Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

TƯỚNG GERASIMOV - HỌC THUYẾT CHIẾN TRANH HỖN HỢP

Igor Nikolaevich Panarin [1] - Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Chính trị, cựu KGB và cố vấn chiến lược của TT V. Putin;

Tài liệu này là nhằm hệ thống hóa một số cách tiếp cận đối với thuật ngữ “Chiến tranh hỗn hợp – Hybrid War” vốn đã khá phổ biến ngày nay, có tính đến khái niệm của Tổng tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Nga, Tướng quân đội Valery Gerasimov [2] đưa ra tại cuộc họp chung giới chức an ninh quân sự hàng đầu ở Học viện Quân sự ngày 1 tháng 3 năm 2019;

 


1. CHIẾN TRANH HỖN HỢP LÀ GÌ?


Hybrid war: chiến tranh hỗn hợp, lai ghép và gần với khái niệm proxy hay false flag war (chiến tranh ủy nhiệm, giấu mặt và cờ giả). Đế quốc Anh là kẻ thù lịch sử chính của Nga, là kẻ khai sinh ra phương pháp luận chiến tranh hỗn hợp. Anh quốc đã trở thành đế quốc chỉ với sự trợ giúp của những âm mưu và sự khiêu khích, và sau đó hy vọng duy trì sức mạnh thế giới của mình, sử dụng một tổ hợp nhiều phương pháp chiến tranh ngầm. Người phát ngôn nổi bật nhất cho ý tưởng của đế quốc Anh trong thế kỷ 19 là Lord Palmerston và thương gia Cecil Rhodes. Vào thế kỷ 19, Nga tham gia vào cuộc đối đầu địa chính trị với Anh, nước rất sợ đánh mất thuộc địa của mình (Ấn Độ, v.v.). Các điều kiện thuận lợi cho sự can thiệp của Anh đã được tạo ra bởi Chiến tranh Kavkaz, cuộc chiến gây thất vọng cho các lực lượng Nga. Người Anh đã tài trợ cho các hoạt động lật đổ của người dân vùng cao. Trên thực tế, lúc đó người Anh đã phát động một cuộc chiến hỗn hợp phức tạp chống lại Nga. Chính nước Anh đã tài trợ cho những người dân vùng núi Chechnya và Dagestan mà cầm đầu là Avar Shamil.


Kẻ tổ chức chính của cuộc chiến hỗn hợp chống lại Nga là Lord Russophobia Palmerston. Trong 35 năm, Palmerston từng là Bộ trưởng Ngoại giao hoặc Thủ tướng Anh. Trên lục địa châu Âu, ông ta còn được gọi là Quí ngài xúi giục. Mục tiêu của Palmerston  là chinh phục thế giới theo ý định của London. Tại một trong những cuộc họp của Quốc hội Anh, ông ta nói: "Dù người Anh ở bất cứ đâu trên thế giới thì cũng có thể làm bất cứ điều gì, vì đằng sau họ là sự hỗ trợ của Hải quân Hoàng gia".

Nga khi đó đã trở thành một vật cản - nước này theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, không quan tâm đến cách hành xử đế quốc của Anh. Palmerston quyết định sửa chữa tình trạng này và bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chiến với Nga, cuộc chiến đã đi vào lịch sử với tên gọi Chiến tranh Krym. Cũng chính Lord Palmerston đã khéo léo tổ chức sản xuất drug ở Ấn Độ và Afghanistan, khiến hàng chục triệu người TQ thiệt mạng, sau đó tổ chức "cuộc chiến tranh nha phiến" với TQ. Chỉ có hai quốc gia còn tồn tại là vô song và có khả năng đối đầu – là Mỹ và Nga. Lord Palmerston trở thành hệ tư tưởng chia rẽ và Nội chiến Mỹ. Đồng thời, ông ta tổ chức kích động tình cảm chống Nga ở Ba Lan nhằm hướng các mũi nhọn châu Âu chống Nga. "Sống trên đời khó làm sao, khi không ai gây chiến với Nga”- lời lẽ này của Thủ tướng Anh Lord Palmerston vẫn còn phù hợp tận ngày nay. Trong Chiến tranh Krym (1853-1856), người Anh dựa vào một liên minh hùng mạnh (Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và trên thực tế là Áo), đã cố gắng khôi phục lại Kavkaz như một vùng đệm giữa Nga và các cường quốc Hồi giáo. Chiến tranh Krym, do Palmerston tổ chức, đã diễn ra trên nhiều sân khấu hoạt động chiến tranh.

Và đến nay đã hơn 160 năm trôi qua. Và một lần nữa, Anh quốc lại là kẻ tổ chức cuộc chiến hỗn hợp phức tạp của phương Tây chống Nga. Vụ đầu độc giả mạo S. Skripal xảy ra vào ngày 4 tháng 3 năm 2018 tại Salisbury (Anh) với một kẻ phản bội và cô con gái 33 tuổi Yulia, một công dân Nga, đến từ Moskva để thăm cha mình. Nhưng vào ngày 14 tháng 3 năm 2018, Thủ tướng Anh Theresa May đã chính thức cáo buộc Nga cố giết Skripal và con gái của ông ta. Bà ta thông báo rằng các cuộc tiếp xúc song phương cấp cao với Nga sẽ bị đình chỉ do vụ đầu độc và 23 nhà ngoại giao Nga sẽ bị trục xuất khỏi Vương quốc Anh.

Theo quan điểm của chúng tôi, tư tưởng về một cuộc chiến tranh hỗn hợp bắt đầu được phát triển ở đế quốc Anh, và bằng cách sử dụng các công cụ của mình, Anh đã trở thành đế chế lớn nhất trên thế giới, còn sau đó, thông qua việc tổ chức hai cuộc Thế chiến, họ đã có thể tiêu diệt tất cả các đế quốc khác (Nga, Đức, v.v.). Ở phương Tây, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, đã có những khái niệm và kế hoạch trong nhiều thế kỷ về cách gây ra thất bại địa chính trị toàn cầu cho kẻ thù với sự trợ giúp của các hoạt động phá hoại-khủng bố và thông tin-tư tưởng bí mật, và nếu có thể, lật đổ "chế độ" phản đối hoặc tiêu diệt đất nước. Nga trong thế kỷ 20 đã 2 lần trở thành nạn nhân của những kế hoạch bí mật phương Tây này - nước Nga đã 2 lần tan rã - vào tháng 2 năm 1917 và tháng 12 năm 1991. Trước khi sụp đổ, Nga-Liên Xô đã trải qua tác động của một tổ hợp các hoạt động bí mật được tiến hành với sự dẫn dắt theo đường lối của cơ quan đặc vụ phương Tây và các tổ chức dân sự trực thuộc (NGO) và các hoạt động chiến tranh hỗn hợp đa dạng khác được thiết kế để gây áp lực phức tạp lên đất nước chúng ta (tài chính, kinh tế, thông tin) - áp lực về mặt kỹ thuật, chính trị và ngoại giao, các lệnh trừng phạt, sự sụp đổ của giá dầu, v.v.).


Cuộc đảo chính tháng 2 năm 1917, dẫn đến việc lật đổ nền Quân chủ và sự sụp đổ của Đế chế Nga, có thể coi là một hoạt động thành công của cuộc chiến hỗn hợp chống lại Nga, nó được tiến hành bởi các lực lượng của Hội Tam điểm phương Tây và tình báo Anh, điệp vụ MI-6. Không có gì bí mật khi những thủ phạm chính của cuộc đảo chính tháng Hai (Hội tự do, Tự do và các tướng lãnh âm mưu) được hỗ trợ bởi người Anh và kiểm soát từ London.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp hiện đại của phương Tây bắt đầu phát triển trong khuôn khổ của cái gọi là Chiến tranh Lạnh (1946-1991), được phát triển nhằm chống lại Liên Xô theo sáng kiến ​​của Winston Churchill. Chiến tranh Lạnh thực chất là một cuộc chiến hỗn hợp do phương Tây tiến hành chống Liên Xô.Trong cuộc chiến này, các hành động kinh tế và ý thức hệ mang tính lật đổ quy mô lớn đã được thực hiện, “tác nhân gây ảnh hưởng” phương Tây được hình thành trong giới cầm quyền bề trên Liên Xô, cuộc chạy đua vũ trang được chủ động để lôi kéo làm kiệt quệ Liên Xô hay ít nhất cũng làm hao tổn và cuộc chiến ở Afghanistan, v.v. .


Và bây giờ tôi muốn đưa ra định nghĩa của mình, được xây dựng lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2016, và sau đó được xuất bản trên trang 212 trong cuốn sách "Chiến tranh hỗn hợp chống Nga (1816-2016)".

Chiến tranh hỗn hợp là một tập hợp các phương pháp gây áp lực quân sự, chính trị - ngoại giao, tài chính - kinh tế, thông tin - tâm lý và thông tin - kỹ thuật., cũng như các công nghệ của cuộc cách mạng màu, chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan, các hoạt động của các cơ quan đặc biệt, các lực lượng có chức năng đặc biệt, các hoạt động đặc biệt và cấu trúc ngoại giao công khai, tiến hành theo một kế hoạch thống nhất của các cơ quan lãnh đạo nhà nước, khối quân sự-chính trị hoặc các tập đoàn xuyên quốc gia.

Mục đích của chiến tranh hỗn hợp là nhằm làm tan rã nhà nước, hoàn toàn hoặc một phần, nhằm thay đổi tính chất chính sách đối nội hay đối ngoại, thay thế sự lãnh đạo nhà nước bằng các chế độ trung thành, bị thiết lập sự kiểm soát tư tưởng, tài chính và kinh tế đối với đất nước từ bên ngoài, cùng sự hỗn loạn và sự phục tùng bởi áp đặt từ các nước khác hay các tập đoàn xuyên quốc gia.


Một đặc điểm của giai đoạn hiện nay trong quá trình phát triển quan hệ quốc tế là áp lực chính trị, thông tin và kinh tế mạnh mẽ từ phương Tây chống Nga, một bộ phận cấu thành chiến lược chiến tranh hỗn hợp của phương Tây nhằm làm tan rã không gian Á-Âu, tạo ra hỗn loạn và bất ổn trong Á-Âu.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp đã được Mỹ và NATO phát triển trong nhiều năm. Đó là các yếu tố mới đã được đưa vào chiến tranh qui ước, kết hợp giữa các yếu tố quân sự và các thành phần không thông thường được tăng cường ảnh hưởng lên quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả của một cuộc chiến tranh toàn cầu mới. Thuật ngữ "chiến tranh hỗn hợp" đã xuất hiện trong các tài liệu quân sự Mỹ cách đây hơn 10 năm. Tại Mỹ năm 2005, Tướng Mỹ James Mattis, cựu lãnh đạo Lầu Năm Góc, và Đại tá Frank Hoffman đã xuất bản một bài báo mang tính bước ngoặt, bài báo có tên: “The Future of Warfare: The Rise of Hybrid Warfare”. Vào năm 2010, nó được gọi là “Bi-Strategic Command Capstone Concept” của NATO, các mối đe dọa "hỗn hợp" được chính thức định nghĩa là các mối đe dọa được tạo ra bởi một đối thủ có khả năng sử dụng đồng thời các phương tiện truyền thống và phi truyền thống để đạt được các mục tiêu của riêng mình. Vào năm 2012 Cuốn sách "Hybrid Warfare: Fighting Complex Opponents from the Ancient World to the Present” của nxb New York, Cambridge University Press, 2012 của nhà sử học Williamson Murray và đại tá Peter Mansour viết và phát hành trong giới hẹp. Các cách tiếp cận mới của Mỹ đã dần thâm nhập vào NATO. Trong tuyên bố cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh NATO được tổ chức tại Scotland vào tháng 9 năm 2014, lần đầu tiên ở cấp chính thức, liên minh quân sự này đã tuyên bố là họ cần phải chuẩn bị để tham gia vào một loại hình chiến tranh mới - chiến tranh hỗn hợp. Và vào tháng 12 năm 2015, tại hội nghị thượng đỉnh của các ngoại trưởng NATO, một chiến lược chiến tranh hỗn hợp mới đã được thông qua.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp của NATO cho rằng sự thống trị của tuyên truyền độc quyền nhằm mục đích làm tan rã không gian Á-Âu, đã tạo ra hỗn loạn và bất ổn ở các nước láng giềng Nga bằng cách sử dụng các công nghệ "cách mạng màu", chiến tranh thông tin, chủ nghĩa cực đoan và khủng bố, sức ép tài chính và kinh tế, cùng sự áp đặt bởi sức mạnh quân sự. Một ví dụ về cuộc chiến hỗn hợp của NATO chống Nga là thực tế là vào ngày 12 tháng 7 năm 2017, các đại diện của NATO đã đăng một video dài 8 phút lên Web, trong đó “các anh em trong rừng” với ngụ ý là các lực lượng đặc biệt và hiện đại của ba nước Baltic - được mô tả như những người hùng trong cuộc tranh đấu giành độc lập của họ từ Liên Xô.


2. PHẢN ỨNG CỦA NGA


Tiềm lực quân sự-chính trị của Nga cần có sự kết hợp giữa "quyền lực mềm" và "quyền lực cứng", có khả năng tương tác với các cơ cấu ngoại giao nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế sử dụng đòn bẩy chính trị, ảnh hưởng kinh tế và thông tin, bao gồm cả lực lượng hoạt động đặc biệt. Một phần của giới tinh hoa quân sự-chính trị của Nga hiểu rõ mức độ nguy hiểm của các mối đe dọa một cuộc chiến tranh hỗn hợp chống Nga. Điều này được chứng minh qua bài phát biểu tại cuộc họp thường niên của Tổng Tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Nga, Tướng Valery Gerasimov ở Học viện Quân sự ngày 27 tháng 2 năm 2016. Tướng Gerasimov nói về đặc điểm của các cuộc chiến tranh hiện đại, mang tính chất lai ghép, phần không thể thiếu của chúng là các cuộc cách mạng màu sắc và các sự kiện dưới dạng quyền lực mềm. Ông thu hút sự chú ý đến thực tế rằng "các hành động gián tiếp và phi đối xứng, các phương pháp tiến hành chiến tranh lai ghép hỗn hợp cho phép tước đoạt chủ quyền thực tế của đối thủ mà không chiếm được lãnh thổ nhà nước". Chiến tranh hỗn hợp đã bắt đầu đụng chạm đến tất cả mọi khía cạnh của đời sống, bao gồm cả môi trường văn hóa và thông tin, còn trong thời gian gần, không thấy có sự suy giảm của nó – đó là phát biểu của ông Sergei Naryshkin, giám đốc Trung tâm tình báo đối ngoại tại Hội nghị an ninh quốc tế lần từ VI tại Mátcơva ngày 27 tháng 4 năm 2017. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng vẫn chưa rút ra được những kết luận có hệ thống từ bài học bi thảm của sự sụp đổ của Đế chế Nga vào tháng 2 năm 1917 và Liên Xô năm 1991.

Ba năm sau sự kiện ở Học viện quân sự năm 2016, tạp chí “Sao Đỏ” (Krasnaya Zvezda) đã công bố toàn văn bài phát biểu chiến lược của Tổng Tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Nga, Tướng Quân đội Valery Gerasimov tại cuộc họp chung, cũng tại Học viện ngày 1 tháng 3, 2019.


Dưới đây là những luận điểm chính trong phát biểu của Tướng Gerasimov:

 

1. Trong điều kiện hiện tại, cần phát triển nguyên tắc tác chiến dựa trên cơ sở phối hợp áp dụng các biện pháp quân sự và phi quân sự , với vai trò quyết định của Lực lượng vũ trang.

2. Hiện nay, các loại hình chiến tranh ngày càng mở rộng và nội dung của chúng cũng thay đổi đáng kể. Số đối tượng tham gia đấu tranh vũ trang ngày càng đông. Cùng với các lực lượng vũ trang của các quốc gia có chủ quyền, có sự tham gia của nhiều băng đảng, công ty quân sự tư nhân và các "tiểu quốc" tự xưng. Các phương tiện gây sức ép về kinh tế, chính trị, ngoại giao và thông tin đang được tích cực sử dụng, cũng như việc biểu dương sức mạnh quân sự nhằm tăng cường hiệu quả của các biện pháp phi quân sự.

3. Các Lực lượng vũ trang cần được chuẩn bị để tiến hành các loại chiến tranh và xung đột vũ trang mới bằng cách sử dụng các phương pháp hoạt động cổ điển và phi đối xứng.

4. Mỹ và các đồng minh đã xác định phương thức gây hấn trong chính sách đối ngoại của họ. Họ đang thực hiện các hành động quân sự có tính chất tấn công, chẳng hạn như "tấn công toàn cầu", "trận chiến nhiều phạm vi", sử dụng các công nghệ của "cuộc cách mạng màu" và "quyền lực mềm". Mục tiêu của họ là xóa bỏ nhà nước các quốc gia không làm vừa lòng Mỹ, phá hoại chủ quyền, thay đổi các tổ chức quyền lực nhà nước được bầu hợp pháp. Vì vậy, những điều này đã ở Iraq, Libya và ở Ukraine. Hiện tại, các hoạt động tương tự cũng được quan sát thấy ở Venezuela.

5. Lầu Năm Góc đã bắt đầu phát triển một chiến lược mới về cơ bản để tiến hành các hoạt động quân sự, vốn đã được mệnh danh là "con ngựa thành Troy". Bản chất của nó nằm ở việc sử dụng tích cực "tiềm năng phản kháng của Đạo quân thứ 5" vì lợi ích làm mất ổn định tình hình với việc đồng thời gây ra các cú đánh của WTO nhằm vào các đối tượng quan trọng nhất. Tôi muốn lưu ý rằng Liên bang Nga sẵn sàng phản đối bất kỳ chiến lược nào trong số này. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học quân sự cùng với Bộ Tổng tham mưu đã phát triển các phương pháp tiếp cận khái niệm để vô hiệu hóa các hành động gây hấn của những kẻ thù tiềm tàng. Cơ sở “phản ứng của chúng tôi” là “chiến lược phòng thủ tích cực” , có tính đến bản chất phòng thủ của Học thuyết quân sự Nga để đưa ra một loạt các biện pháp chủ động vô hiệu hóa các mối đe dọa đối với an ninh của quốc gia.

Chính luận chứng của các biện pháp đang được phát triển cần tạo thành hoạt động khoa học của các nhà khoa học quân sự. Đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên đảm bảo an ninh của nhà nước. Chúng ta phải đi trước kẻ thù trong việc phát triển chiến lược quân sự, “đi trước một bước”.

6. Đề cập đến vấn đề đối kháng thông tin. "Một phân tích về bản chất của các cuộc chiến tranh hiện đại cho thấy tầm quan trọng của lĩnh vực đối kháng thông tin đã tăng lên đáng kể. Thực tế mới của các cuộc chiến trong tương lai sẽ bao gồm cả việc chuyển giao các hoạt động quân sự sang lĩnh vực này. Đồng thời, trên thực tế, công nghệ thông tin đang trở thành một trong những loại vũ khí hứa hẹn nhất. Lĩnh vực thông tin đã không có ranh giới quốc gia được xác định rõ ràng, tạo ra cơ hội ảnh hưởng từ xa, bí mật không chỉ đến các cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng, mà còn đến người dân trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng an ninh quốc gia. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các vấn đề chuẩn bị và tiến hành các hành động có tính chất thông tin là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của khoa học quân sự".

7. Nhiệm vụ chủ yếu của khoa học quân sự và phương pháp giải quyết. Khoa học quân sự ngày nay cần đi trước thực tiễn, có mục đích xác định tính chất có thể xảy ra của xung đột quân sự, xây dựng hệ thống hình thức và phương pháp hành động, cả quân sự và phi quân sự, xác định phương hướng phát triển các hệ thống vũ khí và trang bị quân sự.

Đó cũng là một phần của việc thực hiện “chiến lược an ninh quốc gia Nga” vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, điều quan trọng là phải tính đến xu hướng xóa mờ sự khác biệt giữa tình trạng chiến tranh và hòa bình. Các phương pháp thông tin tuyên truyền và tư tưởng phi quân sự gây ảnh hưởng nhằm vào dụng tiềm năng phản đối của dân chúng đang được phương Tây sử dụng ngày càng rộng rãi. Các phương tiện đấu tranh này được bổ sung bằng các biện pháp quân sự bí mật, bao gồm chiến tranh thông tin và các hoạt động của lực lượng đặc biệt.

Đặc điểm cụ thể của tình hình hiện tại là phương Tây đang áp đảo thông tin trên các mạng xã hội, đó là sự thống trị hoàn toàn về số lượng người đăng ký. Đó là FB, Twitter, CNN, BBC…

Cũng cần lưu ý rằng Meduza. io được thành lập vào ngày 20 tháng 10 năm 2014 tại Riga, 1,5 tháng sau khi thành lập Trung tâm Truyền thông Chiến lược NATO ở Riga. 7 nước NATO tham gia vào hoạt động của Trung tâm - Estonia, Latvia, Đức, Ý, Litva, Ba Lan, Anh. Trên cơ sở này, có thể đưa ra giả thuyết rằng Medusa là một sản phẩm tương tự “Mũ bảo hiểm trắng” hoạt động ở Syria của đơn vị đặc nhiệm MI-6 tình báo Anh, hoạt động ở Syria của chúng bào gồm chuẩn bị một số vụ khiêu khích liên quan đến cáo buộc sử dụng vũ khí hóa học.


Các biện pháp thực hiện Học thuyết của Tướng Gerasimov [3]:

Từ học thuyết Chiến tranh hỗn hợp của Tướng Gerasimov, đề xuất nhiệm vụ cho các tổ chức nhà nước Nga như sau:

 

1. Thành lập cơ cấu tổ chức mới (Cục Tác chiến chống chiến tranh hỗn hợp), có những điểm tiên tiến để thực hiện các biện pháp đối phó (Smolensk, Pskov, Rostov-on-Don, Vladikavkaz, Sevastopol, Yekaterinburg, Vladivostok).

2. Xây dựng chiến lược đối kháng Chiến tranh hỗn hợp của Nga.

3. Thiết lập nền tảng hệ thống nhà nước để chống các hoạt động Chiến tranh hỗn hợp nhằm vào sự lãnh đạo và dân chúng Nga. Tạo ra các phân khu trong cơ cấu lực lượng hoạt động đặc biệt để tiến hành các hoạt động tâm lý và thông tin.

4. Xây dựng luật pháp quốc gia nhằm chống lại các công nghệ chiến tranh hỗn hợp, chủ yếu là các cuộc cách mạng màu sắc.

5. Phát hiện, chuẩn đoán và ngăn chặn hoạt động của truyền thông tiêu cực tìm cách phá hoại chủ quyền thông tin. Thực hiện giám sát liên tục thế giới blog và mạng xã hội để ngăn chặn sự lan truyền thông tin tiêu cực trong không gian thông tin Nga nhằm thúc đẩy chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa khủng bố, hận thù tôn giáo và sắc tộc.

6. Ngăn chặn phòng ngừa tất cả các kênh (tài chính, thông tin, tổ chức) và các cơ cấu hỗ trợ của nước ngoài và đầu sỏ đối với phe đối lập cấp tiến và cực đoan.

7. Vô hiệu hóa có mục tiêu và hệ thống các hoạt động Chiến tranh hỗn hợp nhằm chống Nga.

 

Các phân tích và nhiệm vụ cụ thể còn rất dài.

 


Ghi chú:

[1] Igor Panarin - Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Chính trị, cựu KGB và cố vấn chiến lược của TT V. Putin; Bài viết này là của Panarin: 

London vs Moskva!

Nga thực sự có phương tiện để phá hoại Trung tâm ra quyết định củaphương tây


[2] Tướng quân đội Valery Gerasimov sinh ngày 8 tháng 9 năm 1955 tại Kazan. Năm 1977, ông tốt nghiệp Trường chỉ huy xe tăng cao cấp Kazan rồi làm chỉ huy trung đội, đại đội, tiểu đoàn trong Cụm lực lượng vũ trang phía Bắc và Quân khu Viễn Đông.

Tốt nghiệp năm 1987 tại Học viện Thiết giáp Quân sự mang tên Nguyên soái Liên Xô R. Malinovsky, ông là tham mưu trưởng kiêm tư lệnh trung đoàn xe tăng, tham mưu trưởng sư đoàn súng trường cơ giới ở Quân khu Baltic. Từ năm 1993 đến năm 1995 - chỉ huy sư đoàn súng trường cơ giới trong Cụm lực lượng vũ trang Tây Bắc.

Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự của Bộ Tổng Tham mưu các Lực lượng Vũ trang LB Nga năm 1997, ông giữ chức Phó Tư lệnh Lục quân thứ nhất Quân khu Mátxcơva, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Tập đoàn quân 58 Bắc Kavkaz.

Từ 2003 đến 2005 - Tham mưu trưởng Quân khu Viễn Đông. Từ năm 2005 - Trưởng phòng Chính của Cục Huấn luyện và Phục vụ Chiến đấu của Các Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga, và từ tháng 12 năm 2006 - Tham mưu trưởng Quân khu Bắc Kavkaz.

Tháng 12 năm 2007, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu Leningrad, và tháng 2 năm 2009, Chỉ huy trưởng Quân khu Mátxcơva.

Từ tháng 12 năm 2010 - Phó Tổng Tham mưu trưởng Các Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga.

Kể từ ngày 26 tháng 4 năm 2012 - Chỉ huy trưởng Quân khu Trung tâm.

Theo Quyết định của TT LB Nga ngày 09 tháng 11 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Liên bang Nga - Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng LB Nga.

Tướng Valery Gerasimov Anh hùng Liên bang Nga. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Thánh George, hạng III và IV, Huân chương Phục vụ Tổ quốc hạng I, hạng III với gươm, IV với kiếm, Huân chương Quân công, Huân chương Danh dự, Huân chương Vì Tổ quốc trong các Lực lượng vũ trang Liên Xô hạng III và một số huân huy chương khác.

[3] Học thuyết Chiến tranh hỗn hợp của Tướng Valery Gerasimov có tính đến loại hình chiến tranh ở Syria của chính ông cũng như các hoạt động chống đảo chính thành công bằng lực lượng PMC ở Venezuela. Dĩ nhiên, cả cuộc xung đột quân sự hiện nay ở Ukraine, cả truyền thống lịch sử quân sự Nga tích lũy trong hàng trăm năm và học thuyết J. Stalin trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.

Đối với Stalin, có nghĩa là sau khi bắt đầu chiến sự, tất cả các quyết định chiến lược và chiến thuật chỉ nên được đưa ra trên cơ sở đánh giá tình hình của quân đội. Sức mạnh quân sự không chỉ nằm ở số lượng mà còn là chất lượng. Tất cả vũ khí, phương tiện chiến tranh đều là lực lượng. Cũng như Peter I, “Tôi chỉ có 2 người bạn trung thành, đó là Quân đội và Hạm đội”. Thứ hai là nguyên tắc: mệnh lệnh của người chỉ huy là tối cao. Thứ ba là vai trò không được phép xem nhẹ của nền kinh tế và hậu phương.


Hầu hết văn sĩ đều chống chiến tranh!

 Họ là giới mang tâm hồn yếu đuối, nhạy cảm. Họ chống chiến tranh như bản năng sợ hãi chết chóc. Nhưng họ không thể giải thích tại sao có chiến tranh.

Ví dụ điển hình là nhà thơ Khoa. Sự bực tức tích tụ lâu ngày, giáo phái PLC làm lú lẫn, nhà thơ chỉ cần phán xét 1 câu là xong.

Ví dụ khác là cây cờ đỏ Hiếu Chế, theo nghĩa tích cực nhất của phản đối chiến tranh là xăng dầu giá cả đều tăng ảnh hướng đến cả nước. Còn cái máng cám Mỹ to đùng bác ta vẫn ăn dẫn bác ta đến chỗ chửi bới Putin và Nga như một thằng cờ vàng giẻ rách vô học.

Hiện tượng phản đối chiến tranh còn thấy ở những nhà văn cổ, như Lev Tolstoy, nhưng đó là câu chuyện khác.



Duy nhất một người, một nhạc sĩ tên tuổi chỉ ra nguyên nhân chiến tranh một cách căn bản, đó là John Lennon, hãy lắng nghe ca khúc Imagine.

Ba nguyên nhân-động lực gồm: tôn giáo, địa chính trị, thị trường-kinh tế. Dĩ nhiên, khi nói đến Hybrid War, có nghĩa là bao gồm cả sự hội tụ của 2 hoặc cả 3 và và các nguyên do thứ cấp khác.

John Lennon đã chỉ ra 3 nguyên nhân này cách cao siêu ý tứ nửa thế kỷ trước. Chính xác hơn, vào ngày 9 tháng 9 năm 1971 với IMAGINE, một ca khúc ca ngợi hòa bình nhưng thực ra đã chỉ ra 3 nguyên nhân của chiến tranh. Cũng cần nói rằng, “The Beatles” ,có rất nhiều ca khúc chống chiến tranh, cổ vũ cho hòa bình. Thậm chí được coi là lá cờ đầu chống chiến tranh Việt nam.

Imagine như mời gọi mọi người mơ về một thế giới không thiên đường, không địa ngục và không tôn giáo, tất cả sống trong hiện tại và không lo lắng về bất kỳ loại cứu rỗi nào trong tương lai. Thế giới ấy cũng không có quốc gia để có tham vọng địa chính trị, không có gì để bắn giết hay lý do để chết. Còn thứ 3, đó cũng là nơi không có của cải, lòng tham hay đói khát, không có tranh cướp của cải, tài nguyên nào.

Vì vậy, Lennon đã sử dụng giấc mơ hòa bình, một giá trị được chia sẻ bởi phần lớn nhân loại, để tố cáo những lý do chiến tranh: tôn giáo, địa chính trị và lòng tham của cải. 

***

Các vấn đề vẫn còn hiện hữu ngày nay, được trình bày qua một số bài phát biểu về Chiến tranh ở Ukraine, cũng đúng như Lennon đã chỉ ra.

1. Vào tháng 3 năm 2022, Giáo hoàng Francis tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng ở Ukraine không phải là một “hoạt động quân sự”, mà là một cuộc chiến gây ra “chết chóc, tàn phá và đau khổ”, trái ngược với câu chuyện của Moskva. Hơn nữa, vị Giáo hoàng quy trách nhiệm cho nhà lãnh đạo Nga về tình hình này và yêu cầu "dừng ngay cuộc thảm sát”. 

Thượng phụ Kirill của Nhà thờ Chính thống Nga trả lời: “Mọi người cần có có quyền tự do thực hành đức tin của họ và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, mà không bị đàn áp chính trị”. Trên thực tế, đó là câu đáp trả Giáo hoàng khi gợi nhắc rằng người dân Donbas ở đông nam Ukraine đã bị áp đặt Công giáo và bạo lực của chính phủ Ukraine cùng các nước phương Tây, kể từ năm 2014, khi họ chống lại những mối quan hệ lịch sử và văn hóa với Nga.

Sẽ không sai khi nhắc đến mối xung đột tôn giáo lâu đời giữa DT và Công giáo, giữa Công giáo và Chính thống giáo, và dĩ nhiên, những cuộc Thập tự chinh đẫm máu. Đó là thời Đại Schism năm 1054 giữa các nhà thờ Công giáo La Mã và Chính thống giáo phương Đông, khi bắt đầu cuộc tranh chấp giữa Rome và Constantinople về địa vị thừa kế thực sự của Văn minh Cơ đốc giáo. Vài thế kỷ sau, sau Đại Schism, các cuộc đụng độ đã đi theo một con đường khác do sự độc lập của Nhà thờ Chính thống Nga khỏi Constantinople vào năm 1448 và sự kết thúc của Đế chế Byzantine vào năm 1453. Nói cách khác, để tìm ra các cách tiếp cận khác nhau liên quan đến các sự kiện gần đây ở Ukraine, người ta phải xem xét cẩn thận cách các sự kiện này.

2. Phát biểu thể hiện động lực xã hội nặng nề của chiến tranh và hòa bình đã diễn ra vào tháng 6 năm 2022. Ngoại trưởng Anh, Liz Truss, đã cung cấp một số thông tin cho Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Vương quốc Anh về chính sách đối ngoại. Vào một thời điểm cụ thể, Nghị sĩ Đảng Lao động Chris Bryant đã nói về sự ủng hộ và quan hệ đối tác giữa Anh và Ả Rập Xê-út, được mô tả là một chế độ độc tài, chẳng hạn, chịu trách nhiệm cho 81 vụ hành quyết trong một ngày và vụ giết người của Jamal Khashoggi, nhà báo Ả Rập Saudi.

Sau một số nỗ lực không đưa ra được gì ngoài câu trả lời theo nghị định thư và có lẽ do không hài lòng rõ ràng với các câu hỏi, ngoại trưởng Liz Truss đã tiết lộ các mục tiêu chính và bản chất địa chính trị trong chính sách đối ngoại của Anh. Theo đó: “Điều tôi tập trung vào là đảm bảo rằng chúng ta đang đối phó với các mối đe dọa lớn đối với thế giới. Mối đe dọa số một mà chúng ta đang đối phó vào lúc này là mối đe dọa từ Nga. Để làm được điều đó, chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta có các nguồn năng lượng thay thế. Một trong những nguồn năng lượng quan trọng là vùng Vịnh. Chúng ta không giao dịch trong một thế giới hoàn hảo. Chúng ta đang đối phó với một thế giới mà chúng ta cần phải đưa ra những quyết định khó khăn. Và tôi nghĩ rằng việc chúng tôi xây dựng mối quan hệ thương mại chặt chẽ hơn với các quốc gia vùng Vịnh là đúng đắn”.

Tuyên bố này giúp tiết lộ các lực lượng địa chính trị xác định mối quan hệ giữa các cường quốc, các đề xuất chính của họ và tính hợp lý chiến lược của họ. Liz Truss cũng gợi lại truyền thống lâu đời về chính sách đối ngoại và địa chính trị của Vương quốc Anh. Truyền thống này nằm trong chính sách của đế quốc Anh vào thế kỷ 19 chống lại Nga, chẳng hạn như trong Trò chơi vĩ đại của châu Á, mà các yếu tố mà Alfred Mackinder đã sử dụng để xây dựng lý thuyết trung tâm nổi tiếng của mình vào năm 1904. Theo ông ta, mối quan tâm thích đáng nhất của người Anh cần phải là khu vực trung tâm, nơi, nói thẳng ra, là đất Nga. Nó là một pháo đài không thể tiếp cận trước sự bao vây của sức mạnh hàng hải đối với cường quốc lục địa hoặc cận biên của Âu-Á, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sức mạnh của bất kỳ quốc gia nào có thể chinh phục nó. Vì vậy, rõ ràng là ý tưởng “mối đe dọa Nga” vẫn tiếp tục là định hướng cho chiến lược và chính sách an ninh của Anh quốc, bao gồm cả các lập trường của nước này liên quan đến Chiến tranh ở Ukraine.

Nhưng vào tháng 6 năm 2022, một thành viên QH Tây Ban Nha, Barcelona en Comú - Nghị sĩ Gerardo Pisarello đã phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Madrid. Theo ông ấy, “Hội nghị thượng đỉnh này được tổ chức về cơ bản là để củng cố các ưu tiên địa chiến lược của Mỹ, không phải là về Ukraine hay châu Âu và trên hết là về việc làm suy yếu Trung Quốc. Các quý ông, đó là lý do tại sao Mr. Marshall đã không đến hội nghị thượng đỉnh này với một loạt các khoản đầu tư xanh và xã hội dưới tay của mình. Ông ta đã không đến với Thỏa thuận xanh mới (Green New Deal) dưới tay mình. Ông ta đã đến để bán cho chúng tôi - với giá cao, khí đá phiến gây ô nhiễm của ông ta, hạt giống GMO của ông ta, và trên hết, vũ khí của Lockheed Martin và ngành công nghiệp chiến tranh của ông ta. Và ông ta đến để nói với chúng tôi rằng, còn hơn cả việc làm cho chiến tranh kết thúc, những gì chúng tôi cần là nuôi sống nó”.

3. Phát biểu của Nghị sĩ Tây Ban Nha tiếp cận một trong những lý do lịch sử của các cuộc chiến tranh, đó là lợi ích kinh tế. Một hành vi xã hội trở nên trầm trọng hơn rõ rệt bởi một hệ thống mà mục tiêu chính là tích lũy vốn qua tranh giành thị trường (tài nguyên, nhân công) và tích lũy vốn. Kể từ khi bắt đầu củng cố hệ thống CNTB, chiến tranh đã có một quy luật trung tâm. Theo nhà sử học nổi tiếng người Bỉ Henri Pirenne, mối quan hệ giữa chiến tranh và tích lũy vốn cũng đã được thể hiện rõ rệt kể từ các cuộc Thập tự chinh trong bối cảnh thời kỳ Phục hưng kinh tế châu Âu vào thế kỷ XII. Nói theo cách riêng của Pirenne, “Một kết quả lâu dài và thiết yếu của các cuộc thập tự chinh là để lại cho các thị trấn của nước Ý, và ở mức độ thấp hơn, các thị trấn của Provence và Catalonia, trở thành chủ nhân của Địa Trung Hải. Mặc dù không thành công trong việc giành lấy các thánh địa Hồi giáo, và mặc dù không hơn gì một vài nơi trên bờ biển Tiểu Á và trên các hòn đảo, nhưng ít nhất cũng cho phép Tây Âu không chỉ độc quyền toàn bộ thương mại từ Bosporus và Syria đến eo biển Gibraltar mà còn phát triển ở đó hoạt động kinh tế và tích lũy tiền vốn để dần dần tự mở rộng ra đến tất cả các vùng đất phía bắc dãy Alps.”

Khả năng dàn xếp tránh đối đầu giữa các quốc gia phụ thuộc nhiều hơn vào kỹ thuật ngoại giao, các biện pháp kiểm soát và cân bằng có khả năng ràng buộc và ngăn chặn các hành vi bạo lực của các quốc gia hơn là khả năng loại bỏ tôn giáo, địa chính trị và kinh tế thị trường.


Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

Tài phiệt Mỹ đứng đầu mọi cuộc chiến tranh!

Nước Mỹ non trẻ hơn 200 năm tuổi nhưng tham gia hơn 300 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Nhiều chuyên gia cho rằng, chiến tranh là để làm giàu cho lái súng Mỹ. Họ nhầm lẫn nặng, chiến tranh là để làm giàu cho tài phiệt nhà băng Mỹ nhiều nhất.

Giới tài phiệt ngân hàng, khẳng định ảnh hưởng của họ trong các ngành công nghiệp bằng cách cung cấp dòng tín dụng cần thiết để sản xuất trong/ngoài nước, dân sự/quân sự. Trong trường hợp bán hàng quân sự, các chính phủ khác nhau mua thì phải trả trước/đặt cọc tại các ngân hàng bảo lãnh cho thương vụ. Các hãng định giá thì trông chờ vào sự hợp tác với các công ty sản xuất để cung cấp một dòng cam kết bảo lãnh quan trọng về tín dụng, và cân nhắc nó khi lượng giá vấn đề rủi ro của công ty. Lãi suất tín dụng lớn làm cho các công ty sản xuất thu được lợi nhuận thấp (nôm na là phải trả lãi quá nhiều) khi phải vay mượn tiền từ các tổ chức tài chính. 

Ngoài ra các tổ chức tài chính còn cung cấp dịch vụ tư vấn/cố vấn cho bộ phận tài chính các công ty công nghiệp để làm sao họ có thể tạo cán cân thu chi cho có hiệu quả nhất, làm sao để đầu tư tiền, tài sản của họ cho sinh lợi và cung cấp cho họ hiểu biết về việc mua bán, sát nhập, loại bỏ, liên doanh với các công ty khác, về rủi ro đầu tư mạo hiểm, về ngoại hối, và tạo điều kiện tiếp cận với thị trường vốn khi công ty muốn phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các nhà băng cũng quản lý phần tài sản trả lương của các công ty và rốt cục là tất cả các nguồn tài chính cần thiết để hoàn thành dự án/công trình của các công ty. Điều hiển nhiên là các dịch vụ này không phải là miễn phí. 

Kẻ lớn nhất trong thị trường vũ khí là Boeing, không chỉ chế tạo máy bay dân sự, máy bay quân sự, hệ thống phòng thủ tên lửa, thông tin liên lạc vũ trụ, mà còn có các nhà băng đỡ đầu mà nhờ đó có thể cung cấp cho các khách hàng các giao dịch thương mại/tài chính của nó. Hơn 30 ngân hàng ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương đã nhận và gửi dịch vụ của họ cho Boeing. 

Northrop Grumman, làm ăn hoàn toàn trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, nó được các ngân hàng sau cung cấp tài chính: Bank of America, JP Morgan Chase, Deutsche Bank (đứng thứ 27), Credit Suisse First Boston (đứng thứ 31), Lehman Brothers Holding (đứng thứ 83) và những nhà băng khác. 

Lockheed Martin, nhờ nhiều mối quan hệ có ảnh hưởng với chính phủ, nên là nhà thầu số 1 của các hợp đồng quốc phòng, Lockheed chế tạo F-16 và các loại máy bay chiến đấu, tên lửa Patriot, vệ tinh và một mảng các hệ thống khác. Một trong những kẻ bảo lãnh và là đại diện thân thuộc của Lockheed Martin: JP Morgan Chase. Morgan cung cấp bảo lãnh, bảo hiểm tài sản của nó ra khắp thế giới. 

Công ty Raytheon, một nhà sản xuất quân sự lớn khác được giúp đỡ bởi Citigroup, Bank of America, Credit Suisse First Boston, và JP Morgan Chase. 

General Dynamics, sản xuất xe bọc thép Stryker, xe tăng M1 Abrams và gần đây là MRAP (Mine Resistant Ambush Protected), nhận dịch vụ chủ yếu từ Bank of America và JP Morgan Chase. 

Giá trung bình của 1 máy bay chiến đấu trên thị trường là khoảng $80 triệu, ví dụ giá sản xuất F-35 (JSF) do Lockheed Martin chế tạo khoảng $50 triệu. Giá của Stryker khoảng $2 triệu. Giá xe tăng Abrams khoảng $4,3 triệu. Giá MRAP khoảng $2 triệu và cuối cùng giá 1 quả tên lửa Patriot khoảng $2 triệu. 

Đó là lý do tại sao chẳng hạn, Lockheed Martin, báo cáo dự kiến sẽ tăng 34% lợi nhuận quý II 2007, bởi Lockheed có thu nhập cao hơn từ máy bay chiến đấu và hệ thống điện tử, trong khi chỉ trả lương thấp hơn (International Business Times 2007). Thu nhập cả năm của Lockheed sẽ là $41,1 tỷ, nhờ chiến tranh Afghan, Iraq và những cuộc xung đột khắp thế giới. Và như Washington Post cho biết, còn bao nhiêu những công ty vũ khí khác khác thu lời từ những xác chết trên chiến trường. “General Dynamics tìm thấy lợi nhuận trên chiến trường” (2006).

Tướng Smedley Butler (1881 - 1940), marine nhiều công danh nhất trong lịch sử nước Mỹ, đã một lần đã viết rằng, chiến tranh là cái máy phản lực: "Lợi nhuận làm ăn thông thường ở Mỹ là 6, 8, 10 và đôi khi 20%. Nhưng trong chiến tranh lợi nhuận-ah! Đó là vấn đề khác, 20, 60, 100 và thậm chí cả 1800%. Khi một công ty sản xuất dân sự chuyển sang sản xuất quân sự, lợi nhuận của nó lên như pháo thăng thiên."


Không hẳn là chiến tranh, ví dụ chống khủng bố cũng đem đến lợi nhuận lớn cho những công ty này. Để lấy làm ví dụ, người ta đọc được qua tin tức, Lockheed Martin - nhà tài trợ chính của cuộc đảo chính Chile năm 1973 - được Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa tệ nạn (CDC-Disease Control and Prevention) chọn tiếp tục cung cấp hàng hỗ trợ cho Chi nhánh văn phòng phối hợp sẵn sàng chống khủng bố và phản ứng nhanh. Chỉ riêng phần thưởng này, 5 năm hợp đồng ước lượng giá đã là $135 triệu.


Gắn bó khăng khít với chiến tranh Iraq, là công ty Halliburton của ông phó diều hâu Cheney (xếp hạng 291) hay còn gọi là quí ngài điều hành “Biệt đội thần chết”, có tài sản $16,82 tỷ, được quyền tham gia vào việc thăm dò/sản xuất dầu khí và tái thiết Iraq sau khi chiếm đóng. Halliburton có quan hệ chặt chẽ với Hoàng gia Saudi và được bảo trợ bởi JP Morgan Chase, HSBC Mỹ, Bank USA, Royal Bank of Scotland và Citigroup như là đại diện quản trị. Citigroup điều hành ngân hàng Saudi-American (SAMBA) cho đến năm 2003, và ngầm điều khiển nó sau khi xâm lược Iraq. Thủ tướng Pakistan, Shaukat Aziz - được Tổng thống Musharraf bổ nhiệm - là giám đốc quản lý của SAMBA trong những năm 90. Đứng đầu cả Saudi Arabia và Pakistan trong việc thu lời từ cuộc chiến Iraq. 

Shaw Group là nhà cung cấp các hệ thống ống dẫn, kỹ thuật và dịch vụ xây dựng ở Iraq. Kết hợp với công ty quốc tế được bảo trợ này là Bank of America, JP Morgan Chase, Ngân hàng Hoàng gia Canada (thứ 77) và Ngân hàng Nova Scotia, Canada (hạng 127). 

Bechtel là một công ty kỹ thuật và xây dựng khổng lồ hoạt động tại Iraq, và được đỡ đầu chủ yếu là từ Bank of America và Export-Import Bank. Công ty này đã có và có quan hệ chặt chẽ với các chính quyền Mỹ khác nhau - cả cộng hòa và dân chủ - và cũng với gia đình hoàng gia Saudi. Riley Bechtel, chủ sở hữu chính của nó đã bổ nhiệm G. W. Bush làm cố vấn. 

Để chuẩn bị các cấp độ khác nhau cho chính phủ và công chúng trước các cuộc chiến tranh - tại Afghanistan và Iraq - những hãng quốc tế khổng lồ này sử dụng các Thùng ý tưởng (think-tanks) như Hội đồng Quan hệ đối ngoại, và trả rất nhiều tiền. Cũng như vậy, thường xảy ra là các quan chức nhận hối lộ và công chúng bị ném bom những bịa đặt dối trá hay giả mạo về nguy cơ gì đó qua các phương tiện truyền thông. 

Để tăng cường mối liên hệ giữa chính phủ, vốn đầu tư tài chính và cánh công nghiệp, trao đổi những kinh nghiệm và thủ đoạn giữa chúng với nhau, các quan chức cấp cao, các viên quản trị và điều hành được luân chuyển lên xuống liên tục từ các ngân hàng đến các ghế trong chính phủ đến các công ty và ngược lại. Ví dụ, 2 viên quản trị chính điều hành Bechtel sang làm ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng trong chính quyền Reagan. George Schultz, cựu chủ tịch Bechtel, cựu ngoại trưởng Mỹ là một kẻ ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến chống Iraq và cũng như thế, Dick Cheney “rời” Halliburton để làm phó tổng thống trong chính quyền G. W. Bush. Ví dụ khác, tháng 2-2001, Northrop thông báo rằng Lewis W. Coleman, cựu Chủ tịch chứng khoán LLC - Bank of America, trở thành thành viên của ban giám đốc Northrop. 

Và để nhấn mạnh giới tài phiệt đã làm thế nào để điều khiển chính phủ, ở đây chúng ta đã đề cập đến những gã tài chính khổng lồ như Citigroup – kẻ có số lớn tài sản đến từ vụ cướp bóc Ngân hàng TW Haiti - JP Morgan Chase và HSBC Holdings, kiểm soát Federal Reserve Cartel qua cổ phần của ngân hàng. 

Trong khi cuộc sống bình thường của dân chúng căng thẳng bởi tất cả các loại thuế, thì đặc biệt là những công ty khổng lồ này lại được giảm thuế lớn. Tham nhũng đã trở thành không thể kiềm chế được trong tất cả các lĩnh vực và ở mọi cấp độ của xã hội. Ví dụ trong việc buôn bán vũ khí quốc tế, khoảng $2,5 tỷ được chi trả như hối lộ. Vốn tài chính để mở mang đầu tư ra các thị trường mới bằng cách hối lộ lớn, nếu không phải bằng vũ lực tàn bạo. 

Trước đây, chính phủ Mỹ thông báo rằng họ sẽ cho phép bán khoảng $60 tỷ vũ khí cho Israel, Ai Cập, Ả Rập Saudi và vùng Vịnh với cái cớ mối đe dọa Iran, (ABC News). Trong cùng ngày đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hợp Quốc đã cáo buộc Saudi Arabia và đồng minh Mỹ trong khu vực, phá hoại nỗ lực kiềm chế bạo lực ở Iraq. Nói cách khác, điều quan trọng là kiếm tiền lớn và lớn hơn nữa từ lợi nhuận buôn bán vũ khí ngọt ngào, không có vấn đề gì với cuộc sống đắng cay của hàng triệu người Iraq và hàng ngàn người Mỹ đang sa lầy trong cuộc chiến Iraq. 

Có câu hỏi: những đồng tiền này đến từ đâu? Câu trả lời là - ngoại trừ trong trường hợp của Israel - những đồng tiền này đến từ việc bán rẻ tài nguyên thiên nhiên của các nước lạc hậu và vay mượn với lãi suất cao từ cùng các ngân hàng quốc tế, mà không bao giờ có thể trả được, vì tiền lãi ngày càng chồng chất lên tiền lãi. Và trong chủ đề ngân sách chính phủ Mỹ, đó là tiền của người nộp thuế mà thay vì được sử dụng cho các phúc lợi xã hội lại bị đem ra phục vụ cái mồm ngày càng tham lam của con quái vật chiến tranh. Khoảng 41% hay hơn ngân sách chính phủ Mỹ hàng năm, $650 tỷ đến với các cuộc chiến tranh. 

Mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ, và cánh công nghiệp tác động to lớn về mọi mặt đến xã hội và thiên nhiên. Chúng kéo xã hội đến bản năng động vật của chúng. Chúng phá hủy một quốc gia và cho vay tiền để xây dựng lại nó, một lần nữa phá hủy nó và lại xây dựng lại nó - thậm chí là trên giấy – tất cả chỉ để đạt được lợi nhuận sau lợi nhuận, vớ bẫm nhiều chiều, và quan trọng nhất là qua việc tăng cổ phần nắm giữ của chúng bằng cách thao túng cung-cầu của những hàng hóa đặc biệt như dầu mỏ. 

Một lần nữa trong trường hợp của Iraq, "Bộ trưởng Iraq sẽ có thể vay hàng tỷ đô la để mua nhiều trang thiết bị cần thiết từ các nhà cung cấp nước ngoài, nhưng chỉ được bằng cách thế chấp doanh thu dầu mỏ quốc gia qua ngân hàng được quản lý bởi 1 ngân hàng New York của nhà băng đa quốc gia JP Morgan Chase. (CorpWatch) 

Để đi đến kết luận, mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ và giới công nghiệp có thể mô tả dưới tên TỔ HỢP TÀI CHÍNH-CÔNG NGHIỆP. Nhưng thuật ngữ này không phản ánh toàn bộ các khía cạnh của liên minh làm ăn này, bởi vì giới công nghiệp và chính phủ Mỹ, chính họ bị kiểm soát bởi các nguồn vốn tài chính hay giới tài phiệt. 

nguồn tham khảo từ Báo Anh: timesonline.co.uk

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...