Hiển thị các bài đăng có nhãn suy đồi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn suy đồi. Hiển thị tất cả bài đăng

NGHỆ THUẬT HẬU HIỆN ĐẠI

 Khi văn nghệ sĩ là những xác chết biết đi

Đôi khi nó núp dưới mỹ từ lành tính: nghệ thuật đương đại, hiện đại, nhưng bản chất có thể hoàn toàn khác. Chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn chưa thể được gọi là một hệ thống học thuật, nghệ thuật có những tuyên ngôn và giá trị riêng, chưa trở thành lý thuyết hay phương pháp, mặc dù là một hiện tượng văn học-nghệ thuật cũng như văn hóa hiện nay nói chung. Hậu hiện đại còn có nghĩa là từ bỏ hiện đại, tiến đến một hình thái gì đó nhưng chưa đến và đang ở vào lúc giao thời và cũng có nghĩa là nghệ thuật suy đồi thoái hóa.
Chủ nghĩa hậu hiện đại hay Nghệ thuật hậu hiện đại (CNHHĐ | Post-modernism) là một hiện tượng triết học, văn hóa, xã hội, nghệ thuật (nhạc họa, thơ ca…), kiến trúc - một phản ứng mạnh đáp trả những ý tưởng và thành tựu của chủ nghĩa hiện đại, với niềm tin vào tiến bộ, khoa học-kỹ thuật, vào chân lý tuyệt đối, vào hứng thú tìm tòi thử nghiệm sáng tạo. Nó là sự thoái hóa, là phản ứng đối với tính trừu tượng chủ nghĩa biểu hiện, là sự thoái trào, là điểm cuối cùng trong sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại, sau đó không còn chỗ cho những thử nghiệm, những nỗ lực nào nữa – là điểm chết của văn học nghệ thuật. Đúng như tên gọi, với tiền tố hậu (post), không còn sự phát triển hiện đại nào nữa.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa và nghệ thuật hậu hiện đại có lẽ đã du nhập sớm hơn thời “mở cửa, hòa nhập”, nó theo chân các công tử, cậu ấm cô chiêu du học trở về. Còn đại diện tiêu biểu hiện nay: thơ sĩ Quang Thiều.
CNHHĐ có những nét phác thảo đầu tiên cuối những năm 1960. Còn trong triết lý lý thuyết, nó tìm thấy vị trí của mình vào những năm 1970 nhờ Jean-Lyotard và Jacques Lacan. Sau đó, các nghệ sĩ bình dân đã sử dụng rộng rãi các bức chân dung của Monroe và Elvis được cắt ra từ tạp chí, họ vẽ nhà du hành vũ trụ Gagarin hay Kennedy, theo cách ảo ma, người lính cầm súng theo lối s.e.x.y (girl and gun). Các nhà khái niệm học đã sử dụng văn bản chữ viết tay, bản sao, phim và ngôn ngữ cơ thể của chính họ làm ngôn ngữ nghệ thuật, Yoko Ono, ca sĩ người Nhật và là vợ của John Lennon nổi tiếng ngồi trên sân khấu và tặng các khán giả hâm mộ món quà bằng cách cắt ra những mảnh vải từ chiếc váy của mình.
Thế giới kể từ đó bắt đầu xôn xao bàn tàn về một đỉnh cao khủng khiếp của CNHHĐ, cao đến mức có lẽ chẳng còn gì cao hơn. Thế rồi họa sĩ Jackson Pollock trang trí cho chiếc xe hơi của mình trông không khác gì thứ được moi ra từ bãi rác, còn họa sĩ Mark Rothko thì trầm cảm bế tắc đến nỗi cố tự sát bằng rượu. Người cuối cùng, nghệ sĩ điêu khắc Joan Miró tích trữ xăng và diêm đủ để đốt hết cả tấn các bức tranh của mình rồi tuyên bố chấm dứt CNHHĐ.
Trong lĩnh vực âm nhạc, các nghệ sĩ pop của Mỹ được coi là các nhà tiên phong của CNHHĐ. Trong vài năm, họ đã phá bỏ hoàn toàn cấm kỵ, biên giới thiêng liêng phân biệt nghệ thuật hàn lâm và bình dân trong nhiều thế kỷ. Họ đặt nghi vấn không chỉ về sứ mệnh của nghệ thuật và mục tiêu của nó mà còn tạo ra thứ âm nhạc bình dân không đòi hỏi bất cứ điều gì ở khán giả về nhận thức, hiểu biết cũng như kiến thức có từ trước – là âm nhạc thuần túy giải trí.
Nhà lý luận văn học Fredric Jameson viết về NTHHD và Xã hội tiêu dùng: "Nhiều kiểu CNHHĐ mới nhất chỉ đơn giản là bị mê hoặc bởi phong cảnh biển quảng cáo và nhà nghỉ, các chương trình biểu diễn, những thước phim hạng hai của Hollywood, còn cái gọi là văn học, tất cả là những cuốn sách bìa mềm để đọc trên đường - những câu chuyện yêu đương, tiểu sử người nổi tiếng, truyện trinh thám, khoa học viễn tưởng hoặc giả tưởng. Họ không còn 'trích dẫn' những 'văn bản' tương tự, như Joyce hay Mahler đã làm; họ đã kết hợp chúng nhiều đến mức ngày càng khó vẽ ranh giới giữa nghệ thuật và các hình thức thương mại."
Ở lĩnh vực hội họa, kiến trúc và bài trí, CNHHĐ xâm nhập vào các viện bảo tàng và học viện nghệ thuật, các phòng trưng bày tư nhân và thậm chí cả không gian bên trong của trụ sở các tổ chức quốc tế, các tòa thị chính và sân bay. Đối với thế hệ của những năm 60, CNHHĐ trở thành một nền tảng mới, một chủ nghĩa học thuật mới, và những thủ lĩnh thành công của nó là Picasso, Dalí, Gropius, Mies van der Rohe, họ đã biến thành những tượng đài bằng vàng nhàm chán, những hình mẫu của sách giáo khoa.
Trong văn học, CNHHĐ còn gọi là văn học trích dẫn. Tại một trường ĐH Úc, giáo sư lịch sử nghệ thuật Daniel Palmer đã yêu cầu sinh viên trả lời về chủ nghĩa hậu hiện đại là gì. Một trong những câu trả lời là: đó là khi bạn “trích dẫn” mọi thứ. Có lẽ, đây là câu trả lời ngắn gọn và chính xác nhất.
Còn trong cả trào lưu CNHHĐ, trích dẫn cũng là sự nhại, bắt chước. Các văn sĩ hiện đại không chỉ tìm kiếm sự công nhận trong cuộc sống, khẳng định cái tôi của những kẻ phá cách, nổi loạn nhưng lại đôi khi gọi là đổi mới, tân tiến.
Fredric Jameson, nhà phê bình văn học người Mỹ lập luận rằng sự bắt chước hóa ra lại là khái niệm then chốt của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông nói rằng: "… gánh nặng của toàn bộ truyền thống thẩm mỹ chủ nghĩa hiện đại, hiện đã chết" nhưng lại vẫn gây áp lực lên tâm trí người sống như một cơn ác mộng. "Một lần nữa tất cả chỉ còn là sự châm biếm, tất cả những gì còn lại đối với chúng ta trong thế giới mà những đổi mới về phong cách không còn khả thi nữa là sự bắt chước những phong cách đã chết, nói qua chiếc mặt nạ với giọng nói của những phong cách này từ một bảo tàng tưởng tượng."
Sự bắt chước phong cách đôi khi không giống như trò nhại, nó không chế nhạo bản gốc, nhưng hãy kiểm chứng cẩn thận trong khuôn khổ của nó cho đến khi không thể phân tách sự khác biệt. Và ở đây tiếp theo một đặc điểm quan trọng khác của chủ nghĩa hậu hiện đại, như một điều trớ trêu. Đó là sự không nhất quán, mơ hồ, dư thừa, đánh lừa kỳ vọng thẩm mỹ của người đọc, người xem - các văn sĩ, nghệ sĩ của thời hậu hiện đại biện minh cho tất cả những thái cực với sự trớ trêu đó.
Khi không còn một khái niệm chung được chấp nhận về cái đẹp và không còn sự hấp dẫn nghệ thuật, không có một chân lý hay quy chuẩn đạo đức duy nhất nào trong xã hội. Cũng không còn sự định hướng đến cái hay cái đẹp, và khán giả không còn nghĩa vụ phải tìm hiểu, giải mã nó.
Nhà phê bình văn học Roland Barthes cho rằng các văn sĩ CHHHĐ đã chết trong một bài luận cuối thập kỷ 1960. Theo cách giải nghĩa của ông, cái chết của họ là họ không còn là những người sáng tạo, đem những cảm xúc, kinh nghiệm và kiến thức tạo thành nền tảng cho tác phẩm. Họ chỉ còn là như cái máy vô hồn, thu thập, trích dẫn, bắt chước những gì đã được tích lũy và lưu giữ bởi nền văn hóa qua hàng thiên niên kỷ tồn tại của nó.
Roland Barthes đã viết: "… Văn bản (của văn học CNHHĐ) bao gồm nhiều loại văn bản khác nhau, có nguồn gốc khác nhau và đi vào một mối quan hệ đối thoại, nhại lại, tranh luận, nhưng tất cả sự đa dạng này đều tập trung ở một điểm nhất định, mà không phải là tác giả, như đã tuyên bố cho đến nay, mà là người đọc. Người đọc là không gian nơi mọi câu trích dẫn được in dấu, từ đó tạo ra đoạn văn; văn bản tìm thấy sự thống nhất của nó không phải ở nguồn gốc của nó, mà là ở mục đích, mặc dù mục đích không nhằm vào cá nhân; người đọc là người không có lịch sử, không có tiểu sử, không có tâm lý học, anh ta chỉ là một người nào đó tập hợp tất cả những nét vẽ đó tạo thành một văn bản viết."
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trở thành hình thức nghệ thuật trung tâm, hành động diễn ra ở đó thu hút người xem càng nhiều càng tốt trong quá trình sáng tạo. Do đó, nghệ thuật thị giác mang rất nhiều phong cách với tiền tố neo và neo-geo ( hay hình thể mới) tạo thành chủ nghĩa tân biểu hiện. Một ví dụ là anh chàng bằng vàng của làng nhạc pop Michael Jackson.
Trong lịch sử văn học nghệ thuật, bất kỳ trào lưu nào cũng định vị bản thân nó liên quan đến hiện thực. Và cho dù giới CNHHĐ có nhiệt tình đến đâu với các thí nghiệm về câu từ, màu sắc, hình dạng, phối cảnh, thì trong những biểu hiện của họ, vị trí của thế giới thực vẫn luôn vang lên. Nhưng họ tung hứng chúng mà không hề cố gắng thiết lập mối liên hệ với thực tế nào cả.
Nhà triết học Pháp, Jean Baudrillard mô tả điều này là "thực tế (của CNHHĐ) che đậy thực tế rằng nó không tồn tại" còn bản sao thì không có bản chính, hiện vật không có lịch sử.
Một trong những minh chứng nổi bật nhất của điều này là triển lãm “Những kho báu của Damien Hirst từ Xác tàu đắm”. Đây là một trò lừa bịp hoành tráng, một câu chuyện nghệ thuật hư cấu, được chuẩn bị kỹ lưỡng và là màn trình diễn theo lối kể chuyện. Theo tác giả, con tàu chưa từng tồn tại đã chìm ngoài khơi châu Phi cách đây 2000 năm. Triển lãm đi kèm các thước phim tài liệu giả mạo quay dưới nước, nơi được cho là con tàu đắm, nó mô phỏng mê hoặc như thật.
Và mới gần đây, bức tranh xấu xí vẽ lá cờ trận Điện Biên Phủ, không gì hơn là một minh chứng của CNHHĐ.



Vấn đề ở đâu là gì? Chủ đề phất cờ là gì! Là chiến thắng, nét chủ đạo là tinh thần chiến đấu, là niềm vui giành thắng lợi, đó cũng là thực tế và chủ nghĩa hiện thực cũng mô tả như vậy. Đó không phải là nơi chỗ diễn tả nỗi sợ hãi, hay sự rách nát của lá cờ để chứng tỏ trận chiến là ác liệt.

Vị họa sĩ nọ có thể vẽ nguyên một bức tranh khác về chủ đề sợ hãi chiến tranh, về đói khổ hay ác liệt, không ai ngăn cấm điều này.

Nhưng cóp nhặt 5 cha 3 mẹ, sao chép ý tưởng, lồng ghép lạc đề tạo thành bức tranh xấu xí mà lại cho là nghệ thuật. Đáng trách là rất nhiều văn sĩ nghệ sĩ trong đủ các thể loại hội đoàn, lẽ ra cần có phản biện đàng hoàng, đúng đắn, nhưng tiếc thay, họ cũng lại chẳng hiểu biết gì.

***

Những thập kỷ gần đây, có tiến trình toàn cầu hóa một cách triệt để, cùng bước tiến nhảy vọt về công nghệ và sự phát triển của công nghệ thông tin, thế giới đang bước vào thời kỳ gọi là chủ nghĩa siêu nhiên, là văn hóa tổng hợp của CHHHĐ và cũng là sự tự hủy của văn học nghệ thuật.

Phát biểu của TT Nga V. Putin tại CLB Valdai gần đây về sự thoái hóa, tự hủy hoại của thế giới là một gợi ý đến chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa hậu hiện đại. Chúng ta nhớ câu “Quyền lực thoái hóa, quyền lực càng nhiều, thoái hóa càng nhanh” như châm ngôn của các nhà dân chủ nhằm vào lãnh đạo các nước bị coi là “độc tài toàn trị”. Đây cũng là bịa đặt. Triết gia cổ đại Platon từng viết về điều này, ông cũng đề cập đến sự thoái hóa xã hội dân chủ cổ đại Hy Lạp. Thoái hóa, không chỉ ở giới nắm quyền lực, mà nó diễn ra ở cả dân chúng bé cổ thấp họng, diễn ra trên toàn thế giới như V. Putin đề cập. Ở Việt Nam, tiến trình này cũng được gọi tên một cách mỹ miều là “mở cửa, hòa nhập”, và cũng là “hòa nhập mà không hòa tan”. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, cái sự không tan này có nghĩa ngược tiêu cực và nuôi giữ lại những văn sĩ cặn bã nhất được tuyển chọn từ những làng quê tăm tối nhất (lời HPG).

Không ai bịa ra điều này, chỉ cần quan sát những gì xảy ra xung quanh.

Và các văn sĩ chân chính không phải phiền lòng, các văn sĩ chân phụ cũng không phải phiền lòng, bởi vì đó là đang nói về môi trường toàn cầu, về gió máy mà bất cứ ai cũng phải hít thở.



Suy đồi tình dục ở Cộng hòa Weimar – Đức 18+

Những gì đang diễn ra ở Ukraina, ở các thuộc địa của chủ nô là hoàn toàn tương tự;

“The decay of moral values in all areas of life—the period of deepest German degradation—coincided exactly with the height of Jewish power in Germany.”  — Dr Friederich Karl Wiehe, Germany and the Jewish Question. [1]

"Thối rữa các giá trị đạo đức trong mọi lĩnh vực đời sống -  thời kỳ thóai hóa sâu sắc nhất Đức - trùng hợp chính xác với đỉnh cao quyền lực Do Thái ở Đức." - Tiến sĩ Karl Friederich Wiehe, Đức và vấn đề Do Thái. (Germany and the Jewish Question) [1]

Otto Dix, Metropolis (1928). Berlin trong thời hoàng kim của Cộng hòa Weimar: 
cái hố địa ngục (hellpit) của chủ nghĩa khoái lạc đồi bại tình dục.

Không tính đếm đến vấn đề Do Thái ở Đức nào có thể đầy đủ mà không thiếu một số đề cập đến làn sóng thủy triều dâm dục, nhấn chìm đất nước này trong thời kỳ Cộng hòa Weimar (1919-1933) sau WW-I. Điều này cũng xảy ra là đỉnh cao của quyền lực Do Thái ở Đức. Mọi lĩnh ảnh hưởng rộng lớn lúc đó đã rơi vào kiểm soát của dân Do Thái.

1. CHIẾM ĐOẠT VĂN HOÁ ĐỨC CỦA DÂN DO THÁI

Tiến sĩ Karl Wiehe, trong “Đức và vấn đề Do Thái”, đã cẩn thận nêu ra chi tiết mà ông có:

Ngay trước 1933, Do Thái đã chiếm quyền sở hữu ngành công nghiệp phim ảnh thậm chí còn tuyệt đối hơn sân khấu. Điều đó dễ hiểu, bởi thu nhập trong ngành công nghiệp phim làm lu mờ thu nhập của bất kỳ hoạt động nghệ thuật nào khác...

Bước lớn nhất trong việc chủ trương làm suy sụp đời sống văn hóa Đức đã diễn ra trong lĩnh vực thể loại giải trí ánh sáng. Đây là - thể loại phim hài âm nhạc và trên hết là trong kịch thời sự và các trò khôi hài, sự phù phiếm và dâm dật là cái đuôi của cái đầu đầu xấu xa của chúng. Quá nhiều đến mức Berlin trong những năm này bị coi khá chính xác là thành phố vô đạo đức nhất trên thế giới.

Đó là Do Thái đã đưa "hình thức nghệ thuật" khiêu dâm này đến Đức, một thể loại hoàn toàn không được biết đến trước WW-I, và vì vậy nó là Do Thái, kẻ có thể giữ trách nhiệm cho sự suy đồi đạo đức quần chúng.

Các gã tình dục học Do Thái Ivan Bloch và Magnus Hirschfeld đã trở thành đại diện của "nghiên cứu tình dục" giả làm như khoa học là thứ khoa học không có thật mà chỉ như một cái cớ để bào chữa cho khiêu dâm, và tuyên truyền được thiết kế để tiêu diệt các tổ chức nghiên cứu về hôn nhân và sự thiêng liêng của gia đình. [2]

Wiehe cung cấp các sự kiện và số liệu thống kê hữu ích sau đây :

Năm 1931, hơn 60% các bộ phim Đức được sản xuất bởi Do Thái và 82% các kịch bản phim được viết bởi nhà văn Do Thái, dù dân Do Thái chiếm ít hơn 1% dân số Đức (0.90%). Xem nhanh những cái tên đạo diễn, nhà sản xuất, nhà quản lý sân khấu, diễn viên, biên kịch và phê bình, "cho thấy ở khắp mọi nơi ưu thế áp đảo của Do Thái."

Alexander Szekely, nhà thổ Đức ở Ghent

Khảo sát lướt qua các tiêu đề phim, Wiehe cho chúng ta biết, cho chúng ta thấy rằng chí có 1 thứ trong đầu Do Thái: quan hệ tình dục. Dưới đây là một số tên phim tiêu biểu: "Đạo đức và khoái lạc"; "Cái giá của yêu đương là gì?"; “Khi một người phụ nữ lạc lối”; “Mại dâm”; “Mama tội lỗi; “Sách của sự trụy lạc”;

"Các tiêu đề giật gân tương ứng với nội dung nhếch nhác," Wiehe than phiền. "Tất cả đắm chìm trong rác rưởi và diễn với sự thẳng thắn đến ngờ những cảnh bẩn thỉu nhất của tình dục trụy lạc". [3]

Ánh sáng giải trí (kịch thời sự/khôi hài) là một sự sáng tạo của Do Thái. Các nhà hát kịch, tất cả tập trung trong các thành phố lớn như Berlin, bị sở hữu và hoạt động gần như độc quyền của Do Thái (tương tự như Hollywood Mỹ ngày nay). Các màn diễn bao gồm nhiều hơn một ít so với lời bào chữa cho cái thú kích động tình dục gồm việc diễn các dạng phụ nữ trong các điệu múa dâm đãng mà sau đó thoái hóa thành các màn múa thoát y và những cảnh thủ dâm tập thể. Wiehe lưu ý một cách phẫn nộ: "Trong những cảnh diễn này, tình dục tự do đẫn đến đầu hàng chính mình để thành truy hoan kinh tởm. Tất cả cuộc sống đã bị hạ xuống thành một mẫu số chung dâm đãng và thỏa mãncủa nó. Trinh tiết và  tự gìn giữ bị chế nhạo như định kiến ​​lỗi thời."

Do Thái đã quản lý, trong không gian này chỉ 14 năm, để mang lại một sự "đảo lộn các giá trị" to lớn ở Weimar Đức [4]. Sự trụy lạc trong quá khứ bây giờ là tiết hạnh. Thói xấu duy nhất là còn trinh tiết.

Nhìn vào tên các vở kịch lần nữa là đủ để thấy: ”Bị cởi váy”; “1000 phụ nữ cởi truồng”; “Những tội lỗi của thế giới”; "Ngôi nhà yêu đương”; “Cấm kỵ nghiêm ngặt!”; “Ngọt ngào và tội lỗi”. [5]

Cuối cùng, có lĩnh vực phong phú của tình dục học: một môn khoa học mới bao gồm những "trường hợp lịch sử" đáng ngờ nhằm tiết lộ những thói quen tình dục đồi trụy của các loại bệnh nhân vô danh khác nhau. Để tạo ra một bầu không khí học viện tôn kính và uyên bác với những câu chuyện thủ dâm tưởng tượng – các cuộc phiêu lưu ly kỳ liên quan đến xác chết, thú tính và đạo thờ vật dục – càng nhiều chi tiết hồi hộp càng lắm ngôn từ Latinh thô tục "để loại trừ các độc giả". [6] Tuy nhiên, không lâu trước khi tiếng Latin được dịch siêng năng sang tiếng địa phương vì lợi ích của người đọc không Latinh, do đó làm thất bại mục đích của đám lên mặt “tinh thông latinh”.

Wiehe xổ tung ra một danh sách dài đám tình dục học Do Thái, ông tuyên bố những tên cầm đầu trong việc viết ra những luận thuyết dâm ô như vậy không gì hơn là khiêu dâm núp bóng khoa học. Tiến sĩ DT Magnus Hirschfeld [7] và DT Ivan Bloch [8] là những nhà văn ngôi sao trong lĩnh vực này, sách của chúng vẫn được đọc say sưa ngày nay bởi đám công chúng khờ khạo thèm khát những chi tiết giật gân ly kỳ, hư hỏng và lập dị. Tiến sĩ Ludwig Lewy - Lenz, Leo Schidrowitz, Franz Rabinowitsch, Georg Cohen, và Albert Eulenburg là một số trong những cái tên Do Thái mà Wiehe đề cập.

Otto Dix, Salon năm 1921 gái mại dâm Berlin chờ những niềm vui hoan lạc buổi tối

Đây là một số tên sách “nghiên cứu” của bọn chúng: "Lịch sử trụy lạc”; "Lịch sử vô liêm sỉ”; "Từ điển ảnh dâm dục”; "Lịch sử của những điều bí mật và cấm kỵ”. Và đây là một số tên sách xuất bản bởi gã tiến sĩ Magnus Hirschfeld Viện khoa học tình dục Berlin [9] : Kích thích tình dục, Mại dâm, Thảm họa tình dục, Tình dục bệnh học, Kẻ đồi trụy. Wiehe mô tả tất cả những cuốn sách là “các ấn phẩm bẩn thỉu của thứ ngụy khoa học", tất cả chúng được viết ra bởi các tác giả Do Thái và được xuất bản bởi nhà xuất bản Do Thái. Ông tiếp tục với giọng cay đắng:

Những cuốn sách này được cho là luận án khoa học, mục đích bề ngoài của chúng là để "giáo dục" đông đảo quần chúng về sự nguy hiểm của thái quá tình dục. Dưới vỏ bọc của khoa học, tuy nhiên, chúng tự biên thành bản năng hạ đẳng và dâm đãng của đọc giả. Tội phạm, gái mại dâm và đồng tính phần trọng tâm trong trình bày của chúng. Sẽ vô ích để tìm bất kỳ ai được biết là không Do Thái của đám “nhà khoa học tình dục” này! [10]

Wiehe chỉ ra rằng thủ dâm, cho đến nay là thói xấu giấu diếm, bắt đầu được cổ xúy vô sỉ đầu tiên ở Weimar Đức bởi các tổ chức Do Thái điều hành. Ông đề cập đến tiến sĩ Max Hodan, 1 gã là quan chức y tế Do Thái cho Berlin, và ghi dấu hắn ta như kẻ cho lưu hành cuốn sách nhỏ cho các tầng lớp lao động với đề nghị thủ dâm thường xuyên.

Đó là ở Weimar Đức, có từ lâu trước Hannibal Lecter,
gã giết người hàng loạt đã trở thành nhân vật mang tính
biểu tượng - một nguồn tưởng tượng bí hiểm và rùng rợn.

Cần lưu ý rằng một trong những kẻ giết người hàng loạt tồi tệ nhất thế giới, Peter Kurten, thực hiện tất cả tội ác của hắn ở Đức trong giai đoạn 1925-1930. Đáng chú ý, khi được hỏi động cơ chính của mình về tội giết người là, Kurten trả lời: "Để chống lại xã hội áp bức". [11]

Đó là xã hội mà một tên giết người hàng loạt lại trở thành biểu tượng phổ biến, đủ để tạo ra một thể loại văn học tội phạm tình dục hoàn toàn giật gân. [12]

Điều này xảy ra ở thời hoàng kim của Cộng hòa Weimar, khi người Đức hoàn toàn nằm dưới sự thống trị Do Thái và là cuộc diễn tập váy đầu tiên cho cuộc cách mạng tình dục sau của những năm 1960 sau này.

2. SUY SỤP THÀNH TÌNH DỤC ĐỒI BẠI

Sử gia Anh Arthur Bryant mô tả đám đông gái mại dâm trẻ em ở ngoài cửa ra vào các khách sạn lớn và nhà hàng ở Berlin. Ông cho biết thêm: "Hầu hết trong số chúng - các câu lạc bộ đêm và khu nghỉ mát – thuộc về và quản lý bởi Do Thái. Và đó là Do Thái, kẻ sẽ được nhắc đến trong nhiều năm sau, trong số những kẻ quảng bá cho thứ  buôn bán này". [13]

Đến Berlin trong cuộc khủng hoảng lạm phát phi mã (1923), Klaus Mann - con trai nhà văn lớn Đức Thomas Mann - nhớ khi đi ngang qua một nhóm gái bạo dâm.

Một số trong họ trông nam tướng hung dữ, khệnh khạng trong đôi bốt cao làm bằng da bóng màu xanh lá cây. Một kẻ vung cây gậy dẻo và liếc vào tôi khi tôi đi ngang qua. "Chào buổi tối, thưa bà," tôi nói. Ả thì thầm vào tai tôi, "Cưng có muốn trở thành nô lệ của tôi? Giá chỉ sáu tỷ và một điếu thuốc ". [14] (Lúc đó tiền Đức lạm phát kinh khủng).

Georg Grosz, Trước khi mặt trời mọc. Gái mại dâm và khách hàng
của họ trong các khu phố đèn đỏ... đây là cách họ ăn mặc thực hồi
đó và phô mình lòe loẹt, dưới đèn đường.

Trẻ 10 tuổi biến thành lừa bịp ở các nhà ga. Một nhóm gái Nga 14 tuổi, tị nạn khủng bố Đỏ sống ở Berlin bằng nghề đĩ điếm. Những cô giái nhỏ như thế sẵn sàng quan hệ tình dục không chỉ trong các nhà thổ và các hiệu thuốc mà còn có thể đặt hàng qua điện thoại và giao cho khách bằng taxi, như những bữa ăn. Đặc biệt kỳ quái là nhóm mẹ-con cung cấp dịch vụ của họ cho khách hàng cùng một lúc. Mel Gordon viết: "Một nhà báo Pháp, Jean Galtier-Boissiere mô tả, các chi tiết khiêu dâm bệnh hoạn, kinh dị hãi hùng của cô gái nhỏ bé 9 tuổi, nhưng thành thạo, những ngón tay mơn trớn bắp đùi mình trong khi miệng thì hôn hít với những cái răng khôn bị gãy". [15]

Trong “sự hãi hùng khoái lạc” của Mel Gordon: Thế giới khiêu dâm của Weimar Berlin, chúng ta bước vào thế giới ngầm của lũ chuột cống bẩn thỉu, nhớp nhúa đến não lòng: cái thế giới có được sự tồn tài của nó trong phần rộng lớn của Đức Do Thái. Nếu không có tiền và ảnh hưởng của Do Thái, một thế giới như vậy sẽ không bao giờ tồn tại được. Cũng không có bất cứ điều gì người Đức có thể làm gì để giải thoát mình khỏi những cái lồng nhân tạo lập ra để khiêu dâm và tình dục lệch lạc, trong đó họ bây giờ thấy mình bị mắc bẫy.

Có không ít hơn 17 loại gái mại dâm khác nhau trong các phố nhà chứa Do Thái lập ra: tám loại ngoài trời và chín trong nhà, mỗi loại có đặc điểm và tiếng lóng riêng.

Mại dâm ngoài trời:

1. Gái bị kiểm soát: gái mại dâm hợp pháp được kiểm tra bệnh hoa liễu.
2. Nửa lụa: mại dâm bán thời gian với công việc ngày như nhân viên văn phòng, thư ký và bán hàng, lao công buổi tối và cuối tuần.
3. Châu chấu: Hạng thấp đứng đường, xóc lọ hay làm tình đứng trong các ngõ hẻm tối tăm.
4. Gái trẻ hư: tuổi teen kiếm "tiền túi" sau giờ học mà cha mẹ không biết.
5. Gái đi bốt: Đi bốt cao bằng da láng bóng. là loại bạo dâm, để lại dấu vết tra tấn trên thân thể khách hàng của họ.
6. Gái tauentzien: đội gái mẹ-con ăn mặc sang trọng, thời trang, những kẻ cung cấp dịch vụ của họ cho đàn ông muốn chơi 3 threesomes.
7. Gái chửa: phụ nữ mang thai lớn chờ khách dưới đèn đượng (loại này đắt vì là dạng khiêu dâm đặc sản).
8. Gái tàn tật: loại xấu xí gớm ghiếc hay cụt chân tay, gù lưng, người lùn, và bị những dị tật khác nhau. Từ Đức phổ biến nhất gọi là Kies, hay tên khác là Steinhuren. [16]

Otto Dix, 3 gái điếm. Những gái mại dâm này sẵn sàng làm việc cá nhân hoặc tập thể.

Mại dâm trong nhà:
1. Chontes : gái mại dâm hạng thấp của Do Thái, chủ yếu là người Ba Lan, chờ khách của họ ở nhà ga.
2. Fohses (từ Pháp là "âm đạo") : gái thanh lịch người quảng cáo kín đáo trên báo và tạp chí như thợ đấm bóp và thợ móng tay chuyên nghiệp.
3. Bán hải ly: Những phụ nữ trẻ từ các gia đình tử tế, người làm việc nhà cao cấp vào chiều muộn và đầu buổi tối.
4. Gái đặt bàn: là loại đẹp làm hộ tống hay vệ xuất hiện tại các bàn tiệc đặt trước tại các hộp đêm sang trọng. Khách hàng phải giàu và đủ kiến thức để nói chuyện có văn hóa với dạng gái gọi cao cấp này cùng trứng cá muối và rượu sâm banh và gái sau đó mới bỏ mặt nạ trong buồng ngủ sang trọng.
5. Bạo dâm: gái đi bốt hoặc quần áo da, có dáng thể thao hay hoang dã, chuyên dùng đòn roi hay nhục hình khi làm tình. Chúng thường có trong các câu lạc bộ đêm đồng tính nữ nhưng cũng phục vụ cho đám nam giới lập dị.
6. Minettes (tiếng Pháp "nữ mèo"): gái gọi đặc biệt chuyên cho những cảnh  độc quyền cung cấp những cảnh quái dị, đóng cảnh nô lệ hay tình dục cưỡng bức. Họ làm việc trong các khách sạn hàng đầu.
7. Chủng ngựa: gái thông dâm, kẻ để mình bị đánh trong "phòng học" hay "ngục tù" bằng các dụng cụ tra tấn. Khách hàng được sàng lọc cẩn thận để chắc chắn rằng họ không đi quá xa.
8. Gái y tá: gái mại dâm trẻ em (12-16 tuổi), gọi như vậy vì bởi quy định như "thuốc" ở các hiệu thuốc. Tất cả các khách hàng cần phải nói đã mắc bệnh của mình bao năm (ví dụ 12),  mà không đề cập gì đến những gì bệnh đó, ngoài ra có thể yêu cầu màu sắc của viên thuốc mình ưa thích (ví dụ, màu đỏ). Sau đó được hộ tống đến một căn phòng nhỏ, nơi mà "thuốc" đang chờ khách: một gái 12 tuổi tóc đỏ.

Con Tưng nhà ta bắt chước Gái y tá Do Thái đây. Hàng đàn chó dại lao ra sủa em Tưng được quyền sáng tạo! em Tưng được quyền tiến thân! Sáng tạo cái gì hả chó dại? Tiến thân cái gì hả chó? Tiến thân làm điếm à? Mà quyền gì ngoài quyền làm chó của chúng mày!


9. Gái điện thoại: nay cũng gọi là gái gọi (thường được quảng cáo là "trinh nữ"), gái mại dâm trẻ đắt đỏ (tuổi 12-17) đặt hàng qua điện thoại như một bữa ăn đem đến; gái này đến cuộc hẹn bẵng xe limousine hoặc taxi. [17]

Luigi Barzini, trong cuốn hồi ký xã hội của mình “Những người Âu- The Europeans”, mô tả cảnh truy hoan trong Tingel-Tangels hay nhà thổ nhếch nhác tình dục thác loạn ở Berlin những năm 1920, Thời vàng son của Do Thái:

Tôi thấy chủ chứa đề nghị mọi thứ cho bất cứ ai: bé trai, bé gái, trai trẻ khỏe mạnh, phụ nữ dâm đãng, động vật. Câu chuyện không úp mở là một con ngỗng đực có táo tợn cắt cổ bạn trong từng khoảnh khắc ngây ngất cũng sẽ phải tạo cho bạn mọi sự rùng rợn – khi nó cho phép bạn thưởng thức kê gian, thú tính, đồng tính, làm tình với xác chết và ác dâm với một đòn. Quá nhà nghề, khi người ta có thể xơi con ngỗng sau đó. [18]

Tháng 10 năm 1923, khi một đô la Mỹ có thể mua 4,2 tỷ mark Đức và sáu xe cút kít của tiền giấy chỉ có thể mua một ổ bánh mì, người ta nói rằng "việc thổi kèn tinh tế nhất có được tại Berlin cũng không bao giờ phải tốn phí cho một du khách Mỹ hơn 30 cent". [19]

Cảnh nhà thổ WEIMAR BERLIN. Erich Schutz, Raiding the Nacktlokal, 1923

"Cuộc sống về đêm ở Berlin, tôi nói, là thế giới mà chưa bao giờ thấy bất cứ điều gì giống như  thế!". Klaus Mann, con trai của tác giả Đức vĩ đại Thomas Mann, viết 1 cách mỉa mai. "Chúng tôi từng có một quân đội hạng nhất. Bây giờ chúng tôi có đồi trụy hạng nhất". [20]

Tác giả Đức Erich Kastner, viết về Weimar Berlin, là sự phản ánh trên bình diện bệnh tật linh hồn mà giờ đây đã tước mất niềm tự hào vốn có của thành phố: "Ở phía đông là tội phạm; trong trung tâm những kẻ lừa đảo thống trị; ở phía bắc sống trong cảnh nghèo khổ, ở phía tây thì dâm dục phóng đãng; và ở khắp mọi nơi – ngày tàn." [21].

Tác giả Do Thái Stephan Zweig có nhiều điều để nói về đồng tính, ông nói (1 cách bịa đặt) rằng ngay cả thời Rome cổ đại - có đến 14 trong số 15 hoàng đế La Mã đầu tiên là người đồng tính, nhưng mức độ đồi bại say rượu và vô liêm sỉ quần chúng chẳng có ở đâu kinh hoàng hơn ở Berlin thời cộng hòa Weimar:

Quán bar, các khu vui chơi giải trí, tiệm nhảy mọc lên như nấm. Dọc theo toàn bộ Kurfurstendamm là những gã nam son phấn lòe loẹt đi lại thơ thẩn, tất cả chúng không phải là hành nghề chuyên nghiệp; mọi nam học sinh muốn kiếm được một món tiền và trong các quán bar ánh sáng lờ mờ người ta có thể thấy các quan chức chính phủ và những gã thuộc giới tài chính có thể âu yếm tán tỉnh 1 tay thủy thủ say rượu nào đấy mà không cần phải xấu hổ. Thậm chí ngay cả Rome thời Suetonius cũng chưa bao giờ biết đến thác loạn như cái mớ hỗn độn đồi trụy Berlin, nơi hàng trăm gã trai ăn mặc như phụ nữ và hàng trăm phụ nữ đóng giả nam nhảy múa dưới mắt nhân từ của cảnh sát. Trong sự sụp đổ của mọi giá trị chỉ còn lại điên đảo. Các gái trẻ khoe khoang tự hào về sự hư hỏng của họ, đến 16 tuổi mà bị nghi ngờ còn trinh tiết sẽ là một sự ô nhục." [22].

Thành phố ăn chơi khủng khiếp Berlin của Weimar năm 1928

3. KẾT LUẬN: WEIMAR ĐỨC LÀ DIỄN TẬP CỞI VÁY CHO CUỘC CÁCH MẠNG TÌNH DỤC 1960 VỀ SAU

Ấn tượng của tôi, mặc dù tôi cũng có thể bị nhầm lẫn ở đây, là Weimar Đức có thể được xem như một cuộc vận hành thử nghiệm hoặc diễn tập cho cuộc cách mạng tình dục của những năm 1960, một cuộc cách mạng thái độ và hành vi đã làm rung chuyển nước Mỹ và sau đó lan rộng như một con vi rút đạo đức đến châu Âu và phần còn lại của thế giới.

Nhớ lại rằng đó là ở Đức trong thời kỳ Weimar năm 1923, chính xác là Viện Xã hội học (Institut für Sozialforschung) được lập tại Đại học Frankfurt. Nó được tài trợ bởi Do Thái Argentian là Felix Weil, thứ này sau trở thành trường phái Cultural Marxists - Frankfurt nổi tiếng. [23]

Tất cả các chúng nguyên bản là một bộ phận của Do Thái từ Habermas. Đám cách mạng Do Thái cách mạng nhằm mục đích kiểm soát toàn bộ xã hội bằng việc áp đặt quan điểm chủ nghĩa Mác của chúng lên phần còn lại của xã hội. Nó tự là hiển nhiên khi không có cách nào khác để có được sự kiểm soát xã hội với những giá trị đạo đức mạnh mẽ hơn là cách làm suy yếu những giá trị này. Công thức rất đơn giản: phá hủy các hệ thống đức tin mà trên nó xã hội được xây dựng, đặc biệt là tôn giáo và mã truyền thống của khuân phép và đức hạnh. Cổ xúy vô thần và triết lý tuyệt vọng. Đặt nó trong ngôn ngữ đơn giản hơn: biến người thành thú vật nếu muốn kiểm soát họ.

Đó là George Lukacs [25], một trong những gã sáng lập ra trường Frankfurt, kẻ kêu gọi "một nền văn hóa bi quan và một thế giới bị bỏ rơi bởi Thiên Chúa". [26] Và nó là một trong những tư tưởng cuồng tín nhất của chúng, Willi Munzenberg [27], kẻ đã nói rằng hắn muốn lật thế giới lộn ngược và biến cuộc sống thành giống như địa ngục trần gian. Chính xác lời hắn là thế này:

Chúng ta phải tổ chức đám trí thức và sử dụng chúng ĐỂ BIẾN NỀN VĂN MINH PHƯƠNG TÂY THÀNH HÔI THỐI! Chỉ sao đó, sau khi chúng đã LÀM HƯ HỎNG MỌI GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG VÀ LÀM CHO CUỘC SỐNG LÀ KHÔNG THỂ, chúng ta mới có thể áp đặt chế độ độc tài của giai cấp vô sản. (hắn nhấn mạnh) [28]

Với đám trí thức Do Thái như thế này nắm quyền, chúng làm hết sức mình để thúc đẩy tình trạng hỗn loạn luân lý đạo đức và tạo ra một thảm họa Orwell, liệu có thấy lạ lùng rằng người Đức đã loạng choạng lao xuống con dốc trơn trượt và kết thúc ở nơi họ đã từng?

Ở Mỹ, chủ nghĩa văn hóa Marxists - Frankfurt ược áp dụng bằng một biến thể của kỹ thuật Weimar Do Thái, nhưng được tinh chế và gọt dũa đến mức độ cao tân thời. Thời nay, chúng sử dụng chủ nghĩa đa văn hóa (multiculturalism) như một vũ khí hủy diệt hàng loạt để thêm nữa xói mòn đạo đức. Chúng làm ngập ngụa người nhập cư, hợp pháp cũng như bất hợp pháp. Chúng biến chủng tộc chống lại chủng tộc (thiết kế ra xung đột sắc tộc), cha mẹ chống con cái (cuộc tấn công vào quyền), và nữ chống nam (nữ quyền cấp tiến - feminism). Trên tất cả, chúng dạy dỗ các chủng tộc không-da trắng coi người da trắng là quỷ dữ vô độ: "là căn bệnh ung thư của lịch sử nhân loại", trích lời của ả Do Thái feminist Susan Sontag. [ 29 ]

Các ý kiến ​​trên là bị thừa nhận là gây tranh cãi và sẽ khơi gợi ra sự tức giận ở nhiều nơi. Đối với điều này tôi xin lỗi. Mục đích của tôi chỉ đơn giản là mang lại tiếng nói cho một nhận thức khẩn cấp và cần phổ biến rộng rãi. Không thể nói những gì mà nhiều người càng tin tưởng rõ ràng lại là không mong muốn.

Chúng học rằng cuộc cách mạng tình dục, để có thành công, phải là một quá trình chậm và dần dần. "Hình thức hiện đại của khuất phục", thứ trường Frankfurt đã học được, là "biểu lộ bằng êm dịu". [30] Weimar đã sụp đổ vì tốc độ đã quá điên cuồng. Dân chúng Đức đã nhận thức được họ đang bị hơ hỏng. Đó là căn bệnh tử vong. Họ đã vùng lên đạp đổ bè lũ Do Thái bệnh hoạn!

Làm xói mòn một quốc gia có hiệu quả chỉ khi phải đảm bảo rằng sự suy sụp thành thoái hóa là một quá trình rất chậm chạp và không thể nhận thấy, một bước rất nhỏ tại một thời điểm - cũng giống như muốn luộc chín một con ếch sống trong nồi, đưa nó vào trạng thái hôn mê tê liệt, nên đặt nó trong nước lạnh và đun sôi từ từ cho đến chết khi chậm nhất có thể. [31]

Vì sợ rằng sẽ bị buộc tội bài xích chủ nghỉa Do Thái bởi vai trò làm mục nát tình dục có hệ thống tình dục của người Đức dưới bàn tay các chủ nhân Do Thái - một ví dụ cổ điển của kỹ thuật xã hội được thực hành trên toàn bộ dân số, xin dẫn lời 1 học giả Do Thái nổi tiếng và được tôn trọng viết về thời Weimar làm những lời lẽ sau cùng, ông ta là tiến sĩ Manfred Reifer, và điều này viết trong một ấn phẩm Do Thái có uy tín :

Trong khi phần lớn quốc gia Đức đều đang nỗ lực cho việc bảo tồn các chủng tộc, Do Thái chúng ta đổ đầy các đường phố Đức bằng sự la lối om sòm của chúng ta. Chúng ta cung cấp cho báo chí các bài viết về chủ đề Giáng sinh và Phục sinh của mình và quản lý tín ngưỡng tôn giáo của mình theo cách chúng ta cho là phù hợp. Chúng ta chế nhạo những lý tưởng cao cả nhất của dân tộc Đức và báng bổ những chủ đề giữ gìn sự thiêng liêng" - tiến sĩ Manfred Reifer, trong tạp chí Do Thái Đức, Czernowitzer Allegemeine Zeitung, tháng 9 năm 1933

Cũng trong tháng những lời này được viết ra, tháng 9 năm 1933, Adolf Hitler lôi cổ toàn bộ dân Do Thái ra khỏi mọi vị trí ảnh hưởng đến các phương tiện truyền thông đại chúng: từ lĩnh vực văn học, nghệ thuật, âm nhạc, báo chí, điện ảnh, và giải trí bình dân nói chung [32]. Ảnh hưởng mà Do Thái đã tác động lên tâm lý Đức sẽ phải được xem xét thêm nữa, là đúng sai, hay nguy hại. Và Kulturbolschewismus, hay "văn hóa Bolshevik", đã biến thành một thuật ngữ xúc phạm đối với chính văn hóa Do Thái, đã trở thành đồng nghĩa với tình trạng hỗn loạn và suy đồi đạo đức tình dục.

* * *
Dân Do Thái vẫn thống trị ngành công nghiệp khiêu dâm tình dục trị giá hàng chục tỷ đô la cho đến tận ngày nay.

Không lạ khi Do Thái bị coi là con quỷ đến từ địa ngục, Satan phái đến để tiêu diệt loài người.

Xem thêm:

Heinrich Heine - nhà thơ và kẻ kích động

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...