Hiển thị các bài đăng có nhãn CCCP. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CCCP. Hiển thị tất cả bài đăng

Về Âm mưu Tukhachevsky theo V.I. Alksnis

Khi còn tại ngũ - Đại tá Viktor Imantovich Alksnis trên bục một đại hội;

Đã nhiều lần trong các bình luận cho các bài báo khác nhau, có chủ đề về Stalin đàn áp quân nhân, về "âm mưu quân sự" bị cáo buộc trong những năm 1930, v.v. Vì vậy, mà có thêm một bài viết này dựa trên những gì Viktor Imantovich Alksnis đã viết.

Vài lời về con người này - Victor Alksnis, nếu ai đó không biết – Một tiểu sử ngắn của Viktor Imantovich Alksnis.

Viktor Imantovich Alksnis sinh ngày 21/6/1950 tại thành phố Tashtagol, vùng Kemerovo, trong một gia đình Latvia gốc Nga lưu vong.

Năm 1973, ông tốt nghiệp Trường Quân sự cao cấp Riga theo tên ông nội của mình, Yakov Alksnis, với ngành kỹ sư điện tử quân sự, ông bắt đầu phục vụ trong một phi đội không quân ở Voronezh.

Năm 1974, ông gia nhập CPSU, năm 1977 ông được chuyển đến Riga.

Năm 1979-1992, ông giữ các chức vụ kỹ sư, kỹ sư cao cấp và kỹ sư-thanh tra cao cấp của Lực lượng Không quân thuộc Quân khu Baltic. 

Vào mùa xuân năm 1989, Viktor Alksnis được bầu làm đại biểu nhân dân Liên Xô. Vào tháng 10 năm 1989 ông trở thành một trong những người khởi xướng việc thành lập và trở thành phó điều phối nhóm Soyuz. Vào mùa thu năm 1990, ông đàm phán với TT Liên Xô Gorbachev và là người khởi xướng yêu cầu các bộ trưởng từ chức – Bộ nội vụ Bakatin và Ngoại giao Shevardnadze. 




V.I. Alksnis là Nghị sĩ Đuma Quốc gia LB Nga khóa 3 và 4, (2000-2003) và (2004-2007) còn nay là Đại tá về hưu.

Bây giờ vào vấn đề chính. Ông nội của Viktor là chỉ huy cấp 2 Yakov Ivanovich Alksnis (Jekabs Alksnis) - phó Chính ủy Không quân. Hay dễ hiểu hơn là một Chỉ huy Không quân của Hồng quân.

Yakov Alksnis là một trong các thành viên Đại diện Tư pháp đặc biệt, có mặt tại các phiên tòa xét xử nhóm lãnh đạo quân sự do Tukhachevsky cầm đầu và bắt đầu từ ngày 11 tháng 6 năm 1937. Dường như là trong phiên tòa, Yakov Alksnis là thành viên tích cực nhất của quá trình xét xử này và đã bằng mọi cách có thể để buộc tội các bị cáo và nhất quyết đề nghị áp dụng hình phạt tử hình đối với họ.

Sau đó, chính ông cũng bị bắt - ngày 23 tháng 11 năm 1937, do trong quá trình điều tra (như công bố chính thức) đã áp dụng "các phương pháp gây ảnh hưởng vật lý" (nói cách khác là tra tấn), 2 ngày sau khi bị bắt, vào ngày 25 tháng 11 năm 1937, Alksnis đã ký vào lời khai rằng mình là điệp viên người Latvia, thành viên của tổ chức phản cách mạng "Tổ chức dân tộc chủ nghĩa Latvia trong Hồng quân". Kết quả là Yakov Alksnis bị bắn vào ngày 29 tháng 7 năm 1938.

Vào ngày 1 tháng 2 năm 1956, Yakov Alksnis được minh oan  vì "thiếu chứng cứ buộc tội".

Thông thường, khi đọc về thời kỳ đàn áp những năm 1930, thì có thể thấy mọi thứ diễn ra nhanh chóng - bắt giữ, điều tra, xét xử, hành quyết. Và sau đó 2 ngày mọi chuyện dường như được khám phá - bị cáo đã thú nhận mọi chuyện, nhưng không hiểu sao Yakov Alksnis lại bị giam thêm 8 tháng nữa...



Như chính Victor Alksnis đã viết về người ông Yakov: "... Người vợ của ông ấy (là bà tôi), bà Kristina Karlovna Mednis-Alksnis, với tư cách là thành viên trong gia đình của một kẻ phản bội Tổ quốc, đã phải trải qua 15 năm trong trại cải tạo và sống lưu vong. Cha tôi, Imant Yakovlevich, vào 10 tuổi không cha mẹ và cho đến năm 30 tuổi, ông ấy mang trong mình sự kỳ thị là "con của kẻ thù của nhân dân". và theo đó, tôi là một kẻ chống chủ nghĩa Stalin…”.

Thời Perestroika bắt đầu - Viktor Alksnis viết, ông chăm chỉ đọc tất cả các ấn phẩm của những năm đó, "... vạch trần tội ác của Stalin và những kẻ xung quanh ông ta...".

Năm 1989, khi Alksnis được bầu làm Đại biểu nhân dân Liên Xô, ông đã nói chuyện với Chủ tịch KGB của Liên Xô lúc đó là V.A. Kryuchkov với lời đề nghị cho ông tiếp cận với các tài liệu và tư liệu liên quan đến ông nội của mình, Yakov Alksnis.



Đặc biệt, ông yêu cầu được xem hồ sơ vụ án hình sự và các tài liệu phiên tòa xét xử Tukhachevsky, vì Yakov Alksnis là thành viên Đại diện Tư pháp đặc biệt, đã kết án Tukhachevsky và các lãnh đạo quân sự khác.

Victor Alksnis viết - "... Các tài liệu quá trình xét xử nhóm lãnh đạo quân sự do Tukhachevsky đứng đầu được tôi đặc biệt quan tâm, vì M. Tukhachevsky và Robert Eideman (chủ tịch Hội đồng TƯ Osoaviakhim Liên Xô), những người đã bị bắn bởi bản án của Đại diện Tư pháp đặc biệt, là các bạn thân của ông tôi. Và họ cũng có chút là bạn bè của Robert Eideman từ khi còn nhỏ. Còn tôi đã không thể hiểu nổi làm thế nào mà ông tôi lại có thể kết án tử hình bạn mình..."





Sau một thời gian, như Viktor Alksnis nhớ lại, ông được mời đến tòa nhà của KGB Lubyanka và hai tập giấy được đặt trước mặt ông. Đầu tiên là hồ sơ vụ án hình sự của ông nội, thứ hai là bản tốc ký ghi lại phiên tòa xét xử nhóm quân nhân do Tukhachevsky cầm đầu. Alksnis thậm chí còn được phép sao chép những trang cần thiết.

Trích dẫn Alksnis - "... Tôi ngay lập tức bị bất ngờ vì có rất ít tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự. Ông nội bị bắt vào ngày 23 tháng 11 năm 1937 và bị xử bắn vào ngày 29 tháng 7 năm 1938, tức là ông đã ở Lefortovo 8 tháng. Còn trong thời gian đó, chỉ có ba hoặc bốn biên bản thẩm vấn trong hồ sơ, hơn nữa, tất cả các biên bản này chẳng nói lên điều gì cả.

Ví dụ, một biên bản nhiều trang là về việc tổ chức sửa chữa thiết bị máy bay của Lực lượng Không quân. Hơn nữa, biên bản này rất chi tiết, đối với tôi, dường như câu trả lời cho các câu hỏi của điều tra viên chỉ đơn giản là được chép ra từ các tài liệu của lãnh đạo những năm đó về tổ chức sửa chữa máy bay.

Tôi ngạc nhiên là ba ngày sau khi bị bắt, ông tôi đã viết một bức thư viết tay gửi cho Dân ủy Bộ Nội vụ Yezhov về việc ông sẵn sàng làm chứng thẳng thắn về các hoạt động phản cách mạng của mình, nhưng lại không có dấu vết lời khai thẳng thắn này trong hồ sơ vụ án hình sự.

Xét theo các tài liệu của hồ sơ, cuộc thẩm vấn đầu tiên chỉ diễn ra vào tháng 1 năm 1938. Trong khi đó, xét theo các tài liệu minh oan năm 1956, cũng đính trong hồ sơ này, cụ ông nhiều lần bị triệu tập để thẩm vấn và bị “đánh đập” vì lời khai của mình. Nhưng những biên bản với lời khai "bị đánh đập" này ở đâu, tại sao chúng không có trong hồ sơ?...".

Tiếp theo, Viktor Alksnis làm quen với bản ghi tốc ký "phiên tòa Tukhachevsky" (tạm gọi là vậy), và nhận ra rằng không phải tất cả mọi thứ đều rõ ràng trong quá trình xét xử này, như họ đã viết khi đó, và đôi khi họ viết cả trong hiện tại.

Đầu tiên, ông Viktor Alksnis quan tâm đến vụ án này sau khi một số ấn phẩm viết rằng chỉ huy cấp 2 Yakov Alksnis đã rất tích cực tại phiên tòa, "dìm hàng" các bị cáo, yêu cầu mức án tử hình đối với họ, v.v. Như Alksnis đã viết - "... Còn theo bản tốc ký, mọi thứ hoàn toàn ngược lại. Trong toàn bộ quá trình xét xử, họ chỉ được hỏi tất cả hai hoặc ba câu hỏi...". Đây là về người ông của ông ấy.

Hơn nữa. Trước đó ông Viktor Alksnis đã tin rằng Tukhachevsky và các đồng sự chỉ đơn giản là bị ép buộc để phải tự nhận tội về mình. Họ bị vu khống. Và vì vậy họ không có bất cứ tội lỗi gì. Nhưng niềm tin này cuối cùng đã tiêu tan.

Điều kỳ lạ nhất, theo ghi nhận của ông sau khi làm quen với hồ sơ, đó là hành vi của các bị cáo. Báo chí Liên Xô những năm 1980 và 1990 viết rằng các bị cáo phủ nhận tất cả, không đồng ý với bất cứ điều gì.

Và trong bản tốc ký, ngược lại – thừa nhận đầy đủ. Có thể nói, chỉ riêng lời thú tội là không đủ - nó có thể đạt được bằng cách tra tấn.

Nhưng có một cái gì đó hoàn toàn khác ở đó, như Alksnis lưu ý - rất nhiều chi tiết, cuộc hỏi đáp dài, những lời buộc tội lẫn nhau, rất nhiều điều được làm rõ. Không thể đạo diễn điều này.

Như chính Alksnis viết - "... Sau khi xem qua bản ghi tốc ký, tôi có nhiều câu hỏi hơn là nhận được câu trả lời. Tôi có ấn tượng rằng âm mưu tồn tại trên thực tế. Điều rắc rối là nếu vào năm 1937, người ta tin rằng những kẻ bị kết án khi đó là "kẻ thù của nhân dân", thì sau 1985 tất cả đều trở nên vô tội. Và tôi nghĩ rằng đã có sự đối lập, kể cả với Stalin... Nhưng đây là những gì đã làm tôi cảnh giác: trong bản ghi tốc ký có những khoảnh khắc minh chứng cho sự thành thực của các tuyên bố, như thể có ai đó nói rằng phiên tòa là một cảnh tượng có tổ chức, rằng họ đã làm các việc đặc biệt với những bị cáo để đưa ra các bằng chứng cần thiết.

Hãy hình dung: quả là khi Tukhachevsky kể về cuộc gặp với tùy viên quân sự Đức tại một Dacha ngoại ô Moskva... Và ngay lúc đó Primakov đột ngột cắt ngang và nói: “Mikhail Nikolayevich, anh sai rồi. Cuộc gặp này không phải diễn ra trong căn phòng Dacha của anh, mà ở ngoài mái hiên". Theo như tôi hiểu, sẽ không thể sắp đặt mọi thứ cho Tukhachevsky nói về điều này để Primakov làm rõ ràng ra như vậy... Sẽ không thể sắp đặt xử án như nó được diễn đạt trong bản ghi tốc ký... Điểm chính để buộc tội những kẻ chủ mưu là gì? Tất cả mọi thứ đều ở đó: cả gián điệp, cả chuẩn bị một cuộc đảo chính quân sự, và phá hoại... Thực tế là sự liên hệ với quân đội Đức đang được thiết lập, đi đến cộng tác với chúng. Đó là về thực tế có một tổ chức, do Tukhachevsky đứng đầu và tham gia vào những việc tương tự. Đó là điểm chính trong quá trình xét xử...

... Hơn nữa, tất cả đều thừa nhận tội lỗi của mình trong lời nói cuối cùng của họ, rằng họ đã tham gia vào âm mưu (trong khi biết rằng vì điều này, họ sẽ bị bắn), không thể tưởng tượng được tất cả họ đều bị ép buộc phải tự thú và tuyên bố như vậy... Tôi không biết gì về bản chất của âm mưu. Nhưng thực tế là một âm mưu trong Hồng quân thực sự tồn tại, còn Tukhachevsky là một người tham gia vào nó, hôm nay tôi hoàn toàn bị thuyết phục... ".

Và sau đó Viktor viết rằng vụ án hình sự của ông nội đã được "làm sạch", ông tin rằng một số tài liệu rất quan trọng đã bị xóa bỏ khỏi đó, là những tài liệu đã bị tịch thu trong thời kỳ "làm tan băng” của Khrushchev mà ông nội của ông được minh oan trong đó.

Câu hỏi hợp lý là tại sao? Nếu lời khai là giả mạo khi bị đánh gục dưới sự tra tấn, thì tại sao lại xóa bỏ chúng đi? Ngược lại, chúng có giá trị để nói rằng: - Đây, hãy xem, những lời khai trong khi bị đánh đập! Đó là thứ giá trị đối với họ! Đó là một cây bồ đề! Là bằng chứng thuyết phục nhất để nói rằng, tất cả những điều này, tất cả các phiên tòa xét xử - đều là dối trá!

Nhưng lại không, các tài liệu đã không tồn tại... Khi chúng được "làm sạch", ai liên quan đến việc này thì không biết. Ông Alksnis chỉ cho là - dưới thời Khrushchev.

Và, thứ hai - theo ông Viktor, có một "âm mưu quân sự" trong Hồng quân, hay như người ta nói - "Âm mưu của Tukhachevsky", tất cả là như thế!


Rồi đến những năm 1990, Liên Xô sụp đổ... Người cha của Viktor Alksnis đã rất vất vả khi đất nước sụp đổ và ngày 17/7/1992, ông ấy qua đời ở tuổi 65 do một cơn đau tim.

Nhưng, như Alksnis nhớ, “... Một tháng trước, trong bữa trà tối tại Dacha với ông, bằng cách nào đó, chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện thẳng thắn về những gì đang xảy ra, và đột nhiên cha tôi nói: “Nếu Stalin còn sống, ông ấy đã không cho phép cái đám cặn bã này". Tôi bàng hoàng! Cha tôi, một người chống Stalin hăng hái, căm thù Stalin đến từng thớ thịt, căm thù Stalin dữ dội, bỗng nhiên hiểu ra và tha thứ cho ông ấy...".

Và rồi càng thêm tò mò. Năm 2000, ông Alksnis được bầu vào Duma Quốc gia và một yêu cầu xin phép xem lại hồ sơ vụ án hình sự của ông mình được chuyển cho Giám đốc FSB của Nga lúc đó là ông N.P. Patrushev.





Alksnis nhớ lại - "... Năm 2003, tôi một lần nữa được mời đến Lubyanka, hay đúng hơn, đến Kuznetsky Most, phòng đọc của FSB, và họ đưa cho tôi hồ sơ vụ án quen thuộc. Tôi bắt đầu lật các trang, kiểm tra hồ sơ của năm 1990, và bỗng nhiên hết sức bất ngờ, phát hiện ra rằng nó bị thiếu một số tài liệu quan trọng, ví dụ, báo cáo tình báo NKVD đề ngày 1932 đã bị mất, trong đó, tùy viên quân sự Latvia đã nói trong một cuộc nói chuyện riêng với đặc vụ của chúng tôi rằng Bộ Tổng tham mưu Latvia có người của riêng mình trong số các chỉ huy Hồng quân. Trong số những cái tên khác cũng có tên của ông tôi.

Vào năm 1990, tôi đã rất nghi ngờ về bản báo cáo này, vì không chắc ông tôi có thể là đặc vụ của Bộ Tổng tham mưu Latvia, theo lời bà tôi, ông ấy là một Bolshevik cứng rắn. Nhưng thực tế về sự biến mất của tài liệu này và một số tài liệu khác cho phép tôi kết luận rằng việc “làm sạch” các kho lưu trữ vẫn tiếp tục cho đến nay. Câu hỏi đặt ra: tại sao?...".

Và thực sự là tại sao? Các kho lưu trữ đã bị "làm sạch" dưới thời Khrushchev, dưới thời Gorbachev. Tỏ ra là họ tiếp tục "tẩy rửa" dưới thời Yeltsin. Để làm gì? Nếu có tài liệu, chứng tỏ là, "chống lại Stalin" - tại sao lại xóa bỏ chúng? Ngược lại, nó phải được bảo tồn! Đây này, hãy nhìn xem – tất cả mọi thứ được xác nhận!

Theo Alksnis, nhiều thập kỷ đã trôi qua kể từ những sự kiện đó, nhưng các kho lưu trữ vẫn đóng cửa.

Lời của Alksnis - "... Thay vì các tài liệu lưu trữ, chúng tôi buộc phải đọc Solzhenitsyn và những lời gièm pha Stalin khác. Vậy điều gì ngăn cản chúng tôi mở kho lưu trữ? Điều gì ngăn cản chúng tôi xuất bản bản ghi tốc ký phiên tòa xét xử Tukhachevsky?... ". Ông kết luận - "... Vậy là có điều gì đó phải che giấu!...".

Cuối cùng, đoạn dưới này là từ cuộc phỏng vấn với Viktor Imantovich Alksnis vào năm 2019:

"... Tôi nghĩ, có sự thất bại rõ ràng của hoạt động tuyên truyền chống chủ nghĩa Stalin, vốn đã được thực hiện đặc biệt tích cực trong 30 năm qua. Hàng tỷ đô la dồn vào hoạt động tuyên truyền chống chủ nghĩa Stalin này đã bay theo gió.... Tôi là người mà phần lớn cuộc đời là kẻ chống chủ nghĩa Stalin nhất. Ông tôi, người đứng đầu Lực lượng Không quân, chỉ huy cấp hai Yakov Alksnis bị bắn vào năm 1938, bà tôi, là thành viên trong gia đình của một kẻ phản bội quê hương, đã trải qua 15 năm trong trại cải tạo và lưu vong, cha tôi bị bỏ lại không cha mẹ khi 10 tuổi, bị đưa đến trại trẻ mồ côi, tôi gặp mẹ tôi chỉ 20 năm sau đó. Tôi được nuôi dưỡng bằng tuyên truyền chống Stalin trong gia đình tôi. Khi Gorbachev bắt đầu chính sách Glasnost, tôi đã đọc tất cả những tố giác này với sự phấn khích đến thế nào, tất cả mọi bài báo, những cuốn tiểu thuyết mới, và cứ như thế. Sau đó, dần dần, tôi bắt đầu nhận ra rằng có điều gì đó không đúng đắn....

Tôi hoàn toàn không theo chủ nghĩa Stalin và tôi không cố để bảo vệ ông ấy, nhưng tôi biết trong kho lưu trữ... thực sự có những tài liệu bác bỏ cách giải thích hiện tại về các sự kiện của thời Stalin.

... Tôi có thể nói rằng trong thời Yeltsin, các kho lưu trữ đã được dọn dẹp sạch sẽ, bởi vì vào năm 1990 tôi đã xem một trong những hồ sơ của ông tôi, và khi vào năm 2003, tôi truy cập lại vào hồ sơ của ông tôi, tôi đã không tìm thấy một số tài liệu trong đó. Ai cần xóa các tài liệu khỏi hồ sơ vào những năm 1990?...

Các kho lưu trữ không được mở không phải vì ai đó đang cố che giấu sự thật về tội ác của Stalin, mà vì tình hình lúc đó phức tạp hơn nhiều. Ngày nay, cố gắng đánh giá những con người và vấn đề của những năm xa cách đó là sai lầm.

Hôm nay tôi biết và tin chắc rằng có âm mưu của quân đội do Tukhachevsky đứng đầu, và thực sự là một cuộc đảo chính quân sự đang được chuẩn bị. Đúng vậy, việc loại bỏ Stalin và những người xung quanh ông ấy khỏi quyền lực đang được chuẩn bị...

... Vào những năm 1930, có sự chống đối... có những kẻ trải qua cuộc nội chiến mà không sợ phải đổ máu của chính mình hay của kẻ khác. Ở đó, tình hình thực sự là một cuộc tranh giành quyền lực, bao gồm cả phe đối lập mạnh mẽ nhất với Stalin, quyền lực thực sự có thể chuyển sang tay Trotsky. Vào những năm 1980, tôi đã nói chuyện với một cựu tay súng người Latvia còn sống sót, không chết, anh ta nói rằng vào những năm 1930, người Latvia, những người rất đông trong Hồng quân và trong NKVD, họ ủng hộ Trotsky, bởi vì Stalin nắm lấy khái niệm xây dựng CNXH ở một quốc gia duy nhất, từ bỏ cuộc cách mạng thế giới, còn người Latvia, những người cộng sản ở Liên Xô - họ muốn khôi phục quyền lực của Liên Xô ở Latvia, và Trotsky đã ủng hộ điều này...

... Nếu nhìn vào tầng lớp ưu tú của chủ nghĩa Stalin xuất hiện vào đầu chiến tranh, các Ủy viên nhân dân nổi tiếng của Stalin, những người mà so với các nhà quản lý hiệu quả ngày nay, tất nhiên, là những thiên tài sản xuất vào thời điểm đó, đã đảm bảo rằng vào năm 1943 chúng ta đã vượt qua kỹ thuật quân sự của Đức Quốc xã, mà có cả châu Âu đều làm việc cho Đức. Đây là thành tựu của Stalin.

Đúng, tôi còn xa mới nghĩ rằng mọi thứ đều ổn và tốt đẹp với ông ấy. Stalin có tội, trong số những điều khác, là thất bại 1941-42, khi chúng tôi bị tổn thất khủng khiếp, hàng triệu binh sĩ của chúng tôi bị bắt làm tù binh.

Đúng, chúng tôi đã không sẵn sàng, nhưng đó không phải là lỗi của Stalin, mà là sự bất hạnh của Stalin. Vài năm không đủ để ông thực hiện việc tái trang bị công nghiệp, hoàn thành công nghiệp hóa và chuẩn bị cho quân đội.

Nói chung, Stalin đóng một vai trò rất quan trọng. Không cần biết ngày nay họ có chửi rủa ông ấy như thế nào, nhưng ngày nay chúng ta đang sống trên cơ nghiệp của ông ấy. Chúng ta đã sống ngần ấy năm ở nước Nga thời hậu Xô Viết, ở nước Nga thời hậu Stalin, tất cả mọi thứ chúng ta có được đều nhờ Stalin và những người của ông ấy xây dựng nên nhờ các chính sách của ông ấy...".

Đây cũng là câu trả lời - Tại sao Viktor Imantovich Alksnis, một người được nuôi dưỡng chống chủ nghĩa Stalin hăng hái, nhưng sau khi tiếp cận các tài liệu và nghiên cứu chúng, ông ấy đã thay đổi quan điểm của mình.

Không, ông ấy không theo chủ nghĩa Stalin, ông ấy chỉ đơn giản tuyên bố rằng mọi thứ phức tạp hơn nhiều và chắc chắn có những dấu hiệu khác với những gì chúng ta đã được kể trong nhiều năm. Và đó là một âm mưu vũ trang, và còn là những lời than vãn: "Stalin đã tiêu diệt những tinh hoa của lực lượng vũ trang trước chiến tranh!" – nó không đáng một quả trứng thối.

Những kẻ âm mưu trong lịch sử của bất cứ quốc gia nào cũng luôn bị xử lý cứng rắn và nghiêm khắc.




Tiết lộ của một nhà ngoại giao Mỹ về Stalin và Liên Xô!

Joseph Davies: Nếu không loại bỏ Đạo quân thứ 5, Liên Xô đã phải chịu thất bại tan nát trước Hitler;
Joseph Davies và J. Stalin

Có bài viết này ở đây, vào lúc này là do các sự kiện đang xảy ra ở châu Âu làm gợi nhớ lại mốt quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô vào thời điểm trước và sau Thế chiến 2.
Cũng có một cuốn sách của 2 người Mỹ về Liên Xô, các ông Michael Sayers và Albert Kahn và thật ra, tiểu sử và dòng họ của 2 người này cũng khá thú vị, còn cuốn sách của họ có tên: "Cuộc chiến bí mật chống lại nước Nga Xô Viết", hay cái tên tiếng Anh: “The Great Conspiracy. The Secret War Against Soviet Russia”.
Nhà ngoại giao người Mỹ Joseph Davies có cuốn sách khác: "Sứ mệnh tới Mátxcơva” (Mission to Moscow | download). Tác giả của cuốn sách, người mà vào các năm 1936-38 là Đại sứ tại Liên Xô. Cuốn sách "Mission to Moscow" của Davies được xuất bản ở Mỹ cách đây đúng 80 năm, vào năm 1942.
Cụm từ “Soviet Russia” trong cuốn sách thậm chí còn là rất khác thường tận ngày nay. Cái lên Liên Xô, hay Xô Viết chung chung phổ biến hơn. Tại sao vậy, có lẽ cần giải thích ở một bài khác.
Cuốn sách gồm lời tựa của tác giả và chín phần: 1. Bắt đầu Sứ mệnh; 2. Washington và các nước phương Đông; 3. Thanh trừng trong Hồng quân; 4. Nước Nga qua con mắt các láng giềng; 5. Thanh trừng nhằm vào Bukharin; 6. Mátxcơva nghe tiếng trống trận; 7. Đỉnh cao nhiệm vụ; 8. Tóm tắt các sự kiện; 9. Thành quả của nhiệm vụ. Cuốn sách kết thúc với phần phụ lục mở rộng do chính J. Davies biên soạn và chứa đựng nội dung các văn bản, tài liệu tham khảo, các báo cáo quan trọng của đại sứ.

Joseph Davies sinh năm 1876. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách luật sư. Đầu những năm 1930, ông đã nổi tiếng trong Đảng Dân chủ khi đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công chiến dịch tranh cử tổng thống của Woodrow Wilson. Sau đó, Davies bắt đầu được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Năm 1913-1915, là ủy viên chính phủ phụ trách giám sát các tập đoàn; các năm 1915-1918 là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, ông là cố vấn kinh tế của Tổng thống Wilson. Sau Thế chiến 1, Davies trở lại với nghề luật một lần nữa.
Davies đã làm quen với Franklin Roosevelt năm 1933, và Roosevelt trở thành chủ nhân của Nhà Trắng (nhiệm kỳ 1933-45), Roosevelt đã tham khảo ý kiến của Davies về nhiều vấn đề. Cũng năm 1933, Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Liên Xô là William Bullitt. Quan hệ của Bullitt với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác là bình thường, nhưng thông tin về Liên Xô mà Bullitt gửi về Washington lại khá tiêu cực. Còn TT Roosevelt có mong muốn xích lại gần hơn với Liên Xô, đặc biệt là khi Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Và Roosevelt quyết định bổ nhiệm Davies làm đại sứ tại Matxcova, mặc dù lúc đó không có kinh nghiệm về ngoại giao.
Được bổ nhiệm làm đại sứ vào tháng 8 năm 1936, J. Davies đã góp phần hoàn tất các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại giữa Liên Xô và Mỹ. Gần hai năm Davies ở Liên Xô đã khiến ông tin tưởng chắc rằng chính phủ Anh và Pháp đã mắc sai lầm lớn khi xoa dịu Hitler và cố gắng cô lập Liên Xô. Đồng thời, Davies thấy Stalin đã tỉnh táo trong việc đánh giá tình hình thế giới, chuẩn bị cho một cuộc đối đầu gần như không thể tránh khỏi với Hitler. Trong cuốn sách, Davies trình bày chi tiết về sự chuẩn bị này.
- Thứ nhất, phát triển nhanh chóng của công nghiệp (công nghiệp hóa 10 năm trước Thế chiến 2).
- Thứ hai, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Liên Xô (huấn luyện quân sự, tăng số lượng biên chế, nâng cao chất lượng vũ khí và trang thiết bị quân sự).
- Thứ ba, thanh lọc Đạo quân thứ 5 (trong bộ máy quản lý nhà nước, lực lượng vũ trang, trong nền kinh tế quốc dân).

Davies đặc biệt chú ý đến tuyến thứ ba “thanh lọc Đạo quân thứ 5” trong quá trình chuẩn bị chiến tranh của Stalin. Đại sứ Mỹ đã có mặt tại hầu hết các phiên tòa ở Mátxcơva năm 1937-38. Là một luật sư có kinh nghiệm dày dặn, Davies ghi nhận tính không hoàn hảo của các phiên tòa ở Mátxcơva và xác nhận tội trạng của các bị cáo. Trong cuốn sách, Davies tường thuật nhiều sắc thái thú vị liên quan đến những bị cáo trong các phiên tòa như Nikolai Bukharin, Mikhail Tomsky, Grigory Zinoviev, Alexei Rykov, Lev Kamenev, Yuri Pyatakov, Christian Rakovsky, Nikolai Krestinsky, Arkady Rozengolts, Grigory Grinko, Grigory Sokolnikov, Karl Radek và những kẻ khác. Ông quan tâm nhiều đến "phe đối lập ngầm" trong Lực lượng vũ trang Liên Xô. Nhân vật chính ở đây là Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky. Các nhân vật khác của đội quân ngầm: V. Putna, I. Yakir, I. Uborevich, R. Eideman, A. Kork, B. Feldman, V. Primakov. Adolf Hitler, vào trước chiến tranh đã tạo ra đạo quân thứ 5 ở tất cả các nước châu Âu và sử dụng chúng để tìm cách chinh phục những nước này một cách nhanh chóng, đôi khi không cần bắn một phát súng nào. Liên Xô cũng có đạo quân thứ 5 như vậy. Nhưng sau vụ ám sát M. Kirov năm 1934, Stalin bắt đầu công cuộc thanh lọc có hệ thống, đến cuối năm 1938 thì cơ bản hoàn thành.
Davies liên tục lặp lại rằng nếu không loại bỏ đạo quân thứ 5, Liên Xô sẽ phải chịu thất bại nặng nề trước Hitler.
Davies viết về những quan sát của mình với các sự kiện diễn ra ở Liên Xô không chỉ trong nhật ký mà còn trong các thông điệp do Ngoại trưởng Cordell Hull gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Một số thông điệp đã được gửi đến F. Roosevelt. Vào mùa hè năm 1938, Davies được triệu hồi từ Mátxcơva và bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bỉ và Đặc phái viên tại Luxembourg, và vào tháng 1 năm 1940, ông làm Trợ lý Đặc biệt cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Sự nghiệp ngoại giao của Davies chấm dứt vào tháng 11 năm 1940, theo nguyện vọng, ông được cho thôi việc tại Bộ Ngoại giao. Năm 1941, Davies được đặt vào vị trí lãnh đạo Ủy ban của Tổng thống nhằm thống nhất các hoạt động của tất cả các tổ chức về vấn đề hỗ trợ đồng minh trong chiến tranh.
Thật khó để không đánh giá rất cao vai trò của Davies trong việc đưa Mỹ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn trước và sau Thế chiến 2 cũng như thời kỳ cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bùng nổ. Davies đã thuyết phục được cả Cordell Hull và Franklin Roosevelt rằng Liên Xô không những không phải là kẻ thù của Mỹ mà ngược lại, có thể và nên trở thành đồng minh chính của Mỹ trong chiến tranh thế giới. Dựa trên kiến thức sâu rộng của mình về Liên Xô, cựu đại sứ Davies, chỉ 2 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố rằng: "Thế giới sẽ ngạc nhiên về quy mô của cuộc kháng chiến mà Nga sẽ tiến hành”. Ở Mỹ, có rất nhiều giới ủng hộ Hitler một cách công khai và bí mật, cũng như giới chống Liên Xô công khai và bí mật. Davies không ngần ngại gọi giới này là Đạo quân thứ năm (fifth column) của nước Mỹ. Ông nói rằng: "Chính phủ Xô Viết không tìm cách áp đặt ý chí của họ lên các dân tộc khác mà chỉ chống lại Hitler và những kẻ muốn nô dịch nhân loại". Davies đã phát biểu trên báo chí, trên đài phát thanh, tại nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi người Mỹ từ bỏ thành kiến với Liên Xô và cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô. Ông kiên quyết yêu cầu mở mặt trận thứ hai. Sau đó, ông trở thành thành viên của phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Potsdam năm 1945 (với cấp bậc đại sứ).
Davies đã có hai cuộc gặp gỡ với Stalin. Cuộc gặp đầu tiên diễn ra vào đêm trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ đại sứ tại Mátxcơva vào tháng 6 năm 1938. Nhà ngoại giao Mỹ kể chi tiết cuộc trò chuyện của ông với Stalin trong một báo cáo gửi cho Ngoại trưởng Mỹ. Báo cáo này đã được giải mật và đưa vào phần bổ sung của cuốn sách. Cuộc gặp thứ hai, diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đó là một chuyến của Davies đến Mátxcơva, mang theo theo một thông điệp đặc biệt từ Roosevelt gửi đến IV Stalin.
Vào cuối mùa xuân năm 1943, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ bị nguội lạnh. Nguyên nhân là do phương Tây trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai chống phát-xít. J. Davies đã thảo luận vấn đề này với Roosevelt, và tổng thống đã giao cho ông đứng đầu với nhiệm vụ mới, gặp Stalin và thuyết phục rằng Mỹ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy của Liên Xô và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ sau chiến tranh. Davies mang đã chuyển về một thông điệp riêng cho Roosevelt (Bản dịch thư của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Stalin với các Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Văn bản số 83 ngày 5 tháng 5 năm 1943). Nhưng sức thuyết phục chính để Mỹ duy trì các mối quan hệ đồng minh thậm chí không phải là thông điệp dành cho Roosevelt, mà là bộ phim mà Davies, cùng với tổng thống Mỹ, đã tặng cho Stalin.
Bộ phim này có cũng tên với cuốn sách của ông, "Mission to Moscow". Bộ phim ra đời một năm sau cuốn sách. Đó là một dự án được TT Roosevelt ủng hộ. Phim thuộc thể loại nửa hư cấu, nửa tài liệu. Hầu hết phần tài liệu là những gì liên quan đến công việc của đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cũng như ông Davies. Ở Mỹ, bộ phim đã được hàng triệu người Mỹ theo dõi, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố thiện cảm của "tầng lớp thống nhất Mỹ" dành cho nước Nga Xô Viết. Nói không quá, nếu không có bộ phim này, Mặt trận thứ hai chống phát-xít ở phương Tây có lẽ đã không được mở ra sau này.
Gửi bộ phim, Roosevelt đã rất hy vọng rằng Stalin sau khi xem phim có thể cảm thấy “tâm trạng thân Mỹ”. Stalin ngay lập tức đã xem bộ phim và quả thực rất ấn tượng. Davies viết cho Harry Warner: "Nguyên soái Stalin và tất cả những người có mặt tại buổi chiếu đều đánh giá cao những hình ảnh". Năm 1943, bộ phim được phát hành cho hệ thống phân phối phim của Liên Xô và cũng rất được khán giả Liên Xô yêu thích. Bộ phim "Mission to Moscow" đặc biệt thành công bên ngoài Mỹ, ở Liên Xô ở Anh và Trung Quốc.
Ngay sau khi bộ phim được phát hành tại Mỹ, một bản sao của nó cũng đã được đưa đến boongke của Hitler. Trùm tuyên truyền quốc xã Goebbels đã viết một mục về điều này trong nhật ký của mình vào tháng 5 năm 1943. Hắn ta cũng nhận được thông tin về chuyến đi của Davies đến Mátxcơva, và đã gọi ông Davies là "cái phòng khách của Bolshevik", một loại người "nguy hiểm" và ra lệnh cho báo chí Đức tuyên truyền tẩy chay cuốn sách và tác giả của nó.
Sau Thế chiến 2, ông Davies tiếp tục làm việc để duy trì mối quan hệ Xô-Mỹ, mối quan hệ mà khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, Washington bắt đầu có chủ ý làm sụp đổ. Davies là một trong những người tổ chức và là chủ tịch danh dự của Hội đồng quốc gia về tình hữu nghị Mỹ-Xô. Trong một bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng: "Trong số tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, sẽ không có ai trung thành, kiên định hơn trong việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình vĩnh viễn hơn là nhân dân Liên Xô”. Cho đến cuối đời (ông mất ngày 9 tháng 5 năm 1958), J. Davies, bất chấp các cuộc tấn công liên tục từ giới chống Liên Xô thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, vẫn là một người bạn thực sự của đất nước Liên Xô.
PS: bên trên có cụm từ "tầng lớp thống nhất Mỹ". Cần giải thích thêm là nước Mỹ nhiều phe phái, ngay cả giới chính trị gia cũng có nhiều đường lối, quan điểm khác nhau. Do đó, không có sự thống nhất như một tầng lớp. Vì thế mà đặt cụm từ này trong ngoặc kép. Vấn đề là Stalin, nếu như không tận dụng được sự ủng hộ của giới chính khách mà Roosevelt là đại diện, nếu như coi nước Mỹ là đối thủ, là kẻ thù, thì cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sẽ khó khăn, ác liệt hơn nhiều. Chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, trong đó cây giáo dài hơn, súng đạn nhiều hơn là thiệt hại, tổn thất ít hơn, là cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Hình ảnh bên dưới là một minh chứng cho điều này. Quan điểm của Truman, TT kế nhiệm đã rất khác. Đó là sự trục lợi, là chủ nghĩa cơ hội. Về phía mình, Liên Xô nhận được 1 khẩu súng trong Lend-lease cũng đã bớt đi 1 khẩu cho phát-xít. Súng có lởm, nhưng giá trị là gấp đôi.
Cũng cần nói thêm rằng, KKE gây chiến ở Hy Lạp và giấc mộng Đại Nam tư của Tito cũng là một phần nguyên nhân của Chiến tranh lạnh.

Truman: "Nếu chúng ta thấy Đức đang thắng thì chúng ta phải
giúp Nga và nếu Nga đang thắng thì chúng ta phải giúp Đức và
đấy là cách để họ giết nhau nhiều nhất có thể,..."


Chính sách nhà nước của Stalin những năm 1920-1930

 Chính sách nhà nước của Stalin và giải pháp cho "câu hỏi Nga" của Liên Xô trong những năm 1920-1930.

Nga, Rus - bất cứ nơi nào tôi qua ...

Vì tất cả những đau khổ và trận chiến

Tôi yêu Người, nước Nga, sự cổ kính

Những khu rừng, nghĩa trang và lời cầu nguyện,

Tôi yêu những túp lều và những bông hoa,

Và bầu trời, nắng hè oi ả,

lời thì thầm của rặng liễu đứng bên bờ,

Tôi yêu mãi, cho đến khi vĩnh hằng yên nghỉ...

N. Rubtsov

Sự ra đời của một nhà nước về cơ bản là đa quốc gia kiểu mới - Liên bang Xô viết, đã trở thành một dấu mốc quan trọng không chỉ đối với nước Nga mà còn đối với lịch sử thế giới. Nhưng thời gian trôi qua, rõ ràng là việc thành lập Liên Xô vào năm 1922 đã không giải quyết được tất cả các vấn đề dân tộc ở nhà nước Xô Viết. Không thể khắc phục được chúng với việc thông qua Hiến pháp năm 1924.

Câu hỏi "ngữ hệ Tuyếc" rất gay gắt. Ngay cả trong khi thảo luận về các cách thức thành lập Liên Xô, chủ nghĩa dân tộc đã bộc lộ rõ ​​nét trong giới lãnh đạo của một số nước cộng hòa "Hồi giáo". Do đó, một nhân vật dân ủy nổi bật, Sultan-Galiev đã đòi nâng tầm tự trị của các cộng hòa liên minh lên ngang hàng với Nga. Tranh luận đã diễn ra, trước hết, là về CH XHCN Xô viết tự trị Turkestan, bao gồm trong nó lãnh thổ của Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan và Turkmenistan. Sau đó, ông ta đưa ra kế hoạch thành lập 4 nước cộng hòa trên lãnh thổ Nga, trên thực tế, chúng mang đặc điểm Pan-Turkic: liên bang các nước cộng hòa Ural-Volga, liên bang All-Caucasian, cộng hòa Kazakhstan và... cái gọi là cộng hòa Turan bao gồm 4 nước Trung Á. Năm 1923, một cuộc họp đặc biệt của BCHTƯ với các quan chức cấp cao của các nước cộng hòa dân tộc chỉ trích lập trường của Sultan-Galiyev. Nhưng ngay cả sau này, vào cuối thời kỳ NEP, một số quan chức Tatar và Crimea vẫn bị kết tội có liên hệ với phong trào Pan- Turkic và Thổ Nhĩ Kỳ.

Có sự căng thẳng liên tục diễn ra trong kế hoạch bảo toàn nhà nước liên minh ở Ukraine. Ở đây trong những năm 20, giới gọi là "ukapists" – là các đảng viên Cộng sản Ukraine một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản khác đã hoạt động. Không phải mọi thứ diễn ra suôn sẻ trong chính sách mà giới chức chính thức của Ukraine thuộc Liên Xô theo đuổi. Cũng có sự thái quá của quần chúng liên quan đến cái gọi là "Ukraine hóa". Nguồn gốc của nó là từ những nhân vật Ukraine như nhà văn và nhà thơ Mykola Khvylevoy, Mikhail Volobuev, ủy viên BCHTƯ Ukraine Oleksandr Shumsky. Hệ tư tưởng của họ dựa trên quan niệm lịch sử của M. S. Grushevsky, một lãnh đạo tư sản Rada UkraineÔng ta là nhà sử học trốn sang Áo quay trở về Liên Xô năm 1924 rồi được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Ukraine, và năm 1929 - Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Sự khởi đầu của chính sách "Ukraine hóa" thực tế diễn ra vào năm 1925. Một số bài báo của Khvylovy đã đóng vai trò như tín hiệu ép buộc. Đề cập đến các quyết định của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Nga, ông ta nhấn mạnh vào "Korenizatsia” - một chiến dịch chính trị và văn hóa nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa chính quyền trung ương, các nước cộng hòa và điều chỉnh bộ máy nhà nước. Trên thực tế, cũng có nghĩa là cuộc di cư hàng loạt của hàng nghìn chuyên gia có trình độ, biết chữ, mà Nga là quê hương ngôn ngữ của họ. Không giới hạn bản thân điều này, Khvylovy nhấn mạnh rằng không thể "tập trung hóa" nếu không có quá trình Ukraine hóa các thành phố nói chung. Ông ta lập luận rằng chỉ có "tiểu thị dân Nga, kẻ có gan ngồi lên việc Ukraine hóa này... là kẻ “nghiến răng” nghiên cứu “ngôn ngữ của chónày? Là kẻ hét lên Matxcơva: "Cứu tôi với!". Trong khi đó 90% dân số thành thị của Ukraine vào thời điểm đó là người Nga. Cả hệ thống y tế, giáo dục, kinh tế đô thị, văn hóa và khoa học, và cuối cùng là - công nghiệp đã hỗ trợ họ."

Các kế hoạch trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Ukraine thậm chí còn đi xa hơn. Họ nhắm vào trung tâm của sự thống nhất Nga-Ukraine - là nền văn hóa chung của hai dân tộc Slavic có mối quan hệ chính thống. Khéo léo bắt chước môi trường chính trị lúc bấy giờ và khéo léo tung hứng vốn từ vựng chủ nghĩa Marx, Khvylovy ngoan cố tuyên truyền ý tưởng của mình: “Không nên nhầm lẫn liên minh chính trị của chúng ta với Nga và văn học”. Ông ta kích động, “người Ba Lan sẽ không bao giờ Mickiewicz (nhà thơ) nếu họ không chấm dứt tập trung vào nghệ thuật Nga. Thực tế là văn học Nga đã đè nặng lên chúng ta trong nhiều thế kỷ như vị thế ông chủ, làm chúng ta quen với tâm lý bắt chước của nô lệ... Ý tưởng giai cấp vô sản chúng ta đã được biến đến ngay cả khi không có nghệ thuật ở Matxcova. Hãy cho chúng tôi suy nghĩ của riêng mình! Hãy rời bỏ Matxcova! "

Một phần cán bộ của BCHTƯ Ukraine, do Shumsky đứng đầu, không chỉ ủng hộ chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa mà còn liên tục yêu cầu lãnh đạo chính phủ đẩy mạnh chính sách cưỡng bức Ukraine hóa. Không phải ở đâu, mà ở cơ quan trung ương, BCHTƯ Đảng Ukraine, tạp chí "Bolshevik Ukraine" năm 1928 – đăng bài báo của nhà kinh tế M. Volobuev "Về các vấn đề của nền kinh tế Ukraine". Trong đó lập luận rằng chế độ Tsarism ở Ukraine, theo đuổi chính sách thuộc địa, cướp đi các nguồn lực kinh tế của họ. Còn hiện nay, dưới quyền lực của Liên Xô - vị tác giả lập luận, Ukraine nên phát triển trong ranh giới nền kinh tế quốc gia độc lập một cách tự nhiên của mình. Từ những giả định lý thuyết này, các kết luận chính trị cũng được rút ra: theo M. Volobuev, kế hoạch "phân vùng kinh tế Liên Xô" do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước liên minh xây dựng theo đề án và với sự tham gia của các chuyên gia Nga Sa hoàng đế quốc cũ - hoàn toàn không quan tâm đến lợi ích nền kinh tế quốc gia các "thuộc địa cũ của Nga".

Rất nhanh chóng, quan điểm của Shumsky được phần lớn giới cộng sản miền Tây Ukraine ủng hộ, họ tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Ba Lan và hoàn toàn có thiện cảm với Trotsky. Chính Trotsky là kẻ ủng hộ quyết liệt việc Ukraine ly khai. Trong Bản tin phản đối do ông ta xuất bản ở nước ngoài đã đăng một số bài về vấn đề này. Một trong số đó, Trotsky viết: Nhưng nền độc lập của một nước Ukraine thống nhất đồng nghĩa với việc tách Ukraine Xô viết ra khỏi Liên Xô, “những người bạn” của Điện Kremlin đồng thanh thốt lên. - Có gì ghê gớm ở đây? - chúng tôi phản đối, về phần mình. Sự kính sợ thần thánh trước các biên giới nhà nước là xa lạ đối với chúng tôi. Chúng tôi không đứng trên lập trường của “khối thống nhất và không thể chia cắt”. Cần phải nói thêm rằng Trotsky đã phát triển và bảo vệ những quan điểm này của mình trong thời kỳ đó.

Như trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, xương sống của phong trào ly khai Ukraine là ở sự hỗ trợ từ Đức, quốc gia này quan tâm đến việc chia cắt đất nước Nga. Sau hiệp ước Munich và trên thực tế Tiệp Khắc bị giải thể, một tổ chức bù nhìn đã xuất hiện – là cộng hòa Carpathian Ukraine độc lập. Sự xuất hiện của nó đã tạo tiền đề cho tất cả những ý tưởng thiết lập một "Ukraine vĩ đại" thông qua việc chia cắt Cộng hòa XHCN Xô viết Ukraine ra khỏi Liên Xô. Với sự tán đồng thực tế của những kế hoạch sâu rộng này, Trotsky và phe ông ta ở Liên Xô đã lên tiếng ngay trước khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, họ giải thích điều này là bởi sự thất vọng của những người lao động Ukraine trong "điện Kremlin". Có đáng để nói thêm rằng trong các bài viết của ông ta về chủ đề này, Trotsky đã không đưa ra bất kỳ câu trả lời nào về những gì sẽ xảy ra đối với người Nga, những người chiếm 30% đến 40% ở Ukraine? Và điều này bất chấp cả thực tế là ông ta nhận thức rõ ràng rằng, giai cấp tư sản theo chủ nghĩa dân tộc sẽ tận dụng thành quả của phong trào vì "Ukraine vĩ đại", và nhà nước Ukraine mới rất có thể sẽ là phiên bản thứ hai của một nước Ba Lan độc lập, nơi một trong những các chế độ phát xít ở Châu Âu được thiết lập sớm nhất - Chế độ độc tài của Pilsudski ...

Như vậy, chúng ta thấy rằng tất cả những vấn đề tồn tại ở thời điểm đó, bằng cách này hay cách khác, đều dẫn đến câu hỏi chưa được giải đáp của Nga. Đối với giới sử học trước đây, khái niệm như vậy không tồn tại. Cùng với điều đó, người dân Nga cảm thấy sự bất công sâu sắc đối với chính họ. Cơ sở để theo đuổi chính sách này nằm ở lý thuyết đáng ngờ từ mọi quan điểm về "thực dân-nhân dân", được tuyên là Nga. Theo "lý thuyết" này, người Nga phải trả giá cho sự áp bức các dân tộc bản địa bởi chủ nghĩa Tsarism.

Một bước ngoặt trong cách tiếp cận giải pháp cho câu hỏi Nga chỉ được lên kế hoạch vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Vào thời điểm đó, đất nước đang chuyển sang giai đoạn hiện đại hóa một cách bắt buộc, khi mối đe dọa từ bên ngoài ngày càng gia tăng. Trong hoàn cảnh như vậy, nếu không đánh thức tiềm năng sáng tạo của dân tộc lớn nhất Liên Xô để phát triển, thì sự tồn tại của chính nhà nước Liên Xô trở thành điều không tưởng.

Bước ngoặt đặc biệt bắt nguồn từ việc thành lập Liên đoàn Nhà văn Liên Xô. Đại hội thành lập được tổ chức từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1934 tại Mátxcơva. N. Bukharin thay mặt ban lãnh đạo Đảng đọc báo cáo. Nội dung phát biểu của ông ta được Stalin kiểm soát cẩn thận. Do đó, các điều khoản, các vấn đề đưa ra trong đó có thể được coi là sự thay đổi định hướng của Đảng. Bukharin bắt đầu bài phát biểu của mình bằng cách tuyên bố rằng ban lãnh đạo đảng hiểu thơ ca là một trong những bộ phận quan trọng nhất của mặt trận tư tưởng và chủ đề báo cáo của ông ta về sáng tác thơ ca ở Liên Xô. Nhưng khi bắt đầu trình bày những câu hỏi cụ thể về sự phát triển của thơ ca, Bukharin đã đưa ra một điều kiện cơ bản

"Tôi cần nói trước - tôi không thể đưa ra một bức tranh toàn cảnh... về sự sáng tác thơ ca của đất nước chúng ta nói chung. Tôi không xem xét ở đây những nền văn học dân tộc lớn đang phát triển của chúng ta, thơ ca của chúng ta bằng ngôn ngữ dân tộc. Tôi chỉ xem xét thơ Nga."

Còn sau đó, tất nhiên Bukharin đã nhiều lần rào đón rằng ông ta không coi thường thơ dân tộc, rằng ông ta không nói về nó chỉ vì ông không biết thổ ngữ. Trong những lời xin lỗi nồng nàn của mình, ông ta thậm chí còn hứa sẽ học tiếng Uzbek và Tajik. Nhưng thực tế vẫn là: diễn giả chính thức của giới lãnh đạo đất nước đã dành bài phát biểu của mình cho thơ Nga. Nó bao gồm các trích dẫn từ Gumilyov, Blok, Yesenin, Bryusov. Tổng hợp những kết quả trái ngược nhau của Đại hội Nhà văn toàn Liên hiệp lần thứ nhất, chúng ta có thể nói rằng đang có sự kiên quyết hướng tới sự hồi sinh các quy luật cổ điển của nghệ thuật Nga.

Chính sách xã hội cũng đã có những thay đổi. Kể từ năm 1931, sự truy nã các chuyên gia không thuộc Đảng đã bị hạn chế bằng một quyết định bí mật. Kể từ đây, theo lời của Stalin, bắt đầu được thực hiện một "chính sách thu hút và chăm sóc" các nhân viên kỹ thuậtNgày 27 tháng 5 năm 1934, công bố lệnh ân xá và khôi phục một phần các quyền của "kulaks" trước đây. Vào giữa những năm 30, bãi bỏ những hạn chế xã hội trong lĩnh vực giáo dục đối với những người thuộc giai cấp thống trị cũ. Các luật khôi phục quyền thừa kế và quyền sở hữu tài sản theo di chúc được thông qua. Tất cả điều những này cũng có nghĩa là những thay đổi quan trọng trong giải pháp cho câu hỏi dân tộc, vì giới trí thức không theo đảng, giai cấp nông dân và các tầng lớp khác được nhận quyền chính trị mới tạo và tạo thành nền tảng của các đại diện cho dân tộc Nga.

Nhiều bước đi khác cũng đã được thực hiện trong việc giải quyết "câu hỏi Nga". Nghị quyết BCHTƯ ngày 20 tháng 4 năm 1936 là một như thế, Nghị quyết này bãi bỏ các hạn chế người Cossacks phục vụ trong Hồng quân. Sau đó, một lệnh của Bộ Quốc phòng do K. Voroshilov ban hành về các đơn vị Cossack chuyên nghiệp và theo lãnh thổ. Một số đặc quyền trước đây của người Cossacks cũng được khôi phục, bao gồm cả đồng phục Cossack. Tháng 9 năm 1935, báo chí Liên Xô đăng một sắc lệnh của chính phủ về việc khôi phục hệ thống cấp bậc quân hàm trước đây trong Hồng quân.

Song song với các quá trình này, một số trật tự và thể chế của Nga trước đây đã có sự khôi phục. Đạo đức truyền thống Nga có sự phục hồi dần dần, quyền của chủ nghĩa yêu nước Nga xuất hiện trở lại. Chương trình giảng dạy đang được điều chỉnh nghiêm túc, trong đó, sau hơn một thập kỷ che đậy quá khứ lịch sử của đất nước, việc nghiên cứu Lịch sử yêu nước quay trở lại. Cái gọi là "trường học Pokrovsky" bị chỉ trích gay gắt vì mang tính chất bài Nga trong việc trình bày các sự kiện trong quá khứ. Khái niệm lịch sử của Grushevsky, chia rẽ người dân Nga và Ukraine bị chỉ trích nặng nề. Mặt khác, sau nhiều thập kỷ bị đàn áp, các nhà sử học-nhà nước được phục hồi quyền của họ: Gauthier, Tarle, Platonov. Các tác phẩm văn học khắc họa người dân Nga và quá khứ của họ một cách thiếu tôn trọng đã bị phê phán một cách công bằng.

Các thay đổi cũng diễn ra ở cấp độ hộ gia đình. Theo nhà triết học di cư người Nga G. Fedotov, điều này được thể hiện ở việc cấm phá thai, thiết lập tôn ti trật tự gia đình và quy tắc đạo đức mới, dựa trên cơ sở là nền nếp và tuân thủ các chuẩn mực xã hội quy định. Theo đó, bản chất của cộng đồng mà một công dân Liên Xô phải xác định chính mình, cũng thay đổi. Nếu trước đây cộng đồng như vậy là giai cấp công nhân hay đảng, thì bây giờ là “dân tộc, quê hương, tổ quốcđược tuyên bố là thiêng liêng.


Trong bài này, bài chỉ dành cho những người quan sát không chú ý rằng, việc định hướng lại chính trị nhà nước trong văn bản Hiến pháp Liên Xô mới năm 1936 đã gây bất ngờ. Tất nhiên, người ta không thể nói rằng bước ngoặt này là không thể đảo ngược và đột ngột. Bản chất chủ nghĩa quốc tế của Liên Xô vẫn không thay đổi. Không có sự bác bỏ các biểu tượng hoặc thuật ngữ của thời kỳ Xô Viết. Biểu tượng con đại bàng hai đầu đã không quay trở lại chỗ quen thuộc trên những ngọn tháp của chúng Điện Kremlin. Lợi ích của tất cả các dân tộc Liên Xô đều được tính đến như trước đây. Nhưng điều mới mẻ chính là lợi ích của tất cả các dân tộc đã được tính đến trên thực tế - tức là gồm cả người Nga. Và trên hết, bản năng nhà nước của dân tộc Nga xây dựng đất nước đã được tính đến. Hiến pháp của Liên bang Xô Viết năm 1936, trước hết, là Hiến pháp của một quốc gia duy nhất.

Vì một lý do nào đó, khoa học lịch sử tồn tại ở Liên Xô, và ngay cả các nhà khoa học ở phương Tây, đã bỏ qua thực tế không bình thường nàyĐó là nói về thực tế thông qua "Hiến pháp Stalin", bản chất của liên bang đã âm thầm thay đổi. Nếu trước đó Liên bang Xô Viết trên thực tế, là Hiệp ước, thì bây giờ nó đã trở thành Lập hiến. Trong Hiến pháp cũ của Liên Xô năm 1924, văn bản bắt đầu bằng tuyên bố về việc thành lập Liên Xô và Hiệp ước Liên minh. Văn bản của "Hiến pháp Stalin" không còn tham chiếu đến tài liệu này. Như vậy, chúng đã mất đi quyền lực của mình. Liên Xô trở thành một quốc gia duy nhất.

Theo Hiến pháp mới 1936, cấu trúc nhà nước cũng thay đổi. Thay vì Đại hội toàn thể Xô viết, là lưỡng viện Ủy ban chấp hành TƯ Xô viết và Đoàn Chủ tịch của nó. Hiến pháp mới quy định thành lập Xô viết tối cao và Đoàn chủ tịch của Xô viết tối cao. Nếu như trước đây các cơ quan cao nhất được thành lập theo cơ chế ủy quyền thì nay các cơ quan này được bầu ra trên cơ sở đầu phiếu, bình đẳng, bỏ phiếu kín trực tiếp. Do đó, các cơ quan quyền lực cao nhất không còn bị kìm hãm bởi giới chức cầm quyền địa phương và có thể phản ánh lợi ích quốc gia. Quyền lực cũng được phân phối theo một cách mới giữa trung tâm liên minh và các nước cộng hòa.

Đồng thời, Hiến pháp năm 1936 đã không trở thành bước cuối cùng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Liên Xô. Không nghi ngờ gì, Hiến pháp mới đã củng cố sự thống nhất lãnh thổ và toàn vẹn nhà nước của Liên Xô. Nhưng thực tế xấu xa trong quá khứ, khi câu hỏi dân tộc được quyết định hoàn toàn dựa trên sự tổn hại của cộng hòa lớn nhất - RSFSR không được khắc phục. Một lần nữa, những thiện cảm về địa chính trị của các nhà lãnh đạo lại được thể hiện để làm phương hại đến lợi ích nhà nước của người dân Nga. Đặc biệt, theo Hiến pháp mới, nước cộng hòa tự trị Kazakhstan được trao quy chế của một nước cộng hòa liên hiệp. Vấn đề tương tự đã được quyết định với Kyrgyzstan. Tổng cộng, theo nhiều ước tính khác nhau, RSFSR đã mất khoảng 1/4 lãnh thổ và khoảng 10% tiềm năng công nghiệp. Tuy nhiên, những biến đổi này không thể thấy được, rõ ràng bao gồm cả tiêu cực. Bằng cách củng cố và mở rộng quyền của các dân tộc trong thành phần Liên Xô, chính phủ đã cắt đứt nền tảng của nhiều loại phần tử ly khai và chủ nghĩa dân tộc, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa sô vanh cường quốc.

 

Nói chung, với việc thông qua "Hiến pháp Stalin" vào đầu những năm 30 đã ấn định sự "phục hồi sống" cho người dân Nga. Sự thay đổi ý thức hệ đã trở nên rõ ràng và hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Một ví dụ về điều này thậm chí có thể là những sự kiện dường như không quan trọng như việc xuất bản những cuốn sách tương tự như tập sách nhỏ "RSFSR - Cộng hòa XHCN Liên bang Xô viết Nga", được xuất bản dưới sự biên tập của A. Leontiev và N. Mikhailov. Do "Nhà xuất bản Văn học Chính trị Nhà nước" phát hành vào năm 1938, nó được dành cho các cuộc bầu cử vào Xô Viết Tối cao được tổ chức vào năm 1937 theo Hiến pháp mới, đồng thời nó phục vụ như một chiến dịch bầu cử cho các cuộc bầu cử tương tự sắp tới ở Nga.

Trong cuốn sách này, RSFSR đã được tuyên bố một cách công khai là "hàng đầu trong số các bình đẳng" mà không có bất kỳ yêu cầu nào phải ăn năn về nó. Mặc dù thành ngữ cổ điển "Rus vĩ đại" vẫn không được sử dụng, và phải là "nhân dân Nga vĩ đại", nghĩa là phải mang một số sắc thái ý thức hệ, nhưng có thể coi là một sự tương tự. Đặc biệt, họ đã viết rằng RSFSR chiếm vị trí hàng đầu ở Liên Xô và là hàng đầu trong số các cộng hòa bình đẳng. Nga được coi là một cộng hòa cung cấp tới 70% tổng sản phẩm của Liên Xô. Trong lĩnh vực cơ khí (chỉ tiêu quan trọng nhất trong các năm kế hoạch 5 năm đầu tiên), con số này đạt 4/5 của cả Liên Xô.

Điều này mới hoàn toàn mới so với sự kích động của những năm 20. Trong đó cũng nói về chính người dân Nga. Cuốn sách viết “Nhân dân Nga anh hùng trong nhiều thế kỷ đã đứng đầu cuộc đấu tranh cách mạng của tất cả các dân tộc trên đất nước chúng ta, họ đã chỉ ra cho tất cả các dân tộc khác con đường đúng đắn nhất đi đến thắng lợi”. Sách nhấn mạnh rằng sự trỗi dậy của các nền kinh tế tự trị và các nước cộng hòa khác trong liên minh chỉ có thể thực hiện được nhờ vào việc chuyển giao các nguồn lực kinh tế từ Nga, như họ đã nói khi đó – là với sự giúp đỡ vô tư của người Nga cho các dân tộc anh em. Tất nhiên, các giá trị mới của chủ nghĩa Marx cũng được nói đến theo một cách nào đó. Nhưng cách nó được trình bày có thể làm say mê (và thực sự đã làm được) những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn nhất: "Đỉnh cao của văn hóa Nga - chủ nghĩa Lênin đồng thời là đỉnh cao của tất cả nền văn hóa thế giới". Trên thực tế, đó là tuyên bố văn hóa Nga - nền văn hóa tiên tiến nhất trên thế giới.

Tập tài liệu này cũng chứa một cái nhìn tổng quan về địa chính trị (theo nghĩa đen của từ này) về tình hình dọc theo chu vi biên giới của RSFSR: "Biên giới của RSFSR không đồng nhất. Ở phía nam, các nước cộng hòa thuộc Liên minh tiếp giáp với RSFSR... Đây là đặc điểm của tình bạn và tình anh em, là đặc điểm của tình đoàn kết máu thịt không thể tách rời. Trên thế giới này không có biên giới nào khác như vậy. Nó không tách rời mà ràng buộc, thắt chặt" (điều này được giải thích với tham khảo đến Hiến pháp). Và xa hơn nữa: Ở phía tây và phía đông, chúng ta có biên giới khác. Tại đây biên giới của RSFSR trùng với biên giới của Liên Xô. Nó ngăn cách đất nước Xô Viết hạnh phúc với thế giới tư bản.

Cụm từ sau đây của cuốn sách nhỏ nghe có vẻ rõ ràng: Theo Hiến pháp của Liên Xô, mỗi nước trong số mười một nước cộng hòa Liên minh có quyền ly khai khỏi Liên minh bất cứ khi nào họ muốn, nhưng không có cộng hòa nào trong Liên minh rời khỏi Liên . Như Stalin đã tuyên bố trong cuộc thảo luận về dự thảo Hiến pháp, các nước cộng hòa Liên Xô là "những nước được hình thành hoàn chỉnh và chịu đựng mọi thử thách của một nhà nước xã hội chủ nghĩa đa sắc tộc, sức mạnh của nhà nước này có thể được bất kỳ quốc gia nào ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ghen tị."

Tất cả điều này kết thúc với những phản ánh về chủ đề hiến pháp của RSFSR "được phát triển trên cơ sở và tuân thủ hoàn toàn" Hiến pháp năm 1936, và do đó "giống như Hiến pháp Stalin" là "dân chủ nhất trên thế giới".

Trên thực tế, Hiến pháp Stalin" đã trở thành hiện thân lập pháp tổng hợp chủ nghĩa Bolshev và tư tưởng dân tộc Nga, mà N.A. Berdyaev đã viết trong cuốn sách triết học "Nguồn gốc và ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản Nga":

"Người dân Nga đã không coi ý tưởng Cứu thế của họ về Matxcơva là Rome thứ ba. Cuộc ly giáo vào thế kỷ 17 đã phát hiện ra rằng vương quốc Matxcơva không phải là Rome thứ ba... Và rồi một sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra trong số phận của người dân Nga. Thay vì La Mã thứ ba, Nga đã thực hành Quốc tế thứ ba và nhiều đặc điểm của La mã thứ ba đã chuyển sang Quốc tế thứ ba. Quốc tế thứ ba cũng là một vương quốc thiêng liêng và cũng dựa trên đức tin chính thống. Phương Tây hiểu biết rất kém rằng Quốc tế thứ ba không phải là một Quốc tế, mà là một ý tưởng nhà nước của Nga. Đây là một sự biến đổi của chủ nghĩa Cứu thế Nga. Những người cộng sản phương Tây... bằng cách gia nhập Quốc tế thứ ba, họ tham gia cùng nhân dân Nga và thực hiện thiên chức Cứu thế của họ. Tôi đã nghe một người cộng sản Pháp nói trong cuộc họp của những người cộng sản Pháp: "Marx nói rằng giai cấp công nhân không có tổ quốc, điều đó đã từng đúng, nhưng bây giờ điều đó không còn đúng nữa, họ có tổ quốc – đó là Nga, đó là Matxcova, và những người lao động cần phải bảo vệ quê Tổ quốc của mình."

Điều này chính là nhờ việc thông qua hiến pháp mới của Liên Xô năm 1936 đã giúp củng cố và phát triển những quá trình bắt đầu phát triển vào cuối những năm 1920. Cơ sở kinh tế mới của đất nước đã cho một cái nhìn mới mẻ về vai trò của người dân Nga trong quá trình hiện đại hóa kinh tế và xã hội diễn ra ở Liên Xô. Vai trò của những người tập trung và những người thống nhất được thể hiện rõ ràng hơn. Hiến pháp đã trở thành một bảo đảm rằng những thay đổi đã diễn ra là không thể đảo ngược. Có lẽ, đây chính xác là ý nghĩa lâu dài của Hiến pháp năm 1936 đối với giải pháp cho câu hỏi Nga ở Nga – Liên Xô khi đó.

 

Sự phát triển hơn nữa của xã hội Xô Viết cho thấy sự điều chỉnh đường lối là kịp thời. Ngay cả các đối thủ chính trị của Stalin cũng công nhận rằng loại bỏ chủ nghĩa hư vô đối với các giá trị lịch sử của nhân dân Nga là một thành phần quan trọng trong việc bảo đảm chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Nhưng tầm quan trọng của việc giải quyết câu hỏi Nga không thể vì thế mà giảm điTổ chức đa quốc gia không gian Nga đã hình thành trong nhiều thế kỷ và trở thành cực quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng trên thế giới. Bất chấp sự suy yếu tạm thời của Nga, nước Nga chắc chắn vẫn sẽ đóng vai trò lịch sử của họ như một cường quốc cung cấp giải pháp tinh thần thay thế cho sự bế tắc mà phương Tây và nhân loại ngày nay nhận thấy khi có nguy cơ hủy diệt toàn bộ thế giới.

 

Trích từ tư liệu Nga;

Xem thêm: Stalin nói về sự cuồng tín chủ nghĩa dân tộc Ukraine





Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...