Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc!

 Nhiều tờ báo TQ đưa tin TBT Nguyễn Phú Trọng - Việt Nam nhận lời mời của ông Tập Cận Bình đã sang thăm và làm việc tại TQ. Họ gọi đó là “Ngoại giao vĩ đại” và cho rằng một trong các nội dung làm việc giữa 2 lãnh đạo là vấn đề trao đổi kinh nghiệm xây dựng đảng. Ví như tờ The Paper ấn bản tiếng Trung. Viết ngắn gọn ngay trên tiêu đề bài báo của họ như vậy.


TBT Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm TQ ngay sau bế mạc ĐH CPC lần thứ XX, chuyến thăm thể hiện tình hữu nghị truyền thống giữa 2 đảng, 2 nước.

Theo Tân Hoa Xã, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đến TQ nhiều lần, đó là các năm 1992, 1997, 2001, 2003 và 2007, 2011, 2015 và 2017. Sau khi nhậm chức TBT ĐCSVN vào năm 2011, Bác Trọng đã đi thăm TQ vào dịp tháng 10 cùng năm, dịp khác là tháng 4 năm 2015 và tháng 1 năm 2017. TTXVN hôm 29/10 cũng dẫn bài phân tích nói rằng, là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm TQ ngay sau Đại hội XX phản ánh đầy đủ tính đặc thù và tầm quan trọng của mối quan hệ giữa 2 nước.

Cách đây 5 năm, sau khi kết thúc ĐH CPC lần thứ XIX, ông Tập Cận Bình, với tư cách là nhà lãnh đạo cao cấp nhất của đảng và nhà nước TQ cũng đã chọn Việt Nam là nơi đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình. Bài viết của TTXVN cũng dẫn lời ông Xu Liping, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho biết: “Chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng có thể nói là một chuyến “trở lại” của TBT Việt Nam, tương tự như ông Tập Cận Bình đã thể hiện năm 2017. Đó là tình hữu nghị truyền thống của quan hệ Trung - Việt”.

Dù có những bất đồng và mâu thuẫn, quan hệ giữa 2 đảng, 2 nhà nước vẫn được duy trì và củng cố, các sự kiện chính trị quan trọng được tham vấn, trao đổi.

 

TTXVN ngày 27/9 nêu rõ, mối quan hệ 2 đảng, hai nhà nước đã được tiếp xúc và duy trì ở cấp cao, thiết lập các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ban ngành trung ương các bên. Mặc dù việc trao đổi giữa hai bên đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của đợt đại dịch nhưng hai bên vẫn duy trì các kênh liên lạc thường xuyên với hình thức linh hoạt và đạt kết quả tốt. Lãnh đạo 2 đảng, 2 nước đã thường xuyên điện đàm và hội đàm trực tuyến trao đổi.

Trả lời phỏng vấn của TTXVN, ông Xu Liping cho biết quan hệ giữa 2 đảng, 2 nước được nâng lên trong thời kỳ đại dịch thay vì giảm đi, đã có sự hợp tác tốt đẹp về vắc xin, vật tư phòng chống dịch, công nghệ chẩn đoán, điều trị và các mặt khác.

Về kinh tế và thương mại, tờ "Nikkei Asia" ngày 25/10 đưa tin, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong chiều hướng tăng dần qua từng năm. Thương mại giữa hai nước đã vượt 133 tỷ USD vào năm 2020, cao hơn 3 lần so với năm 2012 - theo số liệu của LHQ. Năm 2021, trong bối cảnh trì trệ và suy giảm kinh tế toàn cầu vì đại dịch, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đạt con số ấn tượng 165,9 tỷ USD, tăng 24,6% so với năm 2020. Còn trong 8 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 117,4 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2021.

Theo TTXVN chỉ rõ, về đầu tư, tính đến ngày 20/8/2022, TQ đứng thứ 6 trong số 139 quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam, với 3.453 dự án đang có hiệu lực và tổng vốn đăng ký 22,43 tỷ đô la. Trong 8 tháng đầu năm nay, trong số 94 quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam, Trung Quốc đứng thứ 4 với 143 dự án đầu tư và số vốn đăng ký 1,4 tỷ USD.

Tờ The Paper của TQ viết: "Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á và là một quốc gia đích của nguồn vốn đầu tư quan trọng. Việc mở cửa hợp tác và tăng cường năng lực cảng biển của Việt nam sẽ tiếp tục được củng cố trong thời gian gần."

Như TTXVN viết, hiện nay, hai bên đã thiết lập các cơ chế hợp tác, trao đổi như lý luận chính trị-kinh tế-xã hội, đào tạo cán bộ, phối hợp với các cấp ủy địa phương, định hướng dư luận xã hội. Hai bên cũng thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo lý luận giữa 2 đảng để trao đổi kinh nghiệm, thực tiễn trong công tác xây dựng đảng và quản lý nhà nước. Cho đến nay, hai bên đã tổ chức 16 cuộc hội thảo lý luận như vậy giữa 2 đảng. Một nhà nghiên cứu tại ĐH Phúc Đán cho rằng: "Do cả 2 đảng đang phải đối mặt với những thách thức thực sự, đặc biệt là sức ép từ hoạt động 'diễn biến hòa bình' và sự xâm nhập chính trị của phương Tây, 2 bên đã thảo luận về cách thức duy trì ổn định an ninh và trật tự xã hội của hệ thống XHCN trong tình hình mới…. trong đó các nhà lãnh đạo của 2 đảng cần trao đổi kinh nghiệm về cách thức đấu tranh chống tham nhũng, củng cố nền tảng lãnh đạo và xây dựng đảng, v.v. Cùng nhau tìm hiểu lý luận, thực tiễn phong phú và phát triển trong công cuộc xây dựng CNXH”.

Trung Quốc cũng chỉ thực sự đổi mới vào năm 1991, nhưng “đã làm rất tốt và có nhiều kinh nghiệm để giới thiệu với Việt Nam, cũng như là Việt Nam vẫn còn rất nhiều điều để học hỏi từ Trung Quốc” – nhà nghiên cứu Hoàng Hợp nói với The Paper.

 

Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch trong 2 năm, nhưng Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt trong phát triển kinh tế. Điều này không tránh khỏi một số đồn thổi từ truyền thông phương Tây rằng “Made in Vietnam đang vươn ra toàn cầu” và “có tiềm năng cạnh tranh thay thế Trung Quốc” hoặc chuyển giao sản xuất từ Trung Quốc đến Việt nam và Việt Nam đóng vai trò thay thế thế vị trị "công xưởng thế giới" của Trung Quốc. Họ thổi phồng tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù một số tiếng nói ở Việt Nam coi đó là "rủi ro an ninh", nhưng Việt Nam vẫn chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp liên quan là quan điểm chủ đạo. Ông Hoàng Hợp cho biết trong một cuộc phỏng vấn với báo chí nước ngoài rằng TBT Nguyễn Phú Trọng dự kiến ​​sẽ bày tỏ quan điểm của mình về "giải quyết hòa bình các tranh chấp liên quan đến vấn đề Biển Đông" trong chuyến thăm.

Ông He Jiajie của ĐH Phục Đán nhấn mạnh, sự tương tác giữa lãnh đạo 2 đảng đóng vai trò “bánh lái” nhiều hơn, chủ yếu là “vạch ra phương hướng chung cho sự phát triển trong tương lai của quan hệ song phương”, đồng thời một lần nữa cũng làm rõ tính “cộng đồng chung vận mệnh” có ý nghĩa chiến lược giữa hai nước.

Khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” là của ông Tập Cận Bình đưa ra gần đây, chỉ các nước trong khu vực có mối liên kết địa chính trị, kinh tế , lợi ích và cùng chung những thách thức trước tình hình thế giới đang thay đổi và nhiều biến động.

Theo TTXVN, chuyến thăm TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam: coi mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại và mong thúc đẩy mối quan hệ lâu dài, bền vững giữa 2 nước, phù hợp với tinh thần nhất trí của 2 đảng và lãnh đạo cấp cao 2 nước. Phát triển ổn định, ngày càng hiệu quả và thực chất, đồng thời nêu rõ “sự quan tâm, lập trường và lợi ích hợp pháp” của Việt Nam.

Nhưng cũng cần thừa nhận, như ông Ge Hongliang, giám đốc Viện nghiên cứu An ninh hàng hải TQ nói: "Có một số vấn đề cũ giữa Trung Quốc và Việt Nam chưa được giải quyết, và một số vấn đề mới đã xuất hiện. Các vấn đề cũ như quan điểm lịch sử và vấn đề Biển Đông vẫn là nhân tố chính ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Việt hiện nay. Các vấn đề mới, chẳng hạn như mở cửa và giao lưu quốc tế trong thời đại dịch cũng đang ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Việt”. Tuy nhiên, ông Ge Hongliang tin rằng, chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ cho phép thảo luận hầu hết các vấn đề và Việt Nam cũng sẽ đặt ra nhiều yêu cầu hơn về các chủ đề như phát triển công nghiệp và mở cửa biên giới.

Ông Tập Cận Bình, trong chuyến thăm Việt Nam năm 2017 đã chỉ ra nội hàm phong phú của "Tinh thần 4 tốt": Một là, Trung Quốc và Việt Nam nên là những người đồng chí tốt, tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau; Hai là, Trung Quốc và Việt Nam nên là đối tác tốt để hợp tác cùng có lợi; Ba là, Trung Quốc và Việt Nam nên là láng giềng tốt gần gũi trong một ngày không xa; Bốn là, Trung Quốc và Việt Nam nên là những người bạn tốt, những người thường xuyên đến với nhau.

Ông He Jiajie tin rằng nếu tinh thần "láng giềng tốt, bạn tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt" được đưa vào thực tế, Trung Quốc và Việt Nam nên tiến hành các cuộc thảo luận sâu rộng về cách quản lý hợp lý sự khác biệt và thiết lập một phương thức tương tác được thể chế hóa. Điều đó có lợi cho sự tin cậy lẫn nhau để tránh sự leo thang xung đột trên biển đã lan rộng, để tránh lập luận gọi là "cảnh giác với Trung Quốc" của Mỹ khi can thiệp vào việc ra quyết định của Việt Nam.

Ông He Jiajie nói với The Paper: "Hiện nay, sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng gay gắt, còn sự cân bằng và phòng ngừa rủi ro giữa Trung Quốc và Mỹ từ phía Việt Nam ngày càng trở nên khó khăn hơn. Các nhà lãnh đạo nhân cơ hội gặp gỡ này cũng là một sự xác nhận chiến lược, làm rõ vị trí và nền tảng của quan hệ song phương, củng cố sự tin cậy lẫn nhau tạo để tạo ra động lực cho sự phát triển của quan hệ song phương trong giai đoạn tiếp theo.

Ông Hoàng Hợp nhấn mạnh, bất chấp những khác biệt, Trung Quốc và Việt Nam đang thúc đẩy phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và duy trì hợp tác trong các vấn đề như thương mại và sáng kiến ​​"Vành đai, Con đường".

"Sự ổn định và hòa bình mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, vì vậy hy vọng rằng quan hệ Trung Quốc-Việt Nam sẽ tiếp tục giúp đảm bảo ổn định và hòa bình cho cả 2 nước và tất cả mọi người" - ông Hoàng Hợp nói.



 

Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

NẾU LÀ VIỆT NAM, DÙ CỌNG CỎ CŨNG YÊU, CŨNG THƯƠNG!

“Ôi Tổ Quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho cả cuộc đời, cho cả non sông …”

Nếu người Việt Nam cũng sống theo tinh thần yêu nước như câu thơ trên thì hẳn rằng nước non ta đã phát triển hơn thế nữa. Bởi vì có nhiều người quên, quên đi long yêu nước, chỉ choáng ngợp, chỉ chạy theo các văn minh tiến bộ của nước ngoài nên Việt Nam ta mất biết bao người tài xây dựng Tổ Quốc. Họ chỉ thích chạy theo cái tài, cái lợi rồi quên bẽn đi cả non sông đã nuôi họ ngày nào, quên đi sự bình yên mà ngày nào họ sống phải đánh đổi lại mạng sống của không biết bao nhiêu con người. Họ đã quên, họ đã đi, đi rồi núp luôn bên xứ người để hưởng thụ hạnh phúc. Đau lòng thay cho những con rùa rút đầu như thế!


Là người Việt Nam, ta yêu đất nước Việt nam, yêu cả khung trời Việt Nam, cả mảnh đất Việt Nam. Là người Việt Nam, ta yêu cái hồn dân tộc, yêu từ bụi tre xanh đến ngọn cỏ lưa thưa bên đường. Là người Việt Nam, ta yêu cái chất của người Việt Nam, chịu cam chịu khổ để ngày mai tỏa sáng, ta yêu những điều nghèo nàn, cam chịu những điều còn chậm chạp của dân tộc ta để một ngày kia, ta xây dựng nó tươi đẹp hơn! Là người Việt Nam, ta yêu cái tốt cũng như cái xấu của Tổ Quốc ta,  ta yêu con người Việt nam, yêu cả cái nghèo hèn, cái kém giở của Tổ Quốc ta chứ không bao giờ them, không bao giờ là hạng người phản bội dân tộc ta khi có một thứ hay hơn, cho ta hạnh phúc hơn. Ta thà sống kham cực ở quê hương còn hơn là núp bong bên hào quang của thế giới, ta thà thiệt thòi phần mình, nghèo hơn, lương ít hơn nhưng đuôc cống hiến cho Tổ Quốc chứ không là cái thứ quen ơn phụ nghĩa, như cái lũ kiến thấy mật ngọt là bâu vào. Bởi vì sao, bởi vì ta còn trách nhiệm, ta còn trách nhiệm phải đền ơn những người đã ngã xuống để Tổ Quốc ta độc lập như ngày hôm nay. Ta còn trách nhiệm là phải rửa cái hận của nước ta khi bị bọn cường quốc đè đầu cưỡi cổ ngày nào, nó đã nhìn dân tộc ta như thứ cu li mọt rợ của nó, và ta không thể “ngồi yên” để đất nước ta cứ mãi thấp kém thế được, ta không thể để cho bọn cường quốc nó đã khinh mình rồi vẫn tiếp tục khinh mình. Đó là cái hận, cái nhục mà người Việt ta phải rửa, rửa cho bằng được, bằng xong!

“Không thể ngồi yên nhìn quân thù tàn phá quê hương
Nhìn núi sông chấp chờn hờn oán…”

RIA NOVOSTY: VIỆT NAM GIỐNG UKRAINA

Có thể họ nói sai về mốc thời gian lịch sử, nhưng chúng ta có 1000 năm Bắc thuộc.

Theo quan điểm của ta, họ sai khi nói về vị trí tranh chấp (27 km cách lãnh thổ TQ). Nhưng theo họ, thì không sai, bởi quan điểm LX về Hiệp ước San Francisco 1951, cả 2 quần đảo thuộc về TQ. Biên bản cuối cùng không công nhận chủ quyền HS-TS thuộc bất cứ quốc gia nào.

Nhưng ý cơ bản nhất ví ta với Ukraina là đúng.

Ai có thực tế 1 chút đều thấy như vậy. Cá nhân tôi chưa bao giờ thấy Ria Novosty có sai sót gì đáng kể. Thậm chí đây là 1 bài có thiện ý cảnh tỉnh! Nhân tiện thử nhìn lại mình xem – một lẽ tự nhiên khi có ai đó đụng đến mình.

Chúng ta cải cách mở cửa, thành công được giai đoạn đầu. Giai đoạn sau là mở cửa cho Tây vào cướp bóc, áp dụng bài bản bọn Tây dụ dỗ, kết quả: kinh tế sụp đổ, nợ nần chồng chất, tham nhũng tràn lan, mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế, đều bê bối thối nát. Thậm chí trên truyền thông, những kẻ xưng tên A, B, cùng đầy đủ chức danh ngang nhiên đòi công nhận và vinh danh chế độ Sài Gòn - cái thây ma đã chết gần 40 năm, rất giống Ukraina trao huân chương cho tên đồ tể phát xít Bandera đã sát hại cả trăm ngàn người Ukraina, Ba Lan, Belarus trước kia.

Chúng ta cũng như Ukraina, một bộ phận rất nhỏ giàu lên, nhưng số đông dân chúng đang bần cùng nghèo khổ. Chúng ta chưa có đầu sỏ thao túng - điều khiển chính trường, nhưng báo chí và thậm chí phát biểu trong quốc hội đã thừa nhận có "lợi ích nhóm".

Cái lá bài Tây "cải cách mở cửa" này là bài ở Nga và Ukraina giai đoạn 1990-2000, họ lạ lắm hay sao?

Không chỉ có vậy, các hợp tác kinh tế với Nga cũng nhiều đổ vỡ: nhà máy lọc dầu Dung Quất, thủy điện Sơn La, hay hạt nhân Ninh Thuận gần đây "bị hoãn" để chào đón Exxon Mobile đầu tư $20 tỷ điện khí và GE điện gió Cà Màu đắt đỏ. Rồi thì bỏ AK trang bị súng thổ phỉ.

Lãnh đạo Hà Nội đã từ lâu xa lánh Nga, không ủng hộ Nga trong các vấn đề quốc tế, ví dụ như xung đột Nam Ossectia hay Ukraina hiện nay. Một số media Việt Nam, hàng loạt 4rum, blog tiếng Việt ngang nhiên dẫn nguồn phương Tây coi đám đảo chính tiếm quyền Kiev như chính danh, nhân dân nổi dậy ở Crưm, ở miền đông là tự xưng còn Nga là xâm lược!

Khốn quẫn nhất, là lãnh đạo hiện nay, giống Ukraina đang làm mọi trò (kể cả lợi dụng biểu tình bạo loạn) để cố đẩy chúng ta vào vòng o bế của Mỹ, để được Mỹ bảo hộ cho tồn tại, phản bội công lao bao thế hệ chiến đấu và hy sinh, bán nước cho tài phiệt Mỹ. Là cái TPP - Trans-Pacific Partnership vừa đang đàm phán ở Sài Gòn. Liệu kẻ thù cũ, năm xưa đã ngấm ngầm đồng lõa bán biển đảo cho TQ lại có thể ra tay nghĩa hiệp cứu VN?

Chúng ta đang cô độc vì chẳng giống ai trên trái đất này. Vậy thì làm thể nào để Kremlin phải ủng hộ Việt Nam trong vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc?

Đây là họ viết: "Làm thế nào mà cuộc xung đột này lại hợp với sự triệt hạ các nhà máy TQ trên lãnh thổ VN (mà một phần có vẻ là thuộc Đài Loan) – là câu hỏi khó. CQ VN đã xin lỗi, bắt giữ khoảng 1000 kẻ bạo loạn. Bên cạnh đó, câu chuyện này lại một lần nữa cho thấy: đầu tiên là kẻ nào đó, có thể là, nghĩ tổ chức Maidan “có kiểm soát”, nhưng tiếp theo vấn đề đã đi theo hành trình của nó.”

Ngay trong bài, họ lịch sự nói về Philippines, nơi Mỹ đã lợi dụng căng thẳng để tái thuộc địa: Như Philippines, thì lịch sử hơi khác. Giới bề trên có học vấn của đất nước này không phải là chính mình bởi vì Mỹ - cựu chủ nhân thực dân của Philippines đã “rời khỏi” Asian. Chính phủ Philippines hiện nay cảm thấy yên ổn hơn trong vai trò cũ – đồng minh với Mỹ, họ muốn hồi sinh một đồng minh như thế. Và sau tất cả đối với mục đích này cần duy trì tình hình không quá căng thẳng trong quan hệ với TQ. Theo nguyên cớ nào? Theo mọi tranh chấp biển đảo. Biển thì lớn, đủ để cho mọi cơ hội. Mặc dù cần phải lưu ý, khi Mỹ rời khỏi Asian, các quốc gia trong vùng sao đó đã không có xung đột và tranh chấp.

Còn Mỹ, tình hình Asian đang rất thuận lợi cho chính sách “Xoay trục châu Á” của Mỹ. Một kịch bản xung đột Nga-Ukraina đang được viết chính xác cho TQ-VN – Ria Novosty viết. Vậy Mat-xcơ-va cần phải nói gì với các nhà hùng biện về nguyên do câu chuyện này? Cần nói rằng họ - phải đứng vững với TQ, rằng VN đã sai? Và TQ được gì, nếu như sẽ nói với cả EU và Mỹ: vâng, chúng tôi biết tỏng, kẻ nào và cái gì đang sắp đặt chống Nga nhờ vào khủng hoảng Ukraina – bởi vì chính thứ tương tự cũng đang được sáng tác cho chúng tôi? 

Và chuyện này chưa xong. Ria Novosty: Những tuyên bố lớn, rõ ràng là dành cho ai? Không phải các chính trị gia mà dân chúng. Người Nga về nguyên do Ukraina và người TQ về nguyên do biển đảo. Trước hết là sự thật, từ ngữ đúng đắn. Ở quần chúng, cần nhận thức rõ hơn về câu chuyện này -  sự vô lễ: liệu Mỹ và EU có thể thẳng thắn như thế nào, trước mặt chúng ta, nói láo về mỗi sự kiện khủng hoảng Ukraina (cũng như biển đảo)? Khi mà họ biết và chúng ta cũng biết, tất cả sự thực là như thế nào. Nhưng họ đã dối trá. Giờ đây người Nga và TQ tập hợp cùng nhau và nói tất cả như nó có.

Liệu có cần thiết không? Khi văn hóa cả Nga và Trung có đặc điểm – không cần phí lời. Điều quan trọng nhất – nói về cái gì và không cần thiết nói về cái gì. Chúng ta làm phật lòng ai? Nhưng mà nước rửa trôi hờn giận.

Thế giới đang định hình rất rõ thành 2 lực lượng để chuẩn bị cho WW-3, một tuyến là tiến bộ: Nga, Trung, BRICS, một tuyến là phản động thối nát Gồm tài phiệt, Mỹ, phương Tây và chư hầu, trong đó có TPP. Chính chúng đang gây chiến chống Nga-Trung, một cuộc chiến đủ lớn cỡ World War để cứu chúng.

Nhưng nói đi phải nói lại, bài viết của Ria Novosty vẫn có thiện chí để Việt Nam tỉnh ngộ mà đi theo con đường sáng. Nên nhớ rằng, khi thua chạy khỏi VN, gã quái thai Do Thái Kissinger đã kịp gài lại 1 quả mìn, bây giờ nó sắp nổ!

http://ria.ru/analytics/20140519/1008369554.html

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...