Hiển thị các bài đăng có nhãn Jewish. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Jewish. Hiển thị tất cả bài đăng

Heinrich Heine: nhà thơ Đức và kẻ kích động chính trị Do Thái


Người ta thường kết tội kẻ châm ngòi đám cháy, nhưng bỏ quên kẻ tha rác rưởi gầy sẵn trạng thái bốc lửa của một đám cháy.

Thật đáng ngạc nhiên là thơ Heinrich Heine được dịch khá nhiều ra tiếng Việt, nhiều cô cậu trẻ và các đấng râu ria trầm trồ. Người ta bảo Heinrich Heine là thơ Đức? Nhưng tại sao lại chỉ nói ông là người Đức? Và không ai biết tình trạng rác rưởi sẵn sàng cho một đám cháy đang được tha vào xã hội Việt Nam!

Heinrich Heine là người Do Thái ở Đức, cùng trường phái CNTD - XHDS với John Lock ở Anh. Cũng không ngạc nhiên, phổ biến Heinrich Heine vào ta vẫn là CNTD.


Một trăm năm trước khi Adolf Hitler nắm quyền lực, có một sự kiện xảy ra ở Đức, một điềm báo tồi tệ đến trong mối quan hệ giữa người Đức và người Do Thái. Đó là phản ứng của phong trào “thanh niên Đức” do một số Do Thái trẻ cầm đầu mà mục đích là để giới thiệu một số cải cách xã hội tự do, bao gồm cả các cơ hội lớn hơn cho người Do Thái trong tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội Đức. Trong quá trình chiến dịch của họ, những người tham gia đã nói và đã làm những điều mà chính quyền Đức và các phân khúc lớn dân chúng cảm thấy bị xúc phạm và bị công kích. Tại trung tâm của phong trào và được để ý bởi nhiều sự hiện thân của bản tính và tâm lý Do Thái là nhà thơ Do Thái nổi tiếng thế giới Heinrich Heine.

Heine là một người mang xung khắc dữ dội. Khi còn trẻ, Heine nhanh chóng được công nhận là nhà thơ lãng mạn lớn nhất Đức sau Goethe. Bởi vì vẻ đẹp và nội dung chủ đề của thơ ông, ông được cho là một người yêu quê hương của mình, đặc biệt là vùng Rheinland, nhưng đến tuổi trung niên, Heine đã biến thành một kẻ cay đắng, chỉ trích châm biếm, thù địch với hầu như tất cả mọi thứ và tất cả mọi người mà ông đã từng yêu quý ngưỡng mộ. Trong khi thiếu vắng bất kỳ nguyên nhân rõ ràng nào khác, cuộc sống và nhân cách của ông, ngay cả sức khỏe của ông, dường như đã bị tan vỡ bởi một cuộc đụng độ tâm lý giữa bản năng di truyền của ông, đặc biệt là về bản tính cốt lõi Do Thái và văn hóa của thế giới mà trong đó ông sống. Trong tác phẩm “Faust”, Goethe có dòng thích hợp để mô tả tình trạng này: "hai linh hồn ngự trong tôi, than ôi, mãi mãi chiến tranh với nhau."

Sinh năm 1797 với cha mẹ là dân Do Thái, họ sống sung túc nhưng khiêm tốn ở Duesseldorf, cậu trẻ Harry Heine, được đặt tên như vậy, vào đời trong một thành phố cơ bản là công giáo La Mã có cư dân Do Thái, nhưng chỉ là một thiểu số của đa số người Đức, cậu đã hoan nghênh những cuộc cải cách tự do được giới thiệu bởi Napoleon. Cha mẹ Harry đưa cậu vào lớp mẫu giáo Đức lúc 4 tuổi trong khi đồng thời dẫn dắt con theo truyền thống Do Thái ở nhà và làm các hướng dẫn bổ sung có thể về tôn giáo Do Thái trong một trường học tư nhân. Harry đã tham dự lớp học Lyceum địa phương trong tu viện của các linh mục công giáo, thường là Dòng Tên dạy học. Kỷ luật là nghiêm ngặt - được thiết kế để cung cấp các chủ đề hữu ích về Napoleon.

Trong Lyceum, Harry trở thành thông thạo tiếng Pháp, không phải là một ngôn ngữ thứ hai mà gần như ngang hàng với tiếng Đức mẹ đẻ của mình. Có một tương lai may mắn cho cậu bé Do Thái khi hiệu trưởng trường Schallmayer, một thầy tu Dòng Tên là người chia sẻ tình yêu của mình với học sinh bằng tất cả mọi thứ tiếng Pháp, đã trở thành một người bạn đặc biệt và cố vấn cho cậu. Schallmayer thậm chí đã cố gắng để thuyết phục Harry làm linh mục. Mặc dù khía cạnh thơ của công giáo lôi cuốn rất mạnh mẽ đối với cậu trẻ Harry, nhưng cậu đã chọn cuộc sống thế tục. Về cuối đời, Heine đã bất tử hóa các linh mục và đặc thù của họ trong “Buch Le Grand” (1827) và “Memoiren” của mình (posthumous 1884). Nhưng như gợi ý, thậm chí là bắt buộc, bởi một bản năng bẩm sinh, ông cũng đã viết các đoạn chế nhạo, thậm chí báng bổ trong “Reisebilder” (1826) và những bài thơ khác về những trải nghiệm ban đầu và trường học của mình.

Bởi đức tính cá nhân, khuynh hướng chính trị, và tài năng văn học, Harry Heine trở thành một uy quyền quan trọng trong giai đoạn phản động mà người Đức gọi là “Vormärz” – có nghĩa là trước bạo loạn, hay trước năm 1815, năm thất bại chấm hết của Napoleon và cái chết của cải cách tự do của ông ta, cho đến cuộc cách mạng tháng ba năm 1848 và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do.

Bức tranh mô tả bạo loạn phong trào Thanh niên Đức - Jungen Deutschland thời Vormärz chẳng khác gì nhiều quang cảnh quảng trường Tự Do – Kiev ngày nay. Cả chủ nhân làm giàu bằng bạo loạn cách mạng cũng vẫn như cũ. Cả trăm năm Gentile vẫn ngu đần y như cũ.




Trước cải cách Napoleon, người Do Thái ở Đức đã phải chịu một số hạn chế về tham vọng và hoạt động của họ. Trong các ngành nghề chỉ có y khoa là được mở cho họ. Nhưng trong bầu khí hậu tự do mới, người Do Thái, bao gồm cả Do Thái trước đây đã từng là "mua quan" đối với các hoàng thân khác nhau và truyền thống cho vay trong lĩnh vực kinh doanh, sớm vận dụng kỹ năng của họ vào hoạt động nhà băng hiện đại. Thành công rõ rệt nhất của nhà băng Do Thái đầu tiên là Rothschild, người sáng lập Meyer Amschel Rothschild, kiếm tài sản của mình trong cuộc chiến tranh của đồng minh với Napoleon sau cách mạng Pháp 1789. Khi làm ăn với đồng minh của tầng lớp cầm quyền, các nhà băng Do Thái thường bị tư bản hóa, mặc dù vẫn còn bị từ chối quyền công dân. Harry có một tương lai tốt đẹp, khi ông chú Solomon đã nhanh chóng thăng tiến trong xã hội để trở thành một chủ ngân hàng thành công như vậy ở Hamburg. Ông đã tình nguyện trả tất các chi phí để Harry theo học ĐH, với điều kiện chỉ là trở thành luật sư.

Vì vậy, Harry Heine vào trường đại học với một nền tảng dựa trên Torah, thánh ca, tiếng Do Thái và văn học dân gian Đức, cổ điển Pháp, sự hăng hái của Napoleon, những ma quái trong câu chuyện Roman, hiệu trưởng Schallmayer theo chủ nghĩa duy lý, và sự châm biếm tàn bạo của Jonathan Swift. Những ảnh hưởng này sẽ lưu lại ở cậu ta qua suốt cả cuộc đời mình.

Tại ĐH Bonn, Heine thích thú chú ý đặc biệt đến August Wilhelm von Schlegel, một nhà phê bình và thông dịch viên văn học nước ngoài, cũng như đến Ernst Moritz Arndt, người phản đối trung thành cuộc  “xâm lược” Napoleon. Heine đã cùng với học sinh đồng hương của mình giả vờ chào đón Đức giải phóng từ Napoleon. Khi vẫn còn ở Bonn, Heine đã viết một bài thơ ngắn khen ngợi những ngày của mình tại trường đại học, nhưng những năm sau này ở “Romantische Schule” (1836) trong một đoạn văn hèn hạ, ông đã từ chối bằng sự bội bạc chua cay với tình cảm mình đã từng bày tỏ trước kia.

Nó là thông thường trong những ngày đó khi học sinh chuyển từ đại học này đến đại học kia để tìm chương trình giảng dạy và giáo sư họ cảm thấy thoải mái nhất, tuy nhiên Heine đã chọn Göttingen ở vùng Hanover, nơi ông thấy dân cư của vùng cũng như các sinh viên tại trường đại học khá kiêu ngạo và xa lánh người Do Thái. Các thành viên giới quý tộc, ví dụ, có ghế riêng trong các lớp học và bữa ăn của mình tại một bàn dành riêng trong Mensa. Ở Bonn và Göttingen, Heine chọn chủ yếu là các khóa văn học và lịch sử, hoàn toàn bỏ qua ước muốn của ông chú mình là nghiên cứu pháp luật.

Đối với trường tiếp theo và cuối cùng, Harry Heine chọn Berlin. Nó là một thành công. Ở đây, Harry đã có thể liên lạc với những người quan trọng nhất trong những ngày ấy. Cuộc sống về đêm opera, nhà hát, nhà hàng, quán rượu, và cơ hội để giao tiếp với các tên tuổi trong giới văn học của phụ nữ Do Thái giàu có. Heine trở thành quen thuộc ở Frau Rahel nơi mình làm được quen với các nhân vật tôn kính của ngày ấy như Baronin Elisavon Hohenhausen, dịch giả của Byron, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới FranzBopp, cũng như E.T A. Hoffmann, nhà trang sức Fouqué, nhà thơ người Đức và nhà thực vật học Chamisso, cùng nhiều người khác.

Tháng 8 năm 1822, Heine tham gia “Verein für Kultur und Wissenschaft für Juden”, một XHDS được lập để đưa người Do Thái vào sự hòa hợp với văn hóa châu Âu. Không chỉ có nhiều người Đức coi Heine và người Do Thái nhìn chung là kẻ ngoài, mà một số giáo sĩ cũng thế, vì sợ có thể đánh mất ảnh hưởng và quyền lực của họ trong trường hợp người Do Thái bị đồng hóa, họ khuyến khích tất cả người Do Thái bảo toàn với dân tộc của họ. Mặc dù Heine từ chối tất cả giáo lý tôn giáo, nhưng bản năng gốc, thiên hướng chủng tộc của mình, như nó đã có, buộc Heine phải ủng hộ Verein. Tình bạn với Verein và các đồng hương Do Thái đã kéo dài đến cuối cuộc đời. Ngay cả khi ông thú nhận với bạn bè rằng mình đã mất niềm tin vào giáo lý Judaism và tất cả các tôn giáo giáo điều, ông tuy nhiên vẫn tiếp tục ủng hộ Verein và tất cả các tổ chức được lập để hỗ trợ người Do Thái.

Tại đại học, Heine đã quan tâm ngay lập tức đến triết học Hegel, tham dự nhiều bài giảng của Hegel. Sau này ông đã thú nhận với Ferdinand Lassalle, một nhà XHCN Do Thái Đức và là 1 kẻ kích động chính trị, rằng ông không bao giờ thực sự hiểu Hegel nhưng bị lóa mắt bởi sự phấn khích của nó. Heine đã từng sử dụng thuật ngữ Hegel sau này trong “Buch Le Grand” chỉ đơn thuần là để đùa vui với nó. Với nhà ngôn ngữ học Franz Bopp ông học tiếng Phạn và thần thoại Hindu, mà với nó von Schlegel đã từng giới thiệu ở Bonn. Ông cũng nghiên cứu các thuyết lãng mạn tôn giáo với thầy Schleiermacher và học Homer với Friedrich August Wolff. Cả thời trẻ Harry Heine đã bỏ mặc học luật như ông chú mong mỏi.

Sau khi tốt nghiệp tại Berlin, ý định của Heine là đến thăm Paris, nhưng đã không tính đến ông chú Solomon, người muốn đến ngày cuối cùng có tấm bằng luật. Solomon cảm thấy nếu thơ không làm cho cháu trai kiếm được thu nhập đáng giá, cậu sẽ phải quay lại lớp học luật. Harry do đó quay trở lại Göttingen, nơi Heine theo nghiên cứu của Corpus Juris. Tháng 6 năm 1824, để chuẩn bị bước vào thế giới thực, Harry Heine quyết định rửa tội tại nhà thờ Lutheran, nơi Heine được đặt tên Christian Johann Heinrich Heine, cái tên được biết đến từ đó trở về sau. Heine giải thích với bạn bè người Do Thái của mình, "nó là vé vào cửa văn hóa châu Âu". Về việc cải đạo Thiên Chúa giáo, Heine đã rất tiếc cho đến hết phần còn lại của đời mình, Heine như nói, "đó là vô cùng khó khăn cho một người Do Thái để cải đạo, vì làm thế nào để anh ta có thể đưa mình vào tín ngưỡng thần học của người Do Thái khác?

Vào tháng 7 năm 1824 Heine bảo vệ thành công đề tài bằng tiếng Latin và được trao thưởng Doctor Juris. Heine được tâng bốc khi giáo sư Hugo, trưởng khoa luật, chúc mừng và so sánh với mình, khi kết hợp thơ với luật gia, với Goethe.

Heine tiếp tục xuất bản những vần thơ ngọt ngào và các bài văn cay đắng. “Book of Songs” (1827), lấy cảm hứng từ tình yêu của mình với cô con gái của ông chú Amalie, là bộ sưu tập nổi tiếng nhất các bài thơ trữ tình, một số trong đó như là “Lorelei” (1822) được biết đến trên cả thế giới; những cái khác làm lời cho một số nhà soạn nhạc làm bài hát Đức (Schubert, Schumann, Mendelsohn). Tuyển tập “Romanzero” (1853) được coi là các bài có độ chín nghệ thuật nhất. Văn xuôi của Heine  gồm các tác phẩm lớn “Die Harzreise” (1826), “The Romantic School, Atta Troll” (1847), “Germany: A Winter’s Fairy Tale” (1844)) là kiệt tác trí tuệ, châm biếm, mỉa mai, hoài nghi, và chế nhạo. Về lời bài hát của Heine, Nietzsche viết:

“Những quan niệm cao nhất của lời thơ đã được trao cho tôi bởi Heinrich Heine. Tôi đã tìm vô ích trong toàn cõi thiên niên kỷ thứ âm nhạc say đắm ngọt ngào. Nó sôi nổi đến mức thiếu thần thánh tôi không thể hình dung sự hoàn hảo... và làm thế nào mà ông ấy sử dụngtiếng Đức! Sẽ có một ngày được kể rằng Heine và tôi còn hơn là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.”

Năm 1841, sau lần thứ 2 tình yêu không được đền đáp, Heine kết hôn với cô gái mù chữ 19 tuổi bán hàng người Paris và ông đặt tên lóng là "Mathilde". Mathilde không biết tiếng Đức và không quan tâm đến vấn đề văn hóa hay trí tuệ. Mặc dù họ sống với nhau nhiều năm, nhưng không hạnh phúc. Về hôn nhân của Heine có thể nói là "âm nhạc chơi tại một đám cưới luôn luôn nhắc nhở tôi về âm nhạc chơi cho các chiến binh trước khi họ đi vào cuộc chiến".

Trong giai đoạn 1830-1850, Heine với Ludwig Börne (một Do Thái kích động trẻ khác) trở thành thủ lĩnh trí tuệ của phong trào "thanh niên Đức", thực ra là một đám văn chương, đã cố gắng để xúc tiến các nghệ sĩ và nhà văn Đức, thuyết phục họ rằng đó là nhiệm vụ của họ là giúp mang lại thay đổi chính trị và xã hội, bao gồm đặc biệt là bình đẳng đầy đủ trong xã hội Đức cho tất cả người Do Thái. Các nhà văn không chấp nhận tiền đề này đã bị coi là thẩm mỹ nghèo nàn hay phản động chống xã hội. Để đạt được mục đích này, họ sử dụng thứ vũ khí trí não phát triển cao của họ, mỉa mai, châm biếm để hạ bệ các lý lẽ được sử dụng chống lại họ và phỉ báng những ai bị cho là ngăn cản con đường của họ. Tuy nhiên, rất nhiều nhà phê bình văn học và chính trị đã từ chối thứ chủ nghĩa duy lý lạnh, chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa lãng mạn sầu muộn vờ vịt của "chủ nghĩa Byron".

Heinrich von Treitschke (1834-1903), là nhà sử học Đức xuất chúng và rất có ảnh hưởng, chỉ trích sự kiêu ngạo, luận điệu phi lý và tham vọng không kìm chế của những kẻ ủng hộ phong trào này. Treitschke mô tả các tác động tiêu cực của dân Do Thái đến xã hội Đức trong nỗ lực để tạo ra một quốc gia lai ghép Đức - Do Thái. Trong cuốn sách nhỏ gọi là “Lời về DT của chúng ta - A Word about Our Jews”, ông viết, "năm này qua năm khác, chui ra khỏi cái ổ Ba Lan vô tận cả dòng này tràn qua biên giới phía đông của chúng tôi một đám những thanh niên, chen lấn xô đẩy, bán dạo quần áo, mà trẻ em và trẻ em của trẻ em họ sẽ một ngày nào đó làm chủ thị trường chứng khoán và báo chí Đức". Treitschke cũng cho phổ biến rộng rãi thành ngữ “Do Thái là bất hạnh của chúng tôi”, nó được lấy và mang ngay đi suốt thời kỳ chủ nghĩa xã hội quốc gia.

Quan điểm của Von Treitschke về Do Thái Đức là trái với Theodor Mommsen (1817-1903), một sử gia người Đức cũng nổi tiếng khác, Mommsen công bố: Bản tuyên bố của 75 danh nhân chống Anti-Semitism, trong đó ông phản bác lập luận của Treitschke:

“Trong điệu bộ không ngờ và xấu hổ sâu sắc, thù hận chủng tộc và chủ nghĩa cuồng tín thời Trung cổ được nhen nhóm ở nhiều nơi và hướng đến chống lại công dân Do Thái của chúng ta. Cái gì bị lãng quên ở đây là nhiều trong số họ (DT) được tổ quốc ban cho lợi ích và tôn vinh qua ngành công nghiệp của họ và tài năng trong buôn bán và thương mại, nghệ thuật và khoa học.”

Cuộc đấu tạm thời một lần nữa cân bằng giữa một bên chỉ thấy tồi tệ trong sự hiện diện của Do Thái và một bên thấy tốt đáng kể. Heinrich Heine là để chứng minh cho sự phong phú của cả hai phẩm chất - tốt và xấu - trong cuộc đời của ông. Tuy nhiên, ngày càng nhiều, châm biếm cay đắng và luận chiến dần dần đã chiếm vị trí ưu tiên trong thơ của Heine. Mặc dù Heine vẫn tiếp tục cho ra các tác phẩm thơ như loại ban đầu, ông cũng dần dần đánh mất sự gần gũi với thơ dân gian và văn hóa dân gian Đức, thứ mà ông đã  biểu lộ trong những năm trước kia. Về mặt chính trị, tác phẩm của Heine đôi khi được gọi là tự do cấp tiến và vào thời điểm khác là la lối cách mạng. Ông đã gặp và duy trì quan hệ thân thiện với Karl Marx và Friedrich Engels. Harry Heine, nhà thơ trữ tình Đức, cuối cùng đã trở thành chủ nghĩa quốc tế Heinrich Heine, thơ chính trị và phê bình văn học. Như về Heine được trích dẫn rằng:

"Tôi có một lần tổ quốc đẹp;
Cây sồi mọc cao như vậy đó;
Hoa tím gật đầu rất nhẹ nhàng.
Điều đó như là một giấc mơ".

Nhưng thay đổi đã hoàn thành. Heine đã bỏ rơi Thiên thần Tân Ước thời trẻ để thừa kế Quỉ dữ Cựu Ước. Baudelaire là người thấy cái gì đó ở Heine, ca ngợi ông như một nhà văn, người "sẽ là một thiên tài nếu chỉ cần ông quay mình thường xuyên đến với Chúa." Đôi khi, Heine thậm chí chơi ngông chỉ trích đồng hương mình vì chủ nghĩa thương mại hóa và các đặc điểm khó ưa khác. Ông sau đó sẽ xin lỗi và tái khẳng định lòng trung thành với nguồn gốc Do Thái của mình.

Năm 1830 cuộc cách mạng ở Paris quét vị vua Bourbon cuối cùng ra khỏi ngai vàng và biến nước Pháp thành chế độ quân chủ lập hiến, Heine quyết định định cư ở đó, trải qua 25 năm cuối đời ở Paris. Năm 1848, Heine đột nhiên mắc chứng tê liệt và bị hạn chế trên giường cho đến khi ông qua đời vào năm 1856. Trước khi chết, ông tuyên bố mình là nhà thần luận và không phải là vô thần, nhưng từ chối tất cả các tôn giáo. Đối với mọi điều ác và tội lỗi mà ông có thể đã phạm phải, có thể trích dẫn về Heine: "Dĩ nhiên Chúa sẽ tha thứ cho tôi; đó là việc của người".

Hầu hết các nhà phê bình coi Heinrich Heine là một nhà thơ tuyệt vời, nhà văn châm biếm và nhà tranh luận không cần bàn cãi. Viết vào năm 1933, giáo sư Robert Herndon Fife của đại học Columbia đã đưa ra một vai trò tích cực: "truyền tinh thần biện chứng sắc bén vào niềm đam mê của chủ nghĩa lãng mạn; "và hòa trộn Do Thái phương Đông với đặc điểm Đức dẫn đến nhuần nhuyễn cái mới trong lịch sử văn học."

Nhưng chính cái hòa trộn phương Đông và đặc điểm phương Tây làm cho những người khác thấy khó chịu. Adolph Bartels (1862-1945), ví dụ, một nhà thơ người Đức quan trọng và nhà báo theo lý lẽ của mình nói Heine là "Không có sáng tạo thiên tài, chỉ đơn giản là một tài năng kiến trúc, chỉ đơn thuần là người có trình độ cao." Bartels là người khởi xướng mạnh mẽ sáng tác Völkisch từ lâu trước khi xã hội quốc gia xuất hiện trên sân khấu. Khi họ đã làm, Heine nhanh chóng trở thành persona non grata và trường thơ văn của Bartels trở thành gần như biểu tượng chính thức. Chính Hitler trao cho Bartels huy chương danh dự Adlerschild, cao nhất của phát xít Đức vào năm 1937.

Heine, do đó, là một nhân cách xung đột theo nghĩa bản chất cốt lõi của mình, di sản Do Thái của ông, thường xung đột với môi trường Đức và Kitô giáo. Heine được ưu đãi bởi cha mẹ và di sản mang một số thuộc tính Do Thái có lợi nào đó như mối quan hệ tự nhiên với đồng hương của mình (đoàn kết sắc tộc), sự khéo léo bằng lời nói, tính hung hăng, tính cá biệt, sắc sảo trong trí tuệ và hiểu biết, sự bất mãn thánh thần (hay ma quỷ) với những thứ như ở họ, cũng như cảm giác sống ưu việt trong thế giới xa lạ và thù địch cần khai sáng. Môi trường của ông nuôi dưỡng và hình thành bản năng thứ hai của ông như nó có được, cung cấp cho ông khả năng giáo dục tốt nhất có thể, công nhận và báo đáp cho tài năng của ông, thay đổi và tranh cãi của bầu khí hậu chính trị trong đó Heine sử dụng món quà bản năng của mình đến chỗ đầy đủ. Heine, nhà thơ trữ tình, đã và vẫn được đặc biệt yêu quý, ngưỡng mộ ở Đức và thế giới, cũng giống như Heine, các nhà văn châm biếm, được đánh giá đặc biệt trong cộng đồng Do Thái.

Đối với hầu hết mọi người, sẽ là dễ dàng hơn để nghĩ về Heine như là một nhà thơ Do Thái, người trở thành một virtuoso trong thơ trữ tình Đức cũng như Heifetz, Stern và những người khác đã trở thành virtuosi trong âm nhạc Đức, hơn là nghĩ về ông như một nhà thơ Đức tha thiết mong muốn và đã chiến đấu cho nước Đức tự do hơn.

Vì ông nhận xét châm biếm, không thật, và hết sức xúc phạm cá nhân, tổ chức, và những nơi đã nuôi dưỡng và giáo dục ông thời tuổi trẻ, Heinrich Heine – là kẻ kích động chính trị - kẻ giận dữ có thể hiểu được đối với người Đức, họ nhìn ông rõ ràng như kẻ vô ơn bạc nghĩa và kẻ phản bội vì bôi nhọ văn hóa và các giá trị Đức, kẻ đã cố để thay họ bằng đồng hương của mình. Trong thực tế, ông đã vi phạm một quy tắc cơ bản của tư cách đạo đức văn minh, mà theo đó ông đã từng học được ở đâu đó trong suốt cuộc đời không yên của mình, cụ thể là, như câu tục ngữ Do Thái, "đừng ném bùn xuống giếng mà mình đã uống".

Quan trọng hơn, tuy nhiên, cũng có một thực tế là những cá tính đặc thù này, tốt và xấu, mà Heine thừa hưởng từ tổ tiên của mình và giúp ông rất đắc lực cũng hiện diện ở mức độ ít hơn hay nhiều hơn trong số đồng hương của mình khi họ tiến đến quyền lực lớn hơn bao giờ hết trong xã hội Đức. Người Do Thái chủ nghĩa vị tộc, thái độ chống đối của họ với Đức kết hợp với sự dẫn dắt tàn nhẫn đến với quyền lực trở thành rất hiển nhiên khi họ đi đến thống trị ngành pháp lý và y khoa ở Đức, các nhà băng, và các phương tiện truyền thông. Đồng thời, họ cũng trở thành thống trị trong các phong trào cách mạng chính trị, đặc biệt là CNCS. Oán hận tích lũy của người Đức chống lại sự tham gia của rất nhiều thành viên trong cộng đồng Do Thái vào hoạt động CNCS có tính bạo loạn lật đổ và Weimar có tính suy đồi thối nát cuối cùng đã lên tới đỉnh điểm với sự nổi lên của chủ nghĩa xã hội quốc gia - Nazi.

ND: Như người ta nói, người Do Thái không phát minh sáng tạo gì, họ chỉ chiếm lấy cái có sẵn vào đưa nó đến chỗ hư hỏng, đồi bại, thối nát. Bất cứ cái gì người Do Thái nhúng tay, đều như vậy. Nhưng ngày nay, thậm chí không ai có ý định gột rửa, rũ bỏ điều này để tìm về cội nguồn nguyên bản thuần khiết.

Hai mặt của cùng 1 đồng xu, Tài năng và Ác Quỉ - Cùng trú ngụ trong 1 con người!



Tài liệu tham khảo
1) Kurt F. Reinhardt (1896-1983). Germany: 2000 Years. Frederick Ungar Publishing Co., New York, Vols. 1 and 2, 1950. Reinhardt was Professor of Germanic Languages, Stanford University
2) Robert Herndon Fife (1871-1958). Die Harzreise. Henry Holt and Company, New York, 1933, Introduction pp. ix-lxxxv. Fife was Professor of German at Columbia University
3) Wikipedia items dealing with aspects of his life, a listing of his works, quotations attributed to him, etc.
Bài viết của Dan Michaels;

Xem thêm:

Đạo Do Thái và HOMO: hôn nhân ở địa ngục

Phần 1:

Talmud - giáo lý quái đản, kinh tởm nhất trong lịch sử nhân loại

Ngày nay Do Thái giáo, hơn bất kỳ tôn giáo nào, đã bác bỏ đánh giá đạo đức trong HOMO, và ủng hộ các chương trình nghị sự đồng tính. Do Thái giáo cải lương, chiếm 39% tôn giáo Do Thái-Mỹ, hiện đã  hoàn toàn  tán thành giao hợp đực với đực và người với động vật. Nói rằng:

Chúng tôi cho là HOMO không còn là (một sự ghê tởm), nó không phải là một bệnh tâm thần hoặc lệch lạc xã hội, nó không phải là một sự xuyên tạc trật tự tự nhiên. HOMO không phải là một sự lựa chọn hoặc sở thích, nó không phải là một cái gì đó mà một ai quyết định làm hay tránh làm. Đó là một trong những cách, như tình dục khác giới. Như vậy không có cơ sở đạo đức hay ý thức tôn giáo để phân biệt con người trên dựa trên xu hướng tình dục.

Giáo sĩ Eric Yoffie, chủ tịch  Liên hiệp Do Thái giáo cải lương, đồng tình: Lần đầu tiên trong lịch sử, một tổ chức giáo sĩ Do Thái lớn đã khẳng định giá trị Do Thái tận tình với quan hệ đồng giới. (Central Conference of American Rabbis (CCAR) Responsum, 1996, plus comment by Rabbi Eric Yoffie, quoted by Religious Action Center of Reformed Judaism.)

Giáo sĩ bảo thủ, kẻ dẫn dắt 33% tôn giáo Do Thái-Mỹ, thông báo họ sẽ sớm tấn phong giáo sĩ đồng tính nam và khuyến khích HOMO cho những người đàn ông Do Thái và những người phụ nữ có khuynh hướng như vậy.("Key Rabbis Say Conservative Judaism Will Lift Gay Ban," Jennifer Siegel, Aug 25, 2006.)

Do Thái giáo trực hệ, chiếm 21% tôn giáo ngời Do Thái-Mỹ, bề ngoài vẫn chưa tán thành HOMO. Trong thực tế, chính thức ngăn cấm quan hệ đồng tính giữa người lớn.

Nhưng trong Talmud, tín ngưỡng cao nhất, quyền hạn đạo đức và pháp lý cao nhất đối với người Do Thái trực hệ, thấy rất khác nhau, thực sự gây sốc: các bé trai ở độ tuổi dưới chín (đối tượng khoái khẩu của đám thú tính đồng giới) được mô tả lặp đi lặp lại là không có khả năng "ném tội lỗi" lên người lớn, những kẻ hãm hiếp chúng!

Làm thế nào để Talmud dẫn ra kết luận xuyên tạc như vậy? Talmud xem xét kỹ câu hỏi: "Cái gì làm một phụ nữ không đủ tư cách để có thể được chọn kết hôn với một giáo sĩ Do Thái?" Cựu Ước tình dục là trái đạo đức. Tuy nhiên, Talmud nhiều lần khẳng định, một phụ nữ trưởng thành có thể quan hệ tình dục với bé trai ở độ tuổi dưới 9. Có sự khác biệt về quan điểm giữa các giáo sĩ Do Thái nổi danh nhất về việc phụ nữ như thế không đủ tư cách làm vợ một giáo sĩ. Tuy nhiên, tất cả đều đồng ý rằng giao cấu như vậy không phải là hoạt động tình dục, và cả cô ta và cậu bé trai đã không làm điều gì sai trái.

Tiền lệ phụ nữ được khuyến khích vào đồng dâm nam tạo ra phản ứng đạo đức sâu sắc: cậu bé trai không được bảo vệ đạo đức. Hiếp dâm cậu ta thậm chí không phải là vấn đề đạo đức. Có hậu quả không khó để tưởng tượng đồng dâm Do Thái như thế nào, thực sự thú tính từ đằng sau với cậu ta (là con gà theo từ vựng của họ), có thể tìm thấy sự biện minh hợp lý trong Talmud.

Đây là những gì Talmud nói. Talmud dạy rằng kể từ khi bé trai không phải là trưởng thành tình dục, lạm dụng tình dục chúng không liên can đến đạo đức. Bởi vì trẻ vị thành niên như thế không phải là một "người đàn ông" theo nghĩa trưởng thành, cậu bé và kẻ săn mồi tình dục của mình được miễn lệnh cấm Mosaic về HOMO. Nó nói, "Ngươi không nói dối với người." (Lev. 18:29)

Sanhedrin 69b tóm tắt: "Tất cả đều đồng ý rằng quan hệ của một cậu bé tuổi 9 năm và 1 ngày là mối quan hệ thực sự, trong khi đó cậu bé ít hơn 8 năm thì không."

Đa số ý kiến trong Sanhedrin. 55a nói: "Giáo sĩ nói: đồng dâm nam với một đứa trẻ trai dưới 9 tuổi không bị coi là đồng dâm nam như với một đứa trẻ lớn hơn thế"; "Giáo sĩ bảo vệ rằng chỉ có ông ta là kẻ có thể tham gia vào quan hệ tình dục, có thể, như đối tượng thụ động của các đồng dâm nam, ném tội lỗi (lên kẻ phạm tội hoạt động), trong khi ông ta là kẻ không thể tham gia vào quan hệ tình dục thì không thể".

Các giáo sĩ Do Thái đồng ý rằng một phụ nữ có thể có quan hệ tình dục với một cậu bé trai mà không và thậm chí không được coi là một hành vi tình dục: "Một cậu bé trai nhỏ, những người giao hợp với một phụ nữ trưởng thành làm cho cô ta (như cho là trưởng thành) bị thương bởi một khúc gỗ "(Kethuboth 11b). Chú thích của đoạn văn này nói: "Mặc dù quan hệ của một bé trai nhỏ không được coi là một hành vi tình dục, tuy nhiên người phụ nữ bị tổn thương như bởi việc đó như bởi bằng một khúc gỗ" (tức là cô ta đã không phạm tội, nhưng có lẽ là không đủ tư cách kết hôn với một linh mục).

Talmud thảo luận đồng dâm nữ làm ra vẻ như để xác định xem một phụ nữ, bởi quan hệ tình dục như vậy, trở nên không đủ tư cách để kết hôn với giáo sĩ. Tuy nhiên, Talmud sẽ mở một cánh cửa rộng cho tất cả người Do Thái gạ gẫm trẻ em, nam hay nữ, thỏa thích tình dục với bé trai dưới 9, được miễn trừ trách nhiệm. Sau tất cả, Talmud làm vô hiệu lệnh cấm Mosaic về tình dục đồng giới với “con người", dạy rằng một cậu bé chưa trưởng thành tình dục không phải là một "người đàn ông." Liệu đó không phải là bật đèn xanh cho đồng tính Do Thái?

Giảng dạy như vậy không phải là ngẫu nhiên. Các giáo sĩ Do Thái từ xưa, đã hư hỏng tình dục, lập ra một dự phòng cẩn thận cho đặc ân tình dục lệch lạc bệnh hoạn của họ. Họ liên tục chế tác văn bản Talmud trong sáng như pha lê: cậu bé 8 tuổi, như trẻ vị thành niên, không thể "ném tội lỗi" lên người lớn Do Thái, kẻ phạm tội hành động thú vật chống lại họ.

Biện hộ ngu xuẩn của người Do Thái cho rằng những đoạn như này, khẳng định sự vô can đạo đức của quan hệ tình dục với cậu bé, là những biểu hiện của mối quan tâm bảo vệ sự vô tội của cậu bé 8 tuổi bị hiếp dâm. Sự thật là, họ có ý bảo vệ ấu dâm khỏi tội lỗi!

Không phải là Talmud đã lỗi thời?

Cũng có thể phản đối rằng, cũng có tồn tại tập quán lạc hậu trong Cựu Ước như chế độ đa thê và án tử hình cho người đồng tính, vì thế, không phải là có thể, mặc dù các biện pháp trừng phạt Talmud đối với đồng dâm nam, sự cho phép này không còn được coi là nghiêm trọng trong Do Thái giáo trực hệ?

Nếu Do Thái giáo Talmudic đã trải qua một "thời đại gia ơn" mới (như đã Kitô hữu Do Thái đã trải qua), làm cho những hành vi đạo đức trở thành lỗi thời, nguyên thủy lạc hậu, lập luận trên có thể có trọng lượng.

Nhưng Do Thái giáo đã không trải qua một cuộc cách mạng như vậy. Trực hệ vẫn coi những người đã viết raTalmud, người Pharisees, là ánh sáng tâm linh Do Thái giáo siêu việt nhất từng biết đến. Khi giáo sĩ Do Thái lớn nói chuyện, Talmud dạy, họ làm như vậy ngoài ký ức những gì họ đã học được trong cuộc sinh tồn trước khi có sự hiện diện của Thiên Chúa! Vì vậy, ràng buộc về mặt đạo đức là những sắc luật của nhà hiền triết Talmudic, khi các giáo chức của họ rao giảng cho đám đông, thì ngay cả Thiên Chúa phải đi cùng với quyết định của họ.

Chúa Kitô, trong cuộc tấn công cay độc vào những kẻ sáng lập Talmudic Do Thái giáo, Pharisees, đã cáo buộc tội họ là "tất cả dơ bẩn" (Matt 23:27). Nhưng "tất cả", Chúa có thể đã ngụ ý là đồng dâm, thậm chí sau đó, đã được tán thành và thực hiện bởi Pharisees.

Ngày nay, trong khi Do Thái giáo trực hệ có biểu hiện giữ một lập trường mạnh mẽ chống lại sự đồi bại đạo đức, thì tác phẩm thần thánh tôn kính của họ, Talmud, tiếp tục tạo ra cho người Do Thái kẽ hở để đồng dâm.

Bất cứ điều gì để thắng

Trong 1700 năm, Do Thái giáo Talmudic trực hệ hầu như là dạng Do Thái giáo duy nhất, bao gồm bên trong nó là Hassidism hoặc thực hành của đạo Kabbalah. Cuối thế kỷ 18, Do Thái giáo cải lương xuất hiện và, một thế kỷ sau đó, bảo thủ. Trong khi Do Thái giáo trực hệ có thể dường như vẫn là một pháo đài của các giá trị gia đình truyền thống, như chúng ta đã thấy, nó không phải là như vậy.

Có lẽ đó là “tiêu chuẩn kép” trong tác phẩm thiêng liêng nhất của Do Thái giáo trực hệ cho phép người Do Thái giáo trực hệ Abe Foxman ("ADL's Foxman: Man of Faith?"), lãnh đạo Liên đoàn Chống phỉ báng (Anti-Defamation League, viết tắt là ADL), khẳng định mâu thuẫn luân lý của mình. Foxman thúc đẩy giáo dục tôn giáo trong Talmud và Kabbalah cho thanh niên Do Thái. Trong khi chính hắn ta ngầm cho phép đồng tính nam, một tỷ lệ cao trong số đó là những kẻ săn bắt các cậu trai vị thành niên. Những kẻ HOMO lạm dụng tình dục của Hiệp hội yêu bé trai Bắc Mỹ (NAMBLA - North American Man Boy Love Association) đang trong một thỏa thuận tin cậy với Talmud rằng quan hệ tình dục với vị thành niên trẻ em trai là không có hậu quả đạo đức.

Làm thế nào mà các vị lãnh đạo xấu xa độc ác Do Thái giáo ngày nay có thể cho phép một sự mâu thuẫn như vậy? Câu trả lời: Chúng quá độc ác xấu xa đến nỗi sẽ làm bất cứ điều gì để tiêu diệt NỀN VĂN MINH CHRISTIAN và để thắng thế trên điều đó, chúng thậm chí là khuyến khích ngay cả thanh thiếu niên của mình trở thành đồng tính, “đội quân xung kích”.

Tại sao ADL ủng hộ HOMO?

ADL biết cách nhanh nhất để phá hủy xã hội hiện tại là thông qua HOMO. Trong lịch sử, không một quốc gia nào tràn ngập thú dâm lại kéo dài tồn tại quá lâu. Đó là vì lý do này mà Do Thái Bolshevik Bella Kuhn, kẻ đã chinh phục Hungary sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917, lại nhồi bức HOMO vào chương trình giáo dục phổ thông, biến giới trẻ Hungary vào thoái hóa suy đồi đạo đức. Điều tương tự cũng đang xảy ra hôm nay khi ADL thúc đẩy HOMO trong hệ thống trường học Mỹ, thậm chí là từ cấp mẫu giáo.

Bella Kuhn, cũng như vô số Do Thái giáo khác, bị Stalin tống cổ vào Gulag, trong một cuộc thanh lọc mà chúng gọi là “khủng bố đỏ, khủng bố lớn”. Đó là lý do tại sao cho đến tận ngày nay chúng vẫn ra sức bôi nhọ ông và Liên Xô.

Vài năm trước đây, thông qua chuỗi hiệu sách Barnes & Noble, ADL thúc đẩy tình dục đồng giới bằng chương trình “Không có chỗ cho căm ghét” (No Place for Hate). Chúng khuyến khích các gia đình đến thăm cửa hàng sách để mời một cặp HOMO đến nhà của họ vào buổi tối. Điều này sẽ dạy cho trẻ em, ADL gợi ý, rằng mà không có sự thật trong phán xử Kitô giáo chống đồng dâm. ADL nói, Gays, là một trong số những người tử tế, hầu như không đe dọa tý nào đến trẻ em mà người ta có thể biết.

Ở các thành phố lớn Mỹ, ADL truyền bá chính quyền thành phố, trường học, thậm chí là nhà thờ tự do, rằng các Kinh Thánh Kitô hữu bị bệnh cúm rối loạn tâm thần: "Chứng sợ đồng tính".  ADL nói Kitô cố chấp khủng bố ngược đãi HOMO, và bị xúi giục bởi "văn học căm ghét", Thánh Kinh.

Cấm chỉ trích tình dục đồng giới

Tuy nhiên, ADL muốn nhiều hơn để thuyết phục trẻ em của người ta trở thành đồng tính. Nó tìm cách bảo vệ pháp lý đặc biệt cho HOMO, biến nó thành một "tội phạm căm hờn" để phô bày thành kiến hay phân biệt đối xử đối với những người thực hành nó. ADL muốn bảo vệ HOMO, không chỉ trong nhà ở, việc làm và hôn nhân đồng tính, mà con ở ngay cả từ ngữ! ADL tuyên bố sẽ là bất hợp pháp, ngay cả chỉ trích hành vi HOMO ở nơi công cộng.

Để lập ra các luật này, ADL đã trù tính trước một định nghĩa bị bóp méo về thù hận: "khuynh hướng" chống HOMO. Ở các nước như Canada, nhờ luật căm hận liên bang ADL/B'nai B'rith và tỉnh, bày tỏ công khai khuynh hướng như thế trên sóng vô tuyến, phương tiện in ấn, hoặc thậm chí trên các góc phố, có thể có nghĩa là tiền phạt rất cao hoặc phạt tù. Nếu trên một show truyền hình, ngay cả ai đó ám chỉ rằng đồng tính có tỷ lệ AIDS cao hơn, anh ta có thể bị phạt tiền và bị bỏ tù, và các đài phát thanh phát sóng "ghét" của anh ta có thể bị mất giấy phép phát sóng.

Tại tòa án tội phạm căm hận Canada, chỉ có tình cảm của đồng tính, không sự thật, không vấn đề. Nếu một HOMO cảm thấy "bị đe dọa" bởi những lời chỉ trích công khai, hắn ta có thể nộp đơn tố cáo tội căm hận chống lại người phê bình. Sự thật sẽ không bao giờ được cho phép tại tòa án. Nếu một Kitô hữu bị kết tội làm tổn thương cảm xúc của một đồng tính, ông ta có thể bị phạt 10.000 USD. Nếu ông ta vẫn còn chỉ trích người đồng tính, ông có thể phải đối mặt với một số năm tù giam.

Thật lạ cho cái thứ dân chủ, nhân quyền quái đản dưới háng Do Thái: số đông phục tùng số ít, ngay cả ở quyền bày tỏ.

Đạo Do Thái và HOMO: hôn nhân ở địa ngục

Phần 2:

Sự cạnh tranh cổ đại Với Kitô giáo

Tại sao người Do Thái đã tổ chức, cho dù từ foxman về quyền Do Thái hoặc Rabbi Eric Yoffie bên cánh tả, có vẻ như định làm suy yếu xã hội Kitô giáo?

Đó là bởi vì Do Thái Giáo, tất cả các nhánh của nó, chỉ là sự tiếp nối của một ác cảm hình thành từ hàng ngàn năm trước đây bởi những Pharisees chống lại Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài. Những "kẻ mù quáng dẫn đường," cổ xưa ưu tú hàng đầu của Do Thái cho đến ngày nay, đã bị thuyết phục họ được giao nhiệm vụ thiêng liêng làm lu mờ sức mạnh Gentile và thống trị các quốc gia. Khi mà ở Gentile giá trị đạo đức vẫn còn mạnh mẽ, thì điều này không bao giờ có thể xảy ra.

Đúng là, người Do Thái có thể sống hòa bình nếu họ tuân theo chỉ thị của Đức Chúa Trời "tìm kiếm phúc lợi của các thành phố nơi ta đã gửi ngươi đến lưu vong" (Jeremiah 29:7). Nhưng giáo đoàn Do Thái giáo muốn nhiều hơn thế. Nó có ý định, xuyên suốt đến tận cùng, quyền lực vô độ, theo nghĩa đen tạo ra cứu tinh trật tự thế giới mới của riêng mình.

Hai ngàn năm trước, Israel đã từ chối và đóng đinh người chồng tinh thần đầu tiên của mình và chỉ có Messiah, khinh miệt lời hứa của Ngài về một vương quốc thiêng liêng của Thiên Chúa trong trái tim họ. Do Thái giáo hôm nay đang chờ đợi một vị cứu tinh, kẻ sẽ chia sẻ và hợp pháp hóa vương quốc trần gian cho người Do Thái theo cách toàn cầu nhất, vật chất nhất. Đó là một giấc mơ không thể đối với một dân tộc chỉ có khoảng 15 triệu người, trừ khi năng lượng của người Do Thái được tập trung một cách cẩn thận về phía hủy diệt 2 rào cản lớn nhất đối với thành công của họ: Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa tư bản tự do sản xuất.

Tại sao hầu hết Do Thái theo tự do chủ nghĩa?

Đó không có gì là bí ẩn tại sao người Do Thái chủ yếu là tự do, chủ nghĩa Mác, ủng hộ HOMO, và chống Christian. Thiểu số rất nhỏ 2,5% dân số Mỹ đã bị hút về phía, và thành công trong việc kiểm soát, truyền thông, tài chính, và chính phủ. Kiểm soát này là cần thiết cho mục đích lớn: thực hiện giấc mơ Talmudic thống trị thế giới.

Tất nhiên, nhiều người Do Thái tự do không có bất kỳ quan niệm được định hướng về cai trị toàn cầu như vậy. Không vấn đề. Điều quan trọng là ở lãnh đạo Do Thái, đặc biệt là trong vài thế kỷ qua, đã cung cấp các tiền đề và tuyên truyền chỉ đạo và khuôn mẫu cho quần chúng Do Thái, ngay cả trí thức của họ, theo cách tự do suy nghĩ và phản ứng.

Trong lịch sử của người Do Thái, cho dù tại Babylon cổ đại hoặc các nước châu Âu hay phía đông-nằm một chu kỳ cố định của người Do Thái, được phép gia nhập các quốc gia Gentile, trở thành áp bức về mặt tài chính, thối nát về đạo đức, và sau đó bị trục xuất.

Làm thế nào để có thể giải thích điều này? Các sử gia nói rằng chu kỳ này hoàn toàn là do Gentile (đặc biệt là Christian) cố chấp. Không phải như vậy. Các quốc gia cổ đại đã sẵn lòng cũng như chúng ta ngày nay để cho người Do Thái cùng tồn tại một cách hòa bình. Thay vào đó, người Do Thái, buộc phải tuân theo mệnh lệnh bức chế quá tự phụ của Pharisees trong Talmud và Kabbalah, đã luôn luôn bị ép buộc phải cố gắng phá hoại các xã hội đã che chở họ. Các nhà thủ lĩnh của "tổ chức Do Thái thế giới" chủ yếu là Đại hội Thế giới Do Thái (World Jewish Congress), rồi ADL/ B'nai B'rith, tiếp tục sự kích động đó ngày nay.

Người Do Thái như nhà hoạt động HOMO

Xem xét cả qui mô lớn khuyến khích HOMO, đặc biệt là trong Do Thái giáo cải lương, không đáng ngạc nhiên khi các nhà hoạt động Do Thái đã dẫn đầu phong trào quyền đồng tính. HOMO của người Do Thái chiếm một tỷ lệ lớn không cân đối các thủ lĩnh và nhân viên của các tổ chức đồng tính lớn. Dưới đây là một vài trong những lớn nhất, và tên phát âm kiểu Do Thái-âm của những kẻ điều hành chúng:

The Human Rights Campaign (HRC)
Joe Solomonese* President
Board of Directors:  Mike Berman, Marty Lieberman, Andy Linsky, Dana Perlman, Scott Weiner
Lara Schwartz, Senior Counsel
Human Rights Campaign Foundation Board: Jay Oppenheimer, Hilary Rosen, Marty Lieberman, Andrea Sharrin*
Board of Governors: Fritz Beesemyer, AJ Bockelman, Cathy Ebert, Don Epstein, Patty Fink, Glen Freedman, Christopher Stenger, Brian Stranghoner, Brian Suber, Michael Lappin, Lisa Zellner, Molli Levin

Gay and Lesbian Alliance Against Defamation (GLAAD)
Board of Directors: William Weinberger (Treasurer), Judy Gluckstern (Secretary),
GLAAD Members: Ilene Chaiken, Tanya Grubich, Mark Reisbaum, Carol Rosenfeld, Steve Seidmon, Jeffrey Sosnick, Jeff Soukup, Steven Rozencraft*
Jennifer Oritz, Assoc. Director of Special Events
Jillian Waldman, Major Gifts Officer, LA
Jennifer Glenhorn,* Communications Director

Parents and Families of Lesbians and Gays (PFLAG)
Ron Schlittler, Deputy Executive Director
Craig Ziskin, Development Director
Staff Counsel: Lara Schwartz
Directors: Carole Benowitz, Dody Goldstein, David Horowitz, Rebecca Shiff, Daniel Tepfer  

National Gay and Lesbian Task Force
Jeff Soref, Chair
Marsha Botver, Vice Chair
Roberta Achtenberg, Senior Advisor to CEO
Loren S. Ostrow, Attorney
Paula Redd Zenan, Human Resources Commissioner
Michael Aller, Director of Tourism and Convention
Allan Horowitz, Coordinator, Out For Equity Progress
Sandi Greene, Chief Operations Officer
Roberta Sklara, Director of Communications
Monique Hoeflinger, Organizing and Training Director
Becky Levin, Senior Strategist
S. T. Cohen, Phillipe Leber, Alex Breitman, Development Interns
Todd Kimmelman, Shavla Sellars, Major Gift Officers

Bí ẩn Israel

1900 năm trước đây, Đức Kitô đã mô tả đặc điểm Jerusalem như là "Sô-đôm và Gô-mô-ra" (Khải Huyền 11:8). "Sô-đôm" là đồng nghĩa với HOMO. 

Messiah đã nhầm Do Thái giáo, chống lại Chúa, trong cuốn sách của Ezekiel, điều đó được mô tả là "hoàng tử báng bổ của Israel" (Ezek. 21:25). Ông ta cũng được mô tả là "không để ý đến mong muốn của phụ nữ" (Dan. 11:37). Khi Chúa Kitô sống độc thân, vì vậy bắt chước rất vụng về như tất các các môn đệ của Chúa là tránh quan hệ tình dục với phụ nữ nhưng vì nguyên do sai: ông ta là một người đồng tính Do Thái.

Sự dây dưa của Do Thái giáo với HOMO đã tồn tại trong một thời gian dài, và sẽ tiếp tục, cho đến khi "Sô-đôm và Gô-mô-ra"  của tương lai, như Sô-đôm của quá khứ, sẽ hoang tàn trong lửa (Khải Huyền 17:16). Như kinh thánh viết vì bị Chúa trừng phạt, cho lửa trời thiêu rụi cả thành phố HOMO.


Tuy nhiên, từ sự gian ác không kể xiết nhà hoạt động Do Thái tự do ngày nay, Chúa Kitô sẽ tăng cường thanh lọc tàn dư Do Thái, những kẻ sẽ tin tưởng vào Ngài một cách thiết tha khi cha ông họ đã mắng nhiếc Ngài.

Hầu hết các Kitô hữu biết rằng từ chối và đóng đinh Chúa Kitô, Israel đã đổ ngã từ ân sủng vào bội giáo. Cái mà họ không lĩnh hội được là bóng tối và chiều sâu vô dộ của sự phản bội! Họ không thực sự lĩnh hội được những gì Chúa Kitô muốn khi Ngài nói với người Do Thái, "Ngôi nhà của ngươi, để lại cho ngươi tàn phá" (Mt 23:38).

Đồng thời, tâm trí chết chóc không thể thực sự hiểu được ân sủng đáng kinh ngạc của Chúa Kitô cứu chuộc và khôi phục lại con cháu, các nhà hoạt động Do Thái chống Kitô ngày nay. 

Thánh Phao-lô gọi toàn bộ câu chuyện của Israel là một "bí ẩn" (Rom 11:25). Chúa đã không cho phép Do Thái giáo trở thành quá xấu xa để thừa nhận yêu sách chống Semites, rằng người Do Thái là chủng tộc thoái hóa nhất. Thay vào đó, "bí ẩn" bội giáo của họ, và sự cứu rỗi cuối cùng, minh chứng cho lòng thương xót đáng kinh ngạc của Ngài. 

Nếu Ngài một ngày nào đó sẽ phục sinh cả một quốc gia khỏi bóng tối tinh thần tệ hại nhất, thì những ai suy nghĩ tội lỗi của mình đã quá đen để cho Ngài gột rửa? Như Ngài sẽ phục sinh phần ăn năn còn lại như một đặc ân đã ngàn năm ("Bible Prophecy Made Simple"), mỗi người chúng ta, cho dù có thể đã xa lánh Ngài rất sâu sắc, giờ đây có thể tìm thấy tình bạn thân thiết với Ngài mãi mãi. Làm thế nào? Bởi sự ăn năn và tin cậy Ngài cho phần còn lại của cuộc đời của chúng ta. 

Đây là toàn bộ mục đích của sự tồn tại, để khám phá Đấng sáng tạo nên chúng ta và trở thành người bạn của Ngài mãi mãi.

Một ngày nào đó, phần còn lại của người Do Thái thực sự sẽ đến với Đấng Christ, sau khi chịu đựng những đau khổ lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Điều đó là không cần thiết cho bạn. Bạn có thể tin cậy Ngài ngay bây giờ.

Rev. Ted Pike is director of the National Prayer Network; www.truthtellers.org

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...