mùa xuân. Vì vậy, người Đông Phương làm lịch chọn ngày 1-1 làm ngày đầu năm đúng vào thời điểm bắt đầu của mùa xuân, đã văn minh hơn người Tây Phương. Chúng ta xem dự báo thời tiết vào mùa xuân sẽ thấy đến tháng 2 của dương lịch mới bắt đầu mùa xuân, tức là tháng Giêng của âm lịch. Cho nên, để từ giã mùa đông lạnh lẽo, u ám, buồn bã, bước vào thời điểm nắng ấm bắt đầu ửng lên, tuyết dần dần tan, mầm chồi bắt đầu vươn dậy, những nụ hoa từ từ hé mở thì chính xác chỉ là ngày đầu năm của âm lịch.

Nên vì vậy, ta cố gắng duy trì ngày Tết truyền thống theo âm lịch này vì nó vừa hợp với lòng người biết yêu quý bản sắc văn hoá dân tộc, vừa chính xác phù hợp với sự chuyển dịch luân phiên giao mùa của thời tiết. Có một số người cứ kêu “thôi ăn Tết theo dương lịch cho giống với thế giới”. Tại sao, mắc gì phải giống với thế giới, trong khi âm lịch của Đông Phương mới chính xác hơn, chứ không phải là dương lịch? Nên đúng ra là Mỹ, Pháp, Âu Châu … phải ăn Tết theo lịch Việt Nam mới là đúng. Chứ mình không cần ăn Tết theo họ. Nên hôm nay chúng ta ở đây để chúng ta đón giao thừa, cùng với cả nước, chuẩn bị ngày mai bước vào những ngày Tết đầu năm, thì ta là những người văn minh hơn một nửa bên kia bán cầu của thế giới. [tiếng Phật tử vỗ tay vang dội].

Sự mất quân bình giữa tiện nghi vật chất và các giá trị đạo đức, tinh thần của loài người

Thế giới hiện nay đã thay đổi rất nhiều so với những thế kỷ trước, nhất là so với thời đại của Phật, bởi bự tiến bộ của Khoa học Kỹ thuật.

Khoa học kỹ thuật đã làm biến đổi những tiện nghi trong cuộc sống và do đó làm thay đổi cả lối sống của con người. Ví dụ như ngày xưa muốn nói chuyện với nhau, người ta phải đi qua một quảng đường dài để gặp mặt. Vì mặt đối mặt nên phát sinh văn hóa lễ nghi giao tiếp. Ngày nay người ta chỉ cần nhấc phone lên là nói chuyện được, rất dễ dàng, và lễ nghi giao tiếp bị xem thường dần.

Rồi những dụng cụ máy móc kỳ diệu ra đời như xe hơi, tivi, computer, máy may, máy dệt, máy in… làm cho đời sống của con người được cải thiện tốt đẹp rất nhiều. Hàng hóa tinh xảo hơn càng lúc càng xuất hiện làm thu hút sự tiêu thụ mua sắm của con người. Người ta cứ phải thay đổi xe, đổi máy để có được máy mới với tính năng cao hơn, mạnh hơn, đẹp hơn… Thậm chí vải vóc quần áo cũng phong phú đa dạng dồi dào đến nỗi ai cũng sắm sửa dư thừa.

Sự thành tựu của Khoa học kỹ thuật quá thuyết phục đối với thế giới nên nhiều người phát sinh tâm lý thực dụng, coi trọng vật chất, của cải, kỹ thuật khoa học vật lý hơn là những giá trị tâm linh Đạo đức của thánh hiền từ ngàn xưa. Họ cho rằng tâm linh đạo đức là cái gì huyền hoặc mơ hồ không thực tế, không làm cho con người an sung mặc sướng như Khoa học Kỹ thuật đã làm được. Vì thế họ xa rời dần những giá trị tinh thần để thiên về vật chất. Cũng vì thế, thế giới đang bị mất quân bình giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa khuynh hướng hưởng thụ và khuynh hướng đạo đức.

Khi giá trị đạo đức tinh thần kém đi tức là con người đang đi dần vào tội lỗi và đau khổ mà không biết. Đó là lý do tại sao tuổi trẻ bây giờ dễ nỗi loạn, kiêu ngạo và bướng bỉnh vì họ tiếp xúc rất sớm với Kỹ thuật hơn thế hệ cha ông của họ. Ngày xưa cha ông của họ còn thời gian để tiếp cận với truyền thống coi trọng đạo đức tinh thần. Bây giờ mọi cái đang thay đổi theo chiều hướng xấu hơn về đạo đức.

Người xuất gia may mắn được sống trong môi trường coi trọng giá trị đạo đức tinh thần rất cao, khác hẳn với môi trường của tuổi trẻ bên ngoài rất là phức tạp. Mỗi ngày báo chí đều đăng tải những tin tức về tội phạm ma túy, cướp giựt, cờ bạc… mà những tên tuổi hình ảnh đều còn rất trẻ, thậm chí rất nhiều trẻ vị thành niên.

Hãy nhìn sự cuồng nhiệt quá đáng như điên dại khi người ta theo dõi bóng đá để hiểu sự mất thăng bằng trong tâm hồn con người ngày nay như thế nào. Chính vì tình trạng mất quân bình giữa đời sống tinh thần đạo đức và vật chất hưởng thụ mà người đệ tử Phật phải ý thức nhiều hơn về lý tưởng tu dưỡng Đạo đức để xây dựng lại một thế giới tràn đầy tình thương yêu và Đạo đức.

Con người sống trên đời cần rất nhiều thứ như tiền bạc, tình yêu, địa vị, gia đình, con cái, tiện nghi, vân vân… Nhưng trong tất cả những cái đó, con người rất cần Đạo đức làm nền tảng, làm cốt lõi, làm linh hồn. Thiếu Đạo đức, con người sẽ làm đổ vỡ tất cả. Ví dụ một người kỹ sư thiếu đạo đức sẽ tạo nên một công trình kém chất lượng; một luật sư kém đạo đức sẽ lách qua kẻ hở pháp luật để bênh vực kẻ có tội; một bác sĩ kém đạo đức sẽ kéo dài bệnh để ăn tiền; một viên chức kém đạo đức sẽ lợi dụng chức quyền để làm khổ dân… 

Vì vậy, trong bất cứ lãnh vực nào, nghề nghiệp nào, con người vẫn luôn luôn cần đạo đức để làm đúng với trách nhiệm của mình. Người đệ tử Phật hoàn toàn có ưu thế để đóng góp vấn đề Đạo đức cho xã hội vì Đạo đức là một thuộc tính nỗi bật của Phật Giáo. Người đệ tử Phật, nhất là người xuất gia, phải hết lòng tu dưỡng để đóng góp và đóng góp rất nhiều cho xã hội về nhu cầu Đạo đức vốn đang thiếu trầm trọng này.

Và cái thứ hai xã hội cần nữa là sư bình an nội tâm. Hiện nay con người ta sống rất là căng thẳng vì phải đấu tranh với sinh kế rất mệt mỏi. Ngay cả các trò giải trí cũng làm người ta căng thẳng nữa. Người nào lo sinh kế tìm miếng ăn miếng mặc đã khổ rồi; những người chơi game điện tử cũng căng thẳng không kém vì các trò bắn giết ì xèo trong đó; những vũ trường thuốc lắc gào thét nhảy múa điên dại, những trận bóng đá reo hò inh ỏi thâu đêm… đều là biểu hiện của một thế giới bất an căng thẳng. Nếu xuất hiện thêm vài màn khủng bố nổ bom, vài cuộc tấn công giết chóc thì sự căng thẳng còn ghê gớm không biết đến dường nào.

Chính vì con người sống rất căng thẳng nên sự bình an nội tâm là một nhu cầu rất lớn bên cạnh nhu cầu về Đạo đức. Ai cũng biết người tu theo Đạo Phật là tìm đến mục tiêu giác ngộ giải thoát, nhưng đó là mục tiêu của cá nhân mình, của riêng nội bộ đạo Phật. Ai là Phật tử thuần thành thì rất quý trọng tu sĩ vì nghĩ rằng những vị tu sĩ đang tinh tấn đi trên con đường giải thoát và có thể hướng dẩn họ cùng đi. Nhưng những người không theo đạo Phật thì không quan tâm đến lý tưởng giải thoát đó. Cộng đồng xã hội trước hết chỉ quan tâm xem đạo Phật thật sự đã đóng góp gì cho con người, cho thế giới. Đạo Phật thật sự có thể đóng góp rất nhiều về hai lãnh vực mà thế giới đang rất cần, đó là Đạo đức và sự Bình an của nội tâm.

Nguồn

Tâm thư gửi bộ trưởng Trương Minh Tuấn

          Kính gửi bác Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT).


          Kính thưa bác.      
Con là một đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, năm nay con 20 tuổi.
Hôm nay, con tình cờ xem được một số trang của hai quyển truyện xuất bản tại Việt Nam là “Game Of Thrones - Trò chơi vương quyền” và “A Chivalry of the Failed Knight - Sử thi về một hiệp sĩ lưu ban”. Con xin phép dẫn lại một số trích đoạn ạ và hình ảnh ạ:
 “ … “Có thích không” cô thì thào hỏi khi hướng dẫn cậu cho dương vật vào bên trong cô. Chỗ đó của cô ướt sũng, và cô không còn là trinh nữ nữa, điều đó rất rõ, nhưng Jon không quan tâm. Lời thề của cậu, sự trong sạch của cậu, tất cả không còn quan trọng nữa, quan trọng bây giờ là hơi nóng của cô, là cái miệng đang ngấu nghiến, là ngón tay đang vê đầu vú cậu …” (Trò chơi vương quyền)

 “        … “Wow! Dữ dội! Công chúa thoát y!”
          “Ý tưởng tuyệt vời! Đại ca Bisho muôn năm!”
          “Cởi mau, cởi mau! Há há há!”
          Phải phơi bày da thịt trước quân cục súc, cảm giác nhục nhã nhuộm đỏ gò má Stella. Cô cởi bỏ từng lớp, từng lớp y phục trên người.” (Sử thi về một hiệp sĩ lưu ban)


Kính thưa bác.
Con nghĩ rằng những nội dung như trên là văn hoá phẩm đồi truỵ. Văn hoá phẩm đồi truỵ kích động lối sống tự do tình dục: quan hệ tình dục nhiều, trước hôn nhân, ngoài hôn nhân, khiến người con gái không giữ được trinh trắng trước cuộc hôn nhân chính thức, người con trai thì sống thử vô trách nhiệm (được phát bao cao su miễn phí mà). Sự dễ dãi với tình dục lúc tuổi trẻ của người con trai, con gái cùng đối tượng khác khiến lòng kính trọng lẫn nhau giữa hai người khi thành vợ thành chồng không bao giờ là trọn vẹn, sẽ luôn sứt mẻ, âm ỉ nghi kị về lòng chung thuỷ, ghen tuông và xem thường. Lòng “tương kính như tân”, tức “kính trọng lẫn nhau như ngày đầu” của hai vợ chồng là nền tảng của gia đình bền vững. Gia đình bền vững là nền tảng của văn hoá, thuần phong mỹ tục dân tộc. Mà văn hoá, thuần phong mỹ tục dân tộc là cội nguồn quyết định sự tồn vong, thịnh suy của đất nước.
Kính thưa bác.
Khoản 1 điều 60 của Hiến pháp ghi rõ “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Điều 253 Bộ Luật hình sự quy định “Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy, cũng như có hành vi khác truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Xuất bản văn hoá phẩm đồi truỵ nhằm kích động lối sống tự do tình dục chẳng những là hành vi vi phạm khoản 1 điều 60 của Hiến pháp và điều 253 của Bộ Luật hình sự mà còn tàn phá văn hoá, thuần phong mỹ tục dân tộc; đánh vỡ sự bền vững của hàng triệu gia đình; huỷ diệt tâm hồn của hàng chục triệu trẻ em, học sinh – sinh viên; và đe doạ nghiêm trọng sự tồn vong của đất nước, của chế độ.
Con tin bác sẽ nhân danh lòng yêu nước và tinh thần thượng tôn Hiến pháp – Pháp luật để có biện pháp đủ cứng rắn nhằm bảo vệ văn hoá – linh hồn của dân tộc ạ.
Thanh thiếu niên chúng con đã quá thừa những thông tin kích dục trên mạng internet. Từng ấn phẩm truyện, truyện tranh, từng bộ phim kích dục được xuất bản, công chiếu công khai một cách hợp pháp sẽ là những giọt thông tin kích dục nhỏ vào ly tâm hồn vốn đã đầy ắp những điều đó của chúng con. Mỗi một giọt nước tràn li có thể sẽ khiến xã hội có thêm hàng trăm bào thai bị nạo phá; hàng nghìn ánh mắt trong veo của trẻ thơ bị vẩn đục, nhàu nát bởi sự quấy rối, xâm hại, bạo hành. Một người anh của con đang du học ở Mỹ có tâm sự rằng: “Ở bên này, các sinh viên trước khi vào học phải được huấn luyện một khoá học về tính dục: nhận dạng thế nào là quấy rối tình dục, thế nào là hiếp dâm… và chỉ dẫn cái phương pháp để tự bảo vệ chính mình, bảo vệ bạn bè mình. Đồng thời nhận biết các dấu hiệu của “tội phạm tính dục” để kịp thời báo cáo, phòng tránh cho mình và người khác”. Con tin rằng thế hệ trẻ chúng con không chỉ cần các thông tin, khoá học như thế, mà chúng con còn cần những thông tin, khoá học về: tác hại của tình dục bừa bãi, lợi ích của việc làm chủ bản thân và phương pháp hoá giải đòi hỏi sinh lý của cơ thể khi chúng con muốn tập trung vào việc học, công việc hay khi chúng con ở gần người yêu để không có những cử chỉ, hành vi vượt ngoài giới hạn. Nhờ như vậy, chúng con có thể trở nên vững vàng, bản lĩnh, hơn trong việc làm chủ bản thân. Khả năng đó sẽ giúp chúng con tăng trưởng sức chịu đựng và lòng kính trọng với người yêu, người bạn đời của mình để đạt được hạnh phúc trong tình yêu, hôn nhân, gia đình. Đó mới là điều chúng con cần, mà con nghĩ, Bộ TT-TT nên ủng hộ những thông tin như thế, chứ không phải là cấp phép thêm cho những “giọt nước tràn li” ạ.
Con kính chúc bác một năm Kỷ Dậu nhiều sức khoẻ, phước lành và an lạc ạ.
Con xin chờ đợi hồi âm của bác ạ. Năm hết Tết đến, nếu thanh thiếu niên chúng con nhận được từ bác những phong bao lì xì: một số quyết định thu hồi và xử phạt, thì chúng con sẽ vui xuân thêm phần lạc quan, vui vẻ, sung sướng biết là bao nhiêu ạ.
Con xin dừng bút.
Hồng Liên
Nguyễn Thị Hồng Liên

Xem thêm: Bí mật lịch sử - Karl Marx ủng hộ tự do tình dục: http://3t333.blogspot.ru/2016/12/vi-sao-nha-nuoc-viet-nam-cho-chieu-phim-18-o-rap-va-vtv.html

Đơn tố cáo hành vi vi phạm thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật, vi phạm hiến pháp của Đài truyền hình Việt Nam (VTV)

Quyền trẻ em (Child Rights) và Tự do tình dục (Sexual Liberation) là hai công cụ mà Chủ nghĩa đế quốc (Imperialism) sử dụng để thống trị loài người về văn hoá

Bác Hồ nói gì khi bị phê phán là "xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin" ?

Lời Đại Tướng Võ Nguyên Giáp viết cho lần xuất bản thứ ba
cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường kách mạng Việt Nam”

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta, quán triệt nghị quyết “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động…”, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh, sâu rộng và có tổ chức, nổi bật là các đề tài trong chương trình cấp nhà nước “Về tư tưởng Hồ Chí Minh”, mang mã số KX-02.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường kách mạng Việt Nam” của một tập thể tác giả do tôi làm chủ biên, được xuất bản vào tháng 5-1977, là thành quả của đề tài cấp nhà nước KX-02-01, một đề tài mang tính tổng quan, nghiên cứu, giải đáp những vấn đề chung và cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh như khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, những luận điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh và phương hướng quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, vào sự nghiệp đổi mới của Đảng ta, nhân dân ta.
Cuốn sách ra đời, được sự hoan nghênh, hưởng ứng của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ nghiên cứu và của đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong lần xuất bản thứ nhất, do sự hạn chế của bước đầu nghiên cứu và do còn ý kiến, chưa gặp nhau trong việc đưa ra công luận một số tư liệu, một số vấn đề, nên có một số thông tin quan trọng, một số điểm chưa có điều kiện nói rõ được.
Thể theo yêu cầu của bạn đọc và của Nhà xuất bản nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi đã xuất bản cuốn sách lần thứ II, có bổ sung, sửa chữa.
Từ lúc ra đời cho đến nay, đã hơn 6 năm thử thách, cuốn sách thể hiện được tính đúng đắn, khoa học và đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu tuyên truyền giáo dục quán triệt sâu sắc hơn. Chính vì vậy, Bộ phận biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã đánh giá: “Đây là một công trình lớn, có giá trị về lý luận và thực tiễn, đánh dấu một bước phát triển mới trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, hiểu sâu sắc hơn tư tưởng của Người”.
Nội dung cuốn sách, cùng với những thành tựu nghiên cứu khác về tư tưởng Hồ Chí Minh, đã cung cấp cơ sở để Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có sự khái quát cô đọng, chặt chẽ về khái niệm, nguồn gốc hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một bước tiến trong nghiên cứu và trong sự thống nhất nhận thức một số vấn đề cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là người may mắn và hạnh phúc được sống gần ba thập kỷ bên Bác, trong một hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo cũng như trong những thời cơ thuận lợi của cách mạng Việt Nam từ khi Bác trở về nước trực tiếp lãnh đạo Cách mạng cho đến lúc Bác vĩnh viễn đi xa, tôi được Bác tin tưởng giao cho nhiều trọng trách mới mẻ tưởng chừng vượt quá sức gánh vác của mình, nhất là trong những ngày đầu cuộc Cách mạng tháng Tám – 1945 và trong lĩnh vực lãnh đạo quân đội quốc phòng từ ngày đầu thành lập Quân giải phóng cho đến suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Pháp và Mỹ. Đồng thời cũng được Bác chân tình dạy dỗ, hướng dẫn từng đường đi nước bước, từng chủ trương, kế hoạch, từng lời nói, việc làm, cả trong nhiệm vụ chung và cả trong đời sống riêng tư. Lúc nào, ở đâu, việc gì, thành hay bại, khó khăn hay thuận lợi, tiến hay tạm lùi, đều như có Bác bên cạnh. Những tư tưởng, quan điểm, những lời khuyên nhủ và tấm gương thực tế xử lý mọi việc đối với mọi người của Bác đã giúp tôi bình tĩnh, dũng cảm, sáng suốt tìm được chủ trương, biện pháp, đúng đắn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên mọi cương vị công tác và trưởng thành về mọi mặt.
Mấy năm gần đây, dù đã đến tuổi 90 – cái tuổi gần đất xa trời, tôi vô cùng phấn khởi được giao trọng trách góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, có điều kiện, có thời gian, có độ lùi lịch sử cần thiết để tìm hiểu thêm về Bác và soi lại lòng mình.
Càng nghiên cứu, càng kiểm tra lại những việc Bác đã chủ trương, đã làm, để đưa cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, đạt đến những thắng lợi vĩ đại như ngày nay, càng thấy công ơn trời biển của Bác đối với Cách mạng Việt Nam và thấy sự vĩ đại vô cùng của Bác. Đúng như sự khái quát của đồng chí Trường Chinh và của một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt khác, Bác là một bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Bác là nhà chính trị - văn hoá kiệt xuất, nhà tổ chức vĩ đại, nhà quân sự đại tài, tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời mà gần gũi bình dị. Nổi bật hơn cả và xuyên suốt là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản; là sự gắn bó, kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Tư duy nhận thức đó là sự thống nhất nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, thực tiễn với lý luận, là sự gần dân, lời nói đi đôi với việc làm, kế hoạch một biện pháp hai ba; lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của dân, do dân, dựa vào dân, phát huy mọi tiềm lực của toàn dân.
          Những đánh giá, những nhận định về bản chất, về giá trị đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh, của bạn bè quốc tế, coi Hồ Chí Minh là hiện thân của cuộc cách mạng, là một nhân vật kỳ lạ của thời đại ngày nay… Theo tôi, đây là những đánh giá, những suy xét khách quan, khoa học và vô cùng sâu sắc của những nhà lãnh đạo, những trí giả, những nhà nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế mà chúng ta cần quan tâm suy nghĩ, tìm hiểu để lĩnh hội hết cái “hồn”, cái “thần” của nó, giúp ta hiểu sâu thêm, thấy rõ hơn “cái vĩ đại”, tầm cỡ lịch sử và quốc tế của Bác và của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trọn đời đi theo con đường của Bác, của Đảng, làm người học trò, người cộng sự của Bác, tôi vô cùng tự hào là đã đáp ứng được lòng tin của Bác, tôi vô cùng tự hào là đã đáp ứng được lòng tin của Bác, đã cùng với tập thể Bộ Chính trị, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện xuất sắc tư tưởng và nguyện vọng của Người ghi trong Di chúc thiêng liêng là “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất nước nhà, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Tuy nhiên, việc lĩnh hội, tiếp thu, chấp hành những quan điểm tư tưởng, những chủ trương của Bác không phải là giản đơn, dễ dàng. Đó là vì, trình độ, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm thực tiễn của lứa tuổi chúng tôi lúc bấy giờ còn có khoảng cách lớn so với “tầm” của Bác, trong anh em chúng tôi một số có ít nhiều biểu hiện giáo điều, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin qua sách báo, như những công thức cứng nhắc… Mặt nữa là tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời kỳ bấy giờ vô cùng phức tạp. Nhiều sự kiện diễn ra ngoài suy nghĩ, tưởng tượng của chúng tôi như đại đoàn kết với mọi thành phần yêu nước, nhẫn nhịn bọn Tưởng, lùi một bước với Pháp, “hoà để tiến” vì mục tiêu của kách mạng Việt Nam.
Một sự kiện có lẽ ít người biết và sách báo hình như chưa đề cập đến. Đó là vào lúc tôi đi chiến dịch Đông – Xuân 1950 – 1952, ở căn cứ Việt Bắc, Đảng đang tiến hành Hội nghị trừ bị cho Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II với chủ trương Đảng ra công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam cùng với cương lĩnh mới: Cương lĩnh hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Trường Chinh viết thư cho tôi cho biết là tình hình thảo luận khá gay go, nhất là vấn đề đổi tên Đảng, thậm chí có đại biểu đặt vấn đề gay gắt là đổi tên Đảng vậy có còn Đảng cộng sản nữa không, đổi tên Đảng là đụng chạm đến tình cảm, truyền thống, là xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin… Tình hình trên được báo cáo lên Bác. Hôm sau, trong buổi họp ở Hội trường, Bác chỉ nêu 2 ý: một là Quốc tế cộng sản chủ trương làm Cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản, vậy có phải nơi nào cũng làm cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản như nhau không? Thứ hai, chủ nghĩa Mác – Lênin là gì? Nói tóm tắt là ích quốc lợi dân, điều gì đưa lại quyền lợi cho nhân dân, đều là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng chí Trường Chinh viết tiếp: “Sau khi nghe Bác giải thích gọn gàng, thuyết phục, cả hội trường đứng dậy vỗ tay vang dậy tán thành”. Cuối cùng đồng chính Trường Chinh nhận xét là các đồng chí ta còn giáo điều và cũ lắm, toàn Đại hội và toàn Đảng đã hoàn toàn nhất trí với việc lấy tên “Đảng Lao động Việt Nam” và với cương lĩnh mới.

Đạo Đức là gì? - Cháu ruột Bác Hồ, Thượng Toạ Thích Chân Quang

Đạo Đức là gì?

- Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được chuyển hóa, an vui, lợi ích.
Như vậy, Đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định lại là Đạo đức không phải là hành vi hay lời nói bên ngoài. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Đạo đức là gốc của những hành vi lời nói tốt đẹp bên ngoài.

Một nội tâm tràn đầy Đạo đức thì luôn luôn bị thúc đẩy phải đối xử tử tế với mọi người, phải đem an vui lợi ích cho mọi người. Nếu chúng ta không thấy mình xấu, nhưng không hề bị thúc đẩy phải cư xử tốt với mọi người thì hãy biết rằng mình chưa có Đạo đức sâu sắc.

Khuynh hướng vị tha được xem là Đạo đức vì khuynh hướng đó luôn khiến chúng ta quan tâm đến những người khác, thậm chí còn hơn lo cho bản thân mình. Vì lúc nào cũng hay quan tâm đến người nên chúng ta nhanh chóng phát hiện ra nỗi khổ, niềm đau, sự khó nhọc, cơn bệnh hoạn của người để tìm cách giúp đỡ. Có khi chúng ta chỉ giúp một lời nói, một ly nước, một viên thuốc, hoặc có khi cả một số tiền lớn… để giúp người qua lúc khó khăn.

Tâm khiêm hạ được xem là Đạo đức vì tâm lý đó luôn thúc đẩy ta phải tôn trọng mọi người. Sống trên đời ai cũng cần được tôn trọng, cần được xem là có giá trị, vì thế khi ta biết tôn trọng chân thành người khác cũng là đem an vui đến cho người. Nhưng muốn tôn trọng người thì ta đừng thấy mình hơn người, nghĩa là ta phải thấy được mình nhỏ bé kém cỏi.

Khuynh hướng kín đáo cũng được xem là Đạo đức vì khuynh hướng này khiến ta không khoe khoang để đi đến tự cao vô ích. Khi ta kín đáo không bày tỏ tài năng, tài sản, thành công, công đức của mình cũng là nhường cho người khác có thêm giá trị vì không bị cạnh tranh bởi sự nỗi bật của mình.

Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng tâm lý đạo đức ở những bài sau.

Nguồn:

Vì sao Bác Hồ thành lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ 27-7 tại một nhà thờ Phật

[…] Giờ Thầy nói thêm điều này. Hôm rồi, Thầy đi ra ngoài Thái Nguyên. Theo lời mời của quý Phật tử, Thầy có đến Đền 27-7 là ngôi đền mà tại đây ngày xưa, Bác Hồ thành lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ. Nên trong ngôi đền cũng có một bàn thờ Bác Hồ. Khi đến nơi Thầy thấy khung cảnh đẹp lắm nhưng điều bất ngờ nhất là bên cạnh bàn thờ Bác Hồ có một gian nhà thờ Phật rất là nghiêm trang. Thầy mới hỏi Phật tử: “Gian nhà thờ Phật này có từ bao giờ”. Phật tử nói là trước đó cả trăm năm. Tức là có trước khi Bác Hồ thành lập ngày 27-7. Lúc đó mọi người dân mới tụ họp lại ngồi xuống trước mặt Thầy đông lắm. 

Thầy mới nói: “Bác Hồ không làm cái gì mà vô tình. Bác Hồ làm gì cũng có chủ ý. Tại sao Bác Hồ không đến nhà thờ lập ngày 27-7? Tại sao không đến một khu đất trống để lập ngày 27-7? Mà đến đúng nơi một căn nhà có thờ Phật để lập ngày 27-7? Ý Bác Hồ muốn cái gì?”. Lúc đó Thầy hỏi và bây giờ Thầy hỏi lại, ai trả lời câu này cho Thầy: Vì sao Bác Hồ đến đúng nơi một ngôi nhà có thờ Phật để lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ? Ý Bác Hồ muốn rằng, nói không thành lời, chỉ gửi gắm lại cho nhân dân, LÀ PHẢI ĐƯA HƯƠNG LINH CỦA CÁC ANH EM LIỆT SĨ VỀ NƯƠNG TỰA VỚI PHẬT. Thầy nói vậy có sai không ạ? [Phật tử vỗ tay] Sau khi Thầy nói điều này ra thì mọi người ngỡ ngàng vỗ tay, mừng quá. Thầy mới nói tiếp: “Dựa trên tinh thần hôm nay ta giải mã được điều này – được cái thâm ý của Bác Hồ này, ta mạnh dạn kiến nghị lên trung ương nhà nước rằng: từ đây bất cứ nơi nào có nghĩa trang liệt sĩ, nhà nước phải xây một nhà thờ Phật, để cho anh em liệt sĩ được về nương tựa với tâm linh của Đạo Phật” [Phật tử vỗ tay].

Ý thức của con người có hoàn toàn lệ thuộc vào dữ kiện từ thế giới vật chất bên ngoài? (*)

[…] Cái tuyệt đối còn được hiểu là những nguyên tắc, nguyên lý không thay đổi. Hồi nãy chúng ta nói cái tuyệt đối là cái gì lớn lao vĩ đại, vượt ra ngoài sự so sánh với tất cả mọi điều. Nhưng bây giờ, có một ý nghĩa của sự tuyệt đối đơn giản hơn, gần gũi với đời thường hơn, là, những cái gì là những nguyên tắc, nguyên lý không thay đổi, cũng gọi là tuyệt đối. Ví dụ như hai cộng với hai là bốn, điều đó là một chân lý tuyệt đối. Mình ở trái đất thì hai cộng hai là bốn, đi lên Hoả Tinh thì hai cộng hai cũng là bốn. Mình có lui lại một triệu năm trước thì hai cộng hai vẫn là bốn. Mình đi tới một triệu năm sau thì hai cộng hai vẫn là bốn. Tính chân lý ổn định của toán học cũng là tuyệt đối. Trong thực tế thì chúng ta không đạt được cái chính xác hoàn toàn. Ví dụ chúng ta đem hai lon gạo cộng với hai lon gạo thì nhiều khi lại không được bốn lon gạo, vì mỗi lon khi ta đong không hoàn toàn giống nhau. Lon này ít hơn lon kia năm hột, nhiều hơn lon nọ mười hột. Nhưng trên lý thuyết thì hai cộng với hai luôn luôn là bốn. Ba nhân năm luôn luôn là mười lăm. […]

Lá thư bí mật gửi nhân dân Nghệ An và khát vọng giành lại linh hồn cho người Việt Nam của Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (*)

[…] Đúng ra, Chơn Quang phải cảm ơn Thầy rất nhiều. Vì Thầy đã về đây mở mang lại nguồn Đạo Pháp cho quê hương Thanh Chương. Quý Phật tử có biết là, bố Bác Hồ, sau này lưu lạc vào trong miền Nam, có viết thư ra Nghệ An. Thư đó bị giặc Pháp giữ lại. Nhưng sau này, nhà nước ta mới tìm vào những cái hồ sơ lưu trữ và viết điều này lại trong cuốn sách “Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc” ở trang 133, sách viết như thế này: “Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc từ trong Cao Lãnh – Đồng Tháp, viết thư về Nghệ An kêu gọi nhân dân Nghệ An theo Đạo Phật nhưng thư đó đã không đến được đây [tức Nghệ An]”. Bị Phòng nhì Pháp giữ lại. Tiếc rằng bức thư đó không đến được Nghệ An. Chứ nếu bức thư đó đến được Nghệ An thì có lẽ là nền Phật Pháp của Nghệ An ta ngày hôm nay cực kì hưng thịnh, chứ không phải tiêu điều như thế này. Xin trân trọng giới thiệu, Thượng Toạ Quảng Bảo – cũng là người con của Thanh Chương, về dựng ngôi chùa ở Ngưu Tử này, để khơi lại giềng mối Phật Pháp cho quê hương Thanh Chương. Nhìn cảnh chùa thế này ta hiểu được Thượng Toạ vô cùng vất vả. Vì vậy tất cả nhân dân bà con Phật tử ta ở Thanh Chương phải hết sức yêu kính, ủng hộ Thầy. Và cũng xin trân trọng giới thiệu, người ngồi đây gốc tổ cũng ở Thanh Chương. Dù sinh ở trong miền Nam nhưng máu chảy trong người là máu của Thanh Chương, ông cố là người Thanh Chương (**). Nên về đây là về quê hương của mình, rất là xúc động. Nhìn ngôi chùa quê tàn tạ thế này, được Thượng Toạ Quảng Bảo với Thượng Toạ Minh Hiếu về đây trông côi, bắt đầu dựng lại ngôi chùa đầu tiên, trong lòng như muốn khóc, thấy thương hai Thầy quá.

Mà, tại sao, Phật Pháp đối với ta quý đến như vậy? Tại sao bố của Bác Hồ là Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc bao nhiêu năm lưu lạc lại viết thư về Nghệ An bảo dân ta phải theo Đạo Phật? Có điều gì ở trong Đạo Phật vậy? Vì có những điều thế này …


Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc 
- vị quan, nhà nho, thiền sư, chí sĩ yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Bí mật của Jesus Nazareth

Truyện ngắn Con trai của Thiên Chủ Đế Thích

- Kính thưa Phụ Vương! Đã gần 600 năm sau khi Đức Thế Tôn vĩ đại nhập Niết Bàn, Chánh Pháp của Người đang dần dần chầm chậm lan ra khắp bốn phía mười phương tám hướng. Nhìn những đất nước ở Trung Á, Nam Á và Đông Nam Á ...dần dần đón nhận đạo lý của Người, thay đổi tâm hồn họ mà lòng con hạnh phúc biết là bao nhiêu! Nhưng, kính thưa Phụ Vương! Có một dân tộc tên gọi là Do Thái, vốn mấy nghìn năm trước đây là nô lệ của người Ai Cập - đất nước được cai trị bởi những vị thần Pharaoh. Dưới sự phân biệt chủng tộc hà khắc và cay nghiệt của người Ai Cập, họ nung nấu lòng hận thù để rồi mấy nghìn năm qua, khi họ tiếp tục lang thang tìm miền đất hứa, tiếp tục bị nhiều đế quốc bắt làm nô lệ, trong đó có người Babylon, lòng hận thù của họ ngày càng lớn. Đọc những dòng kinh Talmud, Torah thấm đầy hận thù, bạo lực, tính dục và khuynh hướng độc tôn dân tộc Do Thái thượng đẳng, xem phần còn lại của loài người không - phải - Do - Thái là động vật, con hết sức lo lắng cho vận mệnh của loài người nếu niềm tin cực đoan này được giữ gìn và phát triển.

- Này con trai yêu quý của Cha, Marah - ác ma của cõi trời Tha hoá tự tại đã khéo léo lợi dụng, duy trì và khuếch đại lòng hận thù của dân tộc này, để mai này, khoảng 1000 năm sau nữa, tại nước cộng hoà Weimar ở Tây Âu sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẫm máu, sẽ xuất hiện cái gọi là "ngành công nghiệp phim khiêu dâm" mà chính những người Do Thái là ông tổ. Ít lâu sau cũng chính họ đứng đằng sau chỉ huy phong trào tự do tình dục làm điêu đứng toàn nhân loại. Người Do Thái dùng lối sống truỵ lạc để khuất phục từng dân tộc một, đánh đổ từng bản sắc văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc, giá trị đạo đức bị thay thế bởi lối sống tiêu thụ, hưởng thụ, đề cao cái tôi cá nhân (bản ngã). Mất bản sắc văn hoá dân tộc là mất nước, người Do Thái sẽ dễ dàng thống trị một đất nước, áp đặt lên đất nước bị xâm lược một ngân hàng trung ương tư nhân độc lập in tiền với nhà nước, khi và chỉ khi người dân nước đó không còn chút bản sắc văn hoá hay giá trị đạo đức gì, không còn lòng yêu nước, không còn lòng yêu kính và trung thành với lãnh tụ của mình. Còn ác ma Marah, hắn bí mật tiếp sức, tác động cho người Do Thái dùng lối sống ích kỷ hưởng thụ truy lạc để khiến loài người đắm chìm trong tội lỗi vì bản năng tính dục, bản năng hưởng thụ, lòng ích kỷ là gốc rễ của mọi tội lỗi. Từ đó, loài người bị đẩy ra xa khỏi Chánh Pháp của Thế Tôn, trở thành loài cá ngoan ngoãn muôn đời muôn kiếp nằm trong lưới ma, con ạ.

- Vậy thưa Cha, chúng ta phải làm sao, lẽ nào chúng ta lặng yên nhìn hành tinh xinh đẹp mà Thế Tôn vĩ đại đã thị hiện sẽ điêu tàn như thế? Lẽ nào chúng ta không thể làm gì để ngăn chận một mai này tín ngưỡng cực đoan đó sẽ huỷ diệt loài người và làm tổn hại Chánh Pháp vi diệu mà Thế Tôn đã phải chịu bao cay đắng, chống phá … như con voi giữa trận, Người hùng dũng tuyên thuyết nơi lục địa Ấn Độ ngày xưa?

- Mọi chuyện đều do nghiệp duyên nhân quả chi phối con ạ, không có gì có thể trường tồn mãi mãi...

- Không thưa Cha! Con không cho phép mình đứng yên nhìn Chánh Pháp của Thế Tôn bị những kẻ xấu làm tổn hại! Con không đành lòng! Con xin phép Cha cho con được thị hiện vào sắc dân Do Thái, để thay đổi những niềm tin cực đoan và sai lầm của họ về một Thượng Đế thần quyền thưởng thiện phạt ác, về bạo lực, về tính dục, về ảo vọng thống trị loài người bằng khuynh hướng sống hưởng thụ và truỵ lạc...

- Được, Cha đồng ý. Hôm nay Cha, là Thiên Chủ Đế Thích, Ta sai con đến cứu vớt trần gian!

- Dạ, thưa Cha, con xin phép Cha, con đi ạ.

Khắp các tầng trời bỗng trở nên im ắng. Tiếng nhạc trời nhỏ dần rồi tắt hẳn. Không khí ngậm ngùi phủ trùm thiên giới… Vị Thiên Tử dáng người cao to đường bệ, mái tóc dài xoã đến vai, ánh mắt xanh biêng biếc như hai hòn ngọc, quay người lại, đảnh lễ Cha mình, đảnh lễ Chư Thiên Tử đang chắp tay rưng rưng nước mắt cảm động trước một trái tim Bồ Tát... rồi cất mình bay lên và biến mất giữa tầng không.

Một vị Thánh đã đến với trần gian như thế.

Viết xong ngày 13 tháng 12 năm 2016
Thiện Khiêm Nguyệt

ÂM THẦM VÀ LẶNG LẼ…

Âm thầm là những việc làm ta không thấy, nó là những việc làm lặng lẽ nhưng rất quyết liệt và nó là bàn đạp để thực hiện một điều gì đó hay thành tựu một điều gì đó.

Để một người lên được người thầy, thì họ phải có nhiều năm sư phạm. Để là một người học sinh giỏi, thì họ phải âm thầm chăm học trong biết bao ngày đêm vất vả. Để là một người được nhiều người tôn trọng, họ cũng phải sống tốt, sống tử tế với mọi người. Những thành công này, đều phải trải qua giai đoạn âm thầm, điều đó ta sẽ không thấy, không biết nếu ta không tìm hiểu, không suy ngẫm.

Và những “hành động âm thầm” như thế này lại có sức ảnh hưởng rất mạnh. Một lời mắng to không đủ thuyết phục bằng những lời rỉ tai nói xấu. Để lên được chủ tịch, thì họ phải thể hiện một cái phẩm chất và trí tuệ chính trị, chính yếu tố mới thuyết phục người dân, chứ không tự nhiên hô hào mà được mọi người yêu mến. Cũng vậy, để tuyên truyền một điều gì, không phải đăng lên những trang báo dài là thành công, mà phải có những người âm thầm, “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người”, thì mới có khi kết quả lại cao hơn mong đợi. Một lời dạy răn con cái, chưa chắc đủ thuyết phục bằng những năm tháng mà cha mẹ sống gương mẫu. Nên, những việc làm “âm thầm, lặng lẽ” có thể mang lại một ảnh hưởng cực kỳ kết quả, sâu sắc và bởi vì thế, những thế lực xấu, cũng lợi dụng chữ “âm thầm-lặng lẽ” này để thực hiện yêu sách của mình.

NẾU LÀ VIỆT NAM, DÙ CỌNG CỎ CŨNG YÊU, CŨNG THƯƠNG!

“Ôi Tổ Quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho cả cuộc đời, cho cả non sông …”

Nếu người Việt Nam cũng sống theo tinh thần yêu nước như câu thơ trên thì hẳn rằng nước non ta đã phát triển hơn thế nữa. Bởi vì có nhiều người quên, quên đi long yêu nước, chỉ choáng ngợp, chỉ chạy theo các văn minh tiến bộ của nước ngoài nên Việt Nam ta mất biết bao người tài xây dựng Tổ Quốc. Họ chỉ thích chạy theo cái tài, cái lợi rồi quên bẽn đi cả non sông đã nuôi họ ngày nào, quên đi sự bình yên mà ngày nào họ sống phải đánh đổi lại mạng sống của không biết bao nhiêu con người. Họ đã quên, họ đã đi, đi rồi núp luôn bên xứ người để hưởng thụ hạnh phúc. Đau lòng thay cho những con rùa rút đầu như thế!


Là người Việt Nam, ta yêu đất nước Việt nam, yêu cả khung trời Việt Nam, cả mảnh đất Việt Nam. Là người Việt Nam, ta yêu cái hồn dân tộc, yêu từ bụi tre xanh đến ngọn cỏ lưa thưa bên đường. Là người Việt Nam, ta yêu cái chất của người Việt Nam, chịu cam chịu khổ để ngày mai tỏa sáng, ta yêu những điều nghèo nàn, cam chịu những điều còn chậm chạp của dân tộc ta để một ngày kia, ta xây dựng nó tươi đẹp hơn! Là người Việt Nam, ta yêu cái tốt cũng như cái xấu của Tổ Quốc ta,  ta yêu con người Việt nam, yêu cả cái nghèo hèn, cái kém giở của Tổ Quốc ta chứ không bao giờ them, không bao giờ là hạng người phản bội dân tộc ta khi có một thứ hay hơn, cho ta hạnh phúc hơn. Ta thà sống kham cực ở quê hương còn hơn là núp bong bên hào quang của thế giới, ta thà thiệt thòi phần mình, nghèo hơn, lương ít hơn nhưng đuôc cống hiến cho Tổ Quốc chứ không là cái thứ quen ơn phụ nghĩa, như cái lũ kiến thấy mật ngọt là bâu vào. Bởi vì sao, bởi vì ta còn trách nhiệm, ta còn trách nhiệm phải đền ơn những người đã ngã xuống để Tổ Quốc ta độc lập như ngày hôm nay. Ta còn trách nhiệm là phải rửa cái hận của nước ta khi bị bọn cường quốc đè đầu cưỡi cổ ngày nào, nó đã nhìn dân tộc ta như thứ cu li mọt rợ của nó, và ta không thể “ngồi yên” để đất nước ta cứ mãi thấp kém thế được, ta không thể để cho bọn cường quốc nó đã khinh mình rồi vẫn tiếp tục khinh mình. Đó là cái hận, cái nhục mà người Việt ta phải rửa, rửa cho bằng được, bằng xong!

“Không thể ngồi yên nhìn quân thù tàn phá quê hương
Nhìn núi sông chấp chờn hờn oán…”

Thắng và thua

Hồi còn nhỏ, tôi có một người bạn ở bên cạnh nhà. Tuy anh lớn hơn tôi đến hơn chục tuổi nhưng chúng tôi chơi với nhau rất thân. Khi chơi các trò chơi với anh tôi thường bị thua. Mỗi lần thua như vậy tôi thường khóc làm anh bối rối dỗ dành hoài! Sau đó it lâu mỗi lần chơi tôi thường hay thắng lại anh. Mỗi khi thắng được anh, tôi vui cười và anh cũng cười rất vui. Sau này tôi mới hiểu là lúc đó anh đã giả bộ thua để một đứa hiếu thắng như tôi được vui!

Gần đây tôi có gặp lại anh, bây giờ tóc anh đã bạc nhiều. Qua lời kể của bạn bè anh, tôi được biết anh là một nhà khoa học lớn có rất nhiều thành công có nhiều đóng góp cho ngành cầu đường Việt nam. Khi hỏi chuyện về những thành công của mình, anh chỉ cười và nói một cách rất khiêm nhường: “Mình đâu có làm được bao nhiêu! Còn rất nhiều người giỏi hơn mình mà!”. Anh nói vậy chứ thực ra nghe nói đến tên anh những người trong ngành của anh phải ngả nón kính phục. Tôi đã đoán ra bí quyết thành công trong cuộc đời của anh chính là sự khiêm tốn, ham học hỏi, mà sự nhường nhịn ‘biết thua” của anh trước đây chính là khởi đầu của các thành công đó.

Nền giáo dục Mác xít bệnh hoạn của chế độ Lenin

Anatoly Lunacharsky: "Lịch sử chết không đáng để thương xót"!

Anatoly Vasilevich Lunacharsky (1875-1933), được Lenin cho làm Chủ tịch dân ủy giáo dục của chế độ CS sau 1917. Ông ta là sinh ở Poltava, lưu vong sang Pháp từ 1933.

Lunacharsky là con ngoài giá thú của ông bố Alexander Ivanovich Antonov có vợ Alexandra Yakovlevna Rostovtseva quan hệ với Basil Fedorovich Lunacharsky. Việc này khiến cho 2 quý tộc Antonov và Lunacharsky xung đột nặng nề. Tuy nhiên điều đó không ảnh hưởng đến việc Anatoly được nuôi nấng ăn học tử tế. Thẩm Mác xít từ trường học mà hồi đó là bị cấm rồi gia nhập tổ chức Mác xít bất hợp pháp. Cậu trẻ tiếp tục thẩm Mác toàn diện hơn ở trường Zurich. Sách cậu thích thú là 2 tập “Tôn giáo và CNXH” dẫn cậu đến gia nhập vào nhóm socialist "Emancipation of Labour" (Giải phóng người lao động). 

Lunacharsky về nước năm 1904 và tham gia vào các vụ lộn xộn 1905. Cuộc đời cách mạng ở Nga bắt đầu rồi lại trốn ra nước ngoài. Tháng 5 1917, Lunacharsky lại trở về Petrograd tham gia cách mạng. Rồi được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng dân ủy giáo dục. Từ đây, cùng Krupskaya – vợ Lenin và Pokrovsky ông ta format nền giáo dục mới, văn hóa mới cho chế độ CS.

Theo Leo Broinstein ak Trotsky, Lunacharsky đứng chức vụ này sẽ thu hút giới trí thức cũ theo Bolsheviks vì ông ta có chút danh quý tộc, còn chuyện con hoang hay Do Thái ít ai hay biết. Nhưng ngay khi Lunacharsky làm cho mọi thứ thành lộn tùng phèo, Broinstein cũng nhanh chóng tố cáo Lunacharsky là kẻ trong hàng ngũ những kẻ nước ngoài (tức gián điệp ngoại quốc theo ý hiểu thời đó). Lenin thời gian đầu cũng chỉ trích Lunacharsky chệch đường lối Mác xít thậm tệ, nhưng vẫn tin dùng ông ta, một phần có thể là do ông ta ngoan ngoãn với Lenin, chứ không như Trotsky. 

Điều hành giáo dục của Lunacharsky vô cùng tồi tệ trùng với thời kỳ ngoi  ngóp của giáo dục LX sau 1917, ông ta không cả kinh nghiệm lẫn hiểu  biết sư phạm bởi chưa từng làm giáo dục, hay giáo viên bao giờ. Stalin  đã phải loại bỏ ông ta ra khỏi chức Chủ tịch giáo dục vào năm 1929, bất  chấp Bukharin và Krupskaya phản đối. Đồng thời với việc đó, Lunacharsky  cũng mất hết chức Ủy viên Ban chấp hành TW, thành viên BCT và không  còn chút quyền hành nào. Năm 1933, Lunacharsky đi làm đại sứ tại Tây ban nha như 1 hình thức trục xuất trá hình.

Một công trình nổi tiếng Lunacharsky là đồng tác giả: La tinh hóa chữ viết Nga (mà người ta gọi là bộ chữ Sexy). 

Leonid Andreyev, nhà văn, ký giả đã viết về Lunacharsky ngay từ năm 1919, đăng trên tờ “Nguyện vọng Nga”:  ... Ông ta ngốn hết 1 lượng khổng lồ những người được giáo dục, ông ta giết họ về thể chất, hủy hoại họ về tinh thần bằng hối lộ có hệ thống của ông ta, bằng mồi nhử của ông ta. Theo nghĩa này, con cáo có đuôi Lunacharsky còn tồi tệ hơn những con khác trong đàn quỷ ác. Ông ta có vẻ nhún nhường và sạch sẽ, để tỏ cho người ta có cái nhìn tử tế đánh lừa nhiều nhất có thể…. Ông ta không tạo ra 1 “thời đại hoàng kim” hay thiên đường đẹp đẽ… mà trái lại làm Cheka đen độc đoán với vẻ lịch lãm. Trên hết, ông ta là 1 kẻ thô tục và hẹp hòi.

Thành tích duy nhất của Lunacharsky là nhồi sọ trẻ em nước Nga tư tưởng cực đoan vô sản quốc tế, mất gốc và không quê hương xứ sở, 1 phiên bản đối xứng gương hoàn hảo của phát xít Đức sau đó 20 năm.  

Xóa bỏ 1 quốc gia, biến 1 dân tộc thành không nguồn gốc, thiết lập đội quân vô sản quốc tế cần xóa bỏ lịch sử - sứ mệnh Judais hóa nước Nga của Lunacharsky đã không thành khi Stalin xuất hiện.

Kẻ nhún nhường cũng có 1 lần tự cao tự đại: Di sản văn hóa trong quá khứ thuộc về giai cấp vô sản và tôi!

Anatoly Lunacharsky: "Lịch sử chết không đáng để thương xót"!

Nói về "trường học kiểu Pokrovsky" và làm thế nào để Bolshevik bắt đầu cải cách giáo dục với sự phủ nhận lịch sử là "đã chết" và bị "bôi phết". Với quan điểm lịch sử chết, ông phó chủ tịch Pokrovsky đã hiện thực hóa thành mô hình “trường học Pokrovsky" và bắt đầu cải cách giáo dục.

Lịch sử - một chủ đề cơ bản trong nhà trường, vì thế đã vắng bóng trong nhà trường Xô viết giai đoạn 1917-1930.

Mọi thứ bắt đầu từ Hội nghị các nhà sư phạm tháng 9 năm 1918. Ở đó, chủ tịch Dân ủy giáo dục A. Lunacharsky có bài thuyết giảng quan trọng gọi là: "Về giảng dạy lịch sử trong nhà trường cộng sản". Bài thuyết giảng mở đầu: “Hôm nay tôi muốn nói chuyện với các đ/c về chủ đề giảng dạy lịch sử. Dường như đối với tôi, chủ đề này, e hèm, có lẽ là quan trọng nhất trong những thứ tôi muốn các đ/c quan tâm chú ý.”

Ông ta bắt đầu với khái niệm giáo dục nói chung, về vai trò giáo dục trong hình thành thế hệ công dân mới. Sau đó là thuyết giảng về sự cần thiết phải vứt bỏ quá khứ - nghĩa là vứt bỏ truyền thống, nghĩa vụ, đạo đức cũ và lịch sử như 1 thứ gánh nặng, 1 loại xiềng xích kìm kẹp con người phát triển.
Công dân mới theo Lunacharsky cần phải vứt bỏ gánh nặng quá khứ, coi lịch sử là đã chết. Dẫn lời triết gia F. Nietzsche, ông ta cho rằng con người hiện đại đã quá phải chịu đựng truyền thống và các hình mẫu liên quan đến quá khứ. Họ coi mình là 1 phần của tiến trình lịch sử, xem tương lai như kết quả từ quá khứ, có thói quen tìm kiếm trong sự phát triển xã hội tính hợp qui luật. Con người, theo Lunacharsky, tỏ ra là bảo thủ, thiếu sự “can đảm cách mạng". Họ muốn sống cũng như cha ông họ vẫn sống, con người đó bị kìm kẹp, bị tước bỏ nhu cầu sáng tạo, sáng tác và xây dựng, bị hủy hoại lợi ích và niềm tin vào tất cả cái mới. Hậu quả là con người đó giống như là "nô lệ của quá khứ", và đó là những kẻ mà chính quyền Xô viết không cần.

Lunacharsky nói nghiên cứu thời kỳ chính quyền Sa Hoàng và các vị vua là chuyện tiếu lâm về những ông lớn đội mũ miện, nói 1 số lượng lớn ngày tháng lịch sử là ”ký ức chết nặng nề” không hợp với đầu óc học sinh. Bộ nhớ của học sinh không được phép bừa bộn những thứ đó và cần có chỗ cho những kiến thức cần thiết của cuộc sống.

"Lịch sử chết không cần bất cứ sự thương xót, nó phải bị xóa bỏ hoàn toàn” –hắn ta kết luận!

Cho đến cuối đời, Lunacharsky đã đẻ ra cơ man sách vở rác rưởi. Đáng tiếc, tận đến năm 1961, sách của ông ta mới bị đưa ra khỏi thư viện.

-----------

Tuy nhiên, trái với tuyên bố, Lunacharsky cũng cố gắng khai thác trong lịch sử những gì liên quan đến cách mạng, đến tiến hóa và qui luật phát triển xã hội. Dù cho rằng các nhà sử học mà coi trong lịch sử có những quá trình tiến bộ, thì ít nhất sự phát triển tiến bộ đó cũng là "kẻ truyền giáo chậm chạp". Vì lý do này, có con đường nhanh chóng đạt đến sự thay đổi được gọi là cách mạng. "Chủ nghĩa lịch sử” là lối tiếp cận phản tiến bộ và có tội lỗi khi "đánh vào mặt khoa học", chỉ giúp phổ biến "tà đạo về sự chậm chạp của sự phát triển thông thường”.

 Lòng yêu nước, chủ nghĩa quốc tế vô sản và dân tộc ở Lunacharsky là những quan điểm kỳ cục, theo ông ta "quan điểm dân tộc", tình yêu văn hóa ngôn ngữ bản địa là "lời nguyền rủa của nhân loại". Còn sự khác biệt văn hóa không cho phép nhân loại "hợp thành 1 gia đình loài người" mà dẫn đến chiến tranh. Ông ta thuyết phục: chủ nghĩa yêu nước là không có lối thoát, mà còn là căn nguyên khởi phát “vũng máu” thế giới" khi mỗi quốc gia nuôi dưỡng những người yêu nước, để hành động vì lợi ích của đất nước mình và lấn át quyền lợi láng giềng. Nói cách khác, ông ta trực tiếp gán ghép lòng yêu nước với chủ nghĩa quân phiệt. Nhà thuyết pháp Mác xít tuyên bố: giai cấp công nhân phải đoàn kết tất cả giai cấp vô sản, do đó giảng dạy, về cơ bản phải có “nguyên tắc quốc tế”.

Luận thuyết quái đản của Lunacharsky đưa đến các kết luận: tất cả các ví dụ lịch sử về lòng dũng cảm cho mục đích giáo dục, như 1 qui luật, đều là giả mạo. Các ví dụ này không được nghiên cứu 1 cách khoa học mà để nuôi dưỡng chủ nghĩa yêu nước. Đúng là ông ta, gã Lunacharsky đã rất dũng cảm khi nói: có 1 vấn đề là làm thế nào để dạy cho học sinh của trường học cộng sản lịch sử chiến công của Ivan Susanin, khi ông ta đã hiến dâng cuộc đời của mình cho Sa Hoàng? Tại sao lại cần thứ "lịch sử bôi phết" như thế?

Theo Lunacharsky, lịch sử hiện đại cần dạy không phải là chủ nghĩa yêu nước và “lòng dũng cảm” hư ảo, mà cần tình đoàn kết cả thế giới, để cảm giác tính vật phẩm phụ "chúng tôi", có số phận "trở nên thi vị hơn với vận mệnh (thế giới) của mình". Chỉ như thế, mới có thể xây dựng tương lai cộng sản. Ông ta do đó nhấn mạnh: "Dạy lịch sử mà ham muốn tìm các hình mẫu tốt trong quá khứ làm ví dụ để nêu gương, cần phải loại bỏ”.

Tóm lại, nhà Mác xít Lunacharsky coi lịch sử quá khứ (chế độ kể từ 1917 trở về trước) là lịch sử đã chết để loại bỏ lịch sử. Theo nó, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, văn hóa và lòng yêu cũng bị loại bỏ. Thay thế nó là đấu tranh giai cấp và tinh thần vô sản quốc tế, sẽ sớm thôi, 1 quân đoàn Nga đem máu và mạng ra hiến tế cho mưu đồ CS quốc tế Du đa giáo hình thành. 

Trường kiểu Pokrovsky là trường Mô Hình hay “trường đời” để kiến thức hấp thu được có thể ngay lập tức đi vào thực tế.

Năm 1919, Hội đồng dân ủy ban chính sách "Mô hình trong công tác giáo dục ở trường lao động". Hệ thống giảng dạy mới này xóa bỏ các môn học như 1 đối tượng độc lập, và chỉ đề cập đến các thành tố tách ra từ nó khi liên quan đến thế giới xung quanh. Phương pháp này được chuẩn bị bởi Chủ tọa Hội đồng hàn lâm N. Krupskaya.

Dạy học ở trường tiểu học được chia làm 3 phần: tự nhiên, lao động và xã hội. Chương trình dạy thì đang xây dựng nên Mô hình được áp dụng cho các sự kiện cụ thể – ví dụ làm việc trên cánh đồng. Sau đó đến bước 2, trong chương trình có các chủ đề địa lý, văn học và tiếng Nga, môn xã hội có một số khúc đoạn lịch sử xuất hiện, nhưng môn học lịch sử riêng biệt mất tích, khoa sử ở bậc học cao bị đóng cửa, kể cả ở ĐH St. Petersburg và ĐH Moskva.

Pokrovsky, Chủ phó dân ủy giáo dục là nhà tư tưởng của kiểu dạy học mới này. Hắn là kẻ cuồng tín Mác xít nên đã loại bỏ bất cứ cái gì tương phản với hệ tư tưởng Mác xít ra khỏi giáo dục, hắn chỉ nói là "không cần thiết", ví dụ, lịch sử cổ đại.

Giáo dục theo lược đồ "tự nhiên-lao động-xã hội" được xây dựng như sau: đầu tiên, học sinh được kể về các hiện tượng tự nhiên, từ đó chuyển sang nông nghiệp, nhân thể giảng về thân phận nông nô và đàn áp nông dân, sau đó lái sang phát triển công nghiệp, sự xuất hiện của lực lượng vượt trội vô sản và đấu tranh giai cấp. Pokrovsky không quan tâm quá trình lịch sử, mà bận tâm với các yếu tố tương phản: quá khứ là đen tối, ngược với tương lai trong màu hồng.

Pokrovsky:  Lòng yêu nước – là cảm giác sinh học, chúng thậm chí
vốn có ở con mèo; Chẳng có gì là nhiệt huyết tinh thần
yêu nước ở Nga, không hơn gì là nông dân vũ trang bảo vệ tài sản của họ.

Bởi đoạn tuyệt với quá khứ, cho nên các khái niệm như tinh thần yêu nước hay thậm khí quan niệm đơn giản như "lịch sử Nga" không tồn tại. 

Ví dụ, trong sự kiện Napoleon xâm lược Nga năm 1812 không có lòng yêu nước xuất hiện, chỉ là những nông dân bảo vệ tài sản của mình. Các anh hùng trong sự kiện này cũng không tồn tại – không có Mikhail Kutuzov hay Pyotr Bagration trong ký ức dân chúng. Thậm chí năm 1932, Hội đồng dân ủy ra quyết định dỡ bỏ tượng Nikolay Rayevsky trên cánh đồng chiến trường Borodino với lý do "không có giá trị lịch sử-nghệ thuật". Trong cuốn Bách khoa Xô viết nhỏ năm 1931, khái niệm yêu nước bị mô tả như cảm xúc tự nhiên, được kế thừa ở gần như tất cả các loài động vật. Ẩn ý là như sau: động vật bị trói buộc vào 1 nơi sinh tồn nào đó khi nơi đó cho chúng thức ăn. Trong khi giai cấp vô sản và nông dân không có gì để mất, họ không có Tổ quốc. Dường như có thể nói về Tổ quốc trong mối liên hệ với thắng lợi của cách mạng, nhưng trong ý tưởng thắng lợi của giai cấp vô sản trên toàn thế giới, khi đó biên giới lãnh thổ đã không còn.



Nếu bỏ qua chủ nghĩa yêu nước sang 1 bên, thì ngay cả những khái niệm dạy học lịch sử này của chế độ chuyên chính vô sản cũng hư hỏng nghiêm trọng về phương pháp. Vì kiến thức truyền dạy là những mảnh vụn, tạo ra trong ý thức của học sinh bức tranh "sợ hãi”: Các em không thể hiểu ngay cả lịch sử phát triển của 1 đất nước riêng biệt của mình, hay tính thứ tự các mốc sự kiện. Điều này dẫn đến hậu quả, học sinh không thể hiểu biết 1 cách hợp lý, chúng phải ghi nhớ tất cả mọi thứ 1 cách lộn xộn. Chương trình học lại bị sửa đổi nhiều lần, nhưng không thể thay đổi chất lượng. Cho đến khi lãnh đạo đất nước cuối cùng cũng nhận ra: học sinh tốt nghiệp từ các trường, dù được rèn luyện về tư tưởng, nhưng không có kiến thức hữu ích để giải quyết các nhiệm vụ phức tạp hơn so với nhiệm vụ đời sống hàng ngày của chúng.

Cần phải nói thêm, mặc dù bị cấm đoán nghiêm ngặt trong cỗ máy tư tưởng, các giáo viên Liên Xô không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn vô điều kiện. Có những trường hợp được biết đến, họ đã đem tư liệu về tổ tiên họ và các cuộc chiến đấu trong quá khứ Nga ra dạy cho các học sinh, ví dụ, trong quá trình lịch sử địa phương.

Tống cổ đám Mác xít bệnh hoạn, Stalin quay lại nguồn cội



Tháng 9 1931 có nghị quyết Ban chấp hành TW "Về trường học bậc tiểu học và trung học”, trong đó viết: "Việc thiếu hụt nghiêm trọng trường học trong hiện tại không cho phép việc giảng dạy trong nhà trường 1 khối lượng lớn kiến thức phổ thông, không giải quyết được 1 cách thỏa đáng nhiệm vụ đào tạo con người hoàn toàn có đủ trình độ, có kiến thức khoa học cơ bản tốt cho các trường kỹ thuật và trường học bậc cao”. Một loạt các môn khoa học, mà cơ bản là từ nay được dạy sâu hơn, gồm toán học, hóa học, vật lý, ngôn ngữ mẹ đẻ, địa lý và lịch sử. Do đó, lịch sử được trả lại nhà trường như môn học độc lập.
Sự thay đổi như thế từ Stalin là muộn, vẫn chưa có sách giáo khoa mới, học sinh phải học 1 số sách vở cũ, quan điểm của nhà Mác xít Pokrovsky (chết 1932) vẫn còn đang phổ biến và chấp nhận rộng.
 Stalin có những vấn đề khác quan trọng hơn nhiều. Nước Đức đang tăng tốc phát xít hóa và nguy cơ chiến tranh đang đến, xây dựng CNXH ở 1 đất nước rất cần giáo dục lịch sử, cần tinh thần yêu nước và đạo đức, cần sự thức tỉnh của quần chúng.
Ngày 16 tháng 5 năm 1934, Hội đồng nhân dân và Ban chấp hành TW ra nghị quyết “Về giảng dạy lịch sử trong nhà trường USSR". Hai nghị quyết này phê phán lối tiếp cận và giảng dạy của Pokrovsky. Thứ lịch sử "Lược đồ xã hội học trừu tượng” bị thay bằng "Trình bày thông tin lịch sử”, nhà lý luận giai cấp quốc tế Mác xít Pokrovsky bị vứt trở lại nơi hắn ta đã sinh ra: sọt rác.
Từ đây, lịch sử được dạy dưới dạng "hấp dẫn và sống động", tôn trọng "các chuỗi diễn biến lịch sử theo thời gian các sự kiện" và "buộc học sinh phải nghi nhớ các sự kiện lịch sử quan trọng, các nhân vật lịch sử và các mốc lịch sử". Như vậy, lịch sử dân tộc đã được trả lại cho xã hội Nga, được xem xét trên quan điểm liên tục và kế thừa.

Tin hay không nhưng Putin từng phát biêu trong 1 lần đọc Thông điệp liên bang: Lịch sử Nga là liên tục và đã cả nghìn năm;

Các nhà Mác xít-Bolsheviks: Lịch sử Xô Viết bắt đầu từ cách mạng 1917;

Các nhà tân tự do sùng kính phương tây, điển hình như Ttg Medvedev: Lịch sử Nga bắt đầu 1991;

Bài viết này có sử dụng các tư liệu của tác giả Ekaterina Shchulepnikova "Tại sao không dạy lịch sử trong nhà trường thập kỷ 1920", của Zinovyev "Phác thảo kỹ thuật dạy sử”, phát biểu gần đây của Bộ trưởng giáo dục Nga Olga Vasilyeva tại hội thảo "Lãnh thổ ý nghĩa trên sông Klyazma” và một số nguồn khác.





Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...