Hiển thị các bài đăng có nhãn thảm sát. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thảm sát. Hiển thị tất cả bài đăng

TẠI SAO BELA KUN PHẢI CHẾT? P2


Lê Nin không hề vô can. Để cặp đôi Do Thái Bela Kun- Rosalia Zemlyachka có thể hành động tàn nhẫn như vậy, đã có chỉ thị “lập lại trật tự” ở Crimea và trao quyền hầu như không giới hạn cho 2 kẻ này từ Lê Nin. Không có bất cứ điều gì có thể biện hộ cho việc bắn giết hàng loạt những sĩ quan bạch vệ đã đầu hàng, đã ra trình diện, hay những người khác đang lẩn trốn nhưng không chống cự.

Còn tư liệu lưu trữ chính thức của Liên Xô cho biết: Cả Crimea trong giai đoạn 1920-1921 có 52 nghìn người bị hành quyết. Simferopol bắn khoảng 20 nghìn người, Sevastopol – 12 nghìn, Theodosia – 8 nghìn, ở Kerch – 8 nghìn, ở Yalta 4 đến 5 nghìn. Tuy nhiên, theo nhân chứng và các đánh giá khác, qui mô tàn sát là quá lớn, 120-150 nghìn người đã bị hành quyết. Thêm nạn đói (dường như là cố ý) kéo dài từ 1921-1923 làm 100 nghìn người nữa chết. Đó là tương đương 15% dân số Crimea vào lúc đó, riêng người Tatar chết đói 76 nghìn.

Nhà sử học Nga nổi tiếng Igor Bunich đưa ra 1 giả thiết khác: Bela Kun và các đồng sự hành quyết họ là để che đậy 1 sự thật khác: cướp bóc tài sản của những người đã chết. Một số sĩ quan đã nộp tiền chuộc mạng nhưng vẫn bị bắn chết. Của cải cướp được ở Crimea bị tẩu tán theo 2 con đường: một về Moskva do Zemlyachka chịu trách nhiệm và một sang phương tây do Bela Kun chịu trách nhiệm.

KẺ HÀNH QUYẾT BỊ HÀNH QUYẾT!

Sau 1921, Bela Kun tiếp tục phiêu lưu đến Đức làm cách mạng theo chỉ đạo của Trotsky, nhưng lại thất bại cũng như ở Hungary. Hắn lại bỏ trốn về Nga. Kun còn tái diễn bạo loạn, kích động đổ máu và lật đổ cướp chính quyền ở Kolozhvar Rumani thêm một lần nữa – lại thất bại thêm 1 lần nữa, thêm hàng trăm nạn nhân “giai cấp vô sản” khác nữa bị nhà cầm quyền bắn chết hoặc đầy ải mất tích.

 Trotsky đã rất cố gắng che chở cho "người bà con" Bela Kun, hắn 1 lần đề cử Kun làm lãnh đạo Cheka, nhưng bị BCT từ chối, 1 lần nữa đề bạt Kun làm phó cho mình cũng không thành. Trotsky đành để Kun giữ chân Ủy viên Ban chấp hành CS quốc tế, cùng lúc giám sát hoạt động ngầm của đảng CS ở Hungary dù chính quyền Hung đã ban bố lệnh xử tử vắng mặt và đưa Kun vào danh sách truy nã quốc tế.

Cho đến năm 1928, cùng với thất bại của Trotsky, Bela Kun không còn chỗ dựa chính và mất dần ảnh hưởng. Từ khi TBT Stalin nắm quyền, tình hình Liên Xô dần dần đi vào ổn định. Với mục tiêu phát triển kinh tế, 1 hung đồ chỉ biết bắn giết, thậm chí tiếng Nga không rành như Kun chẳng có chỗ đứng dù vẫn giữ chức danh cũ.

Năm 1932, Stalin bắt đầu chiến dịch thanh lọc bộ máy Bolsevik, có quá nhiều tội đồ lớn hơn Bela Kun, đông lúc nhúc như giòi bọ lúc đó nên hắn vẫn sống sót (nhóm Ryutin, Rykov, Tukhachevsky, Bukharin, Kamenev, Yagoda, Zinoviev, trùm mật vụ Do Thái NKVD Yezhov... tổng cộng có đến 6 nhóm Do Thái lớn nắm hầu hết bộ máy và các chức vụ đảng, chính quyền, quân đội, an ninh quan trọng).

Sau 1933, khi Hitler đã nắm quyền ở Đức, Bela Kun bắt đầu gây rối và cản trở Stalin. Hắn tạo ra vô vàn khó khăn cho công cuộc khôi phục kinh tế, thay máu bộ máy lãnh đạo để chuẩn bị cho chiến tranh đang đến. Với các mối liên hệ cũ ở Budapest, hắn phá hoại quan hệ ngoại giao Liên Xô-Hungary và ngầm thúc đẩy Hungary liên minh với Đức quốc xã để chống Liên Xô.

Nhưng cơ hội phản phúc cuối cùng của Bela Kun cũng thất bại. Dù trùm Do Thái Yezhov vẫn nắm NKVD nhưng đành ngoảnh mặt làm ngơ “không bà con” với Kun và chịu để hắn bị bắt.

Bela Kun bị bắt ngày 28 tháng 6 năm 1937, vì nhà tù Lubyanka chật cứng nên người ta giam giữ hắn ở Butyrka trong 1 gian cùng 140 tù phạm khác, trong số đó có nhân vật “lỗi lạc” Maklevich. Kun bị giam và xét hỏi lâu hơn những kẻ khác. Bị đứng hỏi cung 10, thậm chí 20 tiếng 1 ngày cho đến khi ngã quị và chỉ còn lết về phòng giam. Tuy nhiên, hắn không chịu nhận tội lỗi.

Xét xử Bela Kun tại toà án, hắn bị tuyên là kẻ thù của dân tộc Nga! Như thế chưa đủ, ít nhất hắn là kẻ thù của 3 dân tộc: Nga-Hung-Đức. Tại đại hội CPSU lần thứ 20, đích thân Khrushchev đã xá tội cho hắn.


Bela Kun bị xử bắn ngày 29 tháng 8 năm 1938. Hắn đã phải đền những tội lỗi hắn gây ra bằng tính mạng của hắn. Nhưng tội ác tàn bạo và đẫm máu của các băng đảng mafia Do Thái khoác áo cộng sản gây ra với nước Nga không bao giờ có thể gột rửa nổi.

Tham khảo:

TẠI SAO BELA KUN PHẢI CHẾT? P1


ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ


Bela Kun sinh tại Áo-Hung năm 1886, năm 1902 y gia nhập đảng Dân chủ Xã hội Hungary.

Dưới sự dẫn dắt của Bela Kun, ở một số nhà máy tại Transylvania đã nổ ra các cuộc đình công năm 1905. Cuộc đụng độ của thợ thuyền với cảnh sát của nhà cầm quyền dẫn đến đổ máu. Kun bị bắt và phạt tù 2 năm rưỡi. Sau khi được thả vào 1908 Kun tiếp tục  tham gia lãnh đạo đảng DCXH và công đoàn thợ mỏ tại Kolozhvare. Năm 1913 Kun làm người phát ngôn của đảng, Trong WW-I, hắn chiến đấu trong phe Áo-Hung và bị Nga bắt.

Trong quá trình giam giữ ở Urals, Bela Kun “giác ngộ cách mạng” và học tiếng Nga, y gia nhập đảng Lao động dân chủ xã hội Nga năm 1916 và làm trong tổ chức đảng CS tại Tomsk từ 1917.

Năm 1918, Kun tham gia thành lập chi nhánh đảng CS Nga và tổ chức đội tiền phong của đảng tại Hungary, sau đó tham gia nội chiến, chống Đức, Czech và Bạch vệ Kolchak. Kun rất tích cực viết bài cho 2 tờ báo "Pravda" và "Izvectia". Chính Kun tham gia vào các cuộc hành quyết “kẻ thù của giai cấp” ở Siberia – được biết đến như cuộc hành quyết đẫm máu nhất trong thời kỳ CS nắm quyền.

Kể từ tháng 5, 1918 Kun được bổ nhiệm làm đại diện nhóm nước ngoài tại đảng CS Nga. Năm 1920 là thành viên Hội đồng quân sự cách mạng của Mặt trận phía Nam. Các năm 1921-1923, y giữ chức vụ cao trong tổ chức đảng CS tại Ural.

Kể từ 1921, Kun là thành viên ban chấp hành đảng CS Nga và chỉ đạo các hoạt động bất hợp pháp, đồng thời làm chủ tịch đảng CS Hungary. Kể từ 1928, Kun thường xuyên sống ở Nga và là nhân vật hoạt động tích cực.

Năm 1938, y bị bắt và bị xử bắn ngày 30 tháng 12 năm 1939, nhưng thời Khrushchev được “minh oan”.

Vậy Bela Kun có những tội lỗi gì?

TỘI ÁC Ở CRƯM

Mảnh đất Áo- Hung là cái nôi của những cái tên Do Thái lỗi lạc, kể cả Do Thái Hitler. Khủng bố đỏ (Red Terror) hay “Đại thanh trừng” (Great Purge) là những khái niệm phương Tây chỉ những cuộc tàn sát đẫm máu sau 1917. Nhưng không bao giờ có tên những gã đồ tể Do Thái hay tên nạn nhân là người Nga. Làm thế nào mà những gã Do Thái khắp nơi trên thế giới lại yêu thương giai cấp vô sản Nga quá mức đến nỗi đổ xô cả đến Nga làm cách mạng bằng tiền của ông chủ Rothschild ở London?

Nhà nghiên cứu phương Đông Armin Vamberi, nhà cách mạng Bela Kun, nhà tư tưởng Zionism Theodor Gertsl và Max Nordau, nhà văn Arthur Koestle hay nhà tài phiệt George Soros thời nay. Cũng có các nhà văn đương đại Victor Nekrasov, Vladimir Voynovich, Vasily Aksyonov hay Alexander Prokhanov.

Nhưng nhà “cách mạng” Bela Kun hoàn toàn khác.

Năm 1919, Bela Kun trở về Hung làm cách mạng tương tự CMT10 Nga. Nhiều tháng phiêu lưu thất bại nhưng cuối cùng cũng thành công và lại xảy ra các vụ bắn giết hàng loạt. Kun leo vào bộ máy lãnh đạo làm Ủy viên hội đồng hải ngoại(!?) nhưng người Hung nhanh chóng nhận ra sự bất tài và hung bạo, Kun sớm mất uy tín và trở về Nga làm thành viên Hội đồng quân sự cách mạng phía Nam do Mikhail Frunze lãnh đạo.

Sau khi binh lính Pyotr Nikolayevich Wrangel rút quân khỏi Crimea, Bela Kun được bổ nhiệm làm lãnh đạo Revkom của Crimea. Bạn chiến đấu của hắn, Rosalia Samoylovna Zemlyachka cũng được Moskva bổ nhiệm làm thư ký vùng. Bắt đầu xảy ra các cuộc tàn sát hàng loạt như ở Ural, ở Hung hay bất kỳ nơi nào hắn đến. Nhưng cũng cần nói, mảnh đất đầy dấu ấn Sa Hoàng này có những lực lượng cận vệ bảo hoàng không dễ buông vũ khí và Xô Viết đã đánh giá thấp họ. Để thúc giục binh lính cận vệ đầu hàng, chỉ huy mặt trận Mikhail Frunze viết thư (cả Kun cùng soạn thư) gửi các sĩ quan của Wrangel hứa hẹn ân xá và ông ta chịu trách nhiệm không cho phép họ bị xét xử bởi chính quyền mới. Nhưng rất nhiều sĩ quan bạch về đã từ chối ra đi cùng Wrangel, họ vẫn ở lại Crimea.

Để hiểu các sự kiện, cần đọc chương "Crimea sau Wrangel" trong cuốn “Khủng bố đỏ ở Nga” của S. P. Melgunova. Trong sách dẫn những tuyên bố thẳng thừng của Bela Kun chỉ 2 ngày sau khi đến Simferopol đăng trên báo Crimea: "Hội đồng dân ủy Trotsky nói rằng sẽ không đến Crimea cho đến khi nào bọn phản cách mạng vẫn còn ở Crimea. Crimea là cái chai mà trong đó bọn phản cách mạng không thể nào nhảy ra – trong phong trào cách mạng, Crimea đã chậm 3 năm, chúng ta sẽ nhanh chóng thúc ép nó đến mức các mạng chung của Nga". Bức thư hứa hẹn của Frunze đã thực sự bị quên, đặc biệt khi Trotsky có quan hệ cấp cao với Frunze. Bênh cạnh đó, từ ngữ “chậm 3 năm” là của Lê Nin.

Lịch sử vẫn còn lưu giữ bức điện tín của Sklyansky làm phó cho Trotsky: "Chiến tranh vẫn tiếp tục khi Crimea còn dù chỉ 1 sĩ quan bạch vệ".

Chiến tranh đã diễn ra, dù lúc đầu là hòa bình với đề nghị sác sĩ quan bạch vệ ra trình diện. Và khi đó, các chỉ huy Crimea nhận được bức điện: Ngay lập tức bắn tất cả sĩ quan và binh lính ra trình diện”. Bức điện có chữ ký của cả Bela Kun và Rosalia Zemlyachkaya.

Ngay trong đêm đầu tiên Bela Kun đến Simferopol: 1800 người trình diện bị bắn, ở Feodosiya 420, ở Kerch 1300. Tiếp theo đó: bắn giết mọi nơi.

Đối với những kẻ thực hiện lệnh hành quyết tỏ ra là quá tải. Ở Feodosiya, ví dụ, cần đến 120 người mỗi đêm. Ở Kerch chúng đưa họ lên những cái xà lan, vài trăm người 1 lượt, đẩy ra biển và đánh chìm.


Ảnh: hành quyết bạch vệ

Nhưng không phải tất cả đều ra trình diện. Vì vậy phải tiến hành các vụ bắt bớ. Ở Simferopol có 1200 người bị bắt từ 19-29 tháng 12 năm 1920 và số phận họ không tránh khỏi như những người trình diện. Còn ở Krymtayev là 5500 bị bắt và bắn chết.

Trong 3 thành phố lớn Sevastopol, Balaklava và Melgunov có 29 nghìn người bị hành quyết. 500 thợ bốc vác ở cảng Sevastopol, những người giúp đỡ cho binh lính của Wrangel lên tàu đã bị bắn, chúng bắn cả những người đau ốm, bị thương, bác sĩ, y tá từ thiện chăm sóc cho bạch vệ, ví dụ ở Alupka là 272 người. Đôi khi, đích thân Bala Kun tham gia hành quyết, có lẽ để hắn không quên cảm giác giết người và lấy nhuệ khi cho những kẻ thi hành.

Ở vùng núi có các nhóm “xanh”. Bela Kun hứa hẹn ân xá. Tin tưởng Kun, nhóm “xanh” do thủ lĩnh Tatar là Malambutov đứng đầu xuống núi trình diện. Họ bị buộc ký vào các giấy đầu hàng, bị các toán đặc vụ dẫn giải quay lại núi và chỉ điểm các căn cứ, những nơi ẩn nấp. Sau đó Bela Kun cho bao vây và bắt giữ. Tất cả bị bắn chết dù đầu hàng hay bị bắt. Cả thủ lĩnh Malambutov cũng bị Kun bắn chết, còn trên báo thì viết rằng Malambutov bị bắn vì làm “gián điệp”.

Tác giả của tư liệu cho bài viết này đã ghi chép lại tất cả những sự kiện bi thảm, đẫm máu này bởi đau đớn là người sinh ra và sống cả cuộc đời ở Simferopol. Thế hệ này qua thế hệ khác ở đây vẫn giữ những ký ức kinh hoàng về tên đồ tể Cộng Sản Do Thái Bela Kun – xin lỗi! Hắn là tên đồ tể Do Thái không cần núp bóng cộng sản và che giấu thù hận sắc tộc. Nhưng điều trớ trêu, cho đến tận ngày nay, vẫn còn đường phố mang tên hắn ở Simferopol. Trong video là 1 nhóm người đòi loại bỏ cái tên này ra khỏi thành phố. Hãy nghe họ nói.



Thực sự cái gì đã xảy ra ở Thiên An Môn 25 năm trước?

Hai mươi lăm năm trước, mỗi media Mỹ, cùng với TT Bush và QH Mỹ đã gieo rắc tràn ngập chứng cuồng loạn và tấn công chống Trung Quốc vì những gì được mô tả là vụ thảm sát máu lạnh hàng ngàn sinh viên "ủng hộ dân chủ" phi bạo lực chiếm Quảng trường Thiên An Môn trong 7 tuần.


Việc biến TQ thành quỉ dữ đã có hiệu quả cao. Gần như tất cả các lĩnh vực trong xã hội Mỹ, kể cả hầu hết "cánh tả", chấp nhận sự trình bày của chủ nghĩa đế quốc về những gì đã xảy ra.

Chứng cuồng loạn được tạo ra về “thảm sát” Quảng trường Thiên An Môn dựa trên câu chuyện hư cấu về những gì thực sự đã xảy ra khi chính phủ Trung Quốc cuối cùng đã dọn sạch khối người biểu tình ngày 4 tháng 6 năm 1989.


Xe bọc thép bị những người biểu tình đốt cháy bên ngoài TAM, 04-6-1989

Vào thời điểm đó mọi lý giải chính thức của chính phủ Trung Quốc về sự kiện đã ngay lập tức bị bác bỏ không cần suy nghĩ như là tuyên truyền dối trá. Trung Quốc báo cáo rằng khoảng 300 người đã chết trong các cuộc đụng độ vào ngày 4 và nhiều người trong số những người chết là người lính của Quân đội Giải phóng Nhân dân - PLA. Trung Quốc khẳng định không có vụ thảm sát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn và trên thực tế PLA  dọn dẹp người biểu tình mà không nổ súng.

Chính phủ Trung Quốc cũng khẳng định rằng những người lính không vũ trang đã vào Quảng trường Thiên An Môn trong hai ngày trước ngày 04 tháng 6 đã bị hành hình và thiêu cháy với thi thể treo trên xe buýt. Những người lính khác bị thiêu cháy khi xe quân sự bị đốt khi họ không thể thoát ra và nhiều người khác đã bị đánh đập bởi các cuộc tấn công của đám đông bạo lực.

Nguyên do này là thực và có tư liệu đầy đủ. Không khó để hình dung mức độ bạo lực sẽ như thế nào khi công quyền Mỹ và Lầu Năm Góc khi họ phản ứng với phong trào Chiếm phố Uôn.

Trong một bài viết ngày 05 tháng 6 năm 1989, tờ Washington Post mô tả các chiến binh chống chính phủ đã được tổ chức như thế nào thành các đội hình từ 100-150 người. Họ được trang bị cocktail Molotov và gậy sắt, để đáp trả PLA – những người vẫn không mang vũ khí trong những ngày trước 04 tháng 6.

Những gì đã xảy ra ở Trung Quốc, những gì đã lấy đi mạng sống của phái đối lập chính phủ và binh sĩ ngày 4 tháng 6, không phải là một vụ thảm sát sinh viên yêu hòa bình mà là một trận chiến giữa binh lính PLA và các đơn vị vũ trang từ phong trào được gọi là ủng hộ dân chủ.

 “Trên một đại lộ ở phía tây Bắc Kinh, người biểu tình đã đốt toàn bộ một đoàn xe quân sự hơn 100 xe tải và xe bọc thép. Hình ảnh trên không của đám cháy và cột khói đã ủng hộ mạnh mẽ cho lập luận của chính phủ Trung Quốc rằng quân đội là nạn nhân, không phải đao phủ. Cảnh khác cho thấy xác chết binh lính và người biểu tình tước súng trường tự động của những binh lính không chống cự," Washington Post thừa nhận đã có lợi ích phe đối lập chống chính phủ trong câu chuyện đăng ngày 12 tháng 6 năm 1989.


Tờ Wall Street Journal - tiếng nói chống cộng hàng đầu, như một cổ động viên om sòm cho phong trào "dân chủ". Tuy nhiên, việc đưa tin của họ ngay sau ngày 04 tháng 6 đã thừa nhận rằng nhiều "người biểu tình cực đoan, một số hiện trang bị súng và các loại xe trưng dụng trong các cuộc đụng độ với quân đội" đã chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang lớn hơn. Bài báo của Wall Street Journal về các sự kiện ngày 4 tháng 6 miêu tả một bức tranh sinh động:

"Khi đoàn xe tăng và hàng chục ngàn binh sĩ tiến đến gần Thiên An Môn, rất nhiều binh sĩ đã bị tấn công bởi đám đông giận dữ... Hàng chục binh sĩ đã bị kéo ra khỏi xe tải, bị đánh đập nghiêm trọng và bị bỏ mặc đến chết. Ở giao lộ phía tây quảng trường, thi thể một người lính trẻ, người đã bị đánh đập đến chết, bị lột trần truồng và treo bên cạnh chiếc xe buýt. Một xác lính khác bị treo bằng dây ở phía đông giao lộ quảng trường."


Cuộc thảm sát mà không hề có

Trong những ngày ngay sau 04-6-1989, tiêu đề của New York Times, các bài báo và  xã luận đã sử dụng con số "hàng ngàn" nhà hoạt động hòa bình bị tàn sát khi quân đội mang xe tăng và binh sĩ vào quảng trường. Con số mà tờ Times sử dụng như một ước tính là 2.600 người chết. Con số đó được dùng như số sinh viên đã bị tàn sát tại Thiên An Môn. Hầu như các media Mỹ đều nói "hàng ngàn" bị giết. Nhiều media nói nhiều đến 8000 người bị thảm sát.

Tim Russert là lãnh đạo văn phòng Washington của NBC, sau đó xuất hiện trong Cuộc họp báo nói "hàng chục ngàn" đã chết tại quảng trường Thiên An Môn.

Phiên bản tiểu thuyết của vụ "thảm sát" sau đó đã được sửa chữa trong một phạm vi nhỏ bởi các phóng viên phương Tây đã tham gia vào bịa đặt và những kẻ quan tâm đến chỉnh sửa hồ sơ để họ có thể nói rằng họ đã làm nó "chính xác". Nhưng khi đó đã là quá muộn và họ cũng biết điều đó. Ý thức cộng đồng đã được định hình. Câu chuyện vờ vịt đã trở thành lấn át. Họ thành công trong việc tàn sát thực tế để phù hợp với nhu cầu chính trị của chính phủ Mỹ.

"Hầu hết trong số hàng trăm nhà báo nước ngoài đêm đó, kể cả tôi, đều ở các nơi khác của thành phố hoặc đã bị đưa ra khỏi quảng trường vì thế họ không thể chứng kiến ​​chương cuối cùng của câu chuyện sinh viên. Những ai đã cố gắng để duy trì tiếp xúc gần gũi mô tả một cách bi kịch rằng, trong một số trường hợp, thiên về huyền thoại của một vụ thảm sát sinh viên," Jay Mathews, trưởng đại diện Washington Post tại Bắc Kinh viết trong một bài báo năm 1998 tại Columbia Journalism Review.

Bài viết của Mathews, trong đó thừa nhận sử dụng thuật ngữ thảm sát Thiên An Môn, muộn đến 9 năm sau sự kiện và ông ta thừa nhận rằng sự chỉnh lại sau đó đã có tác động rất ít. "Các sự kiện Thiên An Môn đã được biết đến trong một thời gian dài. Khi Clinton đến thăm quảng trường tháng sáu này, cả Washington Post và New York Times giải thích rằng không có ai chết ở đó tại Thiên An Môn trong đàn áp năm 1989. Nhưng đó chỉ là lời giải thích ngắn ở cuối bài viết dài. Tôi nghi ngờ rằng họ đã làm nhiều chuyện để giết chết huyền thoại."

Vào thời điểm đó tất cả các bài viết về vụ thảm sát sinh viên về cơ bản là như nhau và do đó có vẻ như chúng phải là sự thật. Nhưng các bài viết này không dựa vào lời khai nhân chứng.

Điều gì thực sự xảy ra

Trong bảy tuần dẫn đến sự kiện 04-6, chính phủ Trung Quốc đã cực kỳ hạn chế không đối đầu với những người làm tê liệt trung tâm của khu vực thủ đô Trung Quốc. Thủ tướng Chính phủ đã gặp trực tiếp với lãnh đạo biểu tình và cuộc họp được phát sóng trên truyền hình quốc gia. Điều này đã không xoa dịu được tình hình mà lại khuyến khích các thủ lĩnh cuộc biểu tình, những kẻ biết rằng họ đã có được sự ủng hộ đầy đủ của Mỹ.

Các thủ lĩnh biểu tình dựng lên một bức tượng khổng lồ giống như của Hoa Kỳ, Tượng Nữ thần Tự do ở giữa quảng trường Thiên An Môn. Họ đã báo hiệu cho toàn thế giới sự đồng cảm chính trị của họ với các nước tư bản và Hoa Kỳ nói riêng. Họ tuyên bố rằng họ sẽ tiếp tục các cuộc biểu tình cho đến khi chính phủ bị lật đổ.


Với tầm nhìn xa lãnh đạo Trung Quốc quyết định chấm dứt các cuộc biểu tình bằng dọn sạch quảng trường Thiên An Môn. Quân đội tiến vào quảng trường không có vũ khí vào ngày 02-6 và nhiều binh lính đã bị đánh đập, một số đã thiệt mạng và xe quân sự đã bị đốt cháy.

Ngày 04 tháng 6, PLA lại tiến vào quảng trường cùng vũ khí. Theo các mô tả của truyền thông Mỹ đó là lúc súng máy lính PLA đốn hạ sinh viên biểu tình hòa bình trong một vụ thảm sát hàng ngàn người.

Trung Quốc nói rằng các báo cáo "thảm sát" quảng trường Thiên An Môn là nhào nặn bởi cả hai media phương Tây và thủ lĩnh biểu tình, những kẻ sử dụng sự giúp đỡ của media phương Tây như một nền tảng cho chiến dịch tuyên truyền quốc tế vì lợi ích của họ.

12 tháng 6 năm 1989, 8 ngày sau cuộc đối đầu, tờ New York Times công bố một bài "đầy đủ" nhưng trên thực tế là nhào nặn đầy đủ bài viết của nhân chứng vụ thảm sát Thiên An Môn, 1 sinh viên tên là Wen Wei Po. Đó bản là đầy đủ các ghi chép về trận chiến đường phố bi hùng, bạo lực và giết người hàng loạt. Nó kể lại là PLA đặt máy xạ thủ trên mái nhà Bảo tàng Cách mạng nhìn ra Quảng trường và sinh viên bị tàn sát tại quảng trường. Báo cáo này đã được media khắp nước Mỹ vớ lấy.

Mặc dù được coi là cẩm nang và bằng chứng không thể chối cãi rằng Trung Quốc đang nói dối, báo cáo của "nhân chứng" Wen Wei Po ngày 12 tháng 6 là quá đỉnh và do đó có khả năng sẽ làm mất uy tín New York Times ở Bắc Kinh, nên phóng viên Nicholas Kristoff, người đã đóng vai trò như cơ quan ngôn luận cho những người biểu tình, đã thành ngoại lệ cho những điểm chính trong bài viết.

Kristoff đã viết trong một bài báo ngày 13 tháng 6, "Câu hỏi vụ nổ súng xảy ra nơi nào có ý nghĩa quan trọng bởi vì tuyên bố của Chính phủ cho rằng không có ai bị bắn tại quảng trường Thiên An Môn. Truyền hình nhà nước thậm chí đã cho chiếu bộ phim các sinh viên diễu hành một cách yên ổn ra khỏi quảng trường ngay sau bình minh như là bằng chứng rằng họ đã không bị giết."

"Hoạt cảnh trung tâm trong bài viết (của nhân chứng) là binh lính đánh đập và sinh viên tay không quần tụ quanh Đài tưởng niệm Anh hùng nhân dân ở giữa quảng trường Thiên An Môn bị súng máy bắn hạ. Một số nhân chứng khác, cả người Trung Quốc và nước ngoài, nói điều này đã không xảy ra," Kristoff viết.

Cũng không có bằng chứng nào về các ụ súng máy trên mái nhà bảo tàng lịch sử được đề cập đến trong bài của Wen Wei Po. Phóng viên này ở hướng bắc của bảo tàng và thấy không có súng máy ở đó. Các phóng viên và các nhân chứng khác trong vùng lân cận cũng không nhìn thấy nó.

"Chủ đề trung tâm của bài viết Wen Wei Po là quân đội sau đó đã đánh đập và bắn súng máy vào sinh viên trong khu vực xung quanh tượng đài và một hàng xe bọc thép cắt đứt đường rút lui của họ. Nhưng các nhân chứng nói rằng xe bọc thép không bao vây quanh tượng đài - họ dừng lại ở phía bắc quảng trường - và rằng quân đội không tấn công sinh viên tụ quanh tượng đài. Một số nhà báo nước ngoài khác ở gần tượng đài đêm đó cũng như không ai được biết là báo cáo rằng sinh viên đã bị tấn công xung quanh di tích,"Kristoff viết trong bài ngày 13 tháng 6-1989.

Tường thuật của chính phủ Trung Quốc thừa nhận rằng đã có cuộc chiến đấu đường phố và xung đột vũ trang xảy ra trong khu dân cư gần đó. Họ nói rằng khoảng ba trăm người chết đêm đó bao gồm nhiều binh lính đã chết vì súng, bom xăng và bị đánh đập. Nhưng họ khẳng định rằng không có vụ thảm sát.

Kristoff cũng nói rằng đã có cuộc đụng độ trên vài tuyến phố nhưng bác bỏ báo cáo của "nhân chứng" về một vụ thảm sát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, "... Thay vào đó, các sinh viên và một ca sĩ nhạc pop, Hou Dejian, thương lượng với quân đội và quyết định rời khỏi quảng trường lúc bình minh, khoảng giữa 05:00 và 06:00 giờ. Tất cả các sinh viên ra về thành hàng lối cùng nhau. Truyền hình Trung Quốc đã cho chiếu những cảnh các sinh viên ra đi quảng trường dường như trống rỗng khi quân đội di chuyển đến trong khi các sinh viên ra về."

Nỗ lực phản cách mạng ở Trung Quốc

Trong thực tế, chính phủ Mỹ đã tích cực tham gia vào việc thúc đẩy cuộc biểu tình "vì dân chủ" qua cỗ máy tuyên truyền quốc tế rộng lớn, được phối hợp nhịp nhàng, tài trợ nhiều và bơm ra các tin đồn, gồm một nửa sự thật và nửa bịa đặt ngay từ lúc phong trào biểu tình bắt đầu vào giữa tháng 4 năm 1989.

Mục đích của chính phủ Mỹ là để thực hiện thay đổi chế độ ở Trung Quốc và lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc vốn đã cầm quyền kể từ cuộc cách mạng năm 1949. Vì nhiều hoạt động của phong trào tiến bộ ngày nay đã không còn sống hay vì còn trẻ tại thời điểm sự cố Thiên An Môn năm 1989, ví dụ gần đây nhất của việc làm thế nào để cỗ máy thay đổi chế độ/gây bất ổn của đế quốc hoạt động là việc lật đổ chính phủ Ukraina gần đây bị tiết lộ. Cuộc biểu tình hòa bình ở trung tâm quảng trường Kiev nhận được sự ủng hộ quốc tế, tài chính và hỗ trợ của phương tiện truyền thông từ Mỹ và các nước phương Tây; họ rốt cuộc chịu sự dẫn dắt của các nhóm vũ trang đang được ca ngợi là chiến đấu vì tự do bởi tờ Wall Street Journal, FOX News và các media khác; và cuối cùng là chính phủ bị nhắm mục tiêu lật đổ bởi CIA khi biến thành quỉ dữ nếu sử dụng cảnh sát hoặc lực lượng quân sự.

Trong trường hợp biểu tình "dân chủ" ở Trung Quốc năm 1989, chính phủ Mỹ đã cố gắng để tạo ra một cuộc nội chiến. VOA Mỹ tăng chương trình phát sóng tiếng Trung đến 11 giờ mỗi ngày và mục tiêu phát sóng "trực tiếp đến 2.000 chảo truyền hình vệ tinh ở Trung Quốc hoạt động chủ yếu là do PLA." (New York Times ngày 09 tháng 6 năm 1989)

VOA phát sóng cho các đơn vị quân đội Trung Quốc có đầy các báo cáo rằng một số đơn vị quân đội Trung Quốc đã bắn vào những người khác và các đơn vị khác trung thành với những người biểu tình và những đơn vị khác với chính phủ.

VOA và media Mỹ đã cố gắng để tạo ra sự nhầm lẫn và hoảng loạn trong số những người ủng hộ chính phủ. Ngay trước 04 tháng 6 họ thông báo rằng Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã bị bắn chết và Đặng Tiểu Bình đã gần chết.

Hầu hết trong chính phủ Mỹ và media dự kiến ​​chính phủ Trung Quốc sẽ bị lật đổ bởi các lực lượng chính trị thân phương Tây như đã bắt đầu xảy ra với sự lật đổ chính quyền XHCN trên toàn cõi Đông và Trung Âu vào thời điểm này (1988-1991) sau sự ra đời cải cách ủng hộ tư bản chủ nghĩa của Gorbachev ở Liên Xô.

Ở Trung Quốc, phong trào biểu tình "ủng hộ dân chủ" được dẫn dắt bởi các sinh viên đặc quyền, kết nối tốt với nhau từ các trường đại học ưu tú, những kẻ thẳng thắn kêu gọi thay thế CNXH bằng CNTB. Các thủ lĩnh đặc biệt có quan hệ với Hoa Kỳ. Tất nhiên, hàng ngàn sinh viên khác, những người tham gia các cuộc biểu tình tại quảng trường vì họ có khiếu nại chống chính phủ.

Nhưng các thủ lĩnh có liên hệ đế quốc của phong trào có một kế hoạch rõ ràng để lật đổ chính phủ. Chai Ling, kẻ được công nhận là thủ lĩnh sinh viên hàng đầu, trả lời phỏng vấn các phóng viên phương Tây vào đêm trước của ngày 04 tháng 6, trong đó cô ta thừa nhận rằng mục tiêu của lãnh đạo là dẫn dắt dân chúng trong cuộc đấu tranh lật đổ Đảng Cộng sản Trung Quốc, cô ta giải thích sẽ chỉ có thể thành công nếu họ kích động thành công chính phủ vào một cuộc tấn công dữ dội các cuộc biểu tình. Cuộc phỏng vấn được phát sóng trong bộ phim "Gate of Heavenly Peace". Chai Ling cũng giải thích tại sao họ không thể nói cho hàng ngũ và đội quân biểu tình sinh viên về kế hoạch thực sự của các thủ lĩnh.

"Việc theo đuổi sự giàu sang là một phần của động lực vì dân chủ," một thủ lĩnh sinh viên khác - Wang Dan giải thích, trong cuộc phỏng vấn với tờ Washington Post năm 1993, nhân dịp kỷ niệm thứ 4 sự kiện. Wang Dan có mặt trong tất cả các media Mỹ trước và sau khi sự kiện Thiên An Môn. Anh ta nổi tiếng với việc giải thích lý do tại sao các thủ lĩnh sinh viên ưu tú không muốn công nhân Trung Quốc tham gia phong trào của họ, cho biết: "Phong trào không sẵn sàng cho công nhân tham gia vì dân chủ đầu tiên phải được hấp thụ bởi các sinh viên và giới trí thức trước khi chúng có thể lây lan cho người khác."

Hai mươi lăm năm sau - Mỹ vẫn phản cách mạng và tìm cách thay đổi chế độ ở Trung Quốc.

Các hành động của chính phủ Trung Quốc giải tán phong trào cái gọi là “vì dân chủ” năm 1989 đã được đáp lại sự thất vọng cay đắng trong tổ chức chính trị Hoa Kỳ.

Mỹ áp đặt trừng phạt kinh tế Trung Quốc đầu tiên, nhưng ảnh hưởng của nó là tối thiểu, cả cơ cấu chính trị Washington cả các nhà băng phố Wall nhận ra rằng các tập đoàn và các nhà băng Mỹ sẽ là kẻ thua cuộc lớn trong năm 1990 nếu họ cố gắng cô lập hoàn toàn Trung Quốc, khi Trung Quốc tiếp tục mở cửa thị trường lao động và hàng hóa rộng lớn trong nước của họ để nhận đầu tư trực tiếp từ các công ty phương Tây. Các nhà băng và các tập đoàn lớn nhất đặt lợi nhuận của mình hàng đầu còn các chính trị gia Washington đã có hành xử thích hợp với tầng lớp tỷ phú của họ về câu hỏi này.

Nhưng vấn đề phản cách mạng ở Trung Quốc sẽ lại sau thành trước một lần nữa. Cải cách kinh tế đã được khởi động sau cái chết của Mao để mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Chiến lược phát triển này được thiết kế để nhanh chóng khắc phục hậu quả đói nghèo và kém phát triển bằng cách nhập khẩu công nghệ nước ngoài. Để đổi lại, các tập đoàn phương Tây thu được lợi nhuận lớn. Giới lãnh đạo hậu Mao trong Đảng Cộng sản tính toán rằng chiến lược này làm Trung Quốc được hưởng lợi nhờ chuyển giao công nghệ nhanh chóng từ thế giới đế quốc. Và thực sự Trung Quốc đã có những bước tiến lớn về kinh tế. Nhưng ngoài việc phát triển kinh tế cũng đã phát triển một tầng lớp tư bản lớn hơn bên trong Trung Quốc và một phần đáng kể lớp và con cái của họ đang được ve vãn bởi tất cả các loại tổ chức được tài trợ bởi chính phủ Mỹ, các tổ chức tài chính Mỹ và các trung tâm học thuật Mỹ.

Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng bị chia thành thân Mỹ và các phe phái và khuynh hướng ủng hộ chủ nghĩa xã hội.

Ngày nay, chính phủ Mỹ đang gây một áp lực quân sự lớn hơn nữa lên Trung Quốc. Họ thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách thắt chặt khối liên minh quân sự và chiến lược mới với các nước châu Á khác. Họ cũng hy vọng rằng với áp lực đủ lớn, một số lãnh đạo Trung Quốc thuận tình chối bỏ Triều Tiên sẽ có được thế thượng phong.

Nếu phản cách mạng là thành công ở Trung Quốc, các hậu quả sẽ là thảm họa đối với dân chúng Trung Quốc và với đất nước Trung Quốc. Trung Quốc dường như sẽ bị vỡ ra như quốc gia Liên Xô đã từng xảy ra khi Đảng Cộng sản Liên Xô bị lật đổ. Cùng số phận tương tự đã xảy ra với Nam Tư cũ. Phản cách mạng và chia cắt sẽ đẩy Trung Quốc tụt hậu. Nó sẽ hãm phanh sự trỗi dậy hòa bình ngoạn mục của Trung Quốc thoát ra khỏi quốc gia kém phát triển. Trong nhiều thập kỷ đã có một cuộc thảo luận nghiêm trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ về chia cắt Trung Quốc sẽ làm suy yếu họ như một quốc gia và cho phép Mỹ cùng các cường quốc phương Tây thâu tóm phần hấp dẫn nhất của họ. Đây chính xác là kịch bản mà vai diễn Trung Quốc bước vào thế kỷ bị sỉ nhục khi các cường quốc tư bản phương Tây thống trị đất nước họ.

Cách mạng Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn, chiến thắng, thoái lui và thất bại. Mâu thuẫn của họ là vô số. Nhưng họ vẫn trụ vững. Trong cuộc đối đầu giữa chủ nghĩa đế quốc trên toàn cầu và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhân dân tiến bộ nên biết vị trí họ phải đứng - đó không phải là trên băng ghế dự bị.


Bài viết của Brian Becker đăng trên Global Research và LiberationNews.org


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...