Hiển thị các bài đăng có nhãn Hitler. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hitler. Hiển thị tất cả bài đăng

Tiết lộ của một nhà ngoại giao Mỹ về Stalin và Liên Xô!

Joseph Davies: Nếu không loại bỏ Đạo quân thứ 5, Liên Xô đã phải chịu thất bại tan nát trước Hitler;
Joseph Davies và J. Stalin

Có bài viết này ở đây, vào lúc này là do các sự kiện đang xảy ra ở châu Âu làm gợi nhớ lại mốt quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô vào thời điểm trước và sau Thế chiến 2.
Cũng có một cuốn sách của 2 người Mỹ về Liên Xô, các ông Michael Sayers và Albert Kahn và thật ra, tiểu sử và dòng họ của 2 người này cũng khá thú vị, còn cuốn sách của họ có tên: "Cuộc chiến bí mật chống lại nước Nga Xô Viết", hay cái tên tiếng Anh: “The Great Conspiracy. The Secret War Against Soviet Russia”.
Nhà ngoại giao người Mỹ Joseph Davies có cuốn sách khác: "Sứ mệnh tới Mátxcơva” (Mission to Moscow | download). Tác giả của cuốn sách, người mà vào các năm 1936-38 là Đại sứ tại Liên Xô. Cuốn sách "Mission to Moscow" của Davies được xuất bản ở Mỹ cách đây đúng 80 năm, vào năm 1942.
Cụm từ “Soviet Russia” trong cuốn sách thậm chí còn là rất khác thường tận ngày nay. Cái lên Liên Xô, hay Xô Viết chung chung phổ biến hơn. Tại sao vậy, có lẽ cần giải thích ở một bài khác.
Cuốn sách gồm lời tựa của tác giả và chín phần: 1. Bắt đầu Sứ mệnh; 2. Washington và các nước phương Đông; 3. Thanh trừng trong Hồng quân; 4. Nước Nga qua con mắt các láng giềng; 5. Thanh trừng nhằm vào Bukharin; 6. Mátxcơva nghe tiếng trống trận; 7. Đỉnh cao nhiệm vụ; 8. Tóm tắt các sự kiện; 9. Thành quả của nhiệm vụ. Cuốn sách kết thúc với phần phụ lục mở rộng do chính J. Davies biên soạn và chứa đựng nội dung các văn bản, tài liệu tham khảo, các báo cáo quan trọng của đại sứ.

Joseph Davies sinh năm 1876. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách luật sư. Đầu những năm 1930, ông đã nổi tiếng trong Đảng Dân chủ khi đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công chiến dịch tranh cử tổng thống của Woodrow Wilson. Sau đó, Davies bắt đầu được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Năm 1913-1915, là ủy viên chính phủ phụ trách giám sát các tập đoàn; các năm 1915-1918 là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, ông là cố vấn kinh tế của Tổng thống Wilson. Sau Thế chiến 1, Davies trở lại với nghề luật một lần nữa.
Davies đã làm quen với Franklin Roosevelt năm 1933, và Roosevelt trở thành chủ nhân của Nhà Trắng (nhiệm kỳ 1933-45), Roosevelt đã tham khảo ý kiến của Davies về nhiều vấn đề. Cũng năm 1933, Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Liên Xô là William Bullitt. Quan hệ của Bullitt với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác là bình thường, nhưng thông tin về Liên Xô mà Bullitt gửi về Washington lại khá tiêu cực. Còn TT Roosevelt có mong muốn xích lại gần hơn với Liên Xô, đặc biệt là khi Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Và Roosevelt quyết định bổ nhiệm Davies làm đại sứ tại Matxcova, mặc dù lúc đó không có kinh nghiệm về ngoại giao.
Được bổ nhiệm làm đại sứ vào tháng 8 năm 1936, J. Davies đã góp phần hoàn tất các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại giữa Liên Xô và Mỹ. Gần hai năm Davies ở Liên Xô đã khiến ông tin tưởng chắc rằng chính phủ Anh và Pháp đã mắc sai lầm lớn khi xoa dịu Hitler và cố gắng cô lập Liên Xô. Đồng thời, Davies thấy Stalin đã tỉnh táo trong việc đánh giá tình hình thế giới, chuẩn bị cho một cuộc đối đầu gần như không thể tránh khỏi với Hitler. Trong cuốn sách, Davies trình bày chi tiết về sự chuẩn bị này.
- Thứ nhất, phát triển nhanh chóng của công nghiệp (công nghiệp hóa 10 năm trước Thế chiến 2).
- Thứ hai, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Liên Xô (huấn luyện quân sự, tăng số lượng biên chế, nâng cao chất lượng vũ khí và trang thiết bị quân sự).
- Thứ ba, thanh lọc Đạo quân thứ 5 (trong bộ máy quản lý nhà nước, lực lượng vũ trang, trong nền kinh tế quốc dân).

Davies đặc biệt chú ý đến tuyến thứ ba “thanh lọc Đạo quân thứ 5” trong quá trình chuẩn bị chiến tranh của Stalin. Đại sứ Mỹ đã có mặt tại hầu hết các phiên tòa ở Mátxcơva năm 1937-38. Là một luật sư có kinh nghiệm dày dặn, Davies ghi nhận tính không hoàn hảo của các phiên tòa ở Mátxcơva và xác nhận tội trạng của các bị cáo. Trong cuốn sách, Davies tường thuật nhiều sắc thái thú vị liên quan đến những bị cáo trong các phiên tòa như Nikolai Bukharin, Mikhail Tomsky, Grigory Zinoviev, Alexei Rykov, Lev Kamenev, Yuri Pyatakov, Christian Rakovsky, Nikolai Krestinsky, Arkady Rozengolts, Grigory Grinko, Grigory Sokolnikov, Karl Radek và những kẻ khác. Ông quan tâm nhiều đến "phe đối lập ngầm" trong Lực lượng vũ trang Liên Xô. Nhân vật chính ở đây là Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky. Các nhân vật khác của đội quân ngầm: V. Putna, I. Yakir, I. Uborevich, R. Eideman, A. Kork, B. Feldman, V. Primakov. Adolf Hitler, vào trước chiến tranh đã tạo ra đạo quân thứ 5 ở tất cả các nước châu Âu và sử dụng chúng để tìm cách chinh phục những nước này một cách nhanh chóng, đôi khi không cần bắn một phát súng nào. Liên Xô cũng có đạo quân thứ 5 như vậy. Nhưng sau vụ ám sát M. Kirov năm 1934, Stalin bắt đầu công cuộc thanh lọc có hệ thống, đến cuối năm 1938 thì cơ bản hoàn thành.
Davies liên tục lặp lại rằng nếu không loại bỏ đạo quân thứ 5, Liên Xô sẽ phải chịu thất bại nặng nề trước Hitler.
Davies viết về những quan sát của mình với các sự kiện diễn ra ở Liên Xô không chỉ trong nhật ký mà còn trong các thông điệp do Ngoại trưởng Cordell Hull gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Một số thông điệp đã được gửi đến F. Roosevelt. Vào mùa hè năm 1938, Davies được triệu hồi từ Mátxcơva và bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bỉ và Đặc phái viên tại Luxembourg, và vào tháng 1 năm 1940, ông làm Trợ lý Đặc biệt cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Sự nghiệp ngoại giao của Davies chấm dứt vào tháng 11 năm 1940, theo nguyện vọng, ông được cho thôi việc tại Bộ Ngoại giao. Năm 1941, Davies được đặt vào vị trí lãnh đạo Ủy ban của Tổng thống nhằm thống nhất các hoạt động của tất cả các tổ chức về vấn đề hỗ trợ đồng minh trong chiến tranh.
Thật khó để không đánh giá rất cao vai trò của Davies trong việc đưa Mỹ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn trước và sau Thế chiến 2 cũng như thời kỳ cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bùng nổ. Davies đã thuyết phục được cả Cordell Hull và Franklin Roosevelt rằng Liên Xô không những không phải là kẻ thù của Mỹ mà ngược lại, có thể và nên trở thành đồng minh chính của Mỹ trong chiến tranh thế giới. Dựa trên kiến thức sâu rộng của mình về Liên Xô, cựu đại sứ Davies, chỉ 2 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố rằng: "Thế giới sẽ ngạc nhiên về quy mô của cuộc kháng chiến mà Nga sẽ tiến hành”. Ở Mỹ, có rất nhiều giới ủng hộ Hitler một cách công khai và bí mật, cũng như giới chống Liên Xô công khai và bí mật. Davies không ngần ngại gọi giới này là Đạo quân thứ năm (fifth column) của nước Mỹ. Ông nói rằng: "Chính phủ Xô Viết không tìm cách áp đặt ý chí của họ lên các dân tộc khác mà chỉ chống lại Hitler và những kẻ muốn nô dịch nhân loại". Davies đã phát biểu trên báo chí, trên đài phát thanh, tại nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi người Mỹ từ bỏ thành kiến với Liên Xô và cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô. Ông kiên quyết yêu cầu mở mặt trận thứ hai. Sau đó, ông trở thành thành viên của phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Potsdam năm 1945 (với cấp bậc đại sứ).
Davies đã có hai cuộc gặp gỡ với Stalin. Cuộc gặp đầu tiên diễn ra vào đêm trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ đại sứ tại Mátxcơva vào tháng 6 năm 1938. Nhà ngoại giao Mỹ kể chi tiết cuộc trò chuyện của ông với Stalin trong một báo cáo gửi cho Ngoại trưởng Mỹ. Báo cáo này đã được giải mật và đưa vào phần bổ sung của cuốn sách. Cuộc gặp thứ hai, diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đó là một chuyến của Davies đến Mátxcơva, mang theo theo một thông điệp đặc biệt từ Roosevelt gửi đến IV Stalin.
Vào cuối mùa xuân năm 1943, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ bị nguội lạnh. Nguyên nhân là do phương Tây trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai chống phát-xít. J. Davies đã thảo luận vấn đề này với Roosevelt, và tổng thống đã giao cho ông đứng đầu với nhiệm vụ mới, gặp Stalin và thuyết phục rằng Mỹ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy của Liên Xô và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ sau chiến tranh. Davies mang đã chuyển về một thông điệp riêng cho Roosevelt (Bản dịch thư của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Stalin với các Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Văn bản số 83 ngày 5 tháng 5 năm 1943). Nhưng sức thuyết phục chính để Mỹ duy trì các mối quan hệ đồng minh thậm chí không phải là thông điệp dành cho Roosevelt, mà là bộ phim mà Davies, cùng với tổng thống Mỹ, đã tặng cho Stalin.
Bộ phim này có cũng tên với cuốn sách của ông, "Mission to Moscow". Bộ phim ra đời một năm sau cuốn sách. Đó là một dự án được TT Roosevelt ủng hộ. Phim thuộc thể loại nửa hư cấu, nửa tài liệu. Hầu hết phần tài liệu là những gì liên quan đến công việc của đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cũng như ông Davies. Ở Mỹ, bộ phim đã được hàng triệu người Mỹ theo dõi, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố thiện cảm của "tầng lớp thống nhất Mỹ" dành cho nước Nga Xô Viết. Nói không quá, nếu không có bộ phim này, Mặt trận thứ hai chống phát-xít ở phương Tây có lẽ đã không được mở ra sau này.
Gửi bộ phim, Roosevelt đã rất hy vọng rằng Stalin sau khi xem phim có thể cảm thấy “tâm trạng thân Mỹ”. Stalin ngay lập tức đã xem bộ phim và quả thực rất ấn tượng. Davies viết cho Harry Warner: "Nguyên soái Stalin và tất cả những người có mặt tại buổi chiếu đều đánh giá cao những hình ảnh". Năm 1943, bộ phim được phát hành cho hệ thống phân phối phim của Liên Xô và cũng rất được khán giả Liên Xô yêu thích. Bộ phim "Mission to Moscow" đặc biệt thành công bên ngoài Mỹ, ở Liên Xô ở Anh và Trung Quốc.
Ngay sau khi bộ phim được phát hành tại Mỹ, một bản sao của nó cũng đã được đưa đến boongke của Hitler. Trùm tuyên truyền quốc xã Goebbels đã viết một mục về điều này trong nhật ký của mình vào tháng 5 năm 1943. Hắn ta cũng nhận được thông tin về chuyến đi của Davies đến Mátxcơva, và đã gọi ông Davies là "cái phòng khách của Bolshevik", một loại người "nguy hiểm" và ra lệnh cho báo chí Đức tuyên truyền tẩy chay cuốn sách và tác giả của nó.
Sau Thế chiến 2, ông Davies tiếp tục làm việc để duy trì mối quan hệ Xô-Mỹ, mối quan hệ mà khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, Washington bắt đầu có chủ ý làm sụp đổ. Davies là một trong những người tổ chức và là chủ tịch danh dự của Hội đồng quốc gia về tình hữu nghị Mỹ-Xô. Trong một bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng: "Trong số tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, sẽ không có ai trung thành, kiên định hơn trong việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình vĩnh viễn hơn là nhân dân Liên Xô”. Cho đến cuối đời (ông mất ngày 9 tháng 5 năm 1958), J. Davies, bất chấp các cuộc tấn công liên tục từ giới chống Liên Xô thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, vẫn là một người bạn thực sự của đất nước Liên Xô.
PS: bên trên có cụm từ "tầng lớp thống nhất Mỹ". Cần giải thích thêm là nước Mỹ nhiều phe phái, ngay cả giới chính trị gia cũng có nhiều đường lối, quan điểm khác nhau. Do đó, không có sự thống nhất như một tầng lớp. Vì thế mà đặt cụm từ này trong ngoặc kép. Vấn đề là Stalin, nếu như không tận dụng được sự ủng hộ của giới chính khách mà Roosevelt là đại diện, nếu như coi nước Mỹ là đối thủ, là kẻ thù, thì cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sẽ khó khăn, ác liệt hơn nhiều. Chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, trong đó cây giáo dài hơn, súng đạn nhiều hơn là thiệt hại, tổn thất ít hơn, là cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Hình ảnh bên dưới là một minh chứng cho điều này. Quan điểm của Truman, TT kế nhiệm đã rất khác. Đó là sự trục lợi, là chủ nghĩa cơ hội. Về phía mình, Liên Xô nhận được 1 khẩu súng trong Lend-lease cũng đã bớt đi 1 khẩu cho phát-xít. Súng có lởm, nhưng giá trị là gấp đôi.
Cũng cần nói thêm rằng, KKE gây chiến ở Hy Lạp và giấc mộng Đại Nam tư của Tito cũng là một phần nguyên nhân của Chiến tranh lạnh.

Truman: "Nếu chúng ta thấy Đức đang thắng thì chúng ta phải
giúp Nga và nếu Nga đang thắng thì chúng ta phải giúp Đức và
đấy là cách để họ giết nhau nhiều nhất có thể,..."


Ngoại trưởng Lavrov nói Hitler là dân Do Thái

 Mới đây, hôm 2-5, trong một cuộc phỏng vấn với kênh Rete 4 của Italia, Ngoại trưởng Nga, ông Lavrov được hỏi làm thế nào để Nga có thể nói cần phải "phi phát xít hóa" Ukraine khi tổng thống của nước này, Volodymyr Zelensky, là dân Do Thái.

 

Ông Lavrov nói qua một phiên dịch người Italia rằng: “Khi họ nói, ‘phi phát xít hóa’ là thế nào, nếu chúng tôidân Do Thái?” Tôi nghĩ Hitler cũng có gốc Do Thái, vì vậy điều nay không có nghĩa gì cả”.

Ông nói thêm: “Trong một thời gian dài, chúng tôi đã nghe những dân Do Thái khôn ngoan nói rằng những kẻ bài Do Thái lớn nhất là chính những dân Do Thái.

Điều này chẳng còn lạ, Marx, Lenin, hay Zelensky, dân Do thái làm loạn khắp thế giới hàng trăm năm qua. Tổng thống V. Putin cũng từng nói 95% các nhân vật chóp bu trong CQ Lenin là dân Do thái. Cái lõi CNTB, các nhà băng, các hãng truyền thông, giới tài phiệt London và phố Wall... là dân Do Thái. Nói ngắn gọn, toàn bộ thế giới phương Tây nằm dưới sự cai trị của dân Do Thái hàng thế kỷ nay.

Vị quốc trưởng Third Reich có mái tóc đen, khuân mặt gốc Á cũng như cả loạt các nhân vật cầm đầu Đức Quốc xã, xét về nhân chủng học chắc chắn không bao giờ thuộc chủng tộc Arian.

Thế nhưng dường như ông Lavrov đã gây ra sóng gió. Jerusalem đang đòi lên án ông Lavrov vì cho rằng Adolf Hitler gốc Do Tháiyêu cầu Moscow xin lỗi. Ngoại trưởng Israel Yair Lapid cho biết Đại sứ Nga sẽ được mời tham gia một "cuộc nói chuyện cứng rắn" về những bình luận mà ông Lavrov đưa ra trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Italia. "Đây là một tuyên bố tai tiếng, không thể tha thứ, một sai lầm lịch sử khủng khiếp, và chúng tôi mong đợi một lời xin lỗi", Lapid nói với trang tin YNet.

Không có bình luận nào từ Đại sứ quán Nga. Đây cũng không phải là chủ đề “phân biệt chủng tộc”. Nhưng có thể tìm thấy vô số bài viết liên quan đến chủ đề này trong blog này.






 

Học thuyết “nòi giống thượng đẳng” của Hitler có xuất xứ từ Mỹ!

Ít ai biết rằng học thuyết “nòi giống thượng đẳng” của Hitler hoàn toàn học từ lý thuyết đến kỹ thuật của 1 dự án thí nghiệm Mỹ.

Sau WW-I, Rockefeller và nghiệp đoàn dầu mỏ của ông ta đã trở thành khổng lồ. Một mặt ông ta che giấu tài sản trong các quĩ nghiên cứu, mặt khác bỏ tiền vào các dự án, thí nghiệm điên rồ. “Nòi giống thượng đẳnglà 1 trong các dự án của ông ta. Cùng với Rockefeller là Harriman, JP Morgan Jr., Cleveland Dodge, John Harvey Kellogg, Viện Carnegie, Clarence Gamble của "Procter & Gamble”, Hội ưu sinh Mỹ tài trợ các thí nghiệm về chủng tộc và “dân tộc thấp hènnhằm các mục đích kiểm soát nòi giống và chủng tộc. Họ có đối tác là Hội ưu sinh Anh Quốc mà lúc đó hội viên có những cái tên: Winston Churchilllúc đó là bộ trưởng tài chính, nhà kinh tế John Maynard Keynes, Arthur Balfour, và quí ông Julian Huxleyngười sau này làm lãnh đạo UNESCO.

Sau này, Rockefeller còn có các dự án điên rồi khác như dự án hạn chế dân số để đề phòng thiếu hụt lương thực mà Vaccine hạn chế sinh đẻ của Bill Gates cũng nằm trong đó.

Một số các dự án tham vọng mà Quỹ Rockefeller bỏ tiền trong thập kỷ 1920 là dự án của Cơ quan thống kê và Hội ưu sinh Mỹ, dự án khác là “Kế hoạch cha mẹcủa Margaret Sanger – được biết đến nguyên bản là kiểm soát sinh đ, một sự kết hợp của chủng tộc và kiểm soát dân số các dân tộc "thấp kém" như dân da đen. Sanger được người ta biết đến như 1 phụ nữ ích kỷ, trắc ẩn và giỏi về ưu sinh. Bà ta công khai ủng hộ học thuyết “nòi giống thượng đẳng”, thường trăn trở làm sao để “hạn chế và loại bỏ” những kẻ thấp kém, tật nguyền trong xã hội. Năm 1933, lãnh đạo Hiệp hội bác sĩ Đức, Dr. Gerhard Wagner tuyên dương công trạng của Sanger và đề nghị tiếp tục nghiên cứu công trình của bà này.

Trái với niềm tin phổ biến rằng ý tưởng “chủng tộc thượng đẳng” có nguồn gốc Đức - Aryan, nó có nguồn gốc từ Mỹ. Vị chủ tịch ĐH thanh thế Stanford bang California, David Starr Jordan viết cuốn sách của ông ta năm 1902 "The blood of the nation" (dòng máu dân tộc) đã đặt ra ý tưởng về dòng máu và chủng tộc. Ông ta khẳng định hèn kém, nghèo đói là đặc trưng di truyền, cũng như tài năng, do đó giáo dục không đóng bất cứ vai trò gì và dân chúng có giáo dục cũng như không.


Dự án thanh lọc chủng tộc đã triển khai ở 27 bang của Mỹ, nhưng California trở thành bang “mô hình nòi giống”. Theo luật “nhân giống ưu sinh” mà bang này phê chuẩn năm 1909: triệt sản mọi kẻ khờ khạo hay mắc bệnh tâm thần, bất cứ ai phạm tội 3 lần sẽ bị triệt sản bởi bác sĩ phẫu thuật. California đã triệt sản 9.782 người, hầu hết là phụ nữ, những người bị phân loại là "gái hư", nhiều người trong số họ bị buộc làm gái mại dâm. Tổng cộng, khoảng 60.000 người Mỹ đã bị triệt sản cưỡng bức, hàng nghìn khác bị ngăn cấm hôn nhân.

Ảnh: Giấy chứng nhận ưu sinh và hạn ngạch sinh đẻ chủng tộc!


Ảnh: Những người "chủng tộc trong sạch" đứng trước tòa nhà ưu sinh ở Kansas - Mỹ
.
Cũng chính qua Quỹ Rockefeller, giai đoạn 1922-1926, Mỹ đã cung cấp khoản tiền đầy ấn tượng thời đó, $410.000 cho các bệnh viện, viện nghiên cứu Đức và hàng trăm bác sĩ ở Berlin trong các lĩnh vực ưu sinh và tâm thần. Năm 1926, quỹ này lập Viện tâm thần học Kaiser Wilhelm ở Berlin với số vốn: $250.000, bất chấp Đức siêu lạm phát và kinh tế sụp đổ, và kỳ lạ: hầu hết hành nghề bác sĩ tâm thần là người Do Thái. Một trong các “chuyên gia” tâm thần ở Kaiser Wilhelm là Ernst Rudin sau này trở thành kiến trúc sư của hệ thống đàn áp, thanh lọc chủng tộc của Hitler.

Một số dự án Đức khác được Rockefeller cấp tiền là Viện di truyền người và ưu sinh, Viện nhân chủng học, hay Viện nghiên cứu não - năm 1929 được nhận $317.000 tài trợ và đóng vai trò trung tâm trong việc nghiên cứu sinh học chủng tộc Đức. Nhiều năm sau nữa viện này tiếp tục được Rockefeller cấp tiền và lãnh đạo viện không ai khác là tay chân thân tín Ernst Rudin của Hitler. Tài trợ của Rockefeller chỉ dừng lại vào năm 1939, khi chiến tranh thế giới bắt đầu nổ ra.

Bản thân Hitler rất say mê thí nghiệm chủng tộc của Mỹ, ông ta tuyên dương nỗ lực nghiên cứu ưu sinh Mỹ và từng viết trong "Mein Kampf" năm 1924: "Ngày nay, chỉ có 1 quốc gia, mà trong đó rõ ràng, ít nhất, đấu tranh yếu ớt với khái niệm tốt hơn về kiều dân. Dĩ nhiên, đó không phải là CH Đức kiểu mẫu của chúng ta, đó là Mỹ.”


Ít năm sau, Hitler viết thư cho nhà ưu sinh Mỹ Madison Grant, ông ta ca ngợi cuốn sách "The Passing of the Great Race" (Hình thành nòi giống vĩ đại) của ông này. Trong sách, Grant viết rằng nước Mỹ "bị đầu độc bởi 1 lượng lớn những kẻ yếu đuối, nghèo túng và lạc hậu, bị thiểu năng trí não của tất cả các chủng tộc". Grant lập luận rằng chất lượng của phương pháp ưu sinh sẽ là "một hệ thống chọn lọc mạnh, qua việc loại bỏ những kẻ yếu đuối hay không phù hợp, nói cách khác, lỗi lầm của xã hội". Hitler rõ ràng công nhận tinh thần thông thái của nhà đồng sáng lập Hội ưu sinh Mỹ Madison Grant.

Một bức ảnh Đức khôi hài: kiểm tra khuân mặt để xác định chủng tộc!

Năm 1933, Hitler đã áp dụng “luật triệt sản” theo mô hình Mỹ, theo đó đội quân bác sĩ tâm thần của ông ta đã thiến khoảng 350 nghìn đàn ông "hạ đẳng". Cho đến 1940, hàng chục nghìn người già cả, ốm yếu bệnh tật bị xua đuổi ra khỏi nhà, bị tống vào các viện tâm thần. Trong số họ, ước tính ít nhất 50.000 đã bị giết chết.

Leon Whitney, thư ký Hội ưu sinh Mỹ lúc đó còn ca ngợi Đức là chủng tộc cứng rắn còn Mỹ thì yếu đuối nhu nhược. Ngược lại, Hội ưu sinh Mỹ được Hitler trao kỷ niệm chương của ĐH Heidelberg vì công trạng nghiên cứu “Khoa học thanh lọc chủng tộc!”.

Từ nguồn tài trợ của Rockefeller và Viện Carnegie, tên Dr. Josef Mengele còn thí nghiệm “nhân chủng học” trực tiếp trên các tù nhân của trại tập trung Auschwitz. Đáng chú ý, nhà ưu sinh học Đức nổi tiếng vô đạo đức này, bác sĩ tâm thần Mengele, hay tên đồ tể - như người Do Thái gọi, đã không bị xét xử ở Nuremberg. Hắn ta được cẩn thận đem sang Mỹ, nơi hắn có được các giấy tờ cần thiết để chuyển đến Nam Mỹ. Mặc dù bị truy nã gắt gao, xong hắn chỉ bị chết vì tai nạn đột quị trong 1 bể bơi vào năm 1979.

Sau WW-II, vấn đề ưu sinh học, thí nghiệm chủng tộc, thanh lọc sắc tộc và loạn bác sĩ tâm thần, mối liên hệ  của chúng với Mỹ đã bị tòa án Nuremberg và các tòa khác hoàn toàn bỏ qua. Cho đến năm 1956, vấn đề này mới được nêu ra: “… chính từ ngữ ưu sinh học đã diễn thành từ ngữ khác trong một số quốc gia”. Ngay cả cái nêu ra, cũng không dám lên án thanh lọc chủng tộc nguồn gốc Mỹ!


Sau này, ưu sinh học bị vạch mặt là ngụy khoa học, bức bình phong để che đậy những ý tưởng điên rồ về phân biệt chủng tộc, bất bình đẳng và kỳ thị này khác. Nhưng ưu sinh học ngày này vẫn được quảng bá rộng rãi với vỏ bọc khác, thay vì là thanh lọc chủng tộc “yếu đuối” qua triệt sản hay kiểm soát sinh đẻ, giờ là “tự do lựa chọn” gia đình và chất lượng. Ưu sinh giờ biến thành "di truyền học và gene". Quỹ Rockefeller vẫn tài trợ cho “memorandum 200 Kissinger” để kiểm soát sinh đẻ các dân tộc “hạ đẳng” dưới khẩu hiệu tự do.

Tờ "San Francisco Chronicleviết năm 2003:
"Tư
tưởng chủng tộc da trắng, tóc màu sáng và mắt xanh xuất hiện cùng với Hitler. Khái niệm được tạo ra Mỹ, và gieo trồng California hàng chục năm trước khi Hitler đến quyền lực. Các nhà ưu sinh California đóng vai trò quan trọng, mặc dù ít được biết đến, trong phong trào ưu sinh Mỹ đ thanh lọc chủng tộc."


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...