Hiển thị các bài đăng có nhãn Thích Chân Quang. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thích Chân Quang. Hiển thị tất cả bài đăng

Hai nhánh rẽ của nền văn minh nhân loại - TT. Thích Chân Quang

Thời Thổ Tả xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả một bài nói chuyện rất hay về lịch sử văn minh nhân loại của người cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - Thượng Toạ Thích Chân Quang:


Tình thương yêu mênh mông, ôm hết mọi linh hồn … (*)

Thầy vừa nói đến một tình thương bao la ôm ấp hết mọi linh hồn, làm Thầy nhớ đến bài thơ của Việt Phương, ngày Bác Hồ mất ông viết bài thơ rất là dài, trong đó có một đoạn thế này, ông kể rằng khi Bác Hồ đọc một bản báo cáo “trận đánh đó ta thắng rất là đẹp, giết được rất nhiều quân thù”, Bác Hồ buồn. Bác Hồ nói “một trận đánh giết được nhiều quân thù để thắng không phải là một trận đánh đẹp”. Thì ông thư ký của Bác Hồ mới gạch chữ “đẹp” đi từ đó mới có vầng thơ:

Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là “đánh đẹp”
Con xóa chữ “đẹp” đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con
Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn

Bài thơ thật cảm động, thật hay. Tức là trong chiến tranh bị buộc phải đánh nhau, vẫn phải chiến thắng, không có nhu nhược. Nhưng mà không hề ghét ai, cả quân thù Bác cũng yêu thương. Trận đánh giết nhiều người, dù người đó là quân thù, lòng Bác cũng rất chua xót. Thật sự, nhiều người nói Bác Hồ là Thánh cũng đúng chứ không phải không. Thì, chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng phải tập yêu thương để làm sao được như lời thơ của Việt Phương ca ngợi Bác Hồ: “Tình yêu thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn”. Chúng ra phải tập như vậy. Tập điều đó trong những giờ phút ta sống bên nhau như thế này. Trong những ngày Tết đầm ấm, thiêng liêng như thế này.

(*) Trích đoạn gõ lại từ bài giảng “Tết đầm ấm, Tết thiêng liêng” của Thượng Toạ Thích Chân Quang trong một đêm giao thừa tại Chùa Phật Quang, núi Dinh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, thời điểm 00:58:42: https://youtu.be/Q2NZVJcqEII?t=58m42s 

Bài thơ đầy đủ “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương”: http://vuhuu.edu.vn/null/Ebook/Bac_Ho/hanoi.vnn.vn/chuyen_de/1905/tho/bai22.html  

Sức mạnh tinh thần

Bài viết tuy dài nhưng cực kì giá trị, mong quý bằng hữu kiên nhẫn đọc đến hết ạ (Thời Thổ Tả).

Sáng ngày 02/04/2017, (nhằm ngày 06/03/năm Đinh Dậu), TT Thích Chân Quang - Phó ban Kinh tế Tài chính T.Ư GHPGVN đã có buổi thuyết Pháp về chủ đề “SỨC MẠNH TINH THẦN” tại chùa Tương Mai (Trương Định, Hà Nội), với sự tham dự gần 5 nghìn phật tử xa gần. Bài Pháp thoại đã gợi mở cho mọi người thấy đặc điểm và vai trò quan trọng của sức mạnh tinh thần đối với đời sống nội tâm của con người. Đồng thời, chỉ ra các phương pháp rèn luyện, giúp nâng cao tinh thần. Từ đó, các phật tử siêng năng thực hành, xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn trên con đường giác ngộ giải thoát. 

Mở đầu bài Pháp, Thượng tọa khẳng định nhiều người trên đời này có tinh thần mạnh mẽ nhưng cũng không ít người có tinh thần nhu nhược; nhiều người khi gặp chuyện buồn thì suy sụp, suy sụp đến mức làm ra các chuyện sai lầm, thậm chí là tự tử, nhưng cũng có nhiều người lại chịu đựng, gắng gượng, phấn đấu để vượt qua, đứng lên làm lại từ đầu. Vậy nên mới có câu “Thất bại là mẹ của thành công”. Tất nhiên, phải qua rất nhiều trường hợp, chúng ta mới đúc kết được câu thành ngữ quý giá này. Bởi thực tế, những người đã đi qua thất bại, biết mạnh mẽ đứng lên, biết rút ra những bài học từ những lần vấp ngã thì lần sau sẽ được thành công. Làm được điều đó bởi họ có tinh thần mạnh mẽ. Không chỉ vậy, người có tinh thần mạnh mẽ khi gặp chuyện khó khăn thì dám chiến đấu, tìm cách tháo gỡ để vượt qua; khi bị chỉ trích, công kích thì tỉnh bơ, không dao động, việc gì đúng thì vẫn cứ làm. Ngược lại, những người nhu nhược khi gặp chuyện khó thì ngại ngùng, sợ, không dám dấn thân; khi bị chê bai, chỉ trích thì rụt rè, nhụt chí, bất an. Thượng tọa chia sẻ: Có lần Thượng tọa gặp một vị Tăng cũng rất tài giỏi. Sau khi thăm hỏi nhau, vị này bộc bạch: Nhìn thấy con đường vấn thân, hoằng Pháp của Thượng tọa mà con lo sợ! Con thấy Người làm được việc quá, lại có tiếng tăm, nhưng lại bị lời ra tiếng vào, có nhiều người xấu lợi dụng hệ thống mạng xã hội, internet để tạo hiệu ứng đám đông, họ xúm vào chửi mắng, công kích tràn ngập. Do vậy, con sợ, con không dám làm gì hết. Con thật nể Thượng tọa – trước những làn sóng dư luận mà Người cứ tỉnh bơ tồn tại, coi như không vậy, lòng nhiệt huyết vì đạo của Người vẫn không hề thay đổi. Dịp này, Thượng tọa trình bày quan điểm của mình mà cũng là lời động viên dành cho vị huynh đệ đồng đạo rằng: Đúng là bản thân Người bị chê bai, chỉ trích rất nhiều. Không chỉ nói miệng mà họ còn nói trên các phương tiện đại chúng. Nhưng vì Phật pháp, Người không để ý đến những làn sóng dư luận, cố gắng hoằng dương giáo hóa, làm lợi ích chúng sinh. Theo Người, một khi đã đi tu thì không còn sống cho bản thân, giặc chưa đánh mà mình đã sợ hãi rút chạy, thì chỉ có thua, làm gì còn sức để chiến đấu. 

Không chỉ ngày nay, mà từ xa xưa, lịch sử đã chứng minh tinh thần mạnh mẽ có vai trò rất quan trọng. Nhờ có nó mà cha ông ta mới ghi nên được những trang sử hào hùng, đánh bại rất nhiều giặc ngoại xâm, bảo vệ thành công chủ quyền và nền hòa bình của dân tộc. Nhắc lại lịch sử để ta thấy ai có tinh thần mạnh mẽ là đang được một ưu thế rất lớn trong cuộc sống. Dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng có thể tự đứng vững để bảo vệ lấy cuộc đời mình và che chở cho bao nhiêu người khác. Trong khi những người nhu nhược thì lúc nào cũng sợ hãi, lúc nào cũng phải dựa dẫm vào người khác, chẳng thể làm chỗ tựa được cho ai. Thế nên, những người có tinh thần manh mẽ, nếu có thêm đạo đức nữa thì đúng là có lợi cho bao nhiêu người xung quanh mình. Lại thêm, cuộc đời này luôn bất ổn, không lúc nào bình yên. Chỉ những người có tinh thần mạnh mẽ và có đạo đức mới vượt qua được những giông bão của cuộc đời. Do đó, ngoài kiến thức, đạo đức thì sức mạnh tinh thần cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng, cần thiết trong hành trang bước vào cuộc đời của ta. 

Tuy nhiên, ta cần phải nhận biết và phân biệt cho rõ sức mạnh tinh thần với sức mạnh của thể chất, bởi đôi khi chúng cũng khác nhau. Nhiều người luyện võ rất giỏi, cơ bắp vạm vỡ, nhưng khi gặp chuyện lại trốn mất, không dám đương đầu với khó khăn. Trong khi những cô gái nhìn vẻ bề ngoài thấp bé, nhưng gặp chuyện gì cũng dám đương đầu để chiến đấu mà không sợ gì hết. Người có sức mạnh tinh thần cũng có cái hệ lụy. Nhiều khi mạnh mẽ quá mà không có sự tu tập thì bản ngã sẽ tăng lên, biến họ thành một người kiêu mạn, khiến mọi người khó chịu. Nhưng nếu họ biết gói sức mạnh đó trong đạo đức, khiêm hạ thì đây đúng là Thánh. Ta sống trên đời là cần cái tinh thần vững chãi trước đã. Có điều, tùy việc, tùy lúc mà ta sử dụng nó một cách hợp lí để tạo thành một lợi thế cho bản thân. 

Để có một tinh thần mạnh mẽ, cần rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, Thượng tọa nhấn mạnh cái chính vẫn là do công đức. Người nào càng công đức, làm phước nhiều thì càng mạnh mẽ, can đảm. Người ít hy sinh, ít nhường nhịn, ít làm phước thì yếu đuối, nhu nhược. Hai yếu tố này luôn đi cùng nhau. Và Thượng tọa dùng nhiều câu chuyện có thật để chứng minh cho quan điểm này. Biết được điều này, mọi người hãy suy nghĩ lại lối sống của mình. Người lớn tuổi còn ít thời gian tu tập thì cố gắng làm phước để rèn luyện sức mạnh tinh thần để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma. Còn Thanh niên thì cần biết trang bị sức mạnh tinh thần cho mình để sống một cách mạnh mẽ suốt cuộc đời còn lại. 

Nhưng tại sao ta phải chuẩn bị để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma? Lí giải về điều này, Thượng tọa khẳng định thế giới của các vong linh cực kì phức tạp. Các vong vốn dĩ cũng là con người như ta, nhưng họ đã bước qua một cõi khác, nơi có những quy luật khác thế giới này, nên chúng ta không biết, cũng không hiểu. Vậy nên, suy nghĩ của họ cũng khác của ta rất nhiều. Nói về ma thì rất nhiều người sợ, bởi ma ở trong bóng tối (khuất kín), chúng ta không thể nhìn thấy. Hơn nữa, khuôn mặt ma rất ghê rợn và họ làm nhiều chuyện khiến ta giật mình. Không ít chúng sinh cho rằng chết là hết, kỳ thực không phải vậy. Chúng ta đừng tưởng chết rồi sẽ bình yên, bởi nếu không có phúc thì ở cõi ma ta cũng bị bắt nạt. Tuy nhiên, những người có sức mạnh tinh thần thì dù ở cõi nào cũng không ai bắt nạt được họ. Nhờ cái tinh thần mạnh mẽ đó, họ có thể tự tỏa hào quang xung quanh mình. Dù không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng quỷ thần nhìn thấy, điều đó cũng khiến các vong sợ hãi, không dám lại gần quấy phá. 

Trong cuộc sống đối với mọi người, người có sức mạnh tinh thần không chỉ làm cho quỷ thần, mà ngay bản thân chúng ta cũng phải kính sợ. Chưa nói đến tốt xấu hay đạo đức, mới chỉ có sức mạnh tinh thần thôi, ta xuất hiện ở đâu cũng đều khiến chúng sinh kính sợ, đó là nguyên tắc. Nhìn vào cuộc đời này chúng ta thấy, những người vừa có phước, vừa có sức mạnh tinh thần thường trở thành lãnh tụ. Một câu nói của họ được đông đảo chúng sinh hưởng ứng và nhất nhất nghe theo. Chúng ta không mong mình đạt đến sức mạnh tinh thần như vậy. Tuy nhiên, nếu có một ít sức mạnh tinh thần trong cuộc sống này thì ta có hai điều lợi: 

- Một là ta không sợ gian khó trong cuộc đời. 

- Hai là ý kiến ta đưa ra được người khác lắng nghe một cách đàng hoàng, dù không biết họ có chấp nhận nó hay không. 

Trong cuộc sống, người có được hai điều này sẽ có lợi thế khiến họ dễ thành công. 

Mặt khác, để tăng cường và nâng cao tinh thần mạnh mẽ của bản thân, bên cạnh việc công đức, làm nhiều điều phước thiện, chúng ta còn phải tích cực rèn luyện. Có rất nhiều cách để rèn luyện. Tuy nhiên, Thượng tọa chỉ ra 6 cách cơ bản và hiệu quả nhất: 

- Đầu tiên, ta phải biết dứt khoát giữa cái đúng và cái sai để tạo thành sự tự tin cho bản thân. Tấm gương về sức mạnh tinh thần trong lịch sử rất nhiều, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là Trần Bình Trọng. Dù bị giặc mua chuộc, dụ dỗ, rồi đe dọa, ông vẫn hiên ngang, nói một câu khiến địch phải khiếp sợ: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”. Câu nói này của ông rất nổi tiếng, nhiều người biết đến, nhưng lại ít ai hiểu và thấm thía được bề sâu của nó. Người phân tích rằng, câu nói của Trần Bình Trọng chứa một sức mạnh tinh thần rất lớn, cho thấy sự dứt khoát giữa cái đúng và cái sai. Chúng ta có thể biết được đâu đúng đâu sai, nhưng nhiều khi đứng giữa ranh giới đó, ta không dứt khoát được. Còn người nào dứt khoát được thì tinh thần mạnh lên liền, không gì có thể mua chuộc hay đe dọa được họ. Ngoài ra, sức mạnh đó còn cho ta sự tự tin. Cái tự tin này rất gần với cái tự kiêu, tự mãn, chủ quan khiến ta dễ bị nhầm, nhưng nó không phải vậy. Cái chủ quan là ta cố chấp cái ý của mình, nên khăng khăng bảo vệ nó. Còn cái tự tin không có cái bướng, bởi sức mạnh của nó là lẽ phải. Khi đã nhận ra đâu là lẽ phải rồi thì không ai có thể lay chuyển, làm ta thay đổi lập trường được nữa. Mà cái tự tin, cái lập trường đó luôn bị thử thách bởi quyền lợi cùng sự nguy hiểm và Người đã chứng minh về điều này. Qua đó khẳng định, sự tự tin là dấu hiệu ban đầu của sức mạnh tinh thần. Tuy nó chưa tạo ra được ảnh hưởng lớn đến những người xung quanh, cũng chưa nhận được nhiều lời khen ngợi, thậm chí còn bị chê trách, nhưng ta vẫn giữ vững lập trường để bước tiếp. 

- Thứ hai, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết khước từ sự cám dỗ. Sự cám dỗ tồn tại ở rất nhiều hình thức như: tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, địa vị,… Khi khước từ được những điều này, tinh thần ta mạnh thêm một chút nữa. Tuy nhiên, để khước từ được những cám dỗ đó, thực sự rất khó. Trong đó, việc khước từ tình cảm yêu mến là cái khó nhất trong tất cả cái cám dỗ. Ta thấy, luật pháp chỉ cấm giết người chứ không cấm yêu. Trong đạo đức, ta không được quyền yêu lung tung, giới hạn chỉ được yêu gia đình mình. Vậy nhưng, do duyên nợ nhiều kiếp nên ta dễ động tâm, yêu mến tràn lan, vượt ra ngoài cả giới hạn đó. Nếu có duyên nợ thì việc kiềm chế cảm xúc yêu mến rất khó. Ai biết kéo tình cảm của mình lại, không bị lạc ra ngoài thì người đó có một sức mạnh tinh thần rất lớn. Đây cũng gọi là khước từ sự cám dỗ. Lứa tuổi dễ bị cám dỗ nhất chính là giới trẻ. Được bố mẹ nuôi nấng hoàn toàn, chỉ lo ăn học, nên cái cám dỗ lớn nhất với thanh niên chính là tình yêu và game. Hai đối tượng cám dỗ này không chỉ khiến giới trẻ lãng phí nhiều thời gian, tiền bạc, cái phước, mà nó còn có nhiều tác động không tốt đến tâm lí và tinh thần của chúng. Còn như các em biết khước từ những cám dỗ này để tập trung cho việc học hành thì tương lai của các em sẽ rất tươi sáng. Theo Thượng tọa, khi biết khước từ sự cám dỗ, ta bắt đầu có sức mạnh, lời nói cũng có giá trị hơn. Chúng ta để ý thấy một điều rằng: sức mạnh tinh thần mình có hay không là ở chỗ ta nói mọi người đã lắng nghe hay chưa. Nếu chưa thì sức mạnh tinh thần của ta còn yếu, cần tu dưỡng lại. 

- Thứ ba, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết kiềm chế sự nóng nảy của bản thân. Ta cứ nghĩ người nóng nảy thì đáng sợ nhưng thực chất, họ là người yếu chứ không phải mạnh. “Yếu” là dễ buồn, dễ khóc, dễ giận, dễ suy sụp, dễ tổn thương. Ngược lại, người mạnh là người trầm tĩnh, hiền lành, bởi họ có sức mạnh để kìm giữ cái tâm trong bình yên. Trong sự tu tập cũng vậy. Diệt cái sân là một điều kiện để ta bước vào vị trí của Thánh. Không có một vị Thánh nào nổi nóng hết, các Ngài chỉ ra uy thôi. Trong cái uy đó, không có cái sân. Dịp này, Thượng tọa phân biệt rõ thế nào là ra uy; thế nào là nổi sân. Thế nên, kiềm chế được cái nóng nảy mới là một sức mạnh. Hiểu điều này mọi người hãy chiêm nghiệm lại bản thân, trong từng cái tâm niệm nhỏ, khi người ta nói mình có tự ái, có nóng giận hay không? Nếu có tức mình còn yếu đuối, còn nhu nhược, cần phải tu tập lại. Kiềm chế được sự nóng nảy không chỉ mang lại sức mạnh cho bản thân, mà còn mang lại sức mạnh cho đất nước. Nhật Bản chính là một quốc gia như thế. Công dân của họ lúc nào cùng ôn hòa, nhẹ nhàng, cúi chào người khác rất lịch sự. Hành động cúi chào người khác càng cho thấy họ là một quốc gia mạnh mẽ, có văn hóa. Càng biết đạo lí, ta càng thấm thía những hành động của họ. Dù là một cử chỉ nhỏ thôi nhưng rất đáng để cả thế giới học tập. Trong cái cúi chào của người Nhật, không chỉ thể hiện phép lịch sự, tôn trọng đối phương, mà còn cho thấy sự khiêm hạ của chính bản thân người cúi chào. Cái khiêm hạ này cũng tạo nên sự mạnh mẽ cho họ… 

- Thứ tư, biết đối diện với đau khổ cũng làm cho tinh thần ta mạnh lên. Chúng ta cứ nghĩ khóc là yếu đuối nhưng thực ra nó lại là mạnh. Vì ta dám đối diện, nhìn thẳng và ôm lấy nỗi buồn của mình, không một chút né tránh. Những nỗi buồn của tình nghĩa càng đáng cho ta ôm ấp, giữ gìn. Đấy mới là mạnh mẽ. Ngày xưa, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, trừ những vị chứng quả Thánh cao thì không động tâm. Riêng các vị còn lại khì khóc như mưa. Cái khóc này mới là sức mạnh. Đó là tình cảm chân thành khi ta đối diện với sự thật chứ không phải né tránh, rồi để nó trở thành một sự bi lụy, làm suy sụp cuộc đời mình. Thượng tọa khuyên rằng, chúng ta cứ đối diện với đau khổ, với trở ngại, với những điều thị phi, đừng lẩn tránh chúng. Như vậy là chúng ta đang rèn luyện cho mình một tinh thần thép. 

- Thứ năm, ta phải dám dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm để làm điều công đức. Thượng tọa cho rằng: những cái rèn luyện ở trên chỉ cho ta sức mạnh tinh thần ở mức độ thấp, còn điều thứ 5 này mới cho ta đỉnh cao của sức mạnh tinh thần. Có thể thấy ngay điều này ở những người anh hùng trong chiến tranh như anh Phan Đình Giót, anh Lê Văn Tám,… Những anh hùng này sau khi hi sinh sẽ thành Thần ngay, vì sức mạnh tinh thần của họ lúc đó vượt lên ngàn lần. Trước lúc đó có thể tinh thần các anh mạnh rồi nhưng chưa đủ. Khi quyết định hi sinh thân mình, tạo nên một công đức thì sức mạnh tinh thần lên đến tột cao. Do vậy, nếu trong cuộc sống ta luôn thiết tha biết tạo phước, giúp đời, giúp người thì cứ đều đều mà làm và chấp nhận mất thời gian, tiền bạc, công sức. Nhưng đôi khi lỡ gặp một việc khó khăn, nguy hiểm thì đừng khước từ, vì đó là cơ hội để ta luyện sức mạnh tinh thần. Ví dụ ai đã một lần hiến máu cứu người rồi thì tinh thần người đó vượt lên một bước rất là xa. 

- Thứ sáu, thiền cũng là một phương pháp để nâng cao sức mạnh tinh thần. Ngồi thiền rất khó, đòi hỏi phải thực hiện đúng kĩ thuật, lại thêm tính kiên nhẫn chịu đựng khéo léo. Thấy một người khiêng vác ta tưởng họ rất mạnh, coi vậy chứ không bằng người ngồi yên bất động trong chánh niệm, tức ngồi giữ cho thân mềm mại mà không nhúc nhích, biết hơi thở, quán thân vô thường, v.v...chính những điều đó tạo nên sức mạnh tinh thần. Còn ngồi thiền mà múa máy, nhúc nhích thì không ăn thua. Cho nên, thiền định là một công phu tâm linh làm cho sức mạnh tinh thần của ta vượt lên rất cao. Do vậy, khi nhìn một vị Thiền sư, ta thấy họ hiền lành, trầm mặc, nhưng tinh thần của họ không ai có thể lay động được. Người có sức mạnh tinh thần không chỉ khiến quỷ thần kính sợ mà còn được chúng sinh lắng nghe, tôn lên làm người chỉ huy hoặc người cố vấn. Đây là một lợi thế lớn, giúp ta có thể thuyết phục người khác tin và làm theo lẽ phải, giúp cộng đồng ngày một tốt đẹp. Đồng thời, đạo đức ta nhờ thế cũng tăng trưởng theo. Và khi sức mạnh tinh thần trong lẽ phải càng lúc càng lớn thì ta được Chư thiên kết nạp, hộ trì, sau khi chết sẽ được lên cõi trời, làm dân trên đó. Dĩ nhiên, rất khó để được sinh lên cõi trời, trừ khi công đức ta rất lớn, mới có thể bước một bước dài như vậy. Để có công đức lớn, không phải ta làm vài việc phước, đi tu một mình vài buổi là đủ, mà ta phải vừa tu cho mình, vừa giúp người khác cùng tu. Đến khi tinh thần đủ mạnh, ta vừa làm chỗ dựa tinh thần, vừa là người khuyên bảo, thuyết phục để các huynh đệ giữ được đạo tâm, biết làm công đức, xây dựng đạo Pháp. Đồng thời, không tiếc gì trong cuộc sống này, tất cả đều là hi sinh, phụng sự hết. Ngoài ra, khi tinh thần mạnh, lúc chết ta rất tỉnh táo và biết được ngày giờ chết. Về căn bản, chúng ta phải biết được điều này. Ta không tạo ra cái chết của mình được như những bậc đắc đạo, nhưng ít ra ta biết trước cái chết để có sự chuẩn bị cho đàng hoàng. 

Lại nữa, người có những yếu tố của sức mạnh tinh thần đó mà đủ lòng tôn kính Phật tuyệt đối thì chắc chắn chứng quả Thánh. Trong đạo Phật có tứ quả Thánh và ta chỉ mong chứng được quả đầu tiên là Tu Đà Hoàn. Nhân đây, Thượng Tọa nhắc lại cần có những điều kiện nào để chứng quả Thánh đầu tiên này. Và những lợi ích của một người chứng Tu Đà Hoàn là gì. Lại thêm, những người có sức mạnh tinh thần, thường họ cầu gì thì Chư thiên đáp ứng điều đó. Có khi, những lời cầu nguyện của họ trái với nhân quả nhưng vẫn được đáp ứng. Cái tội phước lúc đó sẽ được để bù sau, trước mắt họ thay đổi được số phận chỉ bằng lời cầu nguyện. Và lễ cầu an, cầu siêu trong đạo Phật cũng là những lời cầu lên Chư thiên để thay đổi số phận chúng ta. Với bài Pháp thoại có nghĩa lý rõ ràng, súc tích, dễ hiểu, Thượng Tọa hy vọng mọi người cố gắng suy ngẫm và thực hành để xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ. Người có sức mạnh tinh thần không phải là quậy mà sức mạnh tinh thần làm cho ta điềm tĩnh chững chạc, sống an vui hòa hợp với mọi người. 

Cuối cùng, Thượng Tọa hướng dẫn các phật tử tập âm dương khí công. Theo Thượng Tọa, khí công cũng là một phương pháp rèn luyện sức khỏe, nâng cao tinh thần. Ai chăm chỉ tập âm dương khí công sẽ ngủ ngon, tinh thần tỉnh sáng, ít bệnh tật và xây dựng được cái nội lực bên trong. Buổi tập khí công đã tạo nên không khí hào hứng cùng một hình ảnh vô cùng mới mẻ trong ngôi chùa Tương Mai. 

Thật vậy, những giáo lí, những khái niệm tưởng chừng phức tạp trên đã được Thượng Tọa đúc kết, rút gọn và đơn giản hóa bằng những từ ngữ vô cùng giản dị, dễ hiểu. Lại thêm, các ví dụ minh họa đều gần gũi, đời thường, khiến các phật tử bị cuốn hút nghe mê say. Vậy nên, dù bài Pháp khá dài nhưng mọi người vẫn nắm được hết những điều cơ bản nhất để chiêm nghiệm, học tập và thực hành. Từ đó, cố gắng rèn luyện để nâng cao thể chất, tinh thần cho bản thân và giúp đỡ những người xung quanh. Bên cạnh đó, Thượng Tọa cũng mong muốn Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền ngày càng quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần của nhân dân. Tinh thần chính là phần hồn, quyết định đến chất lượng con người. Khi chất lượng con người được nâng cao thì xã hội sẽ có một nguồn lực tốt để phát triển./.

Bình đẳng là gì?

Chân lý không bao giờ là một chiều, người chỉ nhìn một chiều không bao giờ thấy chân lý. Người đã nói nhiều về bình đẳng, nhưng sự chênh lệch về quyền lợi và địa vị vẫn mãi mãi xảy ra. Nếu bạn muốn san phẳng mọi chênh lệch trong xã hội bằng một cuộc cải thiện nào đó, bạn là người không tưởng. Vĩnh viễn không bao giờ có sự ngang bằng phẳng phiu về quyền lợi giữa mọi người vì phước nghiệp của họ không thể nào hoàn toàn giống nhau. Nơi tự thân con người đã không bằng nhau về thể chất, trí tuệ và tính tình, và sau này nơi quyền lợi, họ sẽ không thể nào hoàn toàn ngang bằng với nhau. Đây là một tiên đề đầu tiên, rất rõ ràng và thực tế mà chúng ta phải chấp nhận. Dù một chủ thuyết kêu gọi bình đẳng thế nào, họ vẫn phải chấp nhận đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người có trách nhiệm và khả năng ở chừng mực nào đó. 
Nếu muốn dùng bạo lực và quyền hành để áp đặt sự ngang bằng về quyền lợi cho mọi người, chúng ta đã phạm một sai lầm rất lớn. Thứ nhất, là sai với luật Nhân Quả Nghiệp báo. Người có công và người không có công chẳng thể bằng nhau về quyền lợi. Thứ hai là đưa đến hậu quả tai hại, không còn ai cố gắng phấn đấu để lập công trạng gì nữa, họ sẽ làm việc trong tình trạng cầm chừng. Thế nên, sự san bằng quyền lợi là một điều không tưởng, thiếu thực tế, cực đoan một chiều và phi chân lý. 

Tuy nhiên nếu chấp nhận sự chênh lệch quyền lợi cũng là một sai lầm ở cực đoan khác. Nếu chấp nhận sự chênh lệch quá đáng, sẽ có đấu tranh giữa giai cấp ít quyền lợi và giai cấp nhiều quyền lợi. Giai cấp đặc lợi sẽ bảo thủ và vơ vét một cách tàn nhẫn vì quyền lợi của họ được ngang nhiên công nhận. Sự bảo thủ và vơ vét đó sẽ chạm đến quyền lợi của giai cấp thiểu lợi, đấu tranh sẽ bùng nổ. Chính vì chỗ lắt léo này mà sự bình đẳng đã được ca ngợi từ nghìn xưa đến nghìn sau. Người ta đã mơ tưởng về một xã hội mà ai cũng đồng đều với nhau về quyền lợi, ai cũng thương nhau và đem hết công sức để phụng sự cho nhau. 

Tuy nhiên ý nghĩa cao siêu tế nhị của bình đẳng phải được hiểu ở cách khác, không phải sự bình đẳng do quyền lực san bằng tài sản. Bình đẳng là tính chất Đạo Đức nơi một con người. Người có tính bình đẳng là người không muốn trội vượt hơn ai về quyền lợi. Vì bình đẳng là Đạo Đức nên nó là sự tự giác, không phải là sự áp đặt. Trong một tập thể nào đó, nhất là trong chúng tăng, ví dụ có một người, do phước quá khứ, được người thân đem đến tặng nhiều thực phẩm bánh trái. Nếu người này không có Đạo Đức bình đẳng và giữ lấy tặng phẩm để dùng một mình, mọi người xung quanh sẽ tị hiềm bực bội. Không phải mọi người tỵ hiềm vì họ không được chia phần, mà họ tị hiềm vì người kia thiếu lòng nhân ái, thiếu đức bình đẳng. Chính cái thiếu lòng nhân ái, thiếu đức bình đẳng đã khiến cho sự chia rẻ và đấu tranh xảy ra. Nếu người kia có đức bình đẳng, có lòng thương người, sẽ đem tặng phẩm chia đều trong tập thể và mọi người sẽ vui vẻ với nhau nhiều hơn. Không phải mọi người vui vì họ được chia phần mà họ vui vì người kia thể hiện đức bình đẳng và lòng nhân ái. Sự bình đẳng là một lý tưởng tốt đẹp mà ai cũng mơ ước, nhưng nó phải được thể hiện bởi sự tự giác của mỗi người. 

Có hai cực đoan mà chúng ta phải tránh, một là chủ trương san bằng quyền lợi bằng bạo lực. Hai là chấp nhận sự chênh lệch quyền lợi. Hai cực đoan này không bao giờ đưa đến tốt đẹp. Còn chân lý thì trung dung, khéo léo, tự giác, uyển chuyển và từ bi. Nếu chân lý dễ thực hiện thì cuộc đời này có lẽ không còn đau khổ. Chân lý luôn luôn khó nắm bắt, nó tiềm ẩn ngoài cái thấy biết của tai mắt, ngoài những kết luận một chiều. Người ta chỉ thực hiện được chân lý khi họ được sự hướng dẫn đúng đắn và được khuyến khích thường xuyên. Rõ ràng hành động đem phẩm vật của mình chia đều cho anh em là một sự tự giác và từ ái, không ai được quyền bắt buộc về điều này, nhưng chính lòng nhân ái và đức bình đẳng đã khiến họ có hành động tốt đẹp ấy. 

Nếu bạn hưởng thụ hết mọi sở hữu của mình dù bạn ở tập thể hay ở riêng rẻ, lúc đó bạn không phải là người bình đẳng và từ bi. Dù tài sản bạn đang có không ai hay biết, nhưng bạn hãy mạnh dạn san sẻ cho người khác, đừng sử dụng hết những gì mình có. 

Có lẽ chúng ta cũng từng gặp những trường hợp một người, nhất là tu sĩ, bị đố kỵ ganh tỵ khi họ mặc chiếc áo đẹp, khi họ sử dụng tài sản vượt trội hơn người xung quanh, nhưng cũng có người không bị ganh tỵ khi sử dụng những thứ đó. Người bị ganh tỵ vì trước đó họ không bố thí nhiều, không tùy hỉ khi người khác đắc lợi. Bố thí cũng có nghĩa là muốn cho người khác đắc lợi, bố thí cũng đã mang ý nghĩa tùy hỉ trong đó rồi. 

Cũng như mọi tính chất Đạo Đức khác không thể vắng bóng trên cuộc đời này, nhưng cũng không thể cưỡng bức áp đặt, bình đẳng cũng vậy, không thể vắng bóng trong tương quan giữa mọi người, nhưng cũng không thể cưỡng bức áp đặt. Nó là sự tự giác và sự tự giác hành bình đẳng sẽ đưa người thực hành đi về nơi tràn đầy phúc lạc. 

Nếu chúng ta cưỡng bức sự ngang bằng về quyền lợi, chúng ta sai về Nhân Quả. Một chế độ khẩu phần xít xao khiến cho không ai có thể bố thí với ai, và như thế phước họ giảm dần cho đến khi họ phải bị đói kém thê thảm trong hiện đời. Đó là sai về nhân, không tạo điều kiện dư dả để họ có thể thực hành bố thí. 

Kế đó, nếu người nào trong số đó, đã không thể làm phước bằng cách bố thí, đã làm phước bằng cách đem sức lao động ra phục vụ nhiều hơn qui định. Đến khi quả báo trở lại họ vẫn phải được quyền lợi trội hơn mọi người. Nhưng sự san bằng quyền lợi đã phủ nhận quả báo của họ. Đây là sai về quả. 

Bình đẳng không phải là sự áp đặt cưỡng bức bởi quyền lực mà chỉ là sự tự giác cao thượng trong tâm hồn của con người. 

Trích "Luận về nhân quả" (bản in cũ) - Thượng Toạ Thích Chân Quang, cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc

"Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc - nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó - tức là giết chết dân tộc đó".

Milan Kundera.

Bài giảng "Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc"


Thượng Toạ Thích Chân Quang, thế danh Vương Tấn Việt, cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Huy, tức cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh của Hồ Chủ Tịch; viện chủ Thiền tôn Phật Quang (thung lũng núi Dinh, Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu, cách chùa Thị Vải ở núi Thị Vải của cô Lê Thị Huệ không xa), chùa Viên Quang (huyện Nam Đàn, tình Nghệ An) và Thiền thất Bảo Quang (huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh).

Những người cộng sản trong màu áo lam hiền (*)

Lạ lùng những người “vá đường” không công ở Hà Nội

GiadinhNet - Đây là những câu chuyện đầy xúc động về những việc làm hướng thiện tốt đẹp của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” tại Hà Nội trong suốt nhiều năm qua.

Hướng thiện

Ngôi chùa cổ kính nằm nép mình ven đường Quốc lộ 1A cũ mang tên Tứ Kỳ, thuộc địa phận quận Hoàng Mai, TP Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành mái nhà thứ 2 thân thuộc của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang”.

CLB là nơi quy tụ của hàng trăm thành viên không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, vùng miền nhưng đều có chung một mục đích cao cả: “hướng thiện. Câu lạc bộ hoạt động dưới sự dẫn dắt của thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì chùa Phật Quang - Núi Dinh - Bà Rịa Vũng Tàu.


CLB "Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang" tại Hà Nội

Chúng tôi may mắn được tham dự một buổi ngồi thiền cùng các thành viên trong CLB. Đây được xem là một hoạt động thường niên diễn ra vào tối thứ 5 hàng tuần để mọi người rèn luyện sức khỏe, cùng nhau chia sẻ những đạo lý tình người.

Trao đổi PV, bạn Nguyễn Liên (SN 1991 quê ở Hải Dương) một thành viên tích cực của CLB chia sẻ: “Em thấy mình thực sự may mắn khi được biết và tham gia sinh hoạt cùng câu lạc bộ. Trước đây mỗi khi rảnh rỗi, em thường dành cả ngày xem phim, lướt facebook tán gẫu, chơi game. Dẫu biết rằng những thói quen đó không tốt, nhưng không dễ gì bỏ được. Từ sau khi tham gia CLB này, thay bằng những thói quen vô bổ trước kia, em cùng mọi người đã tham gia nhiều vào các hoạt động phúc thiện. Bản thân thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn rất nhiều”.

Được biết, rất nhiều thành viên trong CLB trước kia có lối sống lệch lạc, ích kỉ. Nhưng khi tới đây, được tiếp thu những lời hay lẽ phải, được quen biết nhiều tấm gương sáng trong cuộc sống đời thường, họ đã có những thay đổi tích cực (sống hướng thiện, mở rộng lòng mình với cuộc sống xung quanh…).

Những nghĩa cử cao đẹp

Mang những lời hay lẽ phải vào thực tế, CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” đã có nhiều việc làm tốt đẹp. Trước thực trạng, nhiều tuyến phố trong nội thành Hà Nội bị hư hỏng, xuống cấp, CLB đã phát động phong trào tu sửa đường về đêm.

Đây được xem là một hoạt động hết sức thiết thực với mong muốn giảm thiểu đi những vụ tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra.


Một thành viên của CLB tham gia hoạt động vá đường hằng đêm tại Hà Nội.

Từ kinh phí của các nhà hảo tâm quyên góp, các bạn đã mua được đá, nhựa rải đường và một số dụng cụ thuận tiện cho việc vá đường. Sau khi khảo sát địa hình và dự toán được nguyên vật liệu thì công việc được tiến hành từ sau 21h.

Nguyên vật liệu được các thành viên di chuyển bằng xe máy tới các điểm cần tu sửa. Mỗi tối, các thành viên trong nhóm vá được khá nhiều ổ gà, giúp những con đường nội đô trở nên bằng phẳng, an toàn.


Hiến máu cứu người, một trong những hoạt động thường niên của CLB.

Bên cạnh việc làm trên, CLB còn tham gia rất nhiều hoạt động công tác xã hội như: Tổ chức nhặt rác và làm vệ sinh ở những nơi công cộng như đường phố, công viên, hồ nước…

Trồng cây xanh ở những quả đồi trọc hay cánh rừng đã bị tàn phá nhiều, tặng quà cho những chị lao công, người vô gia cư sau 23h trên đường phố, tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em tại làng trẻ em SOS, tham gia hiến máu tại các trung tâm y tế và viện huyết học truyền máu TW, tổ chức các chuyến đi từ thiện ở vùng miền núi tặng, quà cho các em nhỏ, đồng bào dân tộc, phát cháo từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện…vv.

Phật tử Trần Hưng (Pháp Danh Trí Bảo) phụ trách CLB chia sẻ: “Tất cả những việc làm mà các thành viên của CLB thực hiện hàng ngày đều có chung một mục đích, giúp cuộc sống xung quanh chúng ta ngày một tốt đẹp hơn. Để làm được những điều lớn lao, trước tiên chúng ta hãy bắt tay vào thực hiện những việc nhỏ bé đã”.

Hồng Gấm/Báo Gia đình và Xã hội

(*) Tiêu đề được đặt bởi ban biên tập Thời Thổ Tả. Hôm nay Thời Thổ Tả xin được phép chia sẻ lại toàn văn bài viết trên báo Gia đình và Xã hội. Lý tưởng Cộng sản là gì? Nếu muốn nói dong dài thì nói mấy ngày cũng không hết. Nhưng trước hết, lý tưởng Cộng sản là lý tưởng sống vị tha, với tinh thần "mình vì mọi người", luôn biết hi sinh quyền lợi cá nhân, thời gian riêng tư để đóng góp cho cái chung, phục vụ cho cộng đồng. Đẹp thay người Cộng sản trong màu áo lam hiền!

Cùng là tôn giáo tín ngưỡng, sao một bên thì đi đắp đường, còn một bên thì cứ nhận tiền từ nước ngoài rồi xuống đường chửi bới như Chí Phèo nhỉ?

Phân biệt Lý tưởng và tham vọng - Cháu nội Cụ Nguyễn Sinh Sắc, TT. Thích Chân Quang

Về lý tưởng và tham vọng, chúng ta đã được học ở những bài trước. Ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu mối quan hệ giữa lý tưởng và tham vọng với cuộc sống vị tha.

Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước chưa hẳn là vị tha. Vì đằng sau việc làm phước ấy có thể còn tâm niệm cầu phước. Mà cầu phước là thái độ hoàn toàn vị kỷ. Đôi khi, nhìn bề ngoài, việc làm phước có vẻ như vị tha, nhưng thật sự vị kỷ đang lớn dần lên trong tâm chúng ta. Có nhiều người rất năng đi chùa lạy Phật, nhưng chỉ để cầu cho mình bao nhiêu điều tốt đẹp. Vì vậy, càng đi chùa nhiều càng tăng trưởng vị kỷ.

Chúng ta cần phân biệt giữa lý tưởng và tham vọng. Người có lý tưởng và tham vọng đều có chung một điểm là họ đều có hoài bão lớn, mục tiêu lớn, dự định lớn. Đó có thể là dự định sẽ cất một ngôi chùa rất lớn, xây một trường Đại học Phật giáo bề thế nhất Đông Nam Á, hoặc đó là ước mơ mở được một trại mồ côi để tập trung được vài trăm ngàn trẻ mồ côi về nuôi dưỡng vv…. Nhưng trong những hoài bão, những dự định lớn lao đó, đâu là lý tưởng, đâu là tham vọng? Chúng ta phải hiểu rằng, nếu thật sự vì Phật pháp, vì chúng sinh, người có những mơ ước, hoãi bão như vậy là người sống có lý tưởng. Nhưng nếu làm để cầu mong một điều gì đó cho mình, danh tiếng, lợi lộc chẳng hạn, thì đó là tham vọng. Nói cách khác, cả hai có những điểm rất giống nhau nhưng hễ vì mình là tham vọng, vì người là lý tưởng. Bởi vậy, khi có những mơ ước, những dự định lớn, chúng ta phải cẩn thận xét kĩ tâm mình, xem đó là vì mình hay vì chúng sanh, vì Phật pháp.

Quan điểm đối với hạnh phúc:

Chúng ta sống là để đi tìm hạnh phúc. Vì sống mà không có hy vọng, không có hạnh phúc là một cuộc sống vô nghĩa. Nhưng hạnh phúc vốn rất mong manh và không dễ dàng tìm được. Chúng ta phải luôn luôn hy vọng rằng, mình sẽ tìm thấy hạnh phúc trên cuộc đời này. Hy vọng như vậy để chúng ta cố gắng sống, cố gắng vượt qua những khó khăn gian khổ, vượt qua những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Chừng nào con người không còn hy vọng, chừng đó họ sẽ bị cuộc đời làm cho ngã gục.

Khi còn nhỏ sống trong vòng tay cha mẹ, chúng ta hy vọng lớn lên sẽ thành đạt, có cuộc sống giàu sang, danh vọng….Càng lớn lên, con người càng hy vọng điều đó. Hôm nay còn khó khăn, người ta hy vọng vài năm nữa rồi cuộc sống sẽ khá hơn, sung sướng hơn. Đến khi gần đất xa trời, không còn hy vọng được nữa, họ lại hy vọng vào kiếp sau. Vì niềm hy vọng về cuộc sống hạnh phúc phía trước mà chúng ta vượt qua tất cả. Nghĩa là chúng ta sống để đi tìm hạnh phúc. Đó là mục đích, là khát vọng lớn lao, mãnh liệt của con người. Ngay cả những người bất hạnh, sống lang thang lê lết bên lề đường xin ăn, họ vẫn yêu vô cùng sự sống và hy vọng vào ngày mai tươi sáng vẫn không lụi tắt trong lòng họ. Nếu đã hoàn toàn tuyệt vọng, họ sẽ không kéo dài cuộc sống của mình trong khổ đau như vậy.

Là đệ tử Phật, chúng ta phải có một quan điểm rõ ràng về hạnh phúc. Chúng ta thừa nhận sống để đi tìm hạnh phúc. Nhưng với người tu hành, hạnh phúc là gì? Chúng ta sẽ đi tìm hạnh phúc cho chính mình, hay sẽ dành cuộc đời này đi tìm hạnh phúc cho người khác? Đặt lại câu hỏi đó một lần nữa, chúng ta suy nghĩ cho thấu đáo để sống một cuộc đời đúng nghĩa.

Rõ ràng, người đệ tử Phật phải sống cuộc sống vị tha, sống là để đi tìm hạnh phúc cho người khác chứ không phải cho bản thân mình. Có thể trước đây, cuộc sống của chúng ta còn nhiều đau khổ, còn những nỗi bất an và chúng ta cũng đã từng hy vọng một ngày nào đó, mình được sống một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng bây giờ, chúng ta không còn hy vọng điều đó nữa. Với người tu hành chúng ta, hạnh phúc lớn nhất là đem lại được hạnh phúc cho người khác.

Như vậy, điều quan trọng là để đem lại hạnh phúc cho người khác, chúng ta phải làm gì ? Trước hết, chúng ta phải hiểu điều này, hạnh phúc là do tâm vị tha chứ không phải do phước. Nói như vậy có vẻ hơi mâu thuẫn, nhưng nghĩ một cách sâu sắc, điều đó hoàn toàn đúng. Chẳng hạn, có những người trước kia hay bố thí, làm phước nên họ được nhiều phước và đời này họ có được cuộc sống giàu sang. Nhưng giàu sang không hẳn là hạnh phúc. Chúng ta đã đọc được điều này rất nhiều trong những cuốn sách viết về Nhân Quả. Có tiền nhiều và có hạnh phúc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nhiều người sống trên đống vàng nhưng vô cùng đau khổ. Họ chỉ hơn những người nghèo là có cuộc sống vật chất thoải mái, còn hạnh phúc vẫn thuộc về lĩnh vực của tâm.

Một người nghèo về vật chất nhưng sống một đời vị tha vẫn an vui, hạnh phúc, và họ cũng tạo được phước cho đời sau. Như vậy, người có phước do tâm vị tha, đời này sẽ an vui. Còn người có phước do tâm cầu phước ở đời trước, đời này có thể giàu sang nhưng lại sống bất an. Vì tâm cầu phước là tâm vị kỷ. Chúng ta cần phân biệt được điều đó. Hạnh phúc thật sự vẫn là do tâm vị tha đem lại. Có thể chúng ta chưa làm được điều gì lớn lao, chỉ cần sống vị tha thôi, chúng ta đã thấy mình rất hạnh phúc vì đi đúng nguyên lý Tứ Diệu Đế của Phật.
Vì vậy, chúng ta đừng mất thì giờ tự ám thị mình là người hạnh phúc, luôn mang vẻ mặt an lạc, thoả mãn. Vì hạnh phúc không phải do ám thị mà có, hạnh phúc là do đời sống vị tha đem lại. Nhiều khi chúng ta được dạy, là đệ tử Phật, phải tự tại an vui, đi đứng đoan trang, lúc nào cũng nở nụ cười trên môi, gương mặt phải thanh thản…Thực ra, đó là lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ về mình. Chúng ta đừng bận tâm về điều đó, đừng tự ám thị mình là người hạnh phúc. Hãy bận tâm đăm chiêu đi tìm hạnh phúc cho phúc cho mọi người. Có thể lúc nào chúng ta cũng tất bật, vội vã nhưng vì tâm mãi lo cho người khác nên không bao giờ đau khổ đến được với tâm mình. Hai chữ tự tại có vẻ thanh thoát, nhưng nếu chỉ đi tìm cái đó cho mình, chúng ta vẫn bị vị kỷ chi phối. Mà vị kỷ có mặt thì sẽ kéo theo những đau khổ, bất an.

Với cuộc sống vị tha, hạnh phúc dần dần tràn ngập mà chúng ta không ngờ được. Suốt cuộc đời lo cho người khác, đến một lúc nào đó tự nhiên chúng ta thấy cuộc đời mình tràn ngập niềm vui. Nhưng đừng bao giờ dừng lại đó để hưởng thụ, hãy tiếp tục bận tâm lo cho mọi người. Nếu tự mãn với hạnh phúc mà mình đang có nghĩa là chúng ta bắt đầu lui bước. Nếu chỉ biết hưởng thụ hạnh phúc, niềm vui dù niềm vui đó do đời sống vị tha lúc trước tạo nên, là chúng ta bắt đầu rơi trở lại lối sống vị kỷ. Như vậy, chúng ta sẽ không đi tới được đời sống vị tha vô lượng, vô biên. Đây là điểm rất khó, rất tinh tế trong tâm mà chúng ta phải tỉnh táo để thoát ra. Sở dĩ một vị Phật thành được Phật quả là do các công hạnh của Ngài vô hạn, vô biên. Ngài làm phước mãi, sống vị tha mãi, không bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui .

Người tu theo hạnh Bồ Tát Ba La Mật vô lượng vô biên không bao giờ biết dừng lại để hưởng thụ. Chúng ta cũng vậy, nếu sống đời sống vị tha thì tâm mình tự nhiên xuất hiện niềm vui nhưng đừng bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui trong tâm đó, hãy cứ tiếp tục bận tâm để lo cho người khác.

Nguồn


"Biển Đông dậy sóng" và những trò lố của những người kém tử tế

Bài viết: Những người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng vào ngày 12/6/2011 tại chùa Từ Tân của Thượng Toạ Thích Chân Quang như thế nào?






Trên mạng xã hội Facebook, Youtube và các trang mạng có nhiều người đang lan truyền thông tin rằng “Trong bài giảng Biển Đông dậy sóng, Thượng Toạ Thích Chân Quang khẳng định Trung Quốc là anh, Việt Nam là em, nên việc Lý Thường Kiệt mang quân đánh Trung Quốc xong rút về vào thời nhà Lý là hơi hỗn” khiến cho nhiều người nghe xong tin liền, thiếu tinh thần kiểm chứng đã có những ý nghĩ, lời nói không hay dành cho Thượng Toạ Thích Chân Quang – một vị tôn túc của Phật Giáo Việt Nam.

Hôm nay, bằng tất cả tinh thần khách quan, tôi xin được chia sẻ bài viết này để chứng minh rằng thông tin về Thượng Toạ Thích Chân Quang đã đề cập ở trên là một thông tin đã bị những người kém tử tế bóp méo, cắt đầu, cắt đuôi… một cách cố ý, làm lệch đi hoàn toàn ý nghĩa câu nói của Thượng Toạ.

Tuy nhiên, trước khi đi vào câu nói đó, ta hãy tìm hiểu xem Thượng Toạ Thích Chân Quang giảng bài Biển Đông dậy sóng vào lúc nào, ở đâu và với đối tượng thính chúng là ai?


1. Hoàn cảnh, địa điểm và đối tượng thính chúng của bài giảng Biển Đông dậy sóng

Thượng Toạ giảng bài pháp trên tại khoá tu thiền hàng tháng ở chùa Từ Tân, ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra sau khi tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh của Việt Nam vào tháng 6 năm 2011 trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, khiến những người dân Việt Nam yêu nước nói chung và những thiền sinh yêu nước của khoá thiền Từ Tân có những dấy động lớn lao về tình cảm. Nhiều người Việt Nam vì quá bức xúc đã xuống đường biểu tình ầm ĩ, nhiều thiền sinh đã hỏi khẽ nhau về hành vi đó của tàu Trung Quốc và có lẽ đã có một số thiền sinh bị suy giảm trong công phu tu tập. Trước tâm tình đó, Thượng Toạ Thích Chân Quang đã giảng bài Biển Đông dậy sóng để các thiền sinh yên tâm tu tập vì hiểu rằng việc tu tập đạo đức, thiền định của mình cũng góp phần lớn vào việc bảo vệ tổ quốc; để những người dân định hướng lòng yêu nước của mình vào những việc làm có ý nghĩa thiết thực hơn, như là rèn luyện thể lực như một chiến sĩ, làm giàu, nhắc nhau lòng yêu nước, dạy răn con trẻ lòng yêu nước, sử dụng hàng Việt Nam, trải lòng với những người bạn người Hoa hay khách du lịch người Trung Quốc về chủ quyền biển đảo của Việt Nam… Hơn nữa, nhiều thiền sinh cũng như Phật tử, người đến nghe giảng là người Hoa (Thành phố Hồ Chí Minh là nơi nhiều người Hoa sinh sống nhất cả nước) nên những lời đạo lý của Thượng Toạ còn có tác dụng xoa dịu tâm lý lấn cấn, ngại ngùng đôi khi có thể là khó chịu, ngăn cách giữa người Hoa và người Việt trong và sau buổi thuyết giảng, khoá thiền.

Thượng Toạ là người chịu trách nhiệm với khoá thiền, là một vị tôn túc uy đức với hàng vạn đệ tử xuất gia lẫn tại gia và là một nhà yêu nước với hàng chục bài giảng, ca khúc ca ngợi lòng yêu thương quê hương đất nước – một tình cảm hết sức cao đẹp vốn là một bộ phận quan trọng cấu thành nên tâm từ bi của nhà Phật. Vậy, việc Thượng Toạ giảng bài Biển Đông dậy sóng trong điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng thính chúng như trên là rất nhân văn, hoàn toàn hợp lý, thoả đáng, hợp tình, thể hiện được tinh thần đồng hành thuỷ chung son sắt giữa Phật Giáo và Dân Tộc.


2. Những người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng như thế nào?

Một chiếc lá xanh khi tách rời khỏi cành thì không còn là một - chiếc - lá - ở - trên – cành nữa. Nên nó sẽ có những khác biệt nhất định với chiếc lá xanh trên cây, ví dụ như nó sẽ mau úa hơn, dễ bị người hay loài vật dẫm lên hơn... Sự thật này không ai có thể phủ nhận. Cũng vậy, bài giảng Biển Đông dậy sóng của Thượng Toạ là bài giảng phức tạp vì liên quan đến lịch sử, chính trị, Thượng Toạ giảng gần hai giờ đồng hồ. Ngoại trừ những bài giảng cho Chư Tăng Ni, có thể nói Biển Đông dậy sóng là bài giảng dài nhất trong cuộc đời giảng sư của Thượng Toạ, tính đến hiện tại (hết năm 2016). Trong bài giảng, luận điểm ngắn nhất cũng kéo dài gần 12 phút, luận điểm dài nhất dài hơn 20 phút, chưa từng có bài giảng nào trong gần 2000 bài giảng đã qua mà Thượng Toạ chia ít luận điểm như thế, dành nhiều thời gian cho từng luận điểm như thế. Những chi tiết này nói lên rằng đứng trước vấn đề chính trị phức tạp nhạy cảm, Thượng Toạ đã vô cùng cẩn thận, có trách nhiệm với từng lời từng chữ mình ứng khẩu mà thành, để tạo thành một chỉnh-thể-bài-giảng tuyệt vời lay động lòng yêu nước trong thính chúng…

          Việc có một số người chỉ cắt lấy hai câu trong bài giảng "Trung Quốc là anh, Việt Nam là em", "Lý Thường Kiệt đem quân đánh Trung Quốc là hơi hỗn"... rồi kết luận, dẫn dắt suy luận đủ điều về nội dung bài giảng, về mục đích giảng của Thượng Toạ và thậm chí là bôi nhọ về đạo đức của Thượng Toạ, trước hết, phải nói thẳng: đó là việc làm kém tử tế. Vì việc tách rời hai câu nói ngắn ngủn ra khỏi một chỉnh-thể-bài-giảng gần hai tiếng rồi phê phán đúng, sai, phải, trái, giống hệt việc ngắt cái lá xanh khỏi cành rồi vò đầu bứt tai, nổi trận lôi đình, mắng nhiếc chiếc-lá-xanh-đã-bị-ngắt-khỏi-cây, vì nó không có những đặc tính của chiếc-lá-xanh-trên-cành vậy. Tự họ đã làm biến đổi ý nghĩa câu nói của Thầy thông qua việc tách rời câu nói đó khỏi chỉnh thể bài giảng, tự họ lại suy luận, phê phán, công kích. Họ tự biên tự diễn như thể trong họ có hai người, một người làm méo mó nội dung bài giảng và một người thoá mạ Thượng Toạ vì những nội dung bị méo mó đó.

          Mặc dù họ đã bôi nhọ, nhục mạ Thượng Toạ không thương tiếc, tôi cũng sẽ không đáp lại họ như cách họ đã làm với Thượng Toạ. Tôi sẽ thử, bằng sự tử tế nhất khách quan nhất của cá nhân tôi, tiếp cận vấn đề mà họ đã đặt ra một cách kém tử tế.

          Quay trở lại bài giảng, tại sao Thượng Toạ lại khẳng định "Trung Quốc là anh, Việt Nam là em"?

Đạo đức Chủ Nghĩa Xã Hội - Cháu nội Cụ Nguyễn Sinh Sắc, TT. Thích Chân Quang

CUỘC SỐNG VỊ THA


1. Khái niệm:

Vị tha là vì người khác.(Tha là tha nhân, là người khác).

Cuộc sống vị tha là một cuộc sống mà chúng ta sống để làm lợi ích cho người khác, không còn sống cho mình nữa. Đây là một cuộc sống tốt đẹp mà xưa nay tất cả các bậc Thánh đều mơ ước và phấn đấu để đạt được.

Mỗi tôn giáo đều có những tiêu chuẩn nhất định để đánh giá tín đồ của tôn giáo mình. Đạo Thiên Chúa thường làm lễ phong Thánh cho những tín đồ, những tu sĩ có công hạnh đặc biệt theo tiêu chuẩn của họ. Đạo Phật cũng có cách đánh giá những vị tu hành để tôn lên bậc Thánh. Đó là những người chứng ngộ tâm linh, có đời sống đạo hạnh, hay nhờ tu thiền, niệm Phật, họ có được những điều vi diệu trong cuộc sống, có những thần thông, phép lạ, có trí tuệ… làm lợi ích cho mọi người.

Theo tiêu chuẩn của tôn giáo mình, mỗi tôn giáo có rất nhiều vị được xem là những bậc Thánh. Đạo Phật có vô số Thiền sư, những bậc Alahán, những vị Thánh chứng quả, những vị Tổ, những vị Đại Sư… Có những vị không nổi tiếng lắm, nhưng khi tịch, thiêu ra có Xá lợi, cũng được xem như đã chứng Thánh. Ở các tôn giáo khác, tùy theo lòng mộ đạo, công trạng đối với đạo mà một người cũng được xem là Thánh.

Trên thế giới, những nhà khoa học, những nhà xã hội học với tâm tình của những người không tôn giáo, có cách đánh giá một bậc Thánh ở những góc độ khác. Vì vậy, những người được phong Thánh theo tiêu chuẩn xã hội thì không nhiều. Chúng ta thấy, thế giới có những Danh nhân, có những Vĩ nhân và chỉ có một vài vị Thánh nhân. Đến nay, những vị Thánh nổi tiếng được cả thế giới công nhận là Thánh Gandhi. Đây là trường hợp rất hiếm hoi. Đức Phật cũng được thế giới coi là một vị Thánh. Chúa Jésu cũng được thế giới xem là vị Thánh. Hoặc Khổng Tử, nhà triết học nổi tiếng cũng được xem như là một vị Thánh. Nghĩa là số người được coi như một vị Thánh rất ít ỏi.

Chúng ta học bài Cuộc sống vị tha là để tìm ra một mẫu số chung về tư cách hay tiêu chuẩn của một vị Thánh trong đạo Phật cũng như trong tâm tình của con người trên thế giới

Cuộc sống vị tha là tiêu chuẩn chung khi đánh giá một vị Thánh, được đạo Phật ca ngợi mà thế giới cũng ngợi ca. Không cần biết người đó theo tôn giáo gì, không cần biết người đó giữ chức vụ gì, chỉ cần thấy họ sống rất từ ái, rất vị tha so với tất cả mọi người, có năng lực lớn để làm được nhiều việc cho cuộc đời, có sức ảnh hưởng rất lớn đến con người và luôn luôn vì con người, vì nhân loại… người ta đã ca ngợi họ là một bậc Thánh.

Dựa vào trình độ tâm linh của đạo Phật, một vị Thiền Sư có thể có sở đắc tâm linh, một đời đi thuyết pháp trong đạo Phật, trong lãnh vực tôn giáo cũng có khi chúng ta gọi là Thánh nhưng thế giới không công nhận. Trong đạo Phật, có vô vàn các Thiền sư, người chứng Đạo. Có thể chúng ta ca ngợi, coi đó là những vị Thánh, nhưng người ngoài đạo Phật chỉ thấy đó là những tu sĩ bình thường. Tiêu chuẩn đánh giá con người khác nhau như vậy.

Gạt ra ngoài vấn đề tiêu chuẩn đánh giá con người, chúng ta thấy cuộc sống vị tha là một cuộc sống đẹp. Người thực hiện được cuộc sống này, có thể thuyết phục được không chỉ đối với người trong tôn giáo mà còn với cả người ngoài tôn giáo. Có thể đời này chúng ta thực hiện cuộc sống vị tha ít, nhưng trên căn bản mỗi người phải sống vị tha. Biết đâu ở những đời sau, chúng ta có năng lực lớn hơn, có cuộc sống vị tha ảnh hưởng nhiều hơn, làm lợi ích lớn lao hơn cho nhân loại.

Vậy, tại sao cuộc sống vị tha là một cuộc sống đẹp mà ai cũng ca ngợi? Bởi vì từ lâu, do bản năng chấp ngã mãnh liệt, chúng ta bị khuynh hướng vị kỷ tồn tại chi phối mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm. Từ đó, trong cuộc sống, chúng ta chỉ biết sống cho mình, làm bất cứ điều gì cũng vì lợi ích của mình trước. Khi còn bé, chúng ta tranh giành miếng ăn, miếng uống, tình thương đối với anh em. Lớn lên, có thể dùng mọi thủ đoạn để tranh giành tiền tài, quyền lực cho mình. Thế giới này đầy ắp khổ đau là vì cuộc sống vị kỷ. Trong Tứ Diệu Đế, khổ được coi là một thực tế, một thực tại của cuộc sống mà nguyên nhân của khổ là do lòng ích kỷ. Cho nên, cuộc sống vị tha là một cuộc sống giúp người ta thoát được đau khổ. Chưa cần tu tập những pháp cao siêu, chỉ cần sống một cuộc sống vị tha, chúng ta đã đem lại cho tâm mình sự an lạc.

Trong cuộc sống này, chúng ta không thiếu những điều phiền muộn, những ray rứt khổ đau, những ưu tư trăn trở. Khi ấy, tìm đến một vị Thầy, chúng ta sẽ được Thầy dạy một cách quán để đối trị đau khổ.

Ví dụ: Khi có chuyện buồn trong gia đình, chúng ta tìm đến một vị Thầy để tìm sự thanh thản. Thầy sẽ dạy ta hãy quán thế gian này là vô thường, thân này là bất tịnh, rồi cũng chôn sâu trong ba tấc đất… Quán như vậy, chúng ta sẽ bớt đi những khổ đau, phiền muộn. Khi than phiền về bệnh tật, Thầy sẽ dạy ta quán thân này là vô thường, hư ảo, ngày nào đó thân rồi cũng mất, chẳng có gì phải phiền muộn, âu lo. Khi tâm sự, trong cuộc sống hay bị người ta ganh tỵ, tranh giành quyền lợi, chúng ta sẽ được quán là hãy xem cuộc đời này như một giấc mộng, phù du, hư ảo…Và khi thực hành, nhờ quán các pháp đều là hư ảo, chúng ta cũng có được đôi chút yên tâm, có được phần nào thanh thản. Nhưng sự thật, những phép quán đối trị phiền não ấy chỉ trị trên ngọn mà không trị được gốc, chẳng khác nào người bệnh uống thuốc tây, hết bệnh này sẽ sinh ra bệnh khác.

Chẳng hạn, khi đối diện với cuộc sống, chúng ta cảm thấy có nhiều điều không như ý, nhiều việc không thành công, nhiều những ganh tỵ oán hờn làm mình mệt mỏi. Nếu ngồi quán thế giới này như một giấc mơ, vô thường không đáng để cho mình đắm luyến, chúng ta thấy lòng cũng bớt đi sầu não. Nhưng thực chất lại xuất hiện một bệnh khác. Đó là tâm trạng thờ ơ lãnh đạm với cuộc đời, dần dần giết chết tâm từ bi của mình. Đây lại là một hệ quả phụ rất nguy hiểm.

Bởi vậy, khi học Bát Nhã, chúng ta phải cẩn thận. Pháp Bát Nhã được ca ngợi là cao tột. Trong lục độ, Bát Nhãù nằm ở giai đoạn cuối cùng. Khi học Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy quan niệm cho rằng Kinh Pháp Hoa thù thắng hơn tất cả các pháp khác, trừ Bát Nhã Ba La Mật. Nghĩa là ai cũng ca ngợi pháp môn Bát Nhã, pháp môn mà theo đó người tu thấy cuộc đời này là hư ảo, là rỗng không. Tuy nhiên, không phải pháp môn Bát Nhã là tuyệt đối ưu điểm. Nó làm cho chúng ta có vẻ tự tại với cuộc sống này khi nhìn tất cả là hư ảo, nhưng nó vẫn còn phản ứng phụ, phát sinh một bệnh phụ là làm cho chúng ta mất tâm từ bi, thờ ơ lãnh đạm với cuộc sống này.

Người hiểu Bát Nhã sâu, tâm có thể vào định được. Nếu thường xuyên quán thân này là giả, tâm này là giả, cảnh vật chung quanh đều là giả, chúng ta cũng có thể vào định được. Nhưng đó là cái quán cạn của Bát Nhã. Nếu quán sâu hơn nữa, pháp môn Bát Nhã còn nhiều điều vi diệu hơn. Chúng ta có thể đạt được lý thậm thâm Bát Nhã, lý Bát Nhã rất sâu. Người hiểu lý Bát Nhã cực kỳ sâu tự nhiên tâm sẽ vào định, có thể viết thành sáu trăm quyển Bát Nhã khác nhờ những kiến giải vi diệu như vậy.

Bộ Kinh Bát Nhã để lại trong kinh tạng hiện nay là sáu trăm quyển. Một vài vị Hòa Thượng đã dịch ra tiếng Việt Nam nhưng vì văn còn xưa quá nên không được nhiều người hưởng ứng. Bát Nhã có đến sáu trăm quyển, nghĩa là không có Kinh bộ nào dài bằng bộ Kinh Bát Nhã. Người ta nói hoài không hết ý, nói hoài không chán. Chỉ một chữ “không” thôi nhưng nói đi, nói laị, mở rồi đóng cũng không hết ý. Nếu một người ngộ được lý Bát Nhã, có thể tiếp tục viết sáu trăm quyển khác, và tâm tự nhiên vào định. Lý Bát Nhã vi diệu như vậy.

Không một pháp môn nào có đầy đủ tất cả những ưu điểm, sẽ có mặt hay và cũng có những điểm chưa hay. Pháp môn Bát Nhã cũng vậy. Dù được thuyết pháp sáu trăm quyển, ai cũng ca ngợi là cao tột, nhưng Bát Nhã vẫn có những khuyết điểm. Điều quan trọng là chúng ta hiểu và vận dụng như thế nào cho đúng.

Nếu nói quán tất cả là hư ảo, nghĩa là chúng ta chỉ trị bệnh ở ngọn thì thế nào là trị bệnh tận gốc ? Chúng ta cần hiểu một điều, nguyên nhân của mọi đau khổ đều do vị kỷ. Đây là một nguyên lý, một chân lý mà Phật đã nói. Nếu cảm thấy có phiền muộn trong cuộc sống, chúng ta đừng chữa trên ngọn, hãy chữa ngay tại gốc của nó. Đó là chữa tâm vị kỷ của mình. Tất nhiên, chữa từ gốc là điều không đơn giản.

Nếu để xoa dịu nỗi buồn, chúng ta có thể quán cuộc đời là vô thường. Nhưng để thật sự nhổ được cái gốc đau khổ, chỉ có một cách là trị dứt tâm vị kỷ của mình. Để làm được điều này, chúng ta phải có công phu rèn luyện một thời gian dài. Trong thời gian đó, chúng ta sẽ có một cuộc sống vị tha để trị được tâm vị kỷ của mình. Lúc ấy, đau khổ sẽ thật sự vắng bóng.

Cho dù cuộc đời mình đầy bất hạnh, là một người tật nguyền, một người bệnh hoạn hay là một người nghèo khổ, ít học…, nhưng nếu sống một đời thật sự vị tha, không vị kỷ thì những mặc cảm, những nỗi buồn ấy sẽ tan biến trong tâm hồn chúng ta. Vì đời sống vị tha sẽ đối trị, sẽ diệt được vị kỷ. Đó là chân lý mà từ ngày xưa, Phật đã nêu ra trong Tứ Diệu Đế. Bởi vậy, cuộc sống vị tha là cuộc sống cực kỳ đẹp, luôn đem lại lợi ích cho những người xung quanh vì lúc nào chúng ta cũng sống vì họ.

Ở phạm vi nhỏ, xung quanh được hiểu là trong một ngôi chùa, trong lớp học, trong một gia đình, láng giềng, dòng họ, … Ở phạm vi rộng, đó là cả một cộng đồng xã hội, một thế giới. Tùy năng lực mà tâm vị tha, đời sống vị tha của mình ảnh hưởng đến mức độ nào. Như vậy, khi đã có một đời sống vị tha, trước hết những người chung quanh mình đựơc lợi ích, và chính bản thân mình cũng xoá sạch mọi đau khổ.

Vì khuynh hướng vị kỷ chi phối quá mạnh nên chúng ta luôn tìm sự thỏa mãn cho mình những ước vọng từ thấp đến cao. Thấp nhất là ăn được ngon, mặc được đẹp, ở được sang. Cao hơn nữa là thỏa mãn những giá trị tinh thần: được mọi người nể trọng, cung phụng. Cao hơn nữa là được danh tiếng, được quyền uy… Những người trong Đạo thì cầu mong được đắc đạo. Nghĩa là lúc nào cũng muốn “thêm” và “được”: được thành Phật, được đắc đạo, được chứng ngộ, được giác ngộ v…v...

Đó là do trong tận thâm tâm chúng ta vẫn còn tham vi tế. Chúng ta luôn muốn đem lại cho mình lợi ích chứ không muốn mất đi. Nếu nói tu là mất đi, là bỏ đi bớt, thậm chí đánh mất luôn chính mình, chúng ta cảm thấy kinh sợ, vì nó chạm đến lòng tham của mình mạnh quá. Học về pháp Ba La Mật, chúng ta sẽ thấy có hai trường hợp. Có người cho rằng, tu để được đắc đạo, được giác ngộ, được thành Phật.v.v… và đó cũng là lý tưởng của người tu hành. Có người lại hiểu rằng, tu là để mất, mất hết, mất luôn cả chính mình. Trường hợp thứ nhất là người có căn cơ thấp. Trường hợp thứ hai là người có căn cơ cao. Họ có chánh kiến, lòng tham mỏng nhạt, lòng vị kỷ ít và có trí tuệ từ kiếp nào nên khi nghe tu không cần phải thêm mà được bớt đi, họ cảm thấy thích thú.

Như vậy, những cái tham và sự ích kỷ vẫn tiếp tục tồn tại chi phối chúng ta, làm cho chúng ta tiếp tục đau khổ. Ngoài đời, chúng ta đau khổ vì những tham vọng của thế gian, như được tiền bạc, giàu sang, danh vọng, tình cảm. Khi vào Đạo, chúng ta sẽ đau khổ vì những mục tiêu của Đạo: muốn có bằng cấp cao, muốn trở thành Thượng Tọa, Ni Sư, muốn có chùa to, có nhiều đệ tử…Những mục tiêu ấy sẽ làm mình đau khổ. Ngay cả những mục tiêu thuộc về tâm linh, mong mình được đắc Đạo, được giác ngộ, nếu không cẩn thận cũng sẽ làm mình đau khổ. Nói không cẩn thận vì nếu hiểu hai từ giác ngộ, đắc đạo là không thật, chúng ta sẽ không đau khổ. Nếu hiểu đó là thật thì sẽ đau khổ vì nó.

Trong thực tế có những trường hợp như vậy. Trong sử có câu chuyện về sáu vị Tổ ở Trung Hoa. Nơi pháp hội của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có thượng tọa Thần Tú là bậc lãnh đạo đại chúng và ai cũng mong rằng Ngài được Ngũ Tổ truyền Y bát. Y bát biểu tượng cho tâm linh, chỉ có người đã đắc đạo, đã giác ngộ mới xứng đáng được truyền y bát. Khi nghe tin Ngài Huệ Năng đã lãnh được Y bát đó, trong Tăng chúng xảy ra một cuộc chống đối dữ dội. Như vậy, chúng ta thấy gọi là giác ngộ hay đắc đạo, cuối cùng cũng chỉ là một tham vọng trá hình, và làm cho người ta tiếp tục đau khổ.

Thế giới này đầy ắp những đau khổ là do người ta chỉ biết sống cho mình, hướng về mình. Bởi vậy, vị tha là một cuộc sống cao cả, đẹp đẽ mà xưa nay tất cả các bậc Thánh đều ca ngợi, đều tán thán. Tâm vị tha đi ngược lại bản năng chấp ngã, ngược lại khuynh hướng vị kỷ, và làm cho cuộc đời này vơi đi đau khổ. Cuộc sống vị tha có thể chữa được nhiều bệnh tâm lý, nhiều phiền não của chúng ta, và làm cho cuộc sống này hạnh phúc hơn. Trong cuộc sống, có người mang những mặc cảm buồn bã, nếu biết làm nhiều việc từ thiện, vị tha họ sẽ vượt qua được những đau khổ. Còn những pháp Quán đối trị phiền não chỉ là tạm thời.

2. Người xuất gia phải thực hiện bằng được cuộc sống vị tha:

Người xuất gia không thể sống vị kỷ. Hiện nay, tình trạng đạo đức của Tăng Ni bị suy thoái cũng do lối sống vị kỷ chi phối. Khi khoác áo tu hành, bước vào Đạo, chúng ta mang hy vọng đi tìm một đời sống giải thoát. Nếu vẫn sống vị kỷ, chúng ta không xứng đáng sống đời tu hành. Người xuất gia phải sống đời sống vị tha. Lý tưởng giải thoát và cuộc sống vị tha là một vì chung một tính cách vô ngã. Giải thoát là vượt khỏi ngã chấp, đời sống vị tha cũng vượt khỏi ngã chấp. Nếu thiết tha đi tìm đời sống giải thoát, chúng ta phải thực hiện bằng được đời sống vị tha. Dù chưa tu tập được nhiều nhưng từng giờ, từng phút trong cuộc sống này, chúng ta đều sống cho huynh đệ, sống cho mọi người. Sống như vậy là chúng ta đang đi dần trên con đường giải thoát, ngã chấp của chúng ta cũng đang bị đánh phá dữ dội.

Muốn được giải thoát phải vượt qua chấp ngã. Có nhiều con đường để chúng ta vượt qua chấp ngã. Con đường cuối cùng là đi bằng định và tuệ. Nhưng trước khi đi bằng con đường ấy, chúng ta phải có đời sống hết sức vị tha. Nghĩa là luôn luôn sống vì người khác, không còn sống cho riêng mình. Đời sống vị tha cũng chính là kết tinh của một đời sống Đạo đức. Chúng ta đã học rất nhiều về Đạo đức. Dù học bình đẳng, chân thật, học cách góp ý chỉ lỗi, hay học khiêm hạ…và sau này có thể học thêm nhiều nữa, chúng ta cũng nhằm mục đích thành tựu được một điều duy nhất, cuộc sống vị tha.

Đó là một cuộc sống đẹp nhất của con người, cũng là lý tưởng mà người xuất gia phải theo đuổi. Chúng ta phải sống vì mọi người, từ việc rất nhỏ nhặt cho đến những việc rất lớn lao. Dù đang theo đuổi một công trình lớn lao: đem Phật pháp đến cho con người, hoặc cất nhà dưỡng lão, cất trại mồ côi…nhưng chúng ta vẫn nhớ không được bỏ qua những việc rất lặt vặt trong đời sống khi việc đó có lợi cho người xung quanh.

Tận sâu trong tâm hồn mình, chúng ta ghi nhớ điều ấy. Nghĩa là không sợ gian khó cực khổ, không tiếc công, tiếc sức, không cần biết cuộc sống mình an vui hay đau khổ, chỉ cần cho người khác mà thôi. Chúng ta chấm dứt tất cả mục tiêu trong cuộc sống của để từ đây chỉ còn một mục tiêu duy nhất là làm lợi, đem lại an vui cho người khác. Người như vậy sẽ không bao giờ còn đau khổ nữa dù sự vất vả tất bật có thể tăng lên bội phần.

Nếu cho rằng, tu là để đạt sự tự tại, an vui, giải thoát là chúng ta đã bị lừa mị bởi những ngôn từ hoa mĩ ấy. Vì như vậy là chúng ta đang đi tìm cái gì đó cho riêng mình. Người chỉ biết tu để sống một đời an vui tự tại là người đi ngược với đạo Phật. Có những người suốt cuộc đời không hề đi tìm điều gì cho mình, chỉ vất vả lo cho người khác, nhưng chính họ mới thực sự là người đang an vui.

Những người nhập thất phải cẩn thận. Vì khi chưa phải là một người đạt được cuộc sống vị tha, đang bị vị kỷ chi phối, tâm từ bi chưa thật sự rộng mở mà bước vào thất tinh tấn tu hành, đối diện với mình, họ dễ bị vị kỷ, chấp ngã chi phối. Mỗi ngày, chấp ngã cứ lớn dần lên, công đức bị hao tổn mà họ không hay biết. Chỉ có những người công đức quá khứ rất lớn, tâm vị tha rộng mở, đời sống hết sức từ ái, khi vào thất mới thật sự yên tâm. Họ sẽ không phát triển bản ngã hay vị kỷ.

Tục ngữ có câu: “Kính thầy mới được làm thầy”. Muốn có cuộc sống vị tha, chúng ta phải tìm đọc những tấm gương đời sống vị tha của các bậc Thánh trong đạo Phật và trên thế giới để phát khởi lòng ngưỡng mộ, làm Nhân ban đầu cho mình. Nếu chưa bao giờ biết ngưỡng mộ ai về đời sống vị tha, chúng ta sẽ không tìm được đời sống vị tha cho mình. Vì đây là Nhân Quả. Hãy nhớ rằng, kính ai điều gì, chúng ta sẽ thành tựu được điều đó.

Trước hết, chúng ta phải biết ngưỡng mộ Đức Phật. Từ vô lượng kiếp, Ngài đã sống cuộc sống vị tha. Đến bây giờ, tâm Phật vẫn bao phủ và gia hộ cho tất cả những ai có tâm thành. Trong kiếp cuối cùng, Ngài đi tu cũng là thực hiện lý tưởng vì chúng sanh. Cha Ngài là vua Tịnh Phạn đã sợ Ngài sẽ từ bỏ cung điện đi tu nên đã cho Ngài đầy đủ các cuộc vui. Nhưng những cuộc vui xao động của thế gian cuối cùng cũng trở nên nhàm chán. Đức Phật cũng không còn vui khi Ngài hiểu được cuộc sống bên ngoài vô cùng phức tạp và đầy đau khổ. Chúng ta thường nghe kể lại điều này ở câu chuyện ngụ ngôn Đức Phật đi qua bốn cửa thành nhìn thấy sinh, lão, bệnh, tử và trong lòng cảm thấy bất an. Do có phước, Ngài được sống trong Hoàng cung đầy đủ tiện nghi, được mọi người chìu chuộng. Khi bước ra ngoài, Ngài mới thấu hiểu nỗi vất vả, khổ nhọc của người dân. Ngài luôn băn khoăn, phải làm điều gì cho con người đừng đau khổ nữa?

Chính động cơ vị tha đã thúc đẩy Ngài rời bỏ Hoàng cung làm người xuất gia. Không phải bây giờ mà trong vô lượng kiếp trước, tất cả cuộc sống của Ngài cũng chỉ vì chúng sinh. Nếu có Đạo nhãn, chúng ta sẽ nhìn thấy được những kiếp xưa của Đức Phật và lòng ngưỡng mộ của chúng ta sẽ không còn biên giới. Ngài có thể bỏ thân mạng mình cho người khác một cách dễ dàng, có thể hy sinh cả một đời để vì mọi người mà không bao giờ tiếc nuối. Công hạnh tích lũy lòng thương yêu con người với đời sống vị tha của Ngài là vô lượng, vô biên. Đức Phật quả là một tấm gương lớn về đời sống vị tha mà chúng ta phải chiêm nghiệm, phải suy ngẫm, phải tán thán, phải ngưỡng mộ.

Ngay cả các vị Alahán nhiều khi bị hiểu lầm là trầm không trệ tịch, là thụ động sống cho mình cũng là những người có cuộc sống vị tha. Chúng ta thấy ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên sống rất cực khổ, rất vất vả cũng vì lo cho chúng Tăng, cũng vì bảo vệ Tăng đoàn. Ngài chứng Alahán nhưng không hề tiêu cực hay thụ động.

Một lần, Đức Phật gặp ba tôn giả Alahán sống trong khu rừng, sống rất lặng lẽ, Ngài đã khen ba tôn giả sống chỉ vì an lạc, hạnh phúc của Chư Thiên và loài người. Trong khi đời sống các vị rất lặng lẽ, ban ngày đi khất thực, đêm về tọa Thiền bất động, rồi cuối cùng cũng sẽ nhập Niết Bàn. Sống tĩnh lặng như vậy nhưng Đức Phật vẫn khen là sống vì lòng thương yêu đối với chúng sanh. Đây cũng là điều vi diệu mà chúng ta không thể hiểu được. Có lẽ do tâm từ của một vị Alahán lan tỏa rộng lớn nên ngay cả khi Ngài không làm gì nhưng trong thế giới vô hình, biết bao nhiêu chúng sinh vẫn được lợi ích.

Ngài Anan có một cuộc sống vị tha thật là tuyệt vời. Ngài theo hầu Phật một cách nghiêm túc, tôn kính và chu đáo. Chính được Ngài Anan lo toan chu đáo nên Phật không bận tâm nhiều, được tiện nghi trong đời sống để đi thuyết pháp. Như vậy, qua việc hầu Phật, Ngài Anan đã làm lợi ích thật nhiều cho chúng sinh. Khi tiếp xúc với người khác, từng lời nói của Ngài đều đem lại lợi ích cho họ. Lúc chưa chứng Alahán, Ngài đã thuyết pháp làm cho người khác chứng được Alahán. Công đức của Ngài thật lớn lao. Ngài từng xin đức Phật cho người nữ được xuất gia. Đây cũng là một công đức lớn đối với chúng sinh. Vì theo quan niệm của người Á Đông, người nữ nặng nghiệp hơn người nam. Vậy, phải tạo cơ hội cho họ tu hành để hết nghiệp. Nếu không, họ sẽ không có cơ hội để tăng trưởng được phước duyên.

Sau khi Phật tịch, Ngài Anan đã chứng Alahán và được vào hang Tất Bát La để trùng tuyên lại Kinh điển. Sau này, ngài Hư Vân một lần nhập định lên cõi trời Đẩu Suất đã trông thấy ngài A Nan đang theo hầu Bồ Tát Di Lặc, ủng hộ cho Bồ Tát Di Lặc làm việc Phật pháp. Như vậy, Ngài đâu phải bỏ đi, vẫn làm vì lợi ích của chúng sinh.

Gần đây, có hai vợ chồng một gia đình Phật tử đến chùa quy y. Sau đó, người mẹ theo đạo Thiên Chúa sống ở Mỹ cũng về xin quy y. Hỏi nguyên nhân vì sao người đó nói rằng, cha anh ta chết từ năm sáu mươi tám, không hiểu sao hiện về nói bên tai đứa cháu gái tất cả mọi điều. Ông nói chuyện thế gian, chuyện âm phủ, rất rành mạch. Từ đó, bà mẹ chứng kiến và có niềm tin với đạo Phật nên xin quy y. Họ nhờ Thầy Trụ trì làm lễ cầu siêu, lễ quy y cho những người trong gia đình. Người ta kể lại rằng, sau khi làm lễ cầu siêu, người ấy lại trở về, cũng nói bên tai đứa cháu gái lời cám ơn đối với người đã làm lễ trang trọng cho mình. Ông ta còn nói những hương linh chung quanh cũng rất vui mừng, họ cũng đến chúc mừng ông. Từ bây giờ, họ không bao giờ về nhà nữa mà sẽ theo Thầy, nghe giảng đạo để mong khởi được tâm thương yêu tất cả chúng sinh. Chúng ta không có Đạo nhãn để nhìn thấy điều ấy và cũng không biết thực hư ra sao chỉ biết rằng, có người tin và theo Phật để làm lợi ích cho người khác là điều rất quý.

Từ câu chuyện của gia đình người Phật tử trên, chúng ta thấy rằng, các thầy Trụ trì cũng chỉ là người bình thường, nhưng do thành tâm nên nghi lễ cầu siêu đã được linh nghiệm. Vì vậy, chuyện Phật khen ba vị tôn giả Alahán cũng là điều dễ hiểu. Cái tâm từ của một vị chứng ngộ sẽ lan tỏa đem lại lợi ích vô cùng cho chúng sinh, nhất là thế giới vô hình. Thế giới vô hình cảm nhận tâm đó mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Có khi sống gần một vị Thánh chúng ta không biết rõ, nhưng những người chung quanh trong thế giới vô hình lại cảm nhận được điều đó rất mạnh. Nhờ vậy, họ được lợi ích rất nhiều. Ta phải hiểu rằng có khi bên ngoài lặng lẽ, ít làm việc, nhưng kỳ thực các vị Alahán có một cuộc sống rất vị tha.

Gần đây, người ta thường ngợi ca Mẹ Theresa, một nữ tu sĩ Công giáo. Cả một đời, Mẹ sống cho người nghèo, cho người bệnh và tấm gương của bà lan tỏa, ảnh hưởng đến mọi người. Rất nhiều người đã đi tu theo bà,và cũng một đời xả thân để xoa dịu nỗi đau khổ cho cuộc đời. Đó là một tấm gương rất đẹp, rất đáng trân trọng. Khi học theo bà sống đời vị tha, nhiều người cũng chấm dứt được đau khổ. Vì vậy, những nữ tu sĩ theo Mẹ Theresa chắc chắn cũng là những con người rất hạnh phúc, rất an vui. Vì họ không lo gì cho mình, chỉ lo cho người bệnh, người nghèo. Khi bà chết, cả thế giới đều xưng tụng, ngợi ca, có những quốc gia còn để cờ tang.

Tuy nhiên, chúng ta đã biết, cái gốc của đau khổ là do ích kỷ, do kém Đạo đức. Muốn nhổ được gốc đau khổ cho cuộc đời, phải làm sao cho người ta có Đạo đức. Bởi vậy, theo quan điểm của đạo Phật, việc bà làm tuy rất đẹp nhưng chưa thực sự “bứng” được cái gốc đau khổ. Vì bà không đặt nặng vấn đề Đạo đức. Trong đạo Phật chúng ta có Hòa Thượng Hư Vân suốt đời vì Phật pháp, không ở chùa đã hoàn thành, không sở hữu tài sản. Ngài Hư Vân là một tấm gương vị tha vĩ đại. Đời sống của Ngài vô cùng đơn giản. Với những manh áo tầm thường, vài con dao cạo tóc…, Ngài đã đi hết nơi này đến nơi khác làm việc Phật pháp, giáo hóa chúng sinh. Khi thấy dân chúng khổ, Ngài tìm cách ra tay giúp đỡ. Khi thấy hai bên đánh nhau, Ngài khuyên người ta dừng lại binh đao. Những nơi Tổ Đình hoang phế, Ngài tìm cách phục hồi, trùng tu, xây dựng lại Tăng chúng, giữ lại kỷ cương, giữ lại giới luật mà giáo hoá.. .Ngài chẳng bao giờ đến chùa to mà ở. Khi giáo hóa, ngài cũng không phân biệt pháp môn. Gặp người niệm Phật, Ngài dạy niệm Phật. Gặp người thoại đầu, Ngài dạy thoại đầu. Cả một đời, Ngài cứ sống như thế. Và Ngài thọ đến hơn một trăm hai mươi tuổi mới viên tịch.

Khi Trung Hoa lục địa được Đảng cộng sản Trung Quốc giải phóng, Ngài đang ở Hương Cảng (Hồng Kông). Lúc bấy giờ ai cũng lo sợ cho Ngài vì nghĩ rằng người cộng sản Trung Hoa không tin tôn giáo, họ sẽ chống báng và làm khó dễ Ngài. Mọi người khuyên Ngài nên ở lại Hương Cảng. Nhưng Ngài không chịu vì lúc đó ở lục địa chỉ có Ngài là bậc tôn túc. Nếu Ngài không về, Tăng Ni không có chỗ dựa và sẽ tan tác. Mặc dù biết sẽ gặp rất nhiều khó khăn nhưng Ngài vẫn từ giã Hương Cảng, trở về Trung Hoa lục địa. Quả thật, trong thời gian đầu, vì chưa hiểu, chưa thông cảm, chính quyền đã làm khổ Ngài vô cùng. Họ cho lính đến xét chùa, bắt giam các Thầy, đánh đập rất tàn nhẫn đến nỗi có vài người không chịu được đã chết. Họ cũng giam và đánh đập Ngài, đánh đến gần chết. Hết đánh bằng cây gỗ, họ đập bằng cây sắt. Đánh Ngài từ trên giường rơi xuống đất vẫn chưa thỏa mãn, năm bảy tên lính mang giày đinh giẫm lên người Ngài. Mình mẩy Ngài bê bết máu, trông rất thê thảm. Vậy mà Ngài vẫn thản nhiên, lòng không chút sợ hãi hay oán hờn. Sau khi Ngài lành bệnh, chính quyền ở Bắc Kinh mới hiểu và mời Ngài thành lập Giáo hội Phật giáo. Tuy không giữ chức vụ gì quan trọng nhưng Ngài đứng đó làm chỗ dựa tinh thần cho Tăng Ni. Nhờ vậy, người ta vững tâm tu hành, giữ được giềng mối của Đạo. Ngài có thần thông, biết trước được những thảm nạn khi về Trung Hoa lục địa, nhưng vẫn không sợ. Ngài chấp nhận để giữ được chỗ dựa tinh thần cho Tăng Ni, từ đó tạo điều kiện phát triển Phật pháp. Tấm gương vị tha của Ngài Hư Vân thật quá vĩ đại. Là người xuất gia, chúng ta phải phấn đấu để đạt được đời sống vị tha tuyệt vời như vậy.

Để đạt được cuộc sống vị tha, mỗi khi làm việc gì chúng ta hãy đặt lại câu hỏi. Xuất gia để làm gì? ? Lễ Phật để làm gì? Ăn cơm, uống nước, nghỉ ngơi để làm gì? Đi học để làm gì? Nhìn thấy huynh đệ tự hỏi mình phải làm gì? vv…

Hỏi như vậy và tự trả lời, chúng ta sẽ kiểm soát được mình. Cũng làm những công việc như mọi người nhưng chúng ta đừng nghĩ làm cho mình mà phải nghĩ là làm lợi ích nhiều cho chúng sinh sau này. Chúng ta ăn cơm, uống nước cũng nghĩ rằng để có sức mà lo làm Phật sự. Khi mệt nằm nghỉ, chúng ta dừng nghĩ để cho mình khoẻ mà sức khoẻ này là để cúng dường Tam Bảo, để lợi ích nhiều cho cuộc đời này. Những lý tưởng cao siêu có thể chúng ta chưa làm được, nhưng trong ý nghĩ của mình, chúng ta luôn luôn nghĩ những điều rất thánh thiện, rất vị tha.

Khi nhìn thấy chúng sinh, nghĩ đến thế giới, chúng ta tự hỏi mình phải làm gì ? Chẳng hạn, thấy đạo Phật đang suy thoái, chúng ta phải băn khoăn. Phải nhận ra rằng, chính lối sống của Tăng Ni làm cho đạo Phật yếu đuối. Tăng Ni phải chủ động, phải có sức mạnh để chống đỡ khi có khó khăn trở ngại. Sở dĩ trong thực tế, Hồi Giáo đi đến đâu, đạo Phật suy yếu đến đó là do sức sống của đạo Phật yếu. Nguyên nhân chính là do từng người chúng ta không có tâm vị tha mạnh mẽ. Chúng ta còn sống cho mình nhiều quá. Chẳng hạn, ở Inđônêxia, cộng đồng người Hoa theo đạo Phật khá đông. Nhờ có họ mà đạo Phật hiện diện tại nước này. Vậy mà, ngày nay nhóm Hồi Giáo khủng bố và đuổi hết người Hoa ra khỏi Inđônêxia. Trong tương lai, Inđônêxia sẽ không còn Phật giáo. Trước tình trạng đó, chúng ta sẽ làm gì ? Phải thường xuyên đặt những câu hỏi như thế.

Hoặc nhìn thế giới cứ xung đột, xâu xé lẫn nhau, luôn đem lại sự bất an, chúng ta làm được điều gì ? Nếu không bao giờ ray rứt về những điều đó, chúng ta là người sống vị kỷ. Người có cuộc sống vị tha không bao giờ bình yên, thanh thản được. Họ luôn cảm thấy ưu tư và thấy mình phải có bổn phận, có trách nhiệm đối với cuộc đời này. Đó mới đúng là người Phật tử chân chính.

Chúng ta hãy thành thật tự trách mình mỗi khi thấy tâm mình xuất hiện những tư tưởng ích kỷ. Việc xây dựng tâm hồn vị tha, đời sống vị tha là việc rất khó khăn, phải trải qua một thời gian dài. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng tu tập từng ngày.

Chẳng hạn, đối với người tu, ích kỷ thường biểu hiện ở sự ham muốn mình có được nhiều tiền, có chùa to, có danh tiếng…Hoặc khi nhìn thấy những người xung quanh rơi vào hoàn cảnh khó khăn mà chúng ta làm lơ, tự nhiên tâm vị kỷ sẽ lớn lên. Khi có chuyện không hay xảy ra, chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, đó cũng là biểu hiện của một đời sống vị kỷ. Hãy cứ nhận lỗi về mình, chúng ta sẽ có một đời sống vị tha.

Nguồn


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...