Hiển thị các bài đăng có nhãn Đạo Phật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đạo Phật. Hiển thị tất cả bài đăng

Những người cộng sản trong màu áo lam hiền (*)

Lạ lùng những người “vá đường” không công ở Hà Nội

GiadinhNet - Đây là những câu chuyện đầy xúc động về những việc làm hướng thiện tốt đẹp của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” tại Hà Nội trong suốt nhiều năm qua.

Hướng thiện

Ngôi chùa cổ kính nằm nép mình ven đường Quốc lộ 1A cũ mang tên Tứ Kỳ, thuộc địa phận quận Hoàng Mai, TP Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành mái nhà thứ 2 thân thuộc của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang”.

CLB là nơi quy tụ của hàng trăm thành viên không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, vùng miền nhưng đều có chung một mục đích cao cả: “hướng thiện. Câu lạc bộ hoạt động dưới sự dẫn dắt của thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì chùa Phật Quang - Núi Dinh - Bà Rịa Vũng Tàu.


CLB "Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang" tại Hà Nội

Chúng tôi may mắn được tham dự một buổi ngồi thiền cùng các thành viên trong CLB. Đây được xem là một hoạt động thường niên diễn ra vào tối thứ 5 hàng tuần để mọi người rèn luyện sức khỏe, cùng nhau chia sẻ những đạo lý tình người.

Trao đổi PV, bạn Nguyễn Liên (SN 1991 quê ở Hải Dương) một thành viên tích cực của CLB chia sẻ: “Em thấy mình thực sự may mắn khi được biết và tham gia sinh hoạt cùng câu lạc bộ. Trước đây mỗi khi rảnh rỗi, em thường dành cả ngày xem phim, lướt facebook tán gẫu, chơi game. Dẫu biết rằng những thói quen đó không tốt, nhưng không dễ gì bỏ được. Từ sau khi tham gia CLB này, thay bằng những thói quen vô bổ trước kia, em cùng mọi người đã tham gia nhiều vào các hoạt động phúc thiện. Bản thân thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn rất nhiều”.

Được biết, rất nhiều thành viên trong CLB trước kia có lối sống lệch lạc, ích kỉ. Nhưng khi tới đây, được tiếp thu những lời hay lẽ phải, được quen biết nhiều tấm gương sáng trong cuộc sống đời thường, họ đã có những thay đổi tích cực (sống hướng thiện, mở rộng lòng mình với cuộc sống xung quanh…).

Những nghĩa cử cao đẹp

Mang những lời hay lẽ phải vào thực tế, CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” đã có nhiều việc làm tốt đẹp. Trước thực trạng, nhiều tuyến phố trong nội thành Hà Nội bị hư hỏng, xuống cấp, CLB đã phát động phong trào tu sửa đường về đêm.

Đây được xem là một hoạt động hết sức thiết thực với mong muốn giảm thiểu đi những vụ tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra.


Một thành viên của CLB tham gia hoạt động vá đường hằng đêm tại Hà Nội.

Từ kinh phí của các nhà hảo tâm quyên góp, các bạn đã mua được đá, nhựa rải đường và một số dụng cụ thuận tiện cho việc vá đường. Sau khi khảo sát địa hình và dự toán được nguyên vật liệu thì công việc được tiến hành từ sau 21h.

Nguyên vật liệu được các thành viên di chuyển bằng xe máy tới các điểm cần tu sửa. Mỗi tối, các thành viên trong nhóm vá được khá nhiều ổ gà, giúp những con đường nội đô trở nên bằng phẳng, an toàn.


Hiến máu cứu người, một trong những hoạt động thường niên của CLB.

Bên cạnh việc làm trên, CLB còn tham gia rất nhiều hoạt động công tác xã hội như: Tổ chức nhặt rác và làm vệ sinh ở những nơi công cộng như đường phố, công viên, hồ nước…

Trồng cây xanh ở những quả đồi trọc hay cánh rừng đã bị tàn phá nhiều, tặng quà cho những chị lao công, người vô gia cư sau 23h trên đường phố, tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em tại làng trẻ em SOS, tham gia hiến máu tại các trung tâm y tế và viện huyết học truyền máu TW, tổ chức các chuyến đi từ thiện ở vùng miền núi tặng, quà cho các em nhỏ, đồng bào dân tộc, phát cháo từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện…vv.

Phật tử Trần Hưng (Pháp Danh Trí Bảo) phụ trách CLB chia sẻ: “Tất cả những việc làm mà các thành viên của CLB thực hiện hàng ngày đều có chung một mục đích, giúp cuộc sống xung quanh chúng ta ngày một tốt đẹp hơn. Để làm được những điều lớn lao, trước tiên chúng ta hãy bắt tay vào thực hiện những việc nhỏ bé đã”.

Hồng Gấm/Báo Gia đình và Xã hội

(*) Tiêu đề được đặt bởi ban biên tập Thời Thổ Tả. Hôm nay Thời Thổ Tả xin được phép chia sẻ lại toàn văn bài viết trên báo Gia đình và Xã hội. Lý tưởng Cộng sản là gì? Nếu muốn nói dong dài thì nói mấy ngày cũng không hết. Nhưng trước hết, lý tưởng Cộng sản là lý tưởng sống vị tha, với tinh thần "mình vì mọi người", luôn biết hi sinh quyền lợi cá nhân, thời gian riêng tư để đóng góp cho cái chung, phục vụ cho cộng đồng. Đẹp thay người Cộng sản trong màu áo lam hiền!

Cùng là tôn giáo tín ngưỡng, sao một bên thì đi đắp đường, còn một bên thì cứ nhận tiền từ nước ngoài rồi xuống đường chửi bới như Chí Phèo nhỉ?

Nếu chỉ có đời sống vật chất, thì con người bằng ngang với các loài thú khác (*)

Nếu chỉ sống bằng vật chất, con người sẽ chỉ bằng ngang với thân phận các giống loài khác (*)

[…] Con người có 3 điều trong cuộc sống này:
- Thứ nhất là đời sống vật chất.
- Thứ hai là đời sống tinh thần.
- Thứ ba là đời sống tâm linh.

Đời sống vật chất: Ta cần ăn, mặc, ở, cần không khí để hít thở, đó là nhu cầu cơ bản về vật chất. Rồi sau này khi cuộc sống ngày càng phát triển thì ta cần thêm nhiều thứ khác, thêm giày dép, thêm điện thoại, thêm xe hơi… Tất cả đều là vật chất phục vụ cho đời sống.

Đời sống tinh thần: Đó là kiến thức, quan điểm sống, đạo đức sống, những hiểu biết, những tương quan, tình thân ái giữa người và người …


Đời sống tinh thần rất quan trọng. Sở dĩ ta được làm người là do có một đời sống tinh thần phong phú. Bởi nếu chủ sống bằng vật chất, con người sẽ chỉ bằng ngang với thân phận của các giống loài khác. Ví như trong cuộc sống, người nào chỉ quan tâm đến nhu cầu hưởng thụ vật chất là ăn, uống, mặc, ở thì con người đó vẫn còn tương đương với loài thú, mặc dù có tiến bộ hơn một chút là tiện nghi cao cấp hơn mà thôi. Ta xây nhà thì thú chỉ đào hang, làm tổ; ta ăn thức ăn được nấu chín, còn thú thì ăn sống; ta biết dệt vải may đồ để mặc, thú thì không mặc áo quần.

Loài người muốn vượt lên trên khỏi loài thú, mang đến một nền văn minh giá trị cao trong vũ trụ này thì con người cần có một đời sống tinh thần phong phú. Tinh thần bao gồm kiến thức và tình cảm.

Kiến thức có thể được định nghĩa nôm na là sự hiểu biết về một vấn đề, một hiện tượng nào đó (gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, kỹ năng…) có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. Con người tuy nhỏ bé nhưng đã dần khám được cả vũ trụ bao la rộng lớn. Chúng ta biết ngôi sao này cách ngôi sao kia bao nhiêu nghìn năm ánh sáng, ngôi sao này quay quanh ngôi sao kia với vận tốc bao nhiêu vòng… Chỉ cần phân tích ánh sáng phát ra từ một hành tinh mà chúng ta biết được hành tinh đó có những loại vật chất gì. Đó là kiến thức, chính kiến thức cao siêu đó khiến con người cực kỳ có giá trị dù rằng nếu xét trên kích thước, con người không bằng hạt bụi trong vũ trụ bao la.

Còn tình cảm là sự rung động, là thái độ của con người trong mối tương quan đối với những sự vật, hiện tượng, với người khác và với chính bản thân. Trong sự tương quan với nhau, con người biết yêu thương, tử tế, tôn ti trật tự. Đối với cha mẹ biết hiếu kính, nuôi dưỡng, thờ phụng; đối với con cái biết yêu thương, răn dạy nghiêm khắc cho con nên người; đối với thầy giáo thì một lòng ân nghĩa không quên; đối với những người lãnh đạo có công với đất nước thì một lòng cũng trung thành, kính trọng; đối với những người lớn tuổi, đi trước thì dù cho ta có quyền cao chức trọng, ta vẫn luôn trân trọng, lễ phép. Tức là sự tương quan giữa người và người trong nền văn hoá, nhất là văn hoá của dân tộc Việt Nam ta thật sâu sắc, nền nã, đằm thắm, không thể thay thế.

Tuy nhiên, một số người Việt Nam có tư tưởng thần tượng văn hoá phương Tây, bởi vì đời sống vật chất và khoa học ở nhiều nước phương Tây quá phát triển. Nếu chỉ dừng lại ở việc yêu mến và chắt lọc những điều hay để học hỏi thì việc này không có gì phải bàn cãi. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ luôn cho rằng bên Tây phương cái gì cũng tốt, cái gì Tây phương làm đều là đúng. Họ tiếp cận với nền văn hoá nước ngoài chủ yếu là một chiều, thông qua sách báo, tranh ảnh, internet… Họ thấy xã hội phương Tây không có những văn hoá như Việt Nam nên vội vàng kết luận rằng văn hoá của Việt Nam là lạc hậu, là lỗi thờ. Họ cho rằng cách sống tự do, đề cao cái tôi và chú trọng tới sự hưởng thụ mới là văn minh tiến bộ. Họ không biết rằng, chính vì lối sống đó mà tinh thần người phương Tây đầy bất an, rất dễ bị stress, trầm cảm, không kiểm soát được hành vi, không tự cân bằng được cuộc sống, các bệnh lý về tâm thần kinh xảy ra thường xuyên hơn.

Điều đó cho thấy mặc dù dư dả về vật chất nhưng phương Tây vẫn cần phải học phương Đông nhiều về chiều sâu trong cách đối xử giữa người với người. Tiếc rằng những tình cảm tốt đẹp hợp đạo lý của tổ tiên chúng ta chưa được quy định thành những công thức cụ thể cho các thế hệ con cháu ngày nay hiểu được tầm quan trọng của việc giữ gìn, kế thừa và phát huy. Nên rất nhiều người đã mải mê đi du học nước ngoài mà quên mang theo những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc để giới thiệu với bạn bè thế giới. Họ chưa ý thức được rằng còn rất nhiều điều quý giá tồn tại lâu đời ở đất nước Việt Nam này xứng đáng để thế giới phải hướng về học tập.

Thế hệ trẻ của Việt Nam cũng vậy. Có thể một lúc nào đó, chúng ta đã từng xao lãng với những giá trị truyền thống vì sớm được tiếp cận dễ dàng với rất nhiều nền văn hoá khác nhau. Nhưng giờ đã đến lúc nhìn lại, dân tộc ta có Đạo Phật đồng hành bao nhiêu năm nay, giáo lý của Đạo Phật đã in sâu vào từng nếp sống, từng cách nghĩ, từng việc làm của cha ông chúng ta và cả thế giới này đang hướng về Đạo Phật để tìm hiểu và kính ngưỡng. Vì vậy, xin hãy trở về với cội nguồn văn hoá tâm linh của dân tộc. Để rồi kiến thức ấy, tình cảm ấy hợp thành một đời sống tinh thần ngày càng phong phú, khiến cho con người vượt lên, bỏ xa hẳn loài thú.

Trong đời sống tinh thần có một yếu tố rất quan trọng là đạo đức. Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người xung quanh được chuyển hoá, an vui và được nhiều lợi ích.

Người có đạo đức thường biết phân biệt giữa đúng sai, phải trái mà lựa chọn cách cư xử cho đàng hoàng, thích hợp.

Trên thế giới, xã hội nào cũng có luật pháp nhưng nếu trong đó con người sống thiếu đạo đức thì xã hội sẽ hỗn loạn dù cho pháp luật có cứng rắn đến đâu đi chăng nữa. Vì sao? Vì con người tạo ra luật pháp được thì con người cũng có cách để lách khỏi luật pháp đó. Thiếu đạo đức, một quan chức vẫn có thể tham nhũng, một người dân vẫn có thể hối lộ để đạt được mục đích của mình một cách không chính đáng. Cho nên, chỉ khi có đạo đức thì người làm quan sẽ thanh liêm, thượng tôn pháp luật, lo cho dân cho nước, còn người dân thì vừa biết lo bổn phận đối với gia đình mình, vừa biết lo cống hiến phụng sự cho cộng đồng, cho xã hội, cho đất nước.

Đạo đức cá nhân được xây dựng từ sự tự giác của mỗi người, không phải từ sự bắt buộc, cưỡng bách của luật pháp và quyền lực. Vậy làm sao để người ta có được đạo đức một cách tự nguyện? Chính luật Nhân Quả đã làm được điều kì diệu này. Khi tin chắc vào luật Nhân Quả, hiểu biết về đường đi của luật Nhân Quả, biết rằng gieo nhân nào gặt quả đó thì người ta biết chọn nhân để gieo, không dại khờ gì gieo nhân xấu xa ác độc để rồi phải chịu đau khổ. Con người sẽ sống biết kiềm chế lại trước những việc xấu ác, tích cực làm những việc thiện lành tốt đẹp để có được những quả lành. 

Nói như vậy không có nghĩa là ai tin nhân quả cũng là người tốt. Vì sao vậy? Bởi vì khi có chuyện bất như ý xảy ra, tham sân si trong lòng sẽ nổi lên khiến tâm trí con người trở nên mịt mờ, mất đi sự sáng suốt và rồi người ta vẫn làm điều sai trái, độc ác như thường. Cho nên, bên cạnh việc tin hiểu nhân quả, chúng ta còn cần phải đến chùa tu tập hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng để diệt đi cái tham sân si vốn luôn có sẵn trong lòng mình […].

(*) Trích đoạn từ bài giảng “Đừng đi một mình” – Thượng Toạ Thích Chân Quang, thời điểm 00:23:17:  https://youtu.be/kyiX73j4uIs?t=23m17s 

Tương ứng với trích đoạn từ trang 33 đến trang 43 của sách Đừng đi một mình, song ngữ Anh – Việt của Thượng Toạ Thích Chân Quang, do NXB Tổng hợp Tp. HCM ấn hành.

Đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam...

Đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam và thật sự đã trở thành một Đạo, một tôn giáo của người Việt Nam … (*)

[…] Sau khi Đức Phật nhập diệt, giáo lý của Người để lại truyền bá đi khắp nơi, tràn về phương Đông và về nước ta từ rất sớm. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thời Hùng Vương thứ XVIII và người Phật tử đầu tiên chính là Chử Đồng Tử – chồng của công chúa Tiên Dung. Đã có một thời gian, nhiều nhà sư của Việt Nam sang Trung Hoa để dạy đạo, như Ngài Khương Tăng Hội. Ngài là một vị tăng nổi tiếng của Việt Nam. Chính vua của nước Ngô là Tôn Quyền đã phải mời Ngài sang giảng đạo. Rồi sau này có một thời gian Đạo Phật ở Việt Nam bị suy, các vị tăng ở Trung Hoa lại sang Việt Nam giảng đạo khiến nhiều người lầm tưởng Đạo Phật đến Việt Nam sau Trung Hoa, sự thật không phải như vậy.

Trước khi Đạo Phật về Việt Nam, nhân dân ta không có những tín ngưỡng rõ rệt. Khi đó ta chỉ thờ Quốc tổ của mình là Cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ và các đời vua Hùng mà thôi. Đến khi Đạo Phật vào Việt Nam mang theo đạo lý Nhân quả Nghiệp báo, rất phù hợp với lương tâm và cách sống của người dân Việt nên Đạo Phật được nhân dân dễ dàng tiếp nhận. Trải qua bao nhiêu nghìn năm đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, Đạo Phật trở thành tôn giáo của dân tộc, không còn là Đạo của Ấn Độ nữa. Người dân thương yêu mái chùa, thường đến chùa lễ Phật, nghe tiếng kinh thiêng, tiếng chuông ngân nga thong thả lúc hôm sớm, chiều khuya… Cứ như vậy mà trở thành một nếp sống cao đẹp của cả dân tộc từ bao đời nay. Rồi dần dần đạo lý nhân quả, từ bi thấm sâu vào từng người dân, từng xóm làng và vào cả dân tộc, kết hợp với lòng yêu nước và tín ngưỡng thờ quốc tổ, thờ Cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ đã tạo thành một nền tâm linh thiêng liêng rất thiêng, rất đặc biệt của dân tộc ta.

Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có rất nhiều chiến thắng oanh liệt đã đi vào lịch sử, để lại những dấu chấm hỏi mãi chưa ai có thể trả lời tường tận: “Sức mạnh của dân tộc nhỏ bé ấy từ đâu ra”. Ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông” là một trong những sự kiện lịch sử không thể nào quên. Lúc đó, vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên hết cả thế giới này, dường như chỉ biển cả mới ngăn được bước chân của họ. Ngay như Trung Hoa rộng lớn và hùng mạnh cũng bị Mông Cổ chiếm sạch, lập nên triều đại nhà Nguyên. Vậy mà cả ba lần dẫn quân sang đánh chiếm Việt Nam, Mông Cổ đều phải ê chề trở về trong thất bại.

Đầu thế kỷ XIII (13), Trần Thủ Độ âm thầm cài đặt thế lực cho riêng mình để cướp ngôi nhà Lý. Ông đưa người cháu ruột là Trần Cảnh vào cung vua và gả cho Lý Chiêu Hoàng (vị vua thứ 9 của triều Lý), lúc bấy giờ cả hai vị vua còn rất nhỏ. Sau đó, Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng, và quyền lực từ đó chuyển giao cho nhà Trần. Việc này cả nước đều biết. Chúng ta cũng hiểu tâm tình của người Việt Nam là trung quân ái quốc, nên khi nhà Trần soán ngôi nhà Lý thì chắc chắn không được lòng dân thương mến. Đó là quy luật bình thường vào thời phong kiến xưa.

Nhưng, một điều bất ngờ đã xảy ra.

Khi Trần Cảnh đến tuổi trưởng thành và được Trần Thủ Độ đưa lên làm vua, hiệu là Trần Thái Tông thì trong đêm tối Ngài đã trốn khỏi kinh thành Thăng Long, chạy lên núi Yên Tử để xuất gia tu hành. Việc đó tất nhiên không qua được tai mắt của Trần Thủ Độ. Vua trốn đi trước, Trần Thủ Độ nhanh chóng kéo quân đuổi theo sau. Vua Trần Thái Tông lên đến Yên Tử, lập tức đến gặp Quốc sư Phù Vân đảnh lễ xin xuất gia. Cùng lúc đó, Trần Thủ Độ và quân lý cũng ầm ầm kéo tới.

Vua Trần Thái Tông nói với Trần Thủ Độ:
- Ta còn nhỏ dại, không đủ sức để gánh vác việc nước và triều đình này, tâm nguyện ta một lòng mến Phật, ta chỉ muốn đi tu.
Trần Thủ Độ trả lời với thái độ cương quyết:
- Bây giờ cả giang sơn gấm vóc này đặt lên vai bệ hạ, bệ hạ không thể đi đâu được, nếu bệ hạ ở đây thì đây là kinh đô, thần ra lệnh đóng quân ở đây và xây dựng triều định tại đây ngay.
Quốc sư Phù Vân bèn chắp tay nói với vua Trần Thái Tông rằng:
- Làm vua tức là sống theo lòng dân, lấy tâm của dân làm tâm của mình, bây giờ triều thần đã quyết như vậy thì bệ hạ không thể cưỡng được. Xin bệ hạ hãy quay về gánh vác chuyện non sông đất nước, nhưng cũng đừng xao lãng việc tu hành

Trước lời khuyên của quốc sư Phù Vân, vua Trần Thái Tông đành phải theo Trần Thủ Độ trở lại kinh thành.

Tin đồn về việc trong đêm vua bỏ ngai vàng đi tu ngay sau đó đã lan ra khắp cả nước. Dân ta vốn kính mộ Đạo Phật, khi nghe tin có ông vua không màng ngôi báu mà bỏ đi tu thì ngay lập tức sự ác cảm đối với nhà Trần tan biến, người dân chuyển sang yêu mến nhà Trần như đã từng yêu mến nhà Lý. Chính nhờ lòng dân yêu mến, nhà Trần đã giúp cho dân tộc ta có đủ sức mạnh đoàn kết để ba lần chiến thắng vang dội quân Nguyên Mông hung bạo. Sức mạnh của Đạo Phật là ở chỗ đó. Nhờ một vị vua tin yêu Đạo Phật mà ông được toàn dân yêu mến, và vì được toàn dân yêu mến nên ong có được sức mạnh đoàn kết của toàn dân, tạo nên chiến thắng lẫy lừng mà cả thế giới này không có được.

Cho đến thế kỷ XX (20), trước sự xâm lược của những siêu cường quốc làm bá chủ thế giới là thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, dân tộc Việt Nam đã chiến thắng. Đất nước, con người Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng sức mạnh chiến đấu thật phi thường, thông minh tài giỏi đến lạ lùng.

Phải chăng Việt Nam đã có điều gì đó rất quý giá, quý giá hơn rất nhiều sức mạnh cơ bắp và sức mạnh của khoa học kỹ thuật? Đó chỉ có thể là nguồn tâm linh cao quý của dân tộc, trong đó có Đạo Phật. Từ bao đời nay, giáo lý Đạo Phật đã làm đẹp thêm truyền thống văn hoá giàu bản sắc, đã đồng hành với dân tộc, thấm vào máu của mỗi người dân tinh thần trung quân ái quốc, biết sống có đạo lý, uống nước nhớ nguồn, tin sâu nhân quả, … tạo thành sức mạnh bền bỉ và vô cùng to lớn cho dân tộc chúng ta.

Đi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, mái chùa không những là điểm tựa tâm linh mà còn là nơi nuôi giấu chiến sĩ, cán bộ và cơ sở cách mạng. Khi hoà bình lập lại, chúng tôi được gặp rất nhiều người cán bộ từng được ở trong chùa. Họ gánh vác công việc nhà nước nhưng đồng thời vẫn ăn chay, vẫn ngồi thiền nghiêm túc.

Một lần chúng tôi về thăm một ngôi chùa ở huyện Long Đất (Đồng Nai). Ông Chủ tịch huyện tên là Sáu Sơn thường tới lui qua chùa thăm viếng. Hỏi ra thì ông kể, trong cách mạng ông cũng là người ở trong chùa. Từ nơi chùa, ông chỉ huy chiến đấu cả một lực lượng du kích rất lớn. Ông tin Phật, niệm Phật Quan Âm và những cuộc chiến đấu của ông thường là chiến thắng. Sau khi đất nước hoà bình thống nhất, ông giữ chức Chủ tịch huyện, công việc bận rộn là thế nhưng đêm nào ông cũng ngồi thiền. Ông kể cho chúng tôi nghe về công phu thiền định của ông, về việc ông đã nhập được những tầng bậc thiền định như thế nào, các cảnh giới ông đạt được ra sao… Sau này ông mất rất an lành.

Trải qua mấy ngàn năm thăng trầm của lịch sử, chúng ta thấy rõ ràng Đạo Phật luôn đồng hành và đem lại nguồn sức mạnh âm thầm, bền bỉ cho dân tộc này. Sức mạnh tâm linh đó biến thành sức mạnh chiến đấu, sức mạnh bảo vệ và xây dựng đất nước. Ta hiểu điều này và các thế lực ngoại bang cũng đã kịp hiểu điều này. Vì vậy trong diễn biến hoà bình, để chống phá đất nước ta, họ luôn cố tìm cách thay thế Đạo Phật bằng một tôn giáo khác. Đây là dã tâm muốn bứng đi cội gốc văn hoá tâm linh của dân tộc ta. Nếu ngày nào đó Đạo Phật biến mất, ta sẽ lại trở thành nô lệ cho ngoại bang. Cho nên việc chúng ta tu tập theo Đạo Phật, bảo vệ và giữ gìn Phật Pháp cũng chính là ta đang bảo vệ đất nước mình. Chính cái tâm linh thẳm sâu thiêng liêng trong lòng mỗi người dân đã hợp thành một sức mạnh kỳ lạ, lớn lao để bảo vệ và phát triển đất nước.

Trích đoạn gõ lại từ bài giảng Đừng đi một mình của Thượng Toạ Thích Chân Quang, thời điểm 00:11:34 https://youtu.be/kyiX73j4uIs?t=11m35s

Tương ứng với trích đoạn từ trang 23 đến trang 33 của sách Đừng đi một mình, song ngữ Anh – Việt của Thượng Toạ Thích Chân Quang, do NXB Tổng hợp Tp. HCM ấn hành.

Đạo Đức là gì? - Cháu ruột Bác Hồ, Thượng Toạ Thích Chân Quang

Đạo Đức là gì?

- Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được chuyển hóa, an vui, lợi ích.
Như vậy, Đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định lại là Đạo đức không phải là hành vi hay lời nói bên ngoài. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Đạo đức là gốc của những hành vi lời nói tốt đẹp bên ngoài.

Một nội tâm tràn đầy Đạo đức thì luôn luôn bị thúc đẩy phải đối xử tử tế với mọi người, phải đem an vui lợi ích cho mọi người. Nếu chúng ta không thấy mình xấu, nhưng không hề bị thúc đẩy phải cư xử tốt với mọi người thì hãy biết rằng mình chưa có Đạo đức sâu sắc.

Khuynh hướng vị tha được xem là Đạo đức vì khuynh hướng đó luôn khiến chúng ta quan tâm đến những người khác, thậm chí còn hơn lo cho bản thân mình. Vì lúc nào cũng hay quan tâm đến người nên chúng ta nhanh chóng phát hiện ra nỗi khổ, niềm đau, sự khó nhọc, cơn bệnh hoạn của người để tìm cách giúp đỡ. Có khi chúng ta chỉ giúp một lời nói, một ly nước, một viên thuốc, hoặc có khi cả một số tiền lớn… để giúp người qua lúc khó khăn.

Tâm khiêm hạ được xem là Đạo đức vì tâm lý đó luôn thúc đẩy ta phải tôn trọng mọi người. Sống trên đời ai cũng cần được tôn trọng, cần được xem là có giá trị, vì thế khi ta biết tôn trọng chân thành người khác cũng là đem an vui đến cho người. Nhưng muốn tôn trọng người thì ta đừng thấy mình hơn người, nghĩa là ta phải thấy được mình nhỏ bé kém cỏi.

Khuynh hướng kín đáo cũng được xem là Đạo đức vì khuynh hướng này khiến ta không khoe khoang để đi đến tự cao vô ích. Khi ta kín đáo không bày tỏ tài năng, tài sản, thành công, công đức của mình cũng là nhường cho người khác có thêm giá trị vì không bị cạnh tranh bởi sự nỗi bật của mình.

Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng tâm lý đạo đức ở những bài sau.

Nguồn:

Vì sao Bác Hồ thành lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ 27-7 tại một nhà thờ Phật

[…] Giờ Thầy nói thêm điều này. Hôm rồi, Thầy đi ra ngoài Thái Nguyên. Theo lời mời của quý Phật tử, Thầy có đến Đền 27-7 là ngôi đền mà tại đây ngày xưa, Bác Hồ thành lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ. Nên trong ngôi đền cũng có một bàn thờ Bác Hồ. Khi đến nơi Thầy thấy khung cảnh đẹp lắm nhưng điều bất ngờ nhất là bên cạnh bàn thờ Bác Hồ có một gian nhà thờ Phật rất là nghiêm trang. Thầy mới hỏi Phật tử: “Gian nhà thờ Phật này có từ bao giờ”. Phật tử nói là trước đó cả trăm năm. Tức là có trước khi Bác Hồ thành lập ngày 27-7. Lúc đó mọi người dân mới tụ họp lại ngồi xuống trước mặt Thầy đông lắm. 

Thầy mới nói: “Bác Hồ không làm cái gì mà vô tình. Bác Hồ làm gì cũng có chủ ý. Tại sao Bác Hồ không đến nhà thờ lập ngày 27-7? Tại sao không đến một khu đất trống để lập ngày 27-7? Mà đến đúng nơi một căn nhà có thờ Phật để lập ngày 27-7? Ý Bác Hồ muốn cái gì?”. Lúc đó Thầy hỏi và bây giờ Thầy hỏi lại, ai trả lời câu này cho Thầy: Vì sao Bác Hồ đến đúng nơi một ngôi nhà có thờ Phật để lập ngày Thương Binh Liệt Sĩ? Ý Bác Hồ muốn rằng, nói không thành lời, chỉ gửi gắm lại cho nhân dân, LÀ PHẢI ĐƯA HƯƠNG LINH CỦA CÁC ANH EM LIỆT SĨ VỀ NƯƠNG TỰA VỚI PHẬT. Thầy nói vậy có sai không ạ? [Phật tử vỗ tay] Sau khi Thầy nói điều này ra thì mọi người ngỡ ngàng vỗ tay, mừng quá. Thầy mới nói tiếp: “Dựa trên tinh thần hôm nay ta giải mã được điều này – được cái thâm ý của Bác Hồ này, ta mạnh dạn kiến nghị lên trung ương nhà nước rằng: từ đây bất cứ nơi nào có nghĩa trang liệt sĩ, nhà nước phải xây một nhà thờ Phật, để cho anh em liệt sĩ được về nương tựa với tâm linh của Đạo Phật” [Phật tử vỗ tay].

Lá thư bí mật gửi nhân dân Nghệ An và khát vọng giành lại linh hồn cho người Việt Nam của Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (*)

[…] Đúng ra, Chơn Quang phải cảm ơn Thầy rất nhiều. Vì Thầy đã về đây mở mang lại nguồn Đạo Pháp cho quê hương Thanh Chương. Quý Phật tử có biết là, bố Bác Hồ, sau này lưu lạc vào trong miền Nam, có viết thư ra Nghệ An. Thư đó bị giặc Pháp giữ lại. Nhưng sau này, nhà nước ta mới tìm vào những cái hồ sơ lưu trữ và viết điều này lại trong cuốn sách “Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc” ở trang 133, sách viết như thế này: “Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc từ trong Cao Lãnh – Đồng Tháp, viết thư về Nghệ An kêu gọi nhân dân Nghệ An theo Đạo Phật nhưng thư đó đã không đến được đây [tức Nghệ An]”. Bị Phòng nhì Pháp giữ lại. Tiếc rằng bức thư đó không đến được Nghệ An. Chứ nếu bức thư đó đến được Nghệ An thì có lẽ là nền Phật Pháp của Nghệ An ta ngày hôm nay cực kì hưng thịnh, chứ không phải tiêu điều như thế này. Xin trân trọng giới thiệu, Thượng Toạ Quảng Bảo – cũng là người con của Thanh Chương, về dựng ngôi chùa ở Ngưu Tử này, để khơi lại giềng mối Phật Pháp cho quê hương Thanh Chương. Nhìn cảnh chùa thế này ta hiểu được Thượng Toạ vô cùng vất vả. Vì vậy tất cả nhân dân bà con Phật tử ta ở Thanh Chương phải hết sức yêu kính, ủng hộ Thầy. Và cũng xin trân trọng giới thiệu, người ngồi đây gốc tổ cũng ở Thanh Chương. Dù sinh ở trong miền Nam nhưng máu chảy trong người là máu của Thanh Chương, ông cố là người Thanh Chương (**). Nên về đây là về quê hương của mình, rất là xúc động. Nhìn ngôi chùa quê tàn tạ thế này, được Thượng Toạ Quảng Bảo với Thượng Toạ Minh Hiếu về đây trông côi, bắt đầu dựng lại ngôi chùa đầu tiên, trong lòng như muốn khóc, thấy thương hai Thầy quá.

Mà, tại sao, Phật Pháp đối với ta quý đến như vậy? Tại sao bố của Bác Hồ là Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc bao nhiêu năm lưu lạc lại viết thư về Nghệ An bảo dân ta phải theo Đạo Phật? Có điều gì ở trong Đạo Phật vậy? Vì có những điều thế này …


Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc 
- vị quan, nhà nho, thiền sư, chí sĩ yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Luật nhân quả liên quan qua nhiều kiếp sống - Nhân quả công bằng (P5)



Điều chúng ta muốn nói với nhau nữa là: Luật Nhân Quả liên quan với nhau qua nhiều kiếp sống, vì sao vậy? 

Vì có nhiều Quả báo không đủ điều kiện để xuất hiện trong một kiếp nhãn tiền mà phải kéo dài qua nhiều kiếp khác. Như nãy chúng ta nói chuyện, chúng ta mưu hại làm cho người khác bị mồ côi mà kiếp này mình đâu có mồ côi. Thành thử kiếp này mình đâu có trả Quả báo mồ côi, thì phải qua kiếp khác mới trả Quả báo mồ côi đó. Hoặc là kiếp này mình hay lừa đảo làm người khác thật vọng, nhưng mà bây giờ mình thành công quá chẳng ai lừa đảo mình được thì kiếp sau phải bị lừa đảo trở lại.

Hoặc là mình đã giúp cho không biết bao nhiêu người được sáng mắt, hoặc người tàn tật có xe lăn để lăn đi mà kiếp này mình đâu có què tay què chân gì đâu mà ai cho xe lăn. Nhưng mà kiếp sau, thì bây giờ thầy hỏi quý Phật tử trước nhé, nếu bây giờ kiếp này mình thấy người tàn tật đi không được mình mới đi mua xe lăn tặng cho họ thì Nhân Quả là sao? Có phải kiếp sau mình sẽ được tàn tật để người ta cho xe lăn nữa không? Đi xe ô tô, có thể có thật chứ không phải là không, bởi vì sao? 

Bởi vì người ta không di chuyển được mà mình lại giúp người ta di chuyển dễ dàng, đó, cái tính chất đó thôi chứ không phải mình bị đập què chân để được cho xe trở lại. Tức là người khó di chuyển mà mình giúp người ta đi lại dễ dàng thì qua kiếp sau bỗng nhiên đôi chân mình rất là mạnh, rất là vững đi lại dễ dàng mà dễ có xe. Ví dụ như trong thời người ta chạy xe Dream thì mình có xe Dream, đến thời xã hội có xe ôtô thì mình có xe ôtô, mà coi chừng tới thời mà người ta đi máy bay mình có máy bay luôn. 

Đạo đức XHCN: Tinh thần phụng sự "Mình vì mọi người"

The Ones who serve (Người phụng sự) 
- Venerable Thích Chân Quang



Con người thương yêu bằng trái tim hay thương yêu bằng não bộ? (*) - Cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc

Chúng ta nên nhớ điều này, trái tim là một chiếc đồng hồ đo cảm xúc. Khi nhịp tim chúng ta đập đều tức là tinh thần mình an ổn, sức khoẻ mình tốt. Còn khi bỗng nhiên tim đập tăng nhịp lên, báo hiệu tinh thần mình căng thẳng do sức khoẻ kém, tăng xông tăng, nội tiết tố tuyến giáp tăng hoặc do chúng ta gặp chuyện khiến mình vui mừng, sợ hãi. Ví dụ như mình gặp người nào đó, mình chợt thấy tim mình đập nhanh lên một chút là mình biết mình đang có cảm xúc, vì người đó nhìn giống người bạn xưa của mình. Đến khi nhìn kĩ lại thì mình mới biết người đó không phải người bạn xưa của mình, nên nhịp tim trở lại bình thường.Nhịp tim nhanh là một dấu hiệu của cảm xúc. Do tình thương yêu tạo ra cảm xúc, cảm xúc lại ghi dấu ở trái tim nên người ta có cảm giác thương bằng trái tim, thương ai thì tim mình quặng lên, khiến người ta thường hiểu lầm nên cho rằng thương bằng trái tim, chứ thật ra theo khoa học hiện đại thì con người thương yêu nhau bằng bộ não.

Tuy nhiên, có một lần Thầy ngồi thiền, vì đang nghiên cứu về Năm Ấm nên Thầy hướng tâm về cảm thọ (cảm xúc) và trái tim thì Thầy chợt có cảm giác TRÁI TIM CŨNG CÓ MỘT CÁI BIẾT CỦA NÓ, chứ không phải nó chỉ là một khối thịt vô tri. Hình như hôm đó Thầy có nói với Liễu Nghiêm lúc Liễu Nghiêm còn sống. Thầy nói với Liễu Nghiêm là trong trái tim có những tề bào thần kinh như não bộ, tức là NÓ BIẾT SUY LUẬN, NÓ CÓ CÁI BIẾT CỦA RIÊNG NÓ và CÁI BIẾT NÀY TƯƠNG ĐỐI ĐỘC LẬP VỚI NÃO BỘ. Có thể xem nó là một loại não bộ thứ hai. Mấy năm sau, Thầy có đọc trên một tạp chí khoa học, dường như là Kiến thức ngày nay hay Khoa học phổ thông, Thầy không nhớ rõ, có đoạn: "Các nhà khoa học đã phát hiện những tế bào thần kinh như của não bộ tại tim". Vậy là cái thấy của Thầy trong thiền định đã đúng. Cho nên việc người xưa nói thương nhau bằng trái tim, cũng có phần đúng chứ không phải là sai như trước giờ mình nghĩ, không phải con người chỉ thương yêu bằng những suy nghĩ của não bộ, tâm hồn. Sự thật là TRÁI TIM CÓ SUY NGHĨ, CÓ CÁI BIẾT, CÓ CÁI NHẬN ĐỊNH, CÓ CÁI THƯƠNG YÊU RIÊNG CỦA NÓ. Thôi, để lúc khác mình nói nhiều hơn...

(*) Trích đoạn, lược ghi từ bài giảng "Xuân bất tận" của Thượng Toạ Thích Chân Quang, viện chủ Thiền Tôn Phật Quang (núi Dinh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu), cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.

https://youtu.be/pRu1Y0K9dQg?t=44m57s (Thời điểm 00:44:57 - 00:48:58)

Lời người lược ghi: Cái thấy trong Thiền định của Thượng Toạ, nếu mở rộng hơn, tổng quát hơn thành cấp độ cơ thể, thì hoàn toàn trùng khớp với những khẳng định của bác sĩ Deepak Chopra "Chúng ta không chỉ nghĩ bằng cơ thể mà chúng ta có một cơ thể đang suy nghĩ", "Cái biết hay Trí thông minh có trong mỗi tế bào của cơ thể", "Hệ miễn dịch thực sự là hệ thần kinh tuần hoàn", "Tế bào miễn dịch là một tế bào có suy nghĩ, một thực thể nhỏ xíu có ý thức", "Trong thực tế, không có sự khác biệt giữa một tế bào miễn dịch và tế bào thần kinh" - Nguồn các trích dẫn lấy từ quyển sách "Tiêm chuẩn: Sự thật đằng sau sự huyền bí" của tác giả Walene James được dịch bởi anh Hoang Son Truong. Thật thú vị khi cái thấy của một người hoạt động trong lĩnh vực tâm linh lại đồng quan điểm với một người làm khoa học. Quả thật chân lý chỉ là một, thế kỷ nào đó ở tương lai, tâm linh và vật chất sẽ tìm lại nhau, để đưa loài người chắp cánh bay đến một nền văn minh mới - một nền văn minh tâm linh, sau những thế kỷ vô minh, tăm tối mà loài người đã lạc lòng đi theo chủ nghĩa vật chất (Materialism).

CHỦ NGHĨA TỰ DO LÀ LẦM LỖI, LÀ MÊ TÍN CỦA LOÀI NGƯỜI - Cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thượng Toạ Thích Chân Quang

CHỦ NGHĨA TỰ DO LÀ LẦM LỖI, LÀ MÊ TÍN CỦA LOÀI NGƯỜI - Cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thượng Toạ Thích Chân Quang, trích từ bài giảng "Xuân bất tận", sau đây là phần trích lược nội dung: https://youtu.be/pRu1Y0K9dQg?t=52m15s (Thời điểm: 00:52:15).

[...] Những đứa trẻ hiếu động luôn thích đông đúc, náo nhiệt. Đó là lý do vì sao những đứa trẻ đều thích rủ rê, lôi kéo nhau chung vui. Và đó chính là mầm mống cho những lầm lỗi của tuổi trẻ mà thoát ngoài sự kiểm soát của cha mẹ, gia đình. Đối với trẻ, gia đình chỉ có cha và mẹ, vài người anh chị, nên không vui không đã bằng tụ tập một đám bè bạn năm bảy đứa, mưới mấy hai chục đứa chơi vui. Nên vì vậy, những đứa trẻ không được giáo dục kĩ, không biết tự kiềm chế, vẫn thích ra ngoài chơi với bạn bè hơn là ở nhà hưởng sự hạnh phúc êm đềm, ấm cúng của gia đình. Tâm lý này khiến trẻ dễ bị kích động, lôi kéo vào tội lỗi.

Đây là chỗ mà các nhà khoa học chưa đặt vấn đề dù nó rất quan trọng để nghiên cứu, lát nữa Thầy sẽ tiếp tục kết tội sự hạn chế của kiến thức khoa học ngày nay làm cho thế giới băng hoại, không biết ngày nào họ mới tỉnh ra điều này. 

[...] Sự hiếu động, hoạt động cần cho trẻ phát triển cơ thể. Cây mà không có gió thổi cây cũng sẽ chậm lớn. Gió thổi làm cây lung lay làm cây phát triển. Thiên nhiên tạo ra sự tương quan lẫn nhau giữa mọi sinh thể có mặt trong vũ trụ, hành tinh. Nếu cây đứng yên một chỗ thì cây sẽ chậm phát triển vì những vi mạch li ti dẫn nước và chất dinh dưỡng từ rễ lên không được hanh thông, dễ bị nghẹt. Khi gió thổi lung lay, vi mạch được thông, nước và dưỡng chất được đưa lên cành lá, cây sẽ phát triển tốt. [...] Khi trẻ đến tuổi dậy thì, chương trình của ADN quy định sự hiếu động thì ta phải đưa vào não trẻ sự giáo dục tự kiềm chế, để cân bằng lại tâm hồn cho trẻ. Nếu ta không làm được điều này, thì xu hướng hiếu động sẽ thắng thế, trẻ dễ rơi vào tội lỗi và bộ não của trẻ khi đến tuổi 40, 50 trở nên lú lẩn rất nhanh.

Cho nên việc giáo dục tính điềm đạm, tự kiềm chế, tính kỷ luật của trẻ khi trẻ vừa bước vào tuổi dậy thì là rất quan trọng nhưng mà các nhà giáo dục học, các nhà xã hội học, các nhà khoa học chưa thấy điều này. Thế giới chưa thấy điều này. Nên vẫn tiếp tục xô đẩy lớp trẻ đi vào những trò vui cuồng nhiệt và nguy hiểm.

[...] Những niềm vui đến từ đạo đức, lòng vị tha, việc làm từ thiện thì bình an và không làm phát sinh nhàm chán.Những niềm vui từ sự hiếu động khi kéo dài sẽ tạo nên cảm giác mệt mỏi, nhàm chán. Và người ta lại đi tìm cảm giác khác, mạnh hơn, vui hơn, chỗ tột cùng của cảm giác phấn khích đó là ma tuý và tính dục. [...] 

[...] Sở dĩ thế giới này bất an, đau khổ và loạn lạc vì loài người chủ trương tự do quá đáng, cho đó là chân lý. Loài người lật đổ chế độ quân chủ, đặt ra chế độ gọi là tự do, dân chủ. Trong chế độ mới đó con người được quyền tự do rộng rãi, muốn làm gì đó thì làm. ĐÂY LÀ SAI LẦM CỦA THẾ KỶ, CỦA THIÊN NIÊN KỶ. Cái quan niệm con người ta sống phải được tự do, muốn làm gì đó thì làm là MỘT TỘI LỖI LỚN CỦA NHÂN LOẠI. Mà sau này, có thể 5-6 thế kỷ sau, con cháu của chúng ta mới quay lại phê bình quan điểm mà ngày nay loài người đang tôn thờ. Ngày hôm nay ai đứng lên nói con người sống hãy đi tìm sự kỷ luật nề nếp, đừng đi tìm tự do, sẽ bị lên án kịch liệt. Nhưng chắc chắn sau này khi loài người ở nền văn minh cao hơn quay đầu nhìn lại sẽ thấy thế kỷ 19, 20, 21 với những quan niệm tự do chủ nghĩa này là những thế kỷ của lầm lỗi của sai lầm đi mãi từ sai lầm này đến sai lầm kia, con người ở thời đại thế kỷ 19, 20, 21 thật kém văn minh.

Vì sao vậy? VÌ TỰ DO CHỈ CÓ Ý NGHĨA, CHỈ CÓ GIÁ TRỊ, CHỈ ĐEM LẠI HẠNH PHÚC KHI MÀ CON NGƯỜI ĐỦ ĐẠO ĐỨC ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG CÁI TỰ DO ĐÓ. Còn khi con người CHƯA ĐỦ ĐẠO ĐỨC ĐỂ TỰ KIỀM CHẾ LẤY MÌNH, THÌ TỰ DO LÀ PHÁ HOẠI, LÀ ĐỔ VỠ, LÀ NGUY HIỂM. Vậy mà người ta khắp nơi vẫn kêu gào phải tự do, phải tự do!

Vì sao vậy? Vì các nhà khoa học, xã hội học chưa biết rõ hết về não bộ, về tinh thần, tâm hồn, tâm linh của con người. Nên không thấy hết sự nguy hiểm của chủ nghĩa tự do, của những trò vui cuồng nhiệt sẽ dẫn đến tội lỗi như thế nào. Không thấy được sự cần thiết của đời sống điềm đạm mang đến niềm an vui, hạnh phúc, và nó an toàn cho con người như thế nào.

Chính vì chưa biết hết về con người, về não bộ của con người, nên cứ đòi cho con người tự do. Chính các nhà khoa học cũng thú nhận họ chưa biết gì nhiều về não bộ. Chưa biết gì nhiều về não bộ tức là chưa biết gì nhiều về con người. Chưa biết gì nhiều về con người mà dám quyết định vội vã cho con người được tự do đầy đủ, quá trớn. Nên rõ ràng là họ đã có những kết luận, hành động dựa trên sự chưa biết rõ. Nói theo Đạo Phật, đó là vô minh. Còn nói cho đúng hơn thì đó là mê tín, mê tín là "tin theo và hành động theo một điều mà mình chưa biết rõ gì về nó hết". 

Sự công bằng của Luật nhân quả là tuyệt đối - Nhân quả công bằng (P4)


Ta thấy sự công bằng trong một trường hợp này: Có một tên cướp sau khi điều tra nghiên cứu gia đình đó thấy gia đình đó giấu một số của. Thế là hắn lợi dụng lúc nhà sơ hở đột nhập vào trói người trong nhà lại và dí dao vào cổ cắt xẻ từng miếng thịt, cắt chảy máu luôn. Sau khi thấy người nhà máu chảy quá nhiều đau đớn không chịu nổi thì nói ra chỗ chôn vàng đào lên thì thấy đúng sự thật rồi tên trộm cắt cổ người đó cho chết và trốn mất. Luật pháp không tìm thấy, thì khi công an điều tra thì anh ta bị tình nghi nhưng anh ta đã dùng một số tiền chặn đứng nhân viên điều tra, mua chuộc luôn thế là tình nghi của anh bị bẻ sang hướng khác và mất. 

Rồi vụ án đó cho đến ngày anh ta chết cũng không tìm ra thủ phạm, luật pháp thế gian không xử được. Nghĩa là sự công bằng của thế gian mà con người thiết lập lên không đủ sức để giải quyết hết để xử lý hết tất cả mọi điều thiện ác trên cuộc đời này.

Sự công bằng là nét đẹp tuyệt vời của Luật Nhân Quả - Nhân quả công bằng (P3)

Trong Luật Nhân Quả có một tính nổi bật là sự công bằng, Nhân Quả tức là công bằng, nét đẹp tuyệt vời của Nhân Quả chính là sự công bằng. Có người đầu tiên nghe nói về Nhân Quả thì vẫn dè dặt nói rằng: Thầy nói Nhân gì có Quả nấy thì không biết là làm sao chứng minh bởi vì khoa học chưa biết, làm sao thấy được là thực sự là ai ở hiền sẽ gặp lành, ai ở ác sẽ gặp dữ. 

Bởi vì trong cuộc đời của chúng con là con thấy nhiều người dữ mà vẫn giàu, có người hiền đấy mà vẫn nghèo. Mặc dù là tin lời Phật dạy là ở hiền ắt sẽ gặp lành, ở ác ắt sẽ gặp dữ nhưng chúng con dè dặt hoài nghi nhưng mà rất muốn tin. Vì sao lại muốn tin như vậy? 

Bởi vì Luật Nhân Quả là công bằng nên con yêu thích.

Tiết lộ công lao thầm lặng mà vĩ đại của Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc

LGT: TT.Thích Huệ Thông, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Bình Dương trình bày đề tài "Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo", khẳng định ngài Phó bảng - thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là một phật tử, đã được quy y

Như chúng ta đã biết, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Phật giáo lại một lần nữa chung sức đồng lòng tham gia kháng chiến, tích cực dấn thân vào sự nghiệp giải phóng của toàn dân tộc, điển hình là cuộc khởi nghĩa của cư sĩ Võ Trứ (đệ tử của Thiền sư Đá Bạc) tại Phù Cát và Phù Mỹ tỉnh Bình Định vào năm 1898. 

Thiền sư Đá Bạc đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này khiến cho người Pháp gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc thầy chùa”. Kế đến là cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính nổ ra ở phía Bắc, từ Nghệ An ra tới Bắc Ninh quy tụ hàng vạn nghĩa quân là Phật tử. Những cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính và phật tử Võ Trứ đã để lại ấn tượng sâu sắc là Phật giáo luôn hướng về sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong mọi hoàn cảnh. Các chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong thời kỳ này như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Trần Cao Vân… cũng đều phải dựa vào Phật giáo và trong đó có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Hồ Chủ tịch, một tấm lòng yêu nước nồng nàn, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Phật giáo. Đặc biệt, cụ Sắc nhìn thấy rất rõ vai trò và ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo đối với sự tồn vong của dân tộc nên trong suốt hành trình tham gia các hoạt động cứu quốc, cụ đã tích cực tham gia vào các hoạt động chấn hưng Phật giáo. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã rất tích cực tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo, xem đây là phương tiện tối ưu để khơi dậy lòng yêu nước, lấy đạo Phật làm trung tâm để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong bài tham luận “Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo”, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ phần nào chủ đích chấn hưng Phật giáo của cụ Nguyễn Sinh Sắc, chính là để tăng cường sức mạnh vệ quốc của dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Đây là điều rất phù hợp với quan điểm và truyền thống yêu nước của Phật giáo. 

Bắc Ninh: TT. Thích Chân Quang thuyết giảng chủ đề “Giữ gìn sức khỏe cũng là đạo đức”.


Sáng ngày 30/10/2016, (nhằm ngày 30/09/năm Bính Thân), TT Thích Chân Quang – Phó ban Kinh tế Tài chính T.Ư GHPGVN đã đến thăm và thuyết Pháp tại chùa Nhân (thôn Ngọc Khám – xã Gia Đông – huyện Thuận Thành – tỉnh Bắc Ninh) về đề tài “GIỮ GÌN SỨC KHỎE CŨNG LÀ ĐẠO ĐỨC”. Bài Pháp thoại đã đưa ra các quan điểm khác nhau về sức khỏe để các phật tử hiểu rõ hơn về vấn đề này. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ tầm quan trọng của sức khỏe đến đời sống cũng như việc tu hành của mỗi cá nhân. Từ đó, các phật tử biết xây dựng cho mình những phương pháp rèn luyện thích hợp để có đủ sức khỏe đi đến bờ giác ngộ.

Mở đầu bài Pháp, Người chỉ ra rằng chúng ta đang bị chi phối bởi 2 điều là hạnh phúc và khổ đau. Kinh Phật từng nói: “Sống làm sao đừng làm khổ mình, đừng làm khổ người khác”. Câu nói này chứa đựng rất nhiều điều. Có thể thấy ngay rằng nếu bản thân ta có chuyện buồn thì những người xung quanh ta cũng buồn theo. Nhiều lúc, ta nghĩ chuyện mình làm ra không ảnh hưởng đến người khác, nhưng thực sự nó lại không như vậy. Thế nên, cái khổ của chúng ta đều liên quan đến người khác. Ngược lại, cái khổ của người khác cũng liên quan đến ta.

Một trong những yếu tố làm khổ và chi phối ta rất nhiều là sức khỏe. Trạng thái khỏe mạnh cho ta một tinh thần thoải mái, sung sướng, hạnh phúc. Đồng thời nó thể hiện ta là một người có phước, muốn làm gì cũng được. Ngược lại, nếu không có sức khỏe thì lúc nào ta cũng cảm thấy chán trường, mệt mỏi, khó chịu. Cuộc sống của ta vì thế mà gặp nhiều bất tiện, muốn làm gì cũng khó khăn.

Thật vậy, người có sức khỏe làm việc sẽ đạt năng suất cao hơn người ốm yếu. Làm việc năng suất vừa mang lại thu nhập cao, vừa cống hiến được nhiều hơn cho đời khiến ta có phúc, sau này tài chánh sẽ dồi dào lên nhanh. Nghĩa là sức khỏe rất quan trọng. Có sức khỏe mới tạo ra phúc, có phúc đời sống mới khá giả lên được. Vậy nên, không có sức khỏe thì sẽ kém mọi bề. Lúc này, không chỉ khổ ta mà còn khổ lây người khác như kinh Phật đã nói. Hiểu được điều đó, chúng ta cố gắng giữ gìn sức khỏe. Việc này không chỉ vì ta mà còn vì mọi người xung quanh.

Trước đây, ta chỉ suy nghĩ hạn hẹp rằng giữ gìn sức khỏe là cho mình. Từ hôm nay, ta suy nghĩ rộng hơn là để không làm khổ mọi người; để có cơ hội cống hiến, giúp đỡ cho người khác nhiều hơn. Điều này thể hiện ta có tính vị tha, biết suy nghĩ và hành động vì lợi ích cộng đồng.

Hướng về các phật tử, Thượng tọa khẳng định đã tu theo Phật pháp thì phải thấy rằng: Sự có mặt của mình trên cuộc đời này là gánh trên lưng những trách nhiệm lớn. Cuộc sống của ta không phải cho ta nữa mà là cho người khác. Ngoài bổn phận tu tập tâm linh để được giải thoát giác ngộ, ta còn phải cống hiến những điều tốt đẹp, đạo đức, thánh thiện cho cuộc đời này.

Mục đích cuộc đời đặt ra thì nhiều lắm, nhưng là người biết đạo thì chúng ta xoáy vào hai mục tiêu chính đó. Nếu theo đuổi được nó, cuộc sống của ta sẽ thăng hoa, được lên cõi cao, không bị đọa, không đau khổ. Mà để thực hiện được 2 mục tiêu chính đó, ta phải có sức khỏe. Nghĩa là muốn tu, muốn lễ Phật, muốn tụng kinh hay thiền định thì phải có sức khỏe. Khỏe rồi thì ta mới tu, mới cống hiến cho cuộc đời được. Ngược lại, nếu sức khỏe không có, mình muốn lạy Phật cũng không lạy nổi, mặc dù lòng rất tha thiết, nên cũng là thiệt thòi cho ta.

Dịp này, Thượng tọa cũng phân tích về công đức lễ Phật với trọn lòng tôn kính là thế nào. Trong đó nhấn mạnh “Tôn kính Phật là công đức căn bản sinh ra mọi công đức khác, là tâm hạnh căn bản sinh ra mọi tâm hạnh khác. Là đệ tử Phật, nhất là người xuất gia, chúng ta cũng mong ước dựng lập nơi mình vô lượng tâm hạnh tốt đẹp để chính cuộc đời mình được an lạc và đủ tư cách để làm lợi ích cho chúng sanh. Nhưng vô lượng tâm hạnh đó không thể thành tựu nếu thiếu tâm hạnh ban đầu là tôn kính Phật.

Kết quả ban đầu dễ nhìn thấy từ hạnh tôn kính Phật là nhân cách chúng ta từ từ được nâng cao lên. Nếu ngày xưa chúng ta thô tháo, vụt chạc, vội vàng, nhìn vấn đề không sâu sắc… thì sau một thời gian lễ kính Phật, ta sẽ thấy mình điềm đạm chững chạc lại, trông có vẻ khả kính hơn. Và do công đức lễ kính Phật mà trong sâu thẳm, tâm ta có sức mạnh và có trí tuệ biểu lộ ra thành nhân cách khiến mọi người nể trọng. Cũng chính trí tuệ này giúp ta phát hiện ra lỗi lầm tiềm tàng của mình”. Nên có nhiều người cứ thích lễ Phật là vì vậy. Mà nếu không có sức khỏe ta không lễ Phật, không ngồi thiền được.

Với người phật tử, sự cống hiến quan trọng nhất cho cuộc đời là những điều tốt đẹp, đạo đức, thánh thiện, vì xã hội hiện nay có quá nhiều điều xấu xa, bạc ác. Một điều tốt đẹp được gieo vào cuộc đời sẽ giúp cho thế giới sáng lên, có phúc chung lên nhiều hơn và đạo đức cũng được tăng trưởng. Tuy nhiên, ngoài tự bản thân làm, ta còn phải biết khuyên nhủ, tạo điều kiện, giúp đỡ người khác để họ cũng tin vào nhân quả, biết làm nhiều điều thiện như mình. Vậy là ta đã đóng góp rất nhiều vào sự thánh thiện cho cuộc đời.


Xung quanh ta, rất nhiều người có sức khỏe từ bẩm sinh vì phước đời xưa mang lại. Vậy nhưng, họ không biết dùng sức khỏe ấy để tu, để làm phúc hay cống hiến những điều đạo đức cho đời. Họ lãng phí sức khỏe của mình để hưởng thụ những thú vui tầm thường, làm những việc vô bổ, sai trái. Họ không nhận ra rằng sức khỏe là một tài sản lớn, quý giá, cần được sử dụng hợp lí, đúng đắn, nếu không sẽ mang tội lớn. Tội lãng phí này lớn hơn các tội khác rất nhiều lần. Nhưng nếu biết dùng sức khỏe để tu tập thì phước báo tăng nhanh gấp bội.

Thể chất của người Việt Nam ta thua kém rất nhiều so với các nước khác dù ta đã có rất nhiều chiến thắng lịch sử lừng lẫy, oai hùng. Vậy nên, dù có nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên, con người, chính sách,… nước ta vẫn bị chậm lại so với nhiều nước khác. Để khắc phục điều này, chúng ta cần phải có cách rèn luyện phù hợp để nâng cao sức khỏe của bản thân. Đức Phật từng nói: “Không bệnh lợi tối thắng; Niết Bàn lạc tối thắng; Bát Chánh đường duy nhất; Đến bình an bất tử”.

Chúng ta thấy ngay câu đầu tiên, Đức Phật đã khẳng định: Sống giữa cuộc đời mà không mắc bệnh là một điều lợi lớn nhất. Chữ “nhất” này làm cho ta suy nghĩ. Giả sử ta có địa vị, tiền bạc, nhan sắc,… nhưng không có sức khỏe thì sẽ như thế nào? Dù suy nghĩ gì thì ta vẫn phải công nhận điều Đức Phật nói hoàn toàn đúng đắn. Cuộc sống sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa nếu ta không có sức khỏe.

Để có sức khỏe, Thượng tọa gợi mở có 4 phương pháp sau:

– Thứ nhất, ta tránh các nhân quả làm tổn hại đến sức khỏe như: Sát sinh; phá hoại môi trường; không quan tâm đến sức khỏe người khác; làm việc bậy và không dùng sức khỏe để làm gì cả. Đồng thời, tích cực bồi đắp những nhân quả mang lại sức khỏe cho ta. Những nhân quả này là: Hiến máu; phóng sinh; bắc cầu, làm đường; sống có đạo đức; trồng nhiều cây xanh; tôn trọng sự sống của chúng sinh; làm thầy thuốc; sống vui vẻ, nỗ lực rèn luyện và truyền cảm hứng cho những người xung quanh,…

– Thứ hai, có chế độ ăn uống và rèn luyện hợp lí. Khi ăn, ta hãy nghĩ đến cái dược tính thay vì cái ngon của món ăn. Nghĩa là ta phải ăn những thứ có lợi cho sức khỏe, kể cả món mình không thích, chứ đừng ăn bừa bãi. Thêm nữa, hạn chế ăn đạm động vật, từ bỏ được hẳn thì càng tốt. Như vậy, ta đã giảm được sự sát sinh.

– Thứ ba, ta phải biết cân đối đời sống của mình. Ngoài việc cân đối giờ giấc, ta cũng phải cân đối cả sức khỏe để có thể làm hết mọi việc trong một ngày mà vẫn vui vẻ, thoải mái. Mỗi việc ta làm đều phải khoa học, hợp lí chứ đừng tùy ý thái quá theo sở thích.

– Thứ tư, tích cực rèn luyện thể chất. Ta phải phân biệt luyện tập và lao động làm việc. Cả 2 đều là vận động cơ thể nhưng luyện tập mang lại cảm giác thích thú, còn làm việc lại khiến ta buồn chán. Để công việc được suôn sẻ, thoải mái, ta cứ coi như là mình đang luyện tập. Như thế, vừa thoát khỏi tâm lí bị ép buộc, vừa làm việc vui vẻ lại có sức khỏe.

Nói về sức khỏe, phương Tây và phương Đông lại đưa ra 2 quan niệm khác nhau. Theo phương Tây, sức khỏe con người là chỉ số về máu, nội tiết tố, cấu trúc, cân nặng,… Tây y dựa vào những chỉ số đó để đánh giá sức khỏe một con người. Vậy nên, khi đi khám ta thường phải làm các xét nghiệm liên quan đến những chỉ số đó.

Với phương Đông, sức khỏe là cấu trúc của một luồng khí lực vô hình. Họ coi cái vô hình này mới là nguồn gốc giữ gìn sức khỏe của một con người chứ không phải dựa trên những chỉ số như Tây y.

Hiện nay, Đông y đã chứng tỏ khái niệm khí lực vô hình bằng thực nghiệm, nhưng khoa học vẫn chưa tìm thấy, bên Tây y cũng làm ngơ, không lên tiếng. Một trong những kết luận của Đông y sau khi thực nghiệm là: “Toàn thân con người là một cấu trúc khí lực vô hình, được dệt bởi những đường kinh mạch và huyệt đạo. Huyệt đạo là những cái chốt. Nối từ huyệt này sang huyệt kia, là những đường kinh lạc dệt thành một cái lưới nơi con người giống như ta vẽ bản đồ 3D”.

Tức là hình dáng con người giống như cái lưới của khí, được đan thành từng ô và có những luồng chạy qua gọi là kinh hay lạc. Những cái chốt gọi là huyệt đạo. Trong hệ thống khí lực đó, lực chạy lên đầu thì não hư, sức khỏe kém. Ngược lại, lực lắng xuống dưới bụng thì sức khỏe ổn định. Vậy nên, các Võ sư đều dạy học trò minh đứng tấn để luyện chân cho kĩ, khi khí dồn xuống phía dưới thì được tụ lại ở đan điền, không vội chạy lên trên vì “Khí tụ đan điền thì vô bệnh”.

Tuy nhiên, nó chỉ làm ta bớt bệnh tật thôi chứ không hết hoàn toàn được. Khi nào, có cái nghiệp gì đó khiến ta không giữ được lực ở đan điền thì bệnh sẽ trở lại. Để khí tụ ở đan điền thì không thể thiếu thiền định và khí công. Khi ta ngồi bất động, buông lỏng toàn thân thì khí tự rút về đan điền. Đây là nguyên tắc.

Để làm rõ điều này, Người chia sẻ về cách luyện tập để làm xuất hiện tĩnh công của nội công. Tĩnh công làm cho nội lực xuất hiện, đẩy lùi những bệnh lặt vặt. Ngoài việc buông lỏng toàn thân, tập hít thở vào – ra thì những thế động công, thế tập cử động chân tay cũng hỗ trợ cho tĩnh công rất nhiều.

Cuối cùng, Thượng tọa dạy các phật tử thế nạp khí và thụt dầu. Người hy vọng các phật tử ai cũng siêng năng luyện tập để tạo cho mình một thói quen, vừa nâng cao sức khỏe của bản thân, vừa có thể hướng dẫn, giúp đỡ mọi người xung quanh cùng tập.

Bài Pháp thoại kết thúc trong trong sự luyện tập chăm chú, hăng say của các phật tử, nhất là giới trẻ. Đây chính là cách học đi đôi với hành, giúp mọi người hiểu nhanh và nhớ lâu. Nhờ những ví dụ thực tế kết hợp với việc luyện tập tại chỗ, mọi người đã nắm rõ hơn những vấn đề liên quan đến sức khỏe. Đồng thời, có phương pháp rèn luyện riêng, phù hợp với thể chất và điều kiện của bản thân.

Bên cạnh đó, bài Pháp cũng nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng sức khỏe mình đang có. Đừng khờ dại, lãng phí nó vào những trò vui vô bổ để rồi phải trả những cái giá đắt về sau. Mỗi người hãy tự biết gìn giữ và nâng cao sức khỏe của mình để cùng nhau xây dựng một xã hội khỏe mạnh, làm bàn đạp vững chắc cho đất nước đi lên, sánh vai với các cường quốc trên thế giới./.


Tuệ Đăng

Tiên đề của Luật Nhân Quả - Nhân quả công bằng (P2)

Trong Luật Nhân Quả thì tiên đề là như thế này:  
Mỗi ý nghĩ mỗi lời nói và mỗi việc làm của chúng ta đều gây ra một kết quả trở lại cho chính chúng ta. 
Tức là chủ nhân của ý nghĩa, chủ nhân của lời nói, chủ nhân của hành động đều nhận trở lại một cái kết quả tương xứng. Tuy nhiên chúng ta để ý thêm một điều, trong ý nghĩ của chúng ta, trong lời nói và trong việc làm chúng ta chia làm hai loại. Một loại là không có tác động tới người khác, và một loại là có tác động tới người khác. Ví dụ chúng ta vào một cánh đồng trống chúng ta đứng giữa đồng chúng ta hét lên: Ta là vua, ta là vua. Thì như vậy đó là một khẩu Nghiệp từ lời nói và có tác động đến ai không, có liên quan đến ai không ? 



Luật Nhân quả âm thầm chi phối mọi điều trong cuộc sống - Nhân quả công bằng (P1)

Hôm nay là lần thứ hai chúng tôi có duyên về chốn tổ đình Đồng Đắc để trao đổi đạo lý với quý thầy quý cô và quý Phật tử, đề tài hôm nay chúng ta nói chuyện với nhau là Nhân Quả Công Bằng. Như chúng ta được biết Luật Nhân Quả là giáo lý căn bản nhất của đạo Phật. Toàn bộ giáo lý của đạo Phật, từ thấp đến cao, từ đạo để làm người cho nên đạo làm Thánh đều đặt trên nền tảng của Luật Nhân Quả. Và Luật Nhân Quả này không phải là một sự sáng tạo của Đức Phật mà Luật Nhân Quả là một nguyên lý tự nhiên của vũ trụ mà Đức Phật là người khám phá, có cái nhìn xuyên suốt, thấy rõ nhất trong tất cả các bậc thánh của mọi thời đại.


Một góc nhìn về Chủ nghĩa duy vật (Chủ nghĩa vật chất) và vai trò của Đạo Phật ở những thế kỷ tương lai (*)

Thưa Bác theo con hiểu thì thừa nhận sự thật về luân hồi tái sinh cũng đồng nghĩa là thừa nhận luật nhân quả. Thế giới ngày nay có hai thái cực. 

Một là vô thần phủ nhận hoàn toàn thế giới tâm linh, chỉ công nhận sự tồn tại của thế giới vật chất; 

Hai là có thế giới siêu hình do thượng đế hay một đấng nào đó tạo ra tất cả, quyết định tất cả. 

Cả 2 trường phái này đều không công nhận có luân hồi tái sinh vì nếu công nhận điều này thì có nghĩa là hệ thống của họ sụp đổ. Còn với những người không biết đạo (Phật) với bản năng thích hưởng thụ họ thì họ cũng không muốn thừa nhận là có luân hồi tái sinh và luật nhân quả (vì không ai dám đối diện với quả báo mà mình đã gây tạo). Chỉ có Đạo Phật, với sự giác ngộ tuyệt đối của mình Đức Phật đã chỉ ra rằng luân hồi sinh tử là nghiệp của tất cả chúng sinh và Người cũng chỉ ra con đường tu hành để đạt tới giác ngộ giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. 


Bây giờ thấp thoáng ở đâu đó đã có những nhà khoa học thừa nhận có luân hồi sinh tử qua việc họ nghiên cứu những bằng chứng không thể chối cãi, nhưng những ý kiến đó còn lẻ tẻ chưa được công nhận như một hệ thống khoa học nghiêm túc buộc tất cả xã hội phải nhìn nhận để rồi thay đổi nhận thức từ đó có thể kiến tạo một nền văn minh như Bác đã nói. Nếu không loài người cũng chỉ loay hoay với những tiến bộ trong nền văn minh vật chất..và cũng có thể chính nền văn minh ấy sẽ làm cho thế giới này diệt vong.

Ý kiến của con cũng chỉ là ý kiến của kẻ sơ cơ chưa hiểu được nhiều, nhưng con mạnh dạn nêu lên để mọi người cùng suy gẫm về một vấn đề rất lớn và nghiêm túc này. Con rất mong được Bác và các huynh đệ chỉ dạy thêm ạ.

Xưa kia các nhà bác học như Ga li lê, Copernic, Bruno,.. đã phải dũng cảm đối đầu với các thế lực nhà thờ để bảo vệ học thuyết của mình (thậm chí Bruno đã phải bị xử trên giàn hỏa). Thời thế đã đổi thay các nhà khoa học bây giờ có nhiều quyền và điều kiện tốt hơn để nghiên cứu. Tuy nhiên trong vấn đề tâm linh cái khó cho các nhà khoa học là vấn đề ý thức hệ. Ví dụ ở nước ta, ngay cả khi được luật pháp thừa nhận quyền tự do tín ngưỡng nhưng nhiều người (kể cả là cán bộ đảng viên) là Phật tử đấy mà khi khai lý lịch phần tôn giáo không ghi là: Đạo Phật mà lại ghi là "không"...?. Nhiều điểm phải nói là Phật Giáo có những đóng góp cho đất nước nổi trội so với các tôn giáo bạn nhưng các phương tiện thông tin đại chúng báo chí cũng ngại ngùng đưa tin dè dặt hình như còn e ngại bị cho là có sự thiên vị với Phật Giáo...



Trong cái ý thức đó phải nói là cũng có một phần chính do Phật Giáo ít chịu quảng bá về mình trên các phương tiện truyền thông, báo chí và các trang web của Phật Giáo thì chủ yếu là Phật tử đọc còn các tầng lớp khác có quan tâm tới?

Mặc dù với sự khiêm hạ vốn có, nhưng đã đến lúc Phật Giáo cũng cần khẳng định vị thế của mình. Chứng minh được vai trò của Phật Giáo trong sự đồng hành với dân tộc, một yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Phật Giáo cần có sự ủng hộ mạnh mẽ của nhà nước trong việc bảo vệ cho Đạo Phật phát triển lành mạnh, không cho các thế lực thù địch và các tôn giáo khác phá hoại. Điều đó cũng giúp cho mọi người dân kể cả những người không có đạo hay người ở tôn giáo bạn có cách nhìn đúng đắn hơn về Đạo Phật. Đó cũng là đường lối khôn ngoan sáng suốt của nhà nước.

Nhà nước cũng cần lập ra viện khoa học nghiên cứu về Phật Giáo, ở đây sẽ cho ra đời những công trình nghiên cứu khách quan về Phật Giáo Việt nam và thế giới trong đó có thuyết về tái sinh và luân hồi, chỉ khi đó nhận thức cả xã hội mới thay đổi và luật nhân quả mới có cơ hội đưa vào các trường học. Tiếng nói của các nhà khoa học mang tính khách quan dễ thuyết phục tất cả các tầng lớp trong XH.


Để giúp cho quá trình đó có thể diễn ra thì trước hết mỗi Phật tử phải là người vận động tuyên truyền tác động vào dư luận qua đó thuyết phục nhà nước . Đó cũng là một công đức giúp cho con đường tu hành của mỗi chúng ta thuận duyên hơn ạ.

Thành kiến cho rằng Đạo Phật là mê tín là một điều tai hại cho Đạo Phật, góp phần phá Đạo Phật (hoặc do hiểu lầm hoặc do các lối tuyên truyền hay hành đạo không chân chính tạo ra). Phật tử chúng ta cần góp phần dẹp bỏ thành kiến đó bằng cách ủng hộ mạnh mẽ cho đạo Phật chân chính, lên án mê tín. Fb cũng chính là một công cụ để cho chúng ta thực hiện điều đó....Con xin lỗi vì đã dài dòng quá, nhưng vấn đề mà Bác nêu lên đã làm cho con trăn trở không thể không viết. Viết những dòng này con hy vọng góp một giọt nước nhỏ cùng với những gọt nước khác sẽ làm đầy ly... Sẽ làm cho mọi người chú ý ạ.

Nguyễn Công Ích - Nhật Thiện Tâm, thư ký tổng đạo tràng Phật Quang.

(*) Tiêu đề do Thời Thổ Tả đặt.

Thái Bình: Đạo Phật bổ sung điều gì để xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội? (2014)



Lược ghi: ...Tình yêu nước của người đệ tử Phật là đặc tính tự nhiên như hơi thở. Nên bây giờ nếu đất nước có điều gì, ta sẽ thấy người đệ tử Phật xung phong đi trước. Vì ta Vô Ngã quen rồi.

Một điều thú vị nữa là Bác Hồ nói: "Diệt trừ chủ nghĩa cá nhân". Câu nói này hoàn toàn phù hợp với giáo lý của Đạo Phật. Chỉ là một cách nói khác của lời Phật dạy: "Diệt trừ bản ngã" mà thôi.

Nên ta thấy, một người Cộng sản và một người đệ tử Phật gặp nhau giống như anh em trong một nhà. Vì giống nhau từ bên trong lõi của tâm hồn. Bên ngoài thì anh là Đảng viên, ông này là Thầy tu. Nhưng về bản chất tâm hồn thì không khác gì nhau. Một ông thì "Vô ngã", một ông thì "Diệt trừ chủ nghĩa cá nhân"... 


Nguồn; Bài giảng Đạo Phật đẹp như thế nào - Trailer: https://www.youtube.com/watch?v=MVIb_GNEjDQ

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...