Hiển thị các bài đăng có nhãn WB. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn WB. Hiển thị tất cả bài đăng

Hội đồng Quan hệ đối ngoại

Hội đồng Quan hệ đối ngoại (CFR - Council on Foreign Relations) thành lập năm 1921, là Viện chính sách (phi lợi nhuận, think tank) Mỹ và chuyên về chính sách đối ngoại, quan hệ quốc tế. CFR đặt trụ sở tại New York và Văn phòng tại Washington, DC. Các thành viên, khoảng 4.900, bao gồm các chính trị gia cao cấp, hơn một chục thư ký nhà nước, giám đốc CIA, ngân hàng, luật sư, giáo sư và nhân vật truyền thông cao cấp. 


Trong các cuộc họp, CFR triệu tập các quan chức chính phủ, doanh nhân toàn cầu và các nhân vật nổi bật của cộng đồng tình báo, chính sách đối ngoại để thảo luận về các vấn đề quốc tế. CFR xuất bản tạp chí Ngoại giao (Foreign Affairs) hai tháng một số và điều hành Chương trình Nghiên cứu David Rockefeller, có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại bằng cách đưa ra khuyến nghị cho chính quyền Mỹ và cộng đồng ngoại giao, làm chứng trước Quốc hội , tương tác với truyền thông và giới xuất bản về các vấn đề chính sách đối ngoại.

CFR là tổ chức, chứa Cấu trúc quyền lực thực của thế giới, ảnh hưởng rất lớn đến các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, nó lại ít được biết đến.

Thành lập năm 1919 với cái tên ban đầu “Viện các vấn đề quốc tế”, ngày này CFR đã mở rộng quyền lực, sức mạnh, uy tín và phạm vi ảnh hưởng, đến mức có thể coi nó như bộ não của thế giới khi cả hành tinh này đang trong tiến trình phức tạp và đầy bất ổn.

Không có quốc gia nào, khu vực nào, lĩnh vực nào: kinh tế, xã hội hay chính trị có thể nằm ngoài tầm ảnh hưởng của CFR. Một điều khá rõ ràng là nó đã đạt được sức mạnh và tầm ảnh hưởng khác thường như vậy bằng cách đứng sau “bức màn”. Nói thẳng, CFR là tổ chức mờ ám, ít được biết đến, không công khai đối với công chúng.

Mục tiêu cơ bản của CFR là nhìn nhận và và đánh giá trên diện rộng một loạt các yếu tố chính trị, kinh tế, tài chính, xã hội, văn hóa và quân sự bao gồm tất cả các khía cạnh của đời sống công cộng và cá nhân nước Mỹ, các đồng minh và phần còn lại của thế giới. Có nghĩa là bao trùm toàn thế giới. CFR là một trung tâm phân tích, hoạch định địa chính trị và chiến lược đầy quyền lực. Họ xác định các mối đe dọa và cơ hội trong môi trường toàn cầu, đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của các nhóm lợi ích trong CFR và thực hiện các kế hoạch, chiến lược, chiến thuật quy mô lớn trong tất cả các lĩnh vực mà họ để mắt đến. Mặc dù vậy, CFR không bao giờ tự mình hành động, mà hành động của họ được tiến hành bởi các thành viên, các tổ chức hay nhà nước khác.

Do đó, Hội đồng hợp nhất các lãnh đạo hàng đầu của các tổ chức tài chính, các hãng công nghiệp không lồ và giới truyền thông, giới nghiên cứu và các học giả hàng đầu, các nhân vật quân sự, chính trị cao cấp, quan chức chính phủ, trưởng khoa của các trường ĐH lớn, các trung tâm nghiên cứu. Các thành viên CFR không bao giờ tiết lộ và không có cách nào gợi ý họ về mối quan hệ với CFR. 

Theo lẽ tự nhiên, hầu hết các Chủ tịch, Quản trị và cổ đông hàng đầu các công ty trong “Fortune 500” [1] là thành viên CFR. Họ kiểm soát gần 80% nền kinh tế Mỹ và giá trị thị trường họ tạo ra gấp 2,5 lần GDP nước Mỹ.

Tương tự như vậy, là trong lĩnh vực ngân hàng, Chase Manhattan của nhà Rockefeller, J. P. Morgan, Bank of America và Citigroup.

Trong truyền thông, 8 hãng truyền thông lớn nhất và độc quyền.

Trong giáo dục và đào tạo, Harvard, MIT, Johns Hopkins, Princeton, Yale, Stanford và ĐH Chicago.

CFR có 150 nhân vật cao cấp là thành viên chính phủ Mỹ, bao gồm các vị trí quan trọng nhất ở Bộ quốc phòng Mỹ.

 

Trong một số ấn bản, cung cấp thông tin chi tiết về vấn đề này [2]; ở đây chỉ đề cập đến một số thành viên cấp cao và có ảnh hưởng của CFR , chẳng hạn như: David Rockefeller, Henry Kissinger, Bill Clinton, Zbigniew Brzezinski, George W. Bush , cựu Ngoại trưởng Madeleine Albright , nhà môi giới chứng khoán George Soros, Thẩm phán Tòa án tối cao Stephen Breyer, Lawrence A. Tisch (chủ tịch mạng lưới Loews/CBS ), Ngoại trưởng Colin Powell, Jack Welsh (chủ tịch của General Electric), Thomas C Johnson (Chủ tịch CNN và Giám đốc điều hành của Aol/Time - Warner), Katherine Graham (Trưởng nhóm Washington Post/Newsweek/International Herald Tribune); Richard Cheney (Phó TT Mỹ, cựu Bộ trưởng QP dưới thời George W. Bush, và cựu Chủ tịch Công ty Dầu Halliburton), Samuel "Sandy" Berger (Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Bill Clinton), John M. Deutsch (cựu CIA dưới thời TT Clinton), Alan Greenspan (Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang), Stanley Fischer (cựu Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và là Giám đốc CitiGroup), Ann Krueger (Phó Giám đốc IMF), James D. Wolfensohn (Chủ tịch Ngân hàng Thế giới), Paul Volcker ( Chủ tịch C.S. CS First Boston Bank cựu quản lý của FED), John Reed (giám đốc và cựu chủ tịch của CitiGroup); các nhà kinh tế học Jeffrey Sachs, Lester Thurow, Martin Feldman, và Richard N. Cooper; cựu thư ký ngân khố, cựu chủ tịch Goldman Sachs và đồng sáng lập CitiGroup, Robert Rubin, cựu ngoại trưởng của TT Reagan và "người môi giới" xung đột Quần đảo Falkland, Alexander Haig, "người môi giới" xung đột Balkan Richard Holbrook, Chủ tịch IBM, Lewis W. Gerstner, Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ, George Mitchell, Nghị sĩ Đảng Cộng hòa Newt Gingrich và Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Bush - Condoleezza Rice, Đại diện Bán hàng của Bush Robert Zoellick, Eliot Abrams, William Perry, Mark Falkoff, Paul Wolfowitz, Richard Pearl, Richard Hermitage cùng nhiều nhân vật khác.

Sẽ là hợp lý khi kết luận rằng, các kế hoạch được phát triển bên trong CFR liên quan đến toàn cầu hóa nền kinh tế và tài chính, hoặc khu vực nào trên hành tinh sẽ có hòa bình và thịnh vượng, hay sẽ bị sa lầy trong các cuộc xung đột đẫm máu, hay các quyết định được đưa ra để thực hiện các kế hoạch này, thì không có nghi ngờ gì, chúng được điều phối bởi những nhân vật như tổng thống, bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng quốc phòng, kho bạc, đại diện bán hàng, giám đốc ngân hàng và tài chính, đại gia ngành công nghiệp, quản lý các nền tảng phân phối Thông tin, quân đội và các học giả, và những hành động này sẽ dẫn đến kết quả cụ thể, hiệu quả và không thể cưỡng lại.

Thật vậy, để hiểu thế giới hiện đại vận hành như thế nào, cần phải phân biệt quyền lực hình thức với quyền lực thực.

Những gì các phương tiện truyền thông đưa ra cho chúng ta hàng ngày trên báo chí và truyền hình không có gì khác ngoài chúng là kết quả rõ ràng và cụ thể của các hành động từ các cơ cấu quyền lực hình thức (đặc biệt là chính phủ và thị trường nhà nước) để đáp ứng các quyết định rõ ràng của cơ cấu tài chính và doanh nghiệp.

Quyền lực thực nằm trong tay những ai, mà theo một cách ít chú ý hơn - đã lên kế hoạch và quyết định điều gì, khi nào, nơi nó sẽ xảy ra, và ai sẽ thực hiện nó.

Vai trò đặc biệt của Mỹ

Theo quan điểm Mỹ là siêu cường duy nhất của hành tinh hiện nay, sẽ hợp lý khi cho rằng cấu trúc quyền lực thế giới và chính phủ thế giới được thực hiện trực tiếp từ lãnh thổ Mỹ và thông qua cấu trúc chính trị và kinh tế của Mỹ.

Điều này không có nghĩa dân Mỹ là một phần không thể thiếu trong kế hoạch này. Thay vào đó, nó bao gồm tầng lớp thượng lưu và giới thống trị trong cái gọi là cái gọi là Establishment (Tổ chức). Chúng ta đang nói về các lực lượng hoạt động tại Mỹ (cũng như ở Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Argentina, Brazil và Hàn Quốc), nhưng không nhất thiết phải thuộc về chính Mỹ, giống như các đồng minh của họ ở các quốc gia khác không đại diện cho cả người dân và cũng không đáp ứng lợi ích của người dân.

Để hiểu cách nhà nước Mỹ thực sự hoạt động, người ta phải luôn nhớ rằng các chính sách của họ - đặc biệt là chính sách đối ngoại của họ - được kiểm soát từ Washington (nơi vẫn quen gọi là chính phủ Mỹ hay chính quyền của nước Mỹ), nhưng đó là cơ quan quyền lực hình thức.

Tuy nhiên, các quy tắc hoạt động thực sự của chính phủ Mỹ được điều khiển từ New York, nơi có quyền lực thực sự. Điều này có thể hiểu được, vì sức mạnh thực sự cần nền tảng vững chắc dưới chân để có thể thực hiện các chiến lược phức tạp trong không gian và thời gian bao trùm toàn bộ hành tinh và được thiết kế trong nhiều thập kỷ.

Các trung tâm quyền lực này nhanh chóng nhận ra từ nhiều thập kỷ trước rằng không có gì kém hiệu quả và không sinh lời đối với việc tạo ra và thực hiện các chiến lược chính trị, kinh tế, tài chính và xã hội lâu dài hơn một hệ thống dân chủ, với sự công khai cao và thay đổi liên tục, khiến giới lãnh đạo báo cáo với xã hội mỗi bước của mình.

Làm thế nào hiệu quả hơn nhiều để lãnh đạo một cách tình cờ và hành động với sự giúp đỡ của một tổ chức như CFR, về nguyên tắc chính thức là “câu lạc bộ quý ông” [3]. Nó bao gồm những người có quyền lực và ảnh hưởng nắm giữ vai trò lãnh đạo hoặc thậm chí các chức vụ tổng thống trong nhiều thập kỷ. Và không ai trong số họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với bất kỳ ai về các hoạt động của họ, ngoài các chức vụ của họ và trong chính tổ chức.

Và như thế, 3.600 người có thể ảnh hưởng, tác động đến qui mô khổng lồ hàng triệu người trên thế giới.

Trên thực tế, chúng ta đang nói về trục trung tâm của giới thực sự mạnh, vì ngoài CFR còn có các tổ chức tương tự khác, cả Mỹ và quốc tế, chuyên nghiên cứu các vấn đề quốc tế về địa chính trị và thúc đẩy mô hình toàn cầu hiện tại của thế giới:

Viện Hudson, Tập đoàn RAND [4], Viện Brookings, Ủy ban ba bên [5], Diễn đàn kinh tế thế giới, Viện Aspen, Viện doanh nghiệp Mỹ, Deutsche Gesellschaft für Auswärtigen Politik, Nhóm Bilderberg, Viện Cato, Viện Carnegie Endowment for International Peace, là họ trong số những tổ chức khác.

Tất cả các trung tâm trí thức hay “ngân hàng não”, trên mạng, như cách được gọi ở Mỹ, tập hợp những người giỏi nhất trong các lĩnh vực khác nhau, miễn là họ hành động theo các mục tiêu chính trị chính của giới toàn cầu: thành lập một chính phủ tư nhân toàn cầu (hay gọi là NWO – New World Order), phá hủy một cách có hệ thống cấu trúc của tất cả các quốc gia có chủ quyền (mặc dù rõ ràng không phải tất cả đều giống nhau và cùng một lúc), tiêu chuẩn hóa văn hóa xã hội, sự ra đời của một hệ thống đầu cơ-cho vay tài chính toàn cầu, tạo ra dư luận công chúng xã hội toàn cầu ​thông qua tác động-thao túng tâm lý mạnh mẽ trên quy mô hành tinh và quản lý của hệ thống chiến tranh thông tin toàn cầu để đoàn kết-tập hợp quần chúng bằng cách liên tục kích động một số kẻ thù bên ngoài, thực hoặc tưởng tượng [6].


Nguồn gốc của CFR

Vào tháng 5 năm 1919, một nhóm nhỏ gồm các chủ ngân hàng, luật sư, chính trị gia và học giả có ảnh hưởng - tất cả tham gia vào đàm phán giữa Đồng minh chiến thắng và phe bại trận trên chiến trường châu Âu tại khách sạn Majestic ở Paris, họ đưa ra quyết định phi tiêu chuẩn: thành lập hai “ngân hàng não bộ” hay hai Lodges với mục đích bảo vệ lợi ích thế giới Anglo-Saxon.

Từ tổ chức này, ngày nay đã phát triển đến mức độ trở thành trung tâm quy hoạch địa chính trị và địa kinh tế quan trọng nhất trên toàn hành tinh, hơn 80 năm phát triển của một Trật tự thế giới mới bắt đầu, phù hợp với lợi ích của thế giới Anglo-Saxon và lợi ích của Liên minh Bắc Mỹ ngày nay.

Bản chất của chiến lược này là để tạo ra hai tổ chức: một ở London, được đổi tên thành Viện Hoàng gia các Vấn đề Quốc tế (Royal Institute of International Affairs - RIIA), và một ở Mỹ, gọi là Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations - CFR), trụ sở chính tại thành phố New York.

Cả hai tổ chức đều mang dấu ấn tư tưởng sống động tiệm tiến CNXH như một trục kiểm soát tập thể, những ý tưởng đã được Hội Fabian ở Anh ủng hộ, và được tài trợ bởi Nhóm Bàn tròn của ông trùm Nam Phi Cecil Rhodes và gia đình nhóm tài chính quốc tế Rothschilds. CFR cũng cung cấp hỗ trợ và hỗ trợ tài chính cho giới nhà giàu và quyền lực nhất Mỹ, như Rockefeller, Morgan, Mallon, Harriman, Aldrich, Schiff, Kahn, Warburg, Lamont, Ford, Carnegie (sau này, đặc biệt thông qua Carnegie).

Kể từ khi thành lập, CFR giành được sự ủng hộ của các nhà xuất bản, và thậm chí ngày nay tiếp tục có các ấn phẩm uy tín và ảnh hưởng nhất của Mỹ trong lĩnh vực phân tích địa chính trị: Foreign Affairs, tờ tạp chí mà người ta nói "hôm nay được in trong Foreign Affairs, ngày mai sẽ chuyển thành chính sách đối ngoại chính thức của Mỹ”.

Trong số những người sáng lập và lãnh đạo đầu tiên của CFR có những nhân vật nổi bật, như: Allen Welsh Dulles, một trong những bậc thầy ý tưởng về lập kế hoạch, tình báo và gián điệp Mỹ, Dulles đã củng cố cấu trúc CIA, biến nó thành một trung tâm đầu não của Mỹ; nhà báo Walter Lippmann, chủ bút và sáng lập tờ tạp chí The New Republic, cũng là một nhà chiến lược tâm lý xã hội sắc sảo; ngân hàng Otto Kahn Paul Moritz Warburg [7], Warburg là người DT gốc Đức di cư sang Mỹ, nơi năm 1913, ông ta soạn thảo và thực thi luật tạo điều kiện cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang - FED, một ngân hàng trung ương tư nhân của Mỹ kiểm soát toàn bộ cấu trúc tài chính của người Mỹ.

 

Vào cuối Thế chiến II và như một phần của Trật tự thế giới mới thời kỳ hậu chiến, ngoài Ngân hàng Dự trữ Liên bang - FED còn bổ sung thêm Quỹ Tiền tệ Quốc tế-IMF và Ngân hàng Thế giới-WB, 2 ngân hàng này cũng do các thành viên CFR thành lập.

FED, IMF và WB cùng nhau kiểm soát hệ thống tài chính toàn cầu hiện tại. Ở đây đủ để chỉ ra rằng toàn cầu hóa duy nhất mà ngày nay quan sát và đánh giá được trên toàn thế giới là toàn cầu hóa hệ thống tài chính, giải phóng (loại bỏ) sự kiểm soát nhà nước, trong khi các hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu ngày nay tiếp tục tập trung vào khu vực nhà nước [8].

Trong số thành viên sáng lập của CFR, ví dụ, có nhà địa lý và chủ tịch của Hiệp hội địa lỹ Mỹ, Isaiah Bowman, ông này cùng với một đội ngũ Bắc Mỹ tham gia vào phát triển của bản đồ mới cho châu Âu sau Thế chiến thứ nhất. Bản đồ này, được hỗ trợ bởi Hiệp ước Versailles, nó bị cho là gây ra nhiều bất ổn trong những thập kỷ tới. Đó là hai nhà kinh tế của CFR, Owen D. Young Charles Daves, những người ở độ tuổi hai mươi đã phát triển kế hoạch "tái tài trợ" các khoản nợ áp đặt lên nước Đức bại trận sau chiến tranh.

 

Chính các thành viên CFR, với tư cách là các lãnh đạo cấp cao của FED, đã kích động sự giả mạo và giảm cung tiền, mở ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929 còn gọi là Đại suy thoái. Còn sau đó, những người có nhiều tiền luôn thoát ra được khỏi cuộc khủng hoảng.

Cũng chính các thành viên CFR đã gây áp lực dư luận thông qua các phương tiện truyền thông phổ biến nằm dưới sự kiểm soát của họ: đài phát thanh NBC và CBS, Washington Post và New York Times, để phá vỡ ý tưởng về sự trung lập của Mỹ trước khi cuộc chiến mới nổ ra ở châu Âu năm 1939.




[1] "Fortune 500" - 500 doanh nghiệp lớn nhất của Mỹ theo các đánh giá, mỗi năm đều được liệt kê trên tạp chí “Fortune".

[2] Xem "Bộ não của thế giới: bộ mặt ẩn của toàn cầu hóa" //. El Cerebro del Mundo: la cara oculta de la Globalización (Ediciones del Copista, Córdoba, 1999, 404 p.)

[3] Đó là cái tên mà nhà sử học Peter Gros gọi CFR trong tác phẩm của mình về nguồn gốc của CFR, “Tiếp tục cuộc điều tra - Continuing the Inquiry” (Council on Foreign Relations publications, Нью-Йорк, 1996). Gros cũng là một thành viên của CFR.

[4] "Ngân hàng não" của Không quân Mỹ và thiết lập Internet. Được hình thành ngay sau WW-2, kết hợp giữa Không quân Mỹ và Cty Douglas.

[5] Được thành lập vào năm 1973 bởi David Rockefeller. Kết hợp các lợi ích của Mỹ / Canada, Tây Âu và Nhật Bản, còn tư tưởng của nó – là Zbigniew Brzezinski, giáo sư Georgetown và ĐH Columbia và cũng là cố vấn an ninh quốc gia dưới thời TT Jimmy Carter (Carter cũng là một thành viên của CFR và của Ủy ban ba bên).

[6] Trong số những "kẻ thù" của vài thập kỷ qua, có thể có vài cái tệ: chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quốc xã, Nhật Bản, Chủ nghĩa Cộng sản, ô nhiễm môi trường, chủ nghĩa khủng bố, Saddam Hussein, Slobodan Milosevic, trào lưu chính thống Hồi giáo, chủ nghĩa quân phiệt, chống Do Thái (antiSemite), cuộc chiến chống ma túy…

[7] Warburg là gia đình ngân hàng Do Thái rất có uy tín và mạnh ở Đức, thân cận Rothschilds và Jacob Schiff - chủ sở hữu của Kühn, Loeb & Co. ở New York. Paul Warburg là đối tác của họ. Sau WW-1, có nhiều tình tiết minh chứng Paul Warburg đứng sau Đồng minh tại Hội nghị Versailles, trong khi Warburg khác – người anh trai của Paul là Max đứng về phía Đức. Jacob Schiff, đối tác của Paul Warburg, cũng từng tài trợ cho Nhật vào năm 1905 chống lại Đế chế Nga và cũng cấp tiền cho các nhà cách mạng chuẩn bị cuộc cách mạng Bolshevik.

[8] Điều này có thể chứng minh bằng thực tế rằng thương mại quốc tế chỉ chiếm 12-15% Tổng sản phẩm tích lũy bởi tất cả các nước. Nghĩa là 85% hoạt động kinh tế thế giới vẫn tập trung trong nội tác nền kinh tế các nước. Một vấn đề hoàn toàn khác là tài chính quốc tế muốn được bao phủ toàn cầu. Hơn nữa, có thể lập luận rằng nếu hệ thống tài chính toàn cầu hóa nhờ công nghệ thông tin và viễn thông là phù hợp với mô hình của thế kỷ 21, thì hệ thống kinh tế thế giới ngày nay đã hướng tới các quốc gia và phù hợp với mô hình quốc gia của thế kỷ 20. Cuối cùng, hệ thống chính trị nhà nước hiện tại dựa trên mô hình tự do dân chủ thế kỷ 18 và 19. Trong sự bất cân xứng này, chúng ta phải tìm thấy hầu hết các xung đột nghiêm trọng của thế giới hiện đại và tương lai: hệ thống tài chính của thế kỷ XXI; Hệ thống kinh tế thế kỷ XX; và hệ thống chính trị của thế kỷ XIX.

Thất bại của Monsanto và cây trồng biến đổi gen ở Ấn Độ


Mặc dù truyền thông phương Tây ra sức phủ nhận, nhưng sự liên quan Monsanto đến cái chết của 300.000 nông dân Ấn Độ là rõ ràng. Kể từ 1995, thất bát mùa màng và mắc nợ vì cây trồng biến đổi gen đã đẩy họ đến đường cùng tự tử. 

Báo cáo của Cơ quan lưu trữ tội phạm quốc gia (NCRB) tiết lộ rằng, từ năm 1995 đến năm 2011, 290.740 nông dân đã tự tử do thất bại kinh tế, nghèo đói phá sản gây ra bởi áp dụng GMO. Và trong những năm đó, dù không có số liệu chính thức, nhiều khả năng có thêm hàng ngàn vụ tự tử khác nữa, đưa con số này lên ít nhất là 300.000 và có thể cao hơn.


Như tiến sĩ Vandana Shiva giải thích, công nghệ cây trồng biến đổi gen con ngựa gỗ (Trojan Horse) mà các tập đoàn xuyên quốc gia sử dụng để chiếm đoạt quyền kiểm soát các nguồn cung cấp lương thực toàn cầu. Với lời hứa giả dối tăng năng suất và giảm chi phí, các tập đoàn như Monsanto đã nhào vào và khóa cứng nông dân Ấn Độ trong các thỏa thuận hợp đồng, chúng làm họ lệ thuộc vào hệ thống nông nghiệp tập trung hóa, và trong nhiều trường hợp, kết thúc bằng việc phá sản của chính họ.

Trước khi Monsanto đến và thay đổi tất cả mọi thứ, nhờ chính sách hạt giống 1988 của WB, nông dân Ấn Độ trồng bông loại bông truyền thống cùng với các loại cây trồng khác, chúng chống lại các loài phá hoại côn trùng gây hại một cách có hiệu quả để tự bảo vệ chúng. Các hạt giống tự nhiên được nông dân lưu trữ năm này qua năm khác và gieo trồng mà không phải trả tiền bản quyền cho hạt giống mới.

Hệ thống nông nghiệp cổ truyền không phải là hoàn hảo, tất nhiên. Nhưng nó cho phép nông dân Ấn Độ tự do lựa chọn và kiểm soát số phận nghề nông của riêng họ và không nhấn chìm họ trong cảnh nợ nần quá nhiều, đó là điều mà nhiều người trong số họ đang phải đối mặt vì hậu quả GMO của Monsanto. Theo nghiên cứu sâu rộng của tiến sĩ Shiva, hệ thống mới đã cơ bản tạo ra tình trạng nô lệ của nông dân Ấn Độ, những người hiện đang bị khóa chặt vào thỏa thuận hợp đồng Công nghệ sinh học, họ không có lối thoát.

"Thông qua các bằng sáng chế độc quyền về giống, Monsanto đã trở thành 'Thánh đời' của hành tinh chúng ta, chúng thu tiền cho thuê đổi mới cuộc sống của người nông dân, những người lai tạo hạt giống đầu tiên", tiến sĩ Shiva trên Global Research.

"Đây là những hạt giống lừa dối - lừa dối rằng Monsanto là tác giả của hạt giống và đời sống, lừa dối bởi trong khi Monsanto kiện nông dân bẫy họ trong nợ nần, nó giả vờ đang làm cho nông dân phát đạt, lừa dối rằng GMO nuôi sống thế giới. GMO đang thất bại trong việc kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại, thay vào đó đã dẫn đến sự xuất hiện của sâu bệnh và vi sinh vật phá hoại mới.” Ở Ấn Độ, Monsanto đã chiếm đoạt bất hợp pháp quyền kiểm soát 95% hạt giống bông, nhưng không hề bị trừng phạt.

Tiến sĩ Shiva tài liệu về sự thâm nhập của Monsanto vào Ấn Độ bắt đầu từ cuối thập kỷ 1980, với lý do tiếp quản sự tăng trưởng của hệ thống nông nghiệp quốc gia. Tất cả bắt đầu khi Ấn Độ bãi bỏ qui định trong lĩnh vực giống, dẫn đến sự tập trung dần dần của ngành giống. Monsanto đã tiến hành mua lại tất cả các công ty hạt giốngnó có thể với tay, tạo ra các liên doanh và các thỏa thuận cấp phép với những gì còn lại.

Đúng lúc, vựa giống chung có sẵn cho nông dân Ấn Độ lại bao gồm gần như toàn hạt giống Monsanto đã được cấp độc quyền sáng chế, chúng được gán thương hiệu tiếp thị như là hạt giống thần kỳ sẽ làm cho nông dân giàu có cung cấp lương thực cho tất cả mọi người. Một khi được chấp nhận, tuy nhiên, những hạt giống "kẻ hủy diệt" này hóa ra lại có tác dụng ngược - hàng trăm ngàn nông dân Ấn Độ đã mất thu hoạch với cây trồng của họ, tài khoản ngân hàng của họ, kế sinh nhai của họ và trong nhiều trường hợp, cuộc sống của họ, như hậu quả mắc bẫy cái mồi GMO.

"Hạt giống từng là tài nguyên chung của nông dân bị biến thành “tài sản trí tuệ" của Monsanto, và từ đó chúng bắt đầu thu tiền bản quyền, và làm tăng chi phí cho hạt giống", Tiến sĩ Shiva giải thích. "Hạt giống bông thụ phấn tự nhiên bị thay thế bằng cây lai, gồm cả lai GMO… Bông trước kia được trồng xem với cây lương thực thì giờ trồng như cây độc canh, bị tổn thương cao hơn với sâu, bệnh, hạn hán mất mùa."

Giờ Monsanto đang sở hữu một con số khổng lồ 95% hạt giống bông Ấn Độ, mà theo bất kỳ định nghĩa được chấp nhận nào của khái niệm này là độc quyền gần như toàn bộ. chỉ có thể đạt được điều này, tất nhiên, thông qua lừa dối và hoạt động phi pháp, bao gồm cả thử nghiệm ngoài trời tiến hành vào cuối thập kỷ 1990 điều đó đã không bao giờ được chấp thuận bởi chính phủ Ấn Độ. Monsanto tiếp tục những thử nghiệm, bất hợp pháp của họ, và cuối cùng chiếm quyền kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp này.

Tiến sĩ Shiva kết luận: "Độc quyền hạt giống của Monsanto hủy diệt sự lựa chọn khác, thu siêu lợi nhuận dưới hình thức bản quyền, tính dễ bị tổn thương ngày càng tăng của độc canh đã tạo ra khung cảnh cho các khoản nợ, tự tử nỗi đau ruộng đất đem đến nạn dịch tự tử của nông dân Ấn Độ".

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...