Hiển thị các bài đăng có nhãn Obama. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Obama. Hiển thị tất cả bài đăng

Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

10x câm điếc người Việt gửi Vlog đến tổng thống Mỹ Barack Obama

10x câm điếc người Việt và thông điệp gửi đến ông Obama [Video tiếng Anh]




Ông có biết tên của bài hát đó là gì không ? Đó là The land of Vietnamese, MẢNH ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM. Đó là ca khúc phản chiến nổi tiếng trong giai đoạn xảy ra cuộc chiến ở Việt Nam. Là nhạc phim của bộ phim The death Coordinates đạo diễn bởi Samvel Gasparov do ca sĩ Kate Francis ôm đàn cất lên tiếng hát.

Chào Obama ! Chào đón ông đã đến với MẢNH ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM.

Tôi là một người Việt Nam. Tôi có vài điều muốn chia sẻ cùng ông. Tôi xin lỗi vì đã không thể làm một video với gương mặt của tôi vì tôi là một người câm điếc. Tôi không thể nói hay nghe. Tôi là một nạn nhân của chất độc màu da cam.

Ông đã đọc quyển Kill anything that moves: The real AMERICAN WAR in Vietnam (Diệt bất cứ thứ gì động đậy: Sự thật về CUỘC CHIẾN CỦA HOA KỲ ờ Việt Nam) của Nick Turse chưa, ông Obama ? (bản tiếng Việt có tên là Mệnh lệnh lưỡi lê).

Nếu ông đã đọc, ông sẽ biết phụ nữ Việt Nam, thiếu nữ Việt Nam, trẻ em Việt Nam đã bị lính Mỹ hãm hiếp, làm nhục như thế nào. Ông có cần một ví dụ ?

[ ... ]

Tôi nghĩ ông nên ngậm miệng lại, chớ tiếp tục nói về Nhân Quyền. Tổng thống Hoa Kỳ không có tư cách nói chuyện về Nhân Quyền với người Việt Nam hay với Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi khuyên ông nên ghi nhớ điều đó.

À mà thôi. Đó là câu chuyện buồn của quá khứ. Chúng tôi - NGƯỜI Việt Nam, KHÔNG - BAO - GIỜ - LÃNG - QUÊN. Tuy nhiên, chúng tôi tha thứ. Việt Nam tha thứ cho Hoa Kỳ.

Hôm nay, nếu ông đến Việt Nam để tìm kiếm một nền hoà bình thật sự thì tôi và ông là bạn. Nếu ông đến để thông qua TPP hay mang theo GMO của Monsanto thì xin lỗi, tôi ...ghét ông lắm. Chúng ta sẽ là bạn chứ, ông Obama ?

Vài lời khép lại, tôi xin cầu nguyện cho nền hoà bình thật sự của Việt Nam, của Hoa Kỳ, của toàn nhân loại. Và bước đầu tiên để có được nền hoà bình đó, tôi nghĩ ông biết, là hãy kết liễu TPP đi

[Bản dịch tạm thời].

Do you know the name of the song ? 
It is THE LAND OF VIETNAMESE.
The land of Vietnamese is an anti-war song, circulated in the Western world in the years of the Vietnam War.
This song has appeared once in the movie "The death Coordinates" directed by Samvel Gasparov veteran - as the singer Kate Francis sings with the guitar.
Hello Obama, welcome to Vietnam ! Welcome to THE LAND OF VIETNAMESE.
I am a Vietnamese. I have something to share with you.
I am sorry. I can not take a Vlog with my face because I am a deaf mute. 
I can not speak or listen. Because of Agent Orange.
Did you read Kill anything that moves: The Real American War in Vietnam ?
If you read, you would know how Vietnamese woman, Vietnamese girls, Vietnamese kids were raped by American soliders. 
Do you need an example ?
I think you should stop talking about the Human Rights in Vietnam. The President of the United States do not have the right to talk about Human rights in Vietnam to Vietnamese or The Communist Party of Vietnam. You should remember that.
However. This is a bad story of our relationship, in the past. We – Vietnameses, never forget. But, we forgive. 
Vietnam forgive the USA.
Today. If you come to Vietnam to find the Peace, we are friends.
If you come to Vietnam with TPP and GMO of Monsanto, I …hate you.
Will you be friend with me, Sir ?
Finally, I pray for the True Peace of Vietnam, of the USA, of the World. 
And a First step of finding a True Peace, I think you know, is stopping the TPP.

NHÂN QUYỀN CUBA <=> NHÂN QUYỀN MỸ

Mỹ và Cuba là phần thế giới xa nhau trong cách họ đối xử với người dân.

 
Obama đứng hàng đầu thế giới về lạm dụng nhân quyền trên quy mô toàn cầu. Ông ta muốn dạy Chủ tịch Raul Castro nói riêng và nhân dân Cuba nói chung trong tuyên bố trên TV đã lên kế hoạch sẵn về cải thiện hồ sơ nhân quyền quốc gia.

Mỹ chỉ trích Cuba đã từ lâu, chính phủ của họ vô cớ buộc tội nhà cầm quyền Cuba áp bức. Các cá nhân đang bị giam cầm vì những tội, bao gồm cả việc nhận tiền từ nước ngoài để lật đổ, những lý do chính trị không giống Mỹ.

Luật Dân Chủ Cuba 1992 của Mỹ khuyến khích các nhóm chống chính phủ. Luật Đoàn kết dân chủ và quyền tự do Cuba của Mỹ 1996: "Tổng thống (Mỹ) được ủy quyền để giúp đỡ và cung cấp sự ủng hộ khác cho các cá nhân và các tổ chức phi chính phủ độc lập để hỗ trợ các nỗ lực xây dựng dân chủ cho Cuba."

Mục đích của nó là nuôi dưỡng lật đổ nhằm thay chính phủ Cuba hợp pháp bằng con rối Mỹ điều khiển, đưa Cuba trở về những ngày đen tối cũ, cướp đoạt lợi ích của họ, bóc lột nhân dân họ.

Chính phủ Cuba làm Mỹ thấy xấu hổ. Sau chuyến thăm Cuba năm 2007, nhà văn Mỹ  Gore Vidal nói hệ thống của họ là "sự thành công cho người dân sống ở đó." Ông giải thích ở đó, mình lần đầu tiên đã có thể hít thở tự do.

Ông nói là "rất hiếm khi (mình) nhìn thấy dân chúng mãn nguyện. Mọi thứ họ làm là rất tốt. Không có ai buồn bã trong số những người mà bạn gặp khi phần lớn không hẳn hoàn toàn biết chính phủ của họ là gì".

Cuba coi con người tài nguyên lớn nhất của họ. Thật là một "khái niệm rực rỡ - Vidal nói - Tất cả những người chúng tôi gặp, được đào tạo rất tốt" để trở thành bác sĩ, giáo viên và các lĩnh vực lành nghề
khác cho xã hội Cuba.

Washington và bọn vô lại truyền thông khuyến khích những câu chuyện vi phạm nhân quyền Cuba để lấp liếm những sự thật có sức nặng. Tự do báo chí (Cuba) bị lờ đi. Các nhà báo có thể viết hoặc phát sóng những gì họ muốn.

Mỹ là nhà nước cảnh sát phát xít, ảo tưởng dân chủ. Còn Cuba cởi mở, tự do và công bằng. Trước khi bệnh tật buộc Fidel Castro thôi nắm quyền năm 2008, ông là người đấu tranh cho hòa bình và ổn định trên thế giới, đã cảnh báo về khả năng chiến tranh hạt nhân kết liễu sự sống, ông kêu gọi giải trừ vũ khí là "cách duy nhất để bảo tồn sự sống trên trái đất."

Trong suốt nhiệm kỳ làm nhà lãnh đạo Cuba, ông không đe dọa một quốc gia nào, không tấn công ai. Ông lãnh đạo bằng lòng nhân từ, không bằng vũ lực – trái cực với chính sách Mỹ tàn nhẫn, gây chiến chống nhân loại trong và ngoài nước.

Cuba có những phúc lợi mà người Mỹ không thể tưởng tượng. dịch vụ xã hội ghi trong hiến pháp bao gồm y tế, bệnh viện và chăm sóc răng miệng miễn phí đẳng cấp thế giới, cũng như các dịch vụ phòng bệnh, tăng cường sức khỏe cộng đồng, giáo dục sức khỏe, các chương trình kiểm tra sức khỏe định kỳ, tiêm chủng và các phương pháp khác.

Sức khỏe và an toàn của người lao động được đảm bảo. Có sự giúp đỡ cho những người cao tuổi và phụ nữ làm việc mang thai. Nghỉ có lương trước và sau khi sinh con.

Luật y tế công cộng của Cuba buộc nhà nước đảm bảo, cải thiện và bảo vệ sức khỏe của người dân, bao gồm ccung cấp các dịch vụ phục hồi chức năng cho người khuyết tật về thể chất và tinh thần.

Obamacare bỏ rơi hàng triệu người không có bảo hiểm của họ. Nó là thiết kế và kiểm soát của tập đoàn, hệ thống phân phối làm giàu cho các hãng bảo hiểm, các công ty dược phẩm thú dữ và chuỗi bệnh viện lớn với các chi phí đắt đỏ để cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phổ quát cũng chnhư ở Cuba.

Mỹ chi tiêu cho y tế gấp đôi trung bình các nước công nghiệp phát triển khác, nhưng hiệu quả của nó lại nghèo nàn nếu so sánh.

Giáo dục Cuba tốt nhất Mỹ Latin, miễn phí tất cả các cấp học, vượt trội giáo dục công ở Mỹ, họ chú trọng giảng dạy với thực hành, không phải chỉ để học.

Cuba muốn tất cả các công dân của họ có học vấn, nhấn mạnh toán học, đọc sách, khoa học, nghệ thuật, nhân văn, trách nhiệm xã hội, giáo dục công dân và dân sự.

Mù chữ hầu như đã bị loại bỏ ở Cuba, còn ở Mỹ là quá cao. Hàng triệu người M không thể đọc, đặc biệt là thanh niên thành thị. Các trường công hoạt động như cái kho chứa hơn là nơi tổ chức học tập. Mỹ có tỷ lệ học sinh bỏ học cao. Hàng triệu thanh niên không được chuẩn bị cho hầu hết tất cả mọi thứ ngoại trừ để làm việc làm với thu nhập ít ỏi, làm việc tồi thu nhập thấp.

Cuba quan tâm đến người dân. Mỹ đối xử khinh thường với dân họ, và chỉ phục vụ lợi ích đặc quyền. Vô gia cư, đói nghèo và an ninh lương thực là vấn đề lớn trong đất nước giàu nhất thế giới – mà không phải ở Cuba.

Một bài báo trước đó cho biết chuyến thăm của Obama sẽ chẳng có gì hơn là trách nhiệm bình thường hóa quan hệ. Khi chính sách của Mỹ là thống trị và bóc lột, không đối xử với các quốc gia khác một cách công bằng và sòng phẳng.
 

Chúa trùm tập đoàn: Obama, ký TPP đi!

Chúa trùm tập đoàn: "Obama, nhớ lý do tại sao chúng tôi thuê, ký TPP đi"

"Hiện tại các thành viên đàm phán TPP là Mỹ, Nhật Bản, Mexico, Canada, Australia, Malaysia, Chile, Singapore, Peru, Việt Nam, New Zealand và Brunei. TPP là hiệp định kinh tế lớn nhất trong lịch sử, bao gồm các nước đại diện cho hơn 40% GDP thế giới. "(Wikileaks)

"Kể từ 1945, không có TT Mỹ nào thoát khỏi bị soi bởi giới bề trên toàn cầu hóa. Chính trị đảng phái không có vai trò gì trong quá trình này. Một trong những vấn đề bị ép buộc của mọi tổng thống là: đảm bảo pháp chế toàn cầu và các hiệp định đi qua để hoàn thành. Đừng cản trở họ. Ông tổng thống mưu gian bé nhỏ tên là Nixon có ý cương định dựng thuế chống toàn cầu hóa. Ông thấy mình nằm trên sàn nhà nhìn lên, thấy Henry Kissinger, người của David Rockefeller, nhìn xuống, thuyết phục ông ta rằng những ngày trong Nhà Trắng đã qua rồi. "(The Underground, Jon Rappoport)


Obama đang dưới họng súng. Không kể từ khi gây áp lực Quốc hội, thay mặt cho các hãng dược, để thông qua Obamacare, ông ta đã làm việc rất chăm chỉ và đổ mồ hôi quá nhiều.

Hiệp định toàn cầu hóa mới nhất, Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP), đang nằm trên bàn.

Các siêu tập đoàn hàng đầu khắp thế giới, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations của Rockefeller), Nhóm Bilderberg, Ủy ban ba bên (Trilateral Commission của Rockefeller) muốn TPP phải được phê chuẩn bởi 12 quốc gia thành viên. Họ thực sự muốn nó. Họ nhấn mạnh vào nó.

Obama đã húc đầu vào tường nhà Quốc hội. Họ có vẻ nhất thời, nhưng không nhầm lẫn, ông ta được đặt vào văn phòng để đưa hiệp định này thành hiện thực, thất bại không phải là một lựa chọn. Dù đã hứa, với ai đó ông ta đã hứa, đã giao kèo. Giao kèo hậu trường, giao kèo cửa sau, giao kèo lộn ngược.

Các ông chủ của ông ta không quan tâm ông ta là tổng thống vịt què lúc này. Con vịt què, con vịt lạch bạch cũng không khác biệt. Ông ta phải hoàn thành.

Và ông ta biết điều đó.

Ông ta cũng biết, bởi TPP là hiệp định toàn cầu hóa khác, khiến nhiều việc làm sẽ chạy khỏi Mỹ, hàng nhập khẩu giá rẻ hơn sẽ tràn ngập thị trường Mỹ từ các quốc gia áp dụng mức lương nô lệ, nơi mà luậtlệ môi trường không phải là giá trị đồng tiền họ in ra. Ông ta biết những hàng hóa giá rẻ này sẽ làm chìm các doanh nghiệp Mỹ.

Ông biết không công dân đơn lẻ bất cứ đâu trong thế giới này, kẻ không điều khiển tập đoàn lớn đã từng đọc nội dung TPP và sẽ không đọc chúng trước khi được thông qua.

Obama có hiệu lệnh hành khúc 10 năm, hiểu rõ đang vào nơi ông chủ cần.

Giới toàn cầu hóa không chơi trò đùa khi nói đến một hiệp định như thế này. TPP là đứa con của họ.

Có nhớ quí bà Pelosi? Bà ta thổi còi trong lúc các cuộc đàm phán ngày đêm về Obamacare, nói với các đồng nghiệp của Quốc hội của mình: "Nếu các vị muốn biết cái gì trong dự luật, các vị phải bỏ phiếu cho nó. Sau đó, các vị có thể đọc nó."

Dân chúng bắt đầu thức tỉnhvới thực tế rằng, khi dự luật ngàn trang đang ở trên bàn, các nhà lập pháp, hoặc có thể không đọc chúng hay không thích. Họ chỉ cần bỏ phiếu theo cách mà họ được nói cho.

Vì vậy, đây là một điều khác: TPP. Nghị sĩ Quốc hội phải đi vào một phòng kín và đọc nó. Họ không thể làm bản sao. Họ không thể nói công khai cái gì trong đó.

Thượng nghị sĩ Rand Paul vừa đi vào phòng. Khi ông ta bước ra, cho biết ông thậm chí còn không biết liệu ông ta đã đọc một bản thảo hay phiên bản cuối cùng.

Ông nói không thể tiết lộ có cái gì trong hiệp định. Tại sao không? Ai đưa ra quyết định đó? Lấy quyền bất hợp pháp nào để ngăn cấm các nhà lập pháp nói về các chi tiết của hiệp định, mà nó sẽ, khi được thông qua, ràng buộc tất cả người Mỹ và người dân 11 quốc gia khác?

Rò rỉ cho thấy rằng TPP sẽ thiết lập các tòa án tư nhân để quyết định về tranh chấp giữa các công ty và chính phủ. Ví dụ, một công ty nước ngoài cố gắng để xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ. Họ bị ngăn chặn và kháng cáo đến tòa án này. Luật pháp Mỹ có liên quan và các tòa án Mỹ sẽ bị bỏ qua. Câu hỏi liên quan đến tác hại môi trường hay sản phẩm độc hại được quyết định trong bí mật.

Như Wikileaks lưu ý, "Cơ chế tương tự đã được sử dụng. Ví dụ, công ty thuốc lá Mỹ Phillip Morris sử dụng một tòa án như vậy để kiện Úc (tháng 6 năm 2011 - đang xử) vì yêu cầu đóng gói các sản phẩm thuốc lá có dán nhãn sức khỏe cộng đồng; và bởi gã khổng lồ dầu Chevron chống Ecuador trong một nỗ lực né tránh 1 tỷ đô la đa phán quyết bồi thường do gây ô nhiễm môi trường. Các mối đe dọa kiện tụng tương lai làm ớn lạnh qui định môi trường và các qui định khác ở Canada sau khi họ bị kiện bởi các công ty thuốc trừ sâu năm 2008/9. Tòa ISDS -  Investor-state dispute settlement thường được tổ chức trong bí mật, không có cơ chế chống án, không cấp dưới đại diện cho các luật về nhân quyền hoặc lợi ích công cộng, và chỉ có vài phương tiện mà các bên bị ảnh hưởng khác có thể sử dụng để phản đối."

Cũng giống như GATT, NAFTA và CAFTA, TPP là hiệp định toàn cầu mở rộng quyền lực của các siêu tập đoàn trên thế giới. Với ý muốn họ có thể chuyển hoạt động sản xuất của họ đến những nơi mà lao động thực tế là nô lệ. Họ bán hàng hóa qua biên giới, mà không phải trả hàng tỷ USD thuế, bất kể những tác động đến các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn, những kẻ bị làm tê liệt và buộc phải từ bỏ kinh doanh.

Tất cả các hiệp định đang tiến hành cần được công bố đầy đủ, ít nhất 2 năm trước khi các quốc gia thành viên bỏ phiếu cho nó. Khi đó chúng ta có thời gian để nhìn và hiểu những gì trong đó.

Tấm khăn liệm bí mật che phủ TPP là một trò hề phạm tội.

Truyền thông đại chúng lừa dối đang ngây thơ nói rằng những ai cảnh tỉnh chống lại độc tài toàn cầu là những kẻ lý luận thuyết âm mưu điên khùng.

Vâng, các bạn gọi nó là cái gì khi một hiệp định bí mật lại mở rộng quyền lực quốc tế của các siêu tập đoàn qua luật, khi luật đó thay thế mọi luật pháp khác và tòa án khác của các quốc gia thành viên?

Bạn có gọi nó là "một quyết định thương mại tốt?" "Tăng thêm việc làm?" "Người thông minh hơn giúp phần còn lại chúng ta?"

Tại Mỹ, các nhà lập pháp Quốc hội đang chồm lên nhảy múa và rào dậu. Họ không hoàn toàn chắc chắn biết những gì trong TPP. Nhưng cuộc tranh luận của họ được thực hiện nghiêm túc, như thể họ thực sự dự định một cái gì đó.

Đó là kẻ mù dẫn dắt kẻ mù lại dẫn thêm kẻ mù nữa. Nhưng sau tất cả, các kiến ​​trúc sư của TPP nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và hậu quả những gì họ đang làm.

Họ lôi Obama ra khỏi chỗ tối tăm để thực hiện một công việc. Công việc này: Thông qua hiệp định.

Quá nhiều cho "nhà lãnh đạo đại diện của nhân dân."

Như trên cho 11 thành viên TPP khác.

Con rối múa may. Con rối chơi bóng tối.

Tội phạm có tổ chức.

Hiệp định TPP là một dạng tài liệu tôn giáo. Chúng ta phải mang nó trong đức tin. Chúng ta phải chấp nhận những gì các vị giáo sĩ TPP nói với chúng ta.

Họ là ống dẫn đến chỗ các Chúa trùm của tập đoàn.

Tôi trích dẫn cuộc phỏng vấn sau đây trong bài viết trước. Nó cho thấy loại quyền lực toàn cầu mà tôi đang nói tới.

Dưới đây là một bản chụp gần tại 1 thời điểm đáng chú ý trước kia. Đó là nhìn qua lăng kính 1 cuộc trò chuyện giữa phóng viên Jeremiah Novak, và hai nhà toàn cầu của Rockefeller, 2 thành viên Ủy ban ba bên, Karl Kaiser và Richard Cooper. Cuộc phỏng vấn diễn ra vào năm 1978. Nó có liên quan đến vấn đề chính xác ai đã định hình chính sách kinh tế và chính trị Mỹ, trong đó sẽ bao gồm các hiệp định thương mại như TPP.

Thái độ bất cẩn, thiếu thận trọng của Kaiser và Cooper là đáng kinh ngạc. Đó là khi họ nói, "Những gì chúng tôi đang tiết lộ đã thực sự mở ra, đã quá muộn để làm bất cứ điều gì về nó, tại sao ông lại quá nóng, chúng tôi đã thực sự thắng ..."

NOVAK (phóng viên): Có đúng là Ủy ban ba bên riêng đứng đầu bởi Henry Owen của Mỹ và các đại diện thành viên của Mỹ, Anh, Tây Đức, Nhật Bản, Pháp và EEC đang điều phối chính sách kinh tế và chính trị của các quốc gia ba bên?

COOPER: Đúng, họ đã gặp nhau ba lần.

NOVAK: Tuy nhiên, trong bài báo gần đây của ông, ông nói rằng ủy ban này nên duy trì không chính thức bởi vì để chính thức hóa "chức năng này cũng có thể minh chứng rõ sự xúc phạm đến một số trong Ủy ban ba bên và các quốc gia khác không tham gia." Ông sợ ai?

KAISER: Nhiều quốc gia ở châu Âu sẽ bực bội về vai trò lấn át mà Tây Đức thể hiện tại các cuộc hội nghị ba bên này.

COOPER: Nhiều kẻ vẫn sống trong thế giới của các quốc gia riêng biệt, và họ sẽ bực bội với (chính sách) điều phối như vậy.

NOVAK: Nhưng Ủy ban (ba bên) này là cần thiết cho toàn bộ chính sách của các ông. Làm thế nào ông có thể giữ nó bí mật hoặc không cố gắng để có được sự ủng hộ rộng rãi? (cho quyết định của nó về cách các quốc gia thành viên ba bên sẽ thực hiện các chính sách kinh tế và chính trị của họ như thế nào).

COOPER: Rồi, tôi đoán đó là "công việc” của báo chí để công khai nó.

NOVAK: Vâng, nhưng tại sao không phải là TT Carter đưa nó ra và nói với dân Mỹ rằng quyền lực kinh tế và chính trị (Mỹ) đang bị điều phối bởi Ủy ban (ba bên) gồm Henry Owen và sáu người khác? Sau tất cả, nếu chính sách (Mỹ) được làm dựa trên cấp độ đa quốc gia, người dân cần phải biết.

COOPER: TT Carter và Ngoại trưởng Vance đã liên tục ám chỉ điều này trong các phát biểu của họ. (không đúng sự thật).

KAISER: Nó chỉ là không thành vấn đề.

Nguồn: “Trilateralism: The Trilateral Commission and Elite Planning for World Management,” soạn bởi Holly Sklar, 1980. South End Press, Boston. Pages 192-3.
Cuộc phỏng vấn này "trượt khỏi tầm ngắm truyền thông chính thống", đó là để nói, nó đã bị bỏ qua, bị chôn vùi, bị ngồi lên và bị kiểm duyệt.

Chính sách kinh tế và chính trị Mỹ được vận hành bởi một ủy ban của Ủy ban ba bên - Ủy ban được tạo ra năm 1973 như 1 một "nhóm thảo luận không chính thức" bởi David Rockefeller và kẻ cộng tác của ông ta: Zbigniew Brzezinski, kẻ sau này làm cố vấn cho Obama trong những tháng tranh cử và trước khi ông ta nhậm chức nhiệm kỳ đầu tiên.

Để hít mùi vị cách tiếp cận Obama về đàm phán TPP, đây là một trích dẫn từ Đại diện thương mại Mỹ đầu tiên được bổ nhiệm của ông ta, Ron Kirk . Đáp lại phê phán, Kirk viết: "Tôi bị xúc phạm mạnh bởi khẳng định rằng quá trình (đàm phán TPP) của chúng tôi đã không được minh bạch và thiếu sự tham gia công khai."

Nhận xét này, khi đối diện với thực tế rằng các điều khoản xác đáng của TPP vẫn còn bí mật.

Jon Rappoport: Tác giả của bộ ba sưu tập gây nổ, The matrix revealed, Exit from the matrix, và Power outside the matrix, Jon là một ứng cử viên ghế quốc hội Mỹ ở California. Ông duy trì công việc tư vấn cho các khách hàng cá nhân, mục đích là để tăng cường năng lực sáng tạo cá nhân. Đề cử cho giải Pulitzer, ông đã làm việc như một phóng viên điều tra 30 năm, viết bài về chính trị, y tế và bảo hiểm y tế cho CBS Healthwatch, LA Weekly, Spin Magazine, Stern, và các tờ báo, tạp chí khác ở Mỹ và châu Âu. Jon giảng bài và hội thảo về chính trị toàn cầu, bảo hiểm y tế, logic, và về sức mạnh sáng tạo cho khán giả trên toàn thế giới. Bạn có thể đăng ký email miễn phí tại NoMoreFakeNews.com hoặc OutsideTheRealityMachine .



Washington và tập đoàn truyền thông tuyên truyền tràn ngập về Ukraina

Những dối trá, tuyên truyền và loại đạo đức giả bắt nguồn từ Washington, và lặp lại bởi tập đoàn truyền thông Mỹ liên quan đến các sự kiện ở Ukraina là choáng váng và buồn cười, nhưng thực tế là chúng xuất hiện để nhằm tạo điều kiện cho chính sách Mỹ trong cuộc đối đầu ngày càng tăng với Nga - đối đầu có thể dễ dàng lật cạnh thành cuộc xung đột quân sự trực tiếp, với những hậu quả quá khủng khiếp để định liệu.

Sẽ quá là mỉa mai nếu, 1/4 thế kỷ sau sự sụp đổ của Liên Xô và kết thúc gần nửa thế kỷ chiến tranh lạnh và hủy diệt lẫn nhau trong suốt thời kỳ đó, những người lính Mỹ và Nga không bao giờ chiến đấu chống lại nhau, còn bây giờ đã kết thúc với binh lính hai nước thực sự vào chiến trận với nhau, thay vì chỉ chiến đấu trong cuộc chiến ủy nhiệm.

Nhưng có lẽ sẽ không nói về khả năng khủng khiếp, hãy nói về khía cạnh hài hước của cuộc xung đột này.

Khi nói đến Mỹ, rất dễ thấy sự hài hước đáng cười.

Bắt đầu với Phó Joe Biden, một gã luôn luôn gặp khó khăn để nghiêm túc. Ý là, chúng ta đang nói về một chính trị gia mà năm 1988 đã phải từ bỏ tranh cử tổng thống khi ông ta bị bắt ăn cắp phát biểu cuộc đời của mình từ lãnh đạo Đảng Lao động Anh Neil Kinnock.

Tuy nhiên, Biden đã vượt qua ngay cả bản thân mình trong chuyến thăm đến Ukraina, khi ông ta kêu gọi Nga quay trở lại hỗ trợ phe ly thân Nga ở Đông Ukraina, nói rằng, “Không một quốc gia nào được đe dọa các láng giềng của mình bằng cách đổ quân dọc biên giới”.

Điều này từ kẻ có nhịp đập nhiệm kỳ tổng thống một quốc gia không chỉ có quân đội, hải quân và không quân dọc theo bờ phía nam đe dọa láng giềng Cuba, mà còn thực sự đóng quân trên lãnh thổ Cuba và không chịu rời đi, mặc dù đã hết hạn thuê từ lâu. Và Mỹ không chỉ đe dọa mà còn hành động, gần đây nhất là bằng cách cố gắng tài trợ cho hoạt dộng "Twitter" Cuba giả mạo gọi là ZunZuneo (Hummingbird Tweet), được thiết kế để cho phép và khuyến khích những kẻ hoạt động chống chính phủ Cuba cho các tổ chức nặc danh và tạo ra sự hỗn loạn.

Bộ ngoại giao Mỹ và NY Times đã cố gắng để khẳng định hình ảnh bên trái, 
một người đàn ông để râu là cùng một người với bên phải, được cho là 
chụp ở Nga nơi anh là được cho là trong lực lượng đặc nhiệm Nga. 
Thực sự - đó là chất lượng của các "bằng chứng" cho rằng Nga đứng 
đằng sau cuộc nổi dậy ở miền đông Ukraina.
  
Nhưng không chỉ có Biden.

Có Ngoại trưởng John Kerry, kẻ từng lên án Nga rất ủng hộ tự quyết của dân chúng Crimea tách ra khỏi Ukraina, khuyến khích trưng cầu dân ý, mà theo đó phần lớn dân chúng đã bỏ phiếu để Crimea tách khỏi Ukraina và sát nhập vào Nga. Kerry gọi hành động của Nga tại Crimea, có chút bạo lực không đáng kể, là "hành động xâm lược đáng kinh ngạc” và sau đó ông ta tiếp tục nói, “Nga đừng có, trong thế kỷ 21, hành xử kiểu thế kỷ 19 xâm lăng quốc gia khác với lý do hoàn toàn vu cáo”.

Whoa! Này nói với đầu gối bằng khuân mặt khắc khổ thẳng của ngoại giao hàng đầu một quốc gia trong những năm đầu của thế kỷ này đã xâm lăng không chỉ một mà hai nước - Iraq và Afghan - và ném bom bậy bạ vào họ, phá hủy cả hai và giết chết hơn một triệu người dân vô tội. Kerry chắc chắn biết, Mỹ thường xuyên phóng máy bay ném bom, UAV và tên lửa, ném bom và giết người (thường dân) ở các nước như Pakistan, Yemen và Somalia - tất cả các nước này thậm chí không có chiến tranh với Mỹ!

Còn TT Barack Obama, kẻ đã cáo buộc Nga “can thiệp vào Ukraina”. Tất nhiên, dưới sự lãnh đạo của ông Obama, Mỹ đã qua CIA và USAID, can thiệp vào Ukraina trong nhiều năm với số tiền $ 5 tỷ USD được sử dụng để hỗ trợ những kẻ vừa mới lật đổ chính phủ được bầu ở nước đó, và đang tích cực “can thiệp “theo cách tương tự ở Venezuela, tìm cách gây cuộc đảo chính chống lại Tổng thống được bầu ở đó, trong thực tế, Mỹ coi đó là “quyền Chúa cho” để can thiệp vào bất kỳ nước nào trên thế giới mà Mỹ không thích chính phủ cầm quyền, hoặc trong trường hợp một chính phủ tỏ ra có chút ít phản kháng nhất đường lối Mỹ.

Chính sách và hành động Mỹ, và các tuyên bố chính thức bảo vệ họ là rất lố bịch và không biết là nên cười hay nên khóc khi nghe những cái đống cứt nhão thích gây chiến nói.

Đáng buồn thay, họ thách thức lịch sử, tấn công tuyên truyền ngu dại và đáng khinh vào hành vi của Nga ở Ukraina lại được cho là nghiêm túc và không hề nghi vấn bởi tập đoàn truyền thông tay sai của đất nước này.

Thật vậy, tập đoàn truyền thông thậm chí còn đi xa hơn nữa. Lấy ví dụ New York Times. Tờ báo hàng đầu này đăng trên trang nhất 1 mẩu tin tức của một kẻ báng bổ trơ trẽn nhất, Michael R. Gordon, đồng tác giả với Andrew Kramer. Bài báo này tuyên hổn hển rằng phân tích hình ảnh thu được từ báo "chứng minh" rằng binh lính lực lượng đặc nhiệm Nga, người đã bị chụp ảnh hành động ở Chechnya và Gruzia các năm trước đây giờ có thể thấy ở miền đông Ukraina đóng giả là người Ukraina thân Nga. Không bao giờ để tâm rằng bức ảnh mờ của người đàn ông có râu trong bộ trang phục chứng tỏ là "bằng chứng" có thể gần như là bất cứ ai, hoặc có thể là người Nga sống ở Ukraina hoặc những người cựu chiến binh quân đội Nga đã đến đó như tình nguyện viên. Gordon, kẻ trước đó đóng một vai trò đặc biệt ghê tởm trên tờ báo trong việc thúc đẩy, cùng với kẻ đáng ghét Judith Miller, trong việc dối trá của Bush/Cheney về cáo buộc vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq năm 2002-2003. Hai kẻ này cũng lờ đi rằng, có lính đánh thuê Mỹ (chủ yếu là cựu binh sĩ lực lượng biệt kích Mỹ) hiện đang làm việc cho “chính phủ” Ukraina - gần như chắc chắn thuộc biên chế của một cơ quan Mỹ này khác.

Các biên tập viên tờ Times, năm 2004, đã buộc phải công khai khiển trách Miller và Gordon vì các bài báo tuyên truyền kém chất lượng của họ về WMD Iraq, mặc dù họ không nêu tên 2 phóng viên. Miller cuối cùng đã bị buộc phải rời khỏi tờ báo, nhưng Gordon đã được phép ở lại, và dường như tiếp tục vai trò của mình như là nhân viên tuyên truyền.

Các biên tập viên tờ Times cũng đã buộc phải công khai - dù ngượng ngùng giấu nó tận trang 9 - một bài viết ngược bài trang một “độc quyền” trước đó - thừa nhận rằng các bằng chứng hình ảnh của lực lượng đặc nhiệm Nga hoạt động tại Ukraina thực sự là không có gì là như vậy. Trong thực tế, một trong những hình ảnh quan trọng, được cho là chụp ở Nga, binh lính mặc trang phục, thực ra được chụp ở miền đông Ukraina, thực sự là chụp ở Ukraina, do đó không chứng minh gì cả. Người chụp ảnh tự do đã chụp được những hình ảnh được cho là người Nga đứng ra thông báo về địa điểm thực sự đã chụp nó, và than phiền rằng lao động của mình đã bị chiếm đoạt mà không có sự cho phép của ông (do Bộ Ngoại giao Mỹ, để thúc đẩy chiến dịch bóp méo thông tin đặc biệt này).

Dĩ nhiên chẳng có lời xin lỗi nào  hay lời rút lại nào từ Gordon và Kramer (trên thực tế, họ lập lờ trong sự xác nhận bởi đổ lỗi không thể thẩm tra của Jen Psaki Bộ Ngoại giao rằng, “đã có sự đáng kể trong phân loại và không phân loại thông tin dẫn đến Mỹ và các đồng minh phương Tây buộc tội Nga đã can thiệp vào miền đông Ukraina”.) Cũng không có ngoại trưởng Kerry, kẻ đã người đã tích cực lấy bức ảnh chụp làm “bằng chứng” cho các lực lượng Nga ở miền đông Ukraina – nói lời xin lỗi.

Không có Kerry hay Obama xin lỗi về tuyên bố, dựa vào một số tờ rơi giả mạo kém cỏi ở miền đông Ukraina kêu gọi người Do Thái đi đăng ký với chính quyền địa phương, giống như  một đăng ký của phát xít dành cho người Do Thái, giờ câu chuyện xấu xa này cũng đã được chứng minh là việc khiêu khích của cánh hữu Ukraina (có thể chúng làm việc này với sự trả tiền của Mỹ).

Như đã nói, tất cả sự lừa dối và bóp méo thông tin vụng về này là đáng cười, ngoại trừ những gì các tên côn đồ nằm ở Washington và hãng tin tức của Mỹ đang cố gắng để sửa soạn cho người Mỹ một hành động quân sự tại Ukraina, đất nước nằm ngay cạnh Nga. Đó là đang nói về hành động quân sự chống lại Nga - một đất nước có lực lượng hạt nhân ghê gớm, mang sức mạnh chết người.

Nghĩ về điều này một cách khách quan. Giả sử có một cuộc nổi loạn ở Cuba, được hỗ trợ bởi hàng tỷ đô la bí mật do Nga cung cấp, và rằng chính phủ của Raul Castro, đã cố gắng để xích lại gần với Mỹ, bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính thân Nga. Giả sử nữa rằng Mỹ định khuyến khích một số người Cuba sống trong vùng lân cận căn cứ hải quân Mỹ ở Vịnh Guantanamo ly khai khỏi Cuba, và bỏ phiếu của họ để sát nhập vào Mỹ. Làm thế nào để người Mỹ tin rằng Mỹ sẽ phản ứng nếu Nga sau đó kêu ca ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và Tổ chức các nước châu Mỹ rằng Mỹ đưa lực lượng vũ trang đặc nhiệm vào Cuba để cố chiếm lấy 2/3 khác của hòn đảo ly khai khỏi Havana? Làm thế nào nếu Nga cũng cung cấp "viện trợ không sát thương” cho chính phủ mới đảo chính và cũng gửi một số tàu chiến đến tuần tra trong eo biển giữa Cuba và Florida trong một nỗ lực “chứng tỏ quyết tâm”?

Đúng! lập trường Mỹ ở Ukraina là buồn cười, nhưng nó cũng là đáng sợ ở sự vô lý của nó, bởi vì nếu chiến thuật Nói láo lớn này được tiến hành và người ta thấy nó là nghiêm trọng, điều đó có thể dẫn đến thảm họa cuối cùng: một cuộc chiến tranh hạt nhân!



Dave Lindorff http://thiscantbehappening.net/node/2279 

Obama thất bại trước Nga ở Crimea

Hai con tàu chiến Mỹ đứng cạnh Crimea, 600 nhân viên và binh lính, an ninh và tình báo Mỹ đã không hề biết Nga bất ngờ và bí mật chuyển quân và làm chủ cả bán đảo Crimea trong ngày. Đó là 1 thất bại tình báo cay đắng.

Và thất bại ngoại giao.

Và mất uy tín.

Báo chí Mỹ cho rằng những lời Obama đe dọa Nga là trống rỗng!

Các tờ báo kêu gọi Obama có hành động đáp trả rõ ràng. Răn đe của Obama rằng Nga sẽ phải trả giá cao vì hành động của mình đối với Ikraina, không làm cho các nhà báo Mỹ có ấn tượng – theo truyền thông Nga BBC.

Trên Fox News TV, cây bình luận bảo thủ Charles Krautkhammer tuyên bố bị sốc với “phát biểu mềm mại” của Obama. "Trên thực tế, ông ta nói như thế thì chúng ta sẽ chẳng làm gì”, nhà bình luận này phát biểu.

"Putin hành động, còn Obama tuyên bố trịnh trọng", - nhà bình luận bảo thủ khác là William Kristol trên tờ Weekly Standard cũng nói như vậy. Ông nhấn mạnh Obama đã chẳng chỉ ra cái giá nào Nga phải trả vì hành động can thiệp. “Tôi nghi ngờ rằng TT Putin chẳng phải đặc biệt lo lắng bởi phát biểu nghiêm trang của cộng đồng quốc tế về những hậu quả tương lai nào đó”. Kristol viết.

Kristol tiếp tục: “Liệu Obama có buộc được Gruzia vào NATO và liệu Obama có tiến tới sắp đặt được Ukraina vào môi trường an toàn? Liệu Obama có hỏi các thành viên chính quyền của mình rằng có thể có sách lược nào để bắt đầu làm sói mòn uy tín Putin trong nước và quốc tế? Hay tất cả rút gọn thành một cuộc nói chuyện, thành chẳng có tác dụng?”

Nhớ là ngày 1-3, Obama đã bỏ qua cuộc họp với các quan chức Nhà Trắng thảo luận về tình hình Ukraina.

Yulia Yoffe, tờ tạp chí New Republic viết: "Chẳng có Mỹ, hay NATO có khả năng ngăn chặn tình trạng này. Họ đã chứng tỏ trong trường hợp Georgia, bởi chẳng có ai muốn khởi động chiến tranh với nước Nga hạt nhân, và chính xác như thế. Khi mà Washington và Brussels đang dốc hết hơi sức và than vãn toan tính về đường hướng, chủ quyền và ngoại giao, Russia sẽ làm điều mà họ cho là cần thiết, và chúng ta tuyệt đối chẳng thể ngăn cản ông ta bất cứ điều gì".

Kêu gọi Obama hành động cương quyết hơn không chỉ là các tờ báo bảo thủ mà cả tự do. Washington Post đăng bài viết với cái tên “Lên án hành động Nga ở Crimea là không đủ".

Chính quyền Mỹ cân nhắc các biện pháp tác động đến Nga, như hủy bỏ hội nghị G8 vào mùa hè, ngừng đối thoại về thỏa thuận tự do thương mại, loại Nga khỏi nhóm G8 hay chuyển tàu chiến đến Nga. Và mới đây Obama mới tuyên bố dừng chuẩn bị hội nghị G8 diễn ra vào tháng 6 ở Sochi.






Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...