Hiển thị các bài đăng có nhãn tư bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tư bản. Hiển thị tất cả bài đăng

TROTSKY - CON QUỈ CÁCH MẠNG PHỤNG SỰ CHỦ TÂY


Lev Davidovich Trotsky hay còn gọi là Bronstein, là nhân vật lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nga quái gở đến mức hắn ta được phong cho cái tên lóng - "con quỉ cách mạng". Thậm chí là ngày nay, rất ít ai dám cả gan đưa ra đánh giá tích cực về hoạt động của Trotsky, kẻ luôn luôn thể hiện mình chống lại đất nước, là nhà cách mạng Nga.

 1. Chủ Tây đỏ

Cha đẻ “chủ nghĩa xã hội khoa học” Marx đã dạy rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể giành thắng lợi trên qui mô toàn cầu. Và điều đó xảy ra khi chủ nghĩa tư bản thế giới cạn kiệt tất cả khả năng để phát triển xa hơn.

Các môn đệ của Marx ở Nga nhận định cục diện này theo các khác. Các nhà dân chủ-xã hội ôn hòa (Mensheviks) tin rằng phát triển CNTB là mục tiêu chính. Theo họ, cách mạng Nga cần hạn chế mình trong khuân khổ cải cách dân chủ-tư sản. Và chỉ trong tương lai xa, sau khi đã thành công tư bản hóa, mới có thể nói về thay đổi CNXH.

Ngược lại, các nhà cách mạng Marxists (Bolsheviks), đứng đầu bởi Lenin, nhìn thấy trong sự yếu ớt của CNTB Nga ưu thế to lớn. Lenin quả quyết rằng, giai cấp vô sản phương tây sẽ khó thực hiện được bước đầu tiên hướng tới cuộc cách mạng XHCN, bởi các đất nước "tiên tiến" phương tây đã đạt đến mức độ phát triển cao của CNTB. Vấn đề khác với Nga. Nga đã có bước tiến phát triển CNTB nào đấy, nhưng không ở mức độ hoàn toàn giống phương tây. Vì vậy Nga là “mắt xích yếu” trong chuỗi chủ nghĩa đế quốc thế giới.

Lenin đã hy vọng vào một điều là, thợ thuyền Nga, trong liên minh với giai cấp nông dân nghèo đói, sẽ bắt đầu cuộc cách mạng thế giới và do vậy chính điều này sẽ truyền cảm hứng cho giai cấp vô sản phương tây tiến bộ. Và do vậy, sẽ dẫn tất cả "đến thắng lợi cuối cùng".

Trotsky chiếm vị trí đặc biệt trong vấn đề này. Hắn ta không nhiều tin tưởng vào giai cấp tư sản Nga và khả năng của họ đem sự phát triển CNTB đến tận cùng. Hơn nữa, “con quỉ” này tiên đoán năm 1906: “Ở đất nước lạc hậu về kinh tế, giai cấp vô sản có thể giành chính quyền sớm hơn ở đất nước CNTB đã phát triển… cách mạng Nga, theo quan điểm của tôi, những điều kiện như thế, mà dưới chúng, chính quyền có thể (khi cách mạng thắng lợi – là cần thiết) được chuyển giao vào tay giai cấp vô sản, trước khi giới chính trị của chủ nghĩa tự do tư sản có được khả năng triển khai bậc thiên tài nhà nước ở dạng hoàn toàn.” («Итоги и перспективы»)

Nếu khái niệm “cách mạng” được hiểu theo nghĩa tiến bộ đột biến, thì cả Lenin và Trotsky đều là phản cách mạng, đẩy lùi tiến bộ xã hội. Nga sau hàng thế kỷ chiến tranh liên miên với Thụy Điển, Anh, Pháp, Thổ, Đức đã yếu đi trông thấy và tụt hậu, đặc biệt là sau WW-I, đó là thời cơ để làm cách mạng. Thực tế đúng như vậy, nước Nga sau CMT10 bị thụt lùi nhiều chục năm, loạn lạc nội chiến liên miên.

Giống Lenin, Trotsky thừa nhận cách mạng XNCH hoàn toàn có thể bắt đầu ở Nga. Nhưng về phong trào XNCN ở phương tây, Lev Trotsky lại cảm thấy hoài nghi nghiêm trọng – như rõ ràng về sau này, quan điểm của hắn ta là biện bạch hoàn toàn. Trotsky quyết định trông cậy chủ yếu, không vào giai cấp vô sản phương tây mà vào tư bản phương tây. Hắn ta tin tưởng, hoàn toàn có thể ký kết một giao ước 2 bên cùng có lợi với tư bản phương tây. Giới tài phiệt phương tây cần ủng hộ cuộc cách mạng XHCN ở Nga, các nhà lãnh đạo cuộc cách mạng này khi giành được chính quyền, cần chiều lòng phương tây nhiều sự đền đáp khác nhau.

Hơn nữa, Trotsky bị dẫn dắt bởi giới tư sản “tiến bộ” phương tây, những kẻ muốn xóa bỏ biên giới quốc gia và tháo dỡ chủ quyền dân tộc.

Lập luận của hắn ta xuất phát từ một điều là, quốc tế hóa tư bản và toàn cầu hóa thế giới sẽ đẩy nhanh sự phát triển của CNTB, và do đó sẽ tăng tốc quá trình cạn kiệt của nó. Vào lúc đó Nga, bị dẫn dắt bởi các nhà XHCN, một cỗ máy giống như thể “chiến binh đỏ” của phương tây, bảo vệ phương tây khỏi các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và các “phản ứng”. Ngoài ra, Nga như thế là nguồn tài nguyên tài chính và thiên nhiên cho các nước châu Âu. Bản thân họ, theo Trotsky, sẽ cần phải hợp nhất vào thành một liên bang thống nhất: "Liên hiệp các quốc gia châu Âu là khẩu hiệu của thời đại cách mạng mà chúng ta mở đầu trong đó. Bất cứ chuyển biến nào hay hoạt động quân sự nào sau này; bất kể hành động ngoại giao nào mang lại rốt cục là chiến tranh hiện tại; bất kể điều gì đã diễn ra trong phát triển của phong trào cách mạng thời kỳ gần đây, khẩu hiệu Liên hiệp các quốc gia châu Âu sẽ được hưởng trong mọi trường hợp tầm quan trọng lớn lao, như công thức chính trị đấu tranh của giai cấp vô sản châu Âu giành chính quyền. Chương trình này phản ánh sự bày tỏ của mình trước thực tế là, các quốc gia dân tộc sẽ phải tự mình sống còn – như một khuôn khổ để phát triển các lực lượng sản xuất, như nền tảng để đấu tranh giai cấp và, do vậy, như hình thái nhà nước chuyên chế vô sản”. («Программа мира»)

Nga cũng đóng vai trò chất xúc tác của phong trào cách mạng ở phương tây."Theo Trotsky, ngoại vi của trung tâm cách mạng hóa – ông B. Mezhuev viết. –Nhưng khi quan hệ đẳng cấp xưa cũ giữa Nga ngoại vi và trung tâm vẫn tiếp tục và thậm chí còn mạnh mẽ hơn – Trung tâm tiến bộ của cách mạng thế giới lập lại vị thế thống trị của mình”. («В объятиях большевизма»)

 2. Bậc thầy "quỉ sứ" – thiên tài tài chính

Tư tưởng này của Trotsky, phần lớn là vay mượn từ Alexander Parvus (Gelfand) – nhà dân chủ-xã hội Do Thái Đức và, đồng thời là nhà buôn lớn, thành đạt trong buôn bán lương thực và súng đạn. Parvus là đại diện cho lợi ích của một bộ phận các nhà tư sản, những người chủ trương ra sức phát triển thương mại toàn cầu – kể cả bãi bỏ mọi chính sách bảo hộ thuế quan. "Hàng rào thuế quan đã trở thành sự cản trở đối với tiến bộ lịch sử của thống nhất văn hóa các dân tộc – nhà buôn tư sản-CNXH tuyên bố - Chúng đẩy thêm xung đột chính trị giữa các quốc gia."

Nhà sử học V. Emelyanov viết trong cuốn sách "Trotsky. Hoang đường và tính cách - Троцкий. Мифы и личность ": "Có cảm tưởng là kẻ đại diện cho giới tài chính có ảnh hưởng Parvus (và, chắc là ông ta không phải một mình) đã làm mọi thứ để có thể để tiến đến quyền lực của giới dân chủ-xã hội ở các nước phương tây mà không làm sụp đổ hệ thống CNTB. Tuy nhiên, khi biểu thị lợi ích của nhóm tài chính quốc tế, ông ta rõ ràng đã quan tâm đến một điều là những thay đổi xã hội trên thế giới sẽ dẫn đến một thực tế giai cấp tư sản dân tộc của các quốc gia phát triển sẽ bị đặt dưới sự kiểm soát của tổ chức đa quốc gia và độc quyền quốc tế hợp nhất châu Âu. Cuối cùng, lịch sử thế kỷ XX ở Tây Âu, đã đi theo chính con đường này, nó đã được Parvus vạch ra."

Đồ án tạo ra một trung tâm cách mạng nào đấy là thuộc về Parvus, nó sẽ được thu nhận vào thành phần được cai quản của kinh tế thế giới – với cái giá phải trả bằng tài sản quốc gia của đất nước nào đó.

"Parvus, từ vị thế tài phiệt, tin tưởng cách mạng thế giới là có thể với một điều kiện: “Tổng hành dinh" của cách mạng này cần phải nằm dưới sự kiểm soát của hệ thống tài chính toàn cầu, nó, đến lượt mình, sẽ cho phép độc quyền và áp dụng hệ tư tưởng Marxist - Vladimir Krivobokov viết – Để đạt được mục đích này, cần phải bắt đầu tiến hành cách mạng ở một đất nước, có thể là giàu có, biến thành tiền mặt tất cả tài sản quốc gia của nó, và nhận được, vì thế, một lượng khổng lồ không thể tính đếm được, nhập nó vào hệ thống tài chính toàn cầu của mình. Trong khi thực dụng đến mụ mẫm đầu óc, Parvus cho rằng, không cần thiết phải kiến thiết lại hệ thống này một cách tuyệt đối, chỉ cần điều chỉnh nó theo mục tiêu của mình, điều đó hoàn toàn đủ để nắm quyền kiểm soát nó. Có thực tế là hệ thống tài chính thế giới vào lúc định hình độc nhất bởi nhà nước tư bản và nhằm phục vụ thuần túy CNTB, rất ít lo lắng đến chủ nghĩa Marxist của Parvus.” («Финансовый гений Ленина»)

Như có thể thấy, Parvus tỏ ra chống lại thủ tiêu CNTB – ít nhất là trong tương lai gần. Là tư sản, ông ta cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất là đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa tư bản. Còn như một nhà xã hội, ông ta muốn “đào” con kênh khổng lồ để xuất khẩu chủ nghĩa Marxism. Đối với mục đích này, Nga là kẻ được chọn.

3. Đứng cùng tài phiệt – vì CNXH


 Ảnh: từ trái sang phải: Alexander Parvus, Leon Trotsky và Leon Deutsch


Parvus và Trotsky đã cố gắng hiện thực hóa dự án toàn cầu hóa cánh tả năm 1905, khi Nga đang quằn quại trong lửa, "cuộc cách mạng Nga đầu tiên". Cặp đôi ngọt ngào này đã có thể khống chế phong trào Xô Viết ở St. Petersburg. Sử dụng nguồn tài chính và quan hệ của mình, Parvus đưa Trotsky làm phó chủ tịch Xô Viết St. Petersburg, còn chính ông ta làm ủy viên Ban chấp hành. Nằm dưới sự bảo trợ của Xô Viết là “Tuyên ngôn tài chính” nào đấy, trong đó kêu gọi bằng mọi cách phải phá hoại đồng rub Nga: “Phải từ chối chi trả nợ nần, cũng như tất cả các khoản chi vì lợi ích nhà nước nói chung. Khi ký kết bất cứ giao dịch nào, kể cả tiền lương, chi trả cần phải thực hiện bằng vàng, và trong trường hợp không quá 5 rub, bằng tiền xu đủ trọng lượng. Tất cả tiền gửi cần phải rút khỏi các ngân hàng tiết kiệm và từ ngân hàng nhà nước phải trả bằng vàng.”

Rõ ràng là trong trường hợp này, Parvus và Trotsky đã thể hiện mình như kẻ phát ngôn của đầu sỏ tài phiệt quốc tế, tìm cách lật đổ chế độ quân chủ Nga – để thiết lập sự kiểm soát lên tài sản nước Nga.

Chúng hy vọng sử dụng sức mạnh của giới tài phiệt phương tây vào mục tiêu xã hội hóa nước Nga. Nói theo cách khác, một giao kèo đồ sộ đã được chuẩn bị.

Tuy nhiên, giao kèo này đã bị thất bại – Quân đội Nga và cảnh sát. Parvus và Trotsky đã bị bắt và bị kết án đày ải, nhưng cả 2 đã trốn thoát. Sau này, cả 2 tiếp tục sự nghiệp, nhưng cho đến WW-I, Trotsky bắt đầu trò chơi riêng – dựa giẫm vào những kẻ bảo trợ hùng mạnh hơn nhiều.

Như thế, có thể khẳng định một cách hoàn toàn tin cậy, "con quỉ cách mạng" đã tham gia vào các hoạt động của Hội Tam điểm (Masons). Có thông tin quan trọng về việc này từ thành viên Hội Tam điểm Berlin "Ánh sáng vĩ đại phương Bắc" S. Sokolov. Trong bức thư gửi cho chủ nhân A. K. Eluhenu (12 tháng 3-1932), ông ta xem xét một danh sách các cá nhân, những kiều dân lưu vong cánh hữu từ Nga đối với Masons: "Như phân tích cho thấy, danh sách được sắp xếp theo công thức như sau. Ở đây có một số lượng được biết những cái tên Masons thực sự, bổ xung vào chúng là những cái tên khác của những nhà hoạt động lưu vong và những cá nhân, không thuộc tổ chức Masons, và tất cả đều là những cái tên của các nhân vật Bolsheviks đáng chú ý, còn sống hay đã chết: Lenin, Yankel Sverdlov, Maxim Gorky, Zinoviev... Chúng ta nói rõ một cách cương quyết và dứt khoát rằng tất cả những Bolsheviks đó không thuộc về và đã không thuộc về Masons (ít người Nga hơn nhiều). Theo nghĩa này chỉ có một ngoại lệ... Trotsky là một đã từ lâu... thành viên bình thường của một tổ chức Tam điểm Pháp, ở đây chiểu theo Điều lệ đã bị khai trừ một cách máy móc vì chuyển đến đất nước khác mà không báo tin tức và vì không nộp phí hội viên theo yêu cầu."

Nhưng Trotsky có thật sự thôi là Freemason? Phân tích hoàn cảnh khai trừ của hắn ta, nhà sử học O. Soloviev chú ý đến một thực tế là "không nộp hội phí thường không có ngoại lệ, nhưng, cái gọi là bức xạ hay khai trừ tạm thời kẻ vi phạm ra khỏi hoạt động của hội này cho đến khi trả hết phí thì khi đó tất cả quyền lợi được khôi phục. Từ đây đi đến chỗ cho rằng Trotsky vẫn là hội viên Mason không đến nỗi hết hy vọng được trợ giúp và chi viện cho công việc của mình. («Русские масоны»)

Hội Tam điểm tập hợp tất cả các bề trên dân chủ phương tây. Do đó, không có gì ngạc nhiên là chính chế độ dân chủ này đã giúp đỡ Lev Trotsky nhiều nhất có thể. Trong các năm 1915-1916 hắn ta sống ở Pháp, nơi đây hắn tham gia tích cực vào việc phát hành tờ báo dân chủ-xã hội “Lời lẽ của chúng ta”. Tờ tin tức này có quan điểm quốc tế cấp tiến và bại chiến luận. Do đó, đại sứ Nga tại Paris A. P. Isvolsky đã liên tục yêu cầu phía Pháp đóng cửa tổ chức rõ ràng là không thân thiện với Nga này. “Chỉ sau khi phát hiện 2 bản sách ở binh lính viễn chinh Nga, những kẻ không muốn ra mặt trận, và lời kêu gọi của đại sứ ngày 14-9-1916, chính phủ Pháp mới có quyết định trục xuất Trotsky khỏi đất nước và đóng cửa tờ báo “Lời lẽ của chúng ta” - O. Soloviev viết – nhưng hắn ta vẫn ở lại và tìm kiếm sự cho phép để sang Thụy sĩ hoặc Thụy điển, trong khi gia đình hắn không chịu ra đi dưới sự tháp tùng của 2 sĩ quan cảnh sát sang Tây ban nha. Hắn ta được sở hiến binh Pháp biểu thị sự nhã nhặn, căn hộ của nhà cách mạng “nguy hiểm” thậm chí không bị ngay cả một cuộc khám xét bình thường, chỉ niêm phong cánh cửa. («Русские масоны»).

Cuối cùng, Trotsky rời “Thế giới cũ” đến Liên hiệp Bắc Mỹ (the North American United States - NAUS). Có những bằng chứng ở đó hắn được tuyển mộ bởi điệp viên tình báo Anh và Mỹ B. Wiseman.

Nhưng Trotsky không ở Mỹ lâu - Nga đang có cuộc cách mạng chống quân chủ, được tổ chức với sự can dự sống động của những “người anh em” Hội Tam điểm của Trotsky. Thời của ngôi sao "Quỉ cách mạng" đã điểm.

Trotsky từ Mỹ theo con tàu "Christian-fiord" để về Nga. Trên đường đi, hắn ta bị Cục Canada của tình báo Anh bắt vì nghi ngờ làm gián điệp cho Đức, Trotsky bị giam một tháng trong nhà tù giành cho tù binh chiến tranh Đức.

Tuy nhiên, điều kiện giam giữ hắn rất nhẹ nhàng. Có ý kiến cho rằng người Anh khi đó đã thực hiện “hành động che đậy” – để tương lai không còn ai có thể nghi ngờ hắn đã hợp tác với người Anh. Sau tất cả, người Anh đã giúp hắn… Cuối cùng, Trotsky đã được thả, và thế là "nhà cách mạng rực lửa" bình yên vô sự đến Nga.
 

4. Nhà kiến thiết nội chiến


Thiệt hại của Xô Viết trong cuộc nội chiến dai dẳng sau WW-I còn lớn gấp bội thiệt hại WW-I.

Trong vai trò mới, Trotsky đã làm mọi thứ để gây cuộc tàn sát huynh đệ tương tàn ở Nga. Ví dụ ngày 25-3-1918, hắn ra mệnh lệnh khiêu khích giải tán quân đoàn Czechoslovak. Và điều đó làm cho quân đoàn này nổi loạn, sau đó, chính quyền Xô Viết bị lật đổ trong nhiều vùng rộng lớn ở Siberia, Urals và Volga. Đến đây, ở Nga bắt đầu cuộc nội chiến thực sự - trước đó, các lực lượng chống Bolshevik không có nổi một tiến bộ nào đáng kể.

Mùa xuân 1918 vẫn có thể tránh được va chạm qui mô lớn. Lenin khi đó suy tính về một sự nhượng bộ với giới chủ, bài viết của ông ta chứng tỏ điều này: "Những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền Xô Viết". Nhưng cuộc chiến tranh nổi loạn đã không thể tránh được.

Ở đây Trotsky đã hành động theo lệnh của Đồng minh. Quyết định về nổi loạn đã được tiếp nhận bởi "bạn đồng minh" tháng 12 năm 1917 ở Yassa. Nhưng bon chúng vẫn chờ đợi một thời gian với hy vọng rằng Trotsky có khả năng lôi kéo Nga về phía Đồng minh. Và khi kế hoạch hoàn toàn đổ vỡ, cuộc khiêu khích qui mô lớn đã được tổ chức, đẩy Nga vào cuộc chiến tranh kéo dài.

Và Trotsky đã nỗ lực để cuộc chiến tranh này kéo dài đến mức có thể. Hắn, cũng như phe dân chủ phương tây càng làm suy yếu Nga, càng dễ để cho Nga phải lệ thuộc vào phương tây. Có mọi cơ sở để tin rằng, cuộc nội chiến đã có thể kết thúc vào cuối 1919. Tuy nhiên, Trotsky, cùng các "thiên tài quân sự" của mình không cho phép điều này.

Mùa xuân 1919, Hội đồng dân ủy tung nhiều lực lượng về phía tây, trên hướng Carpathians – bề ngoài là để giúp đỡ chính quyền Xô Viết Hungaria. Nhưng một phần là chiến đấu với Bạch vệ. Như thế, tháng 5-1919, 60 ngàn Hồng quân buộc phải chống trọi với 100 ngàn quân Denikin. Bạch vệ khi đó chiếm mất Tsaritsyn (Volgograd) và Ekaterinoslav (Dnipropetrovsk), Trotsky xin từ chức, điều chưa từng xảy ra. Hơn nữa, hắn nói rằng trung tâm cách mạng thế giới bây giờ đã chuyển từ Nga sang Ấn Độ, có thể ném 30-40 ngàn kỵ binh đi đâu.

Trotsky rõ ràng muốn làm cho Hồng quân sa lầy trong cuộc đối đầu với Bạch vệ. Vì thế hắn quăng bừa “sự ngu ngốc” về Ấn Độ, tạm thời ngưng nguồn cơn hăng hái của mình khỏi “dự án Nga”. Dĩ nhiên, không cần suy nghĩ nghiêm chỉnh về âm mưu của nhà thuyết khách về kỵ binh đỏ Ấn Độ. Điều hắn quăng ra là ngu ngốc, nhưng hắn không ngu.

Có câu chuyện khác: "Trotsky chống Makhno - Троцкий против Махно", tháng 6-1919, "Quỉ cách mạng" buộc tội Makhno rằng họ phát hiện Bạch vệ trong vùng 100 km phía trước. Mặc dù đội du kích huyền thoại Batko chiến đấu với Bạch vệ rất kiên cường – sau 2 tuần cuối tháng 5 bị thua, Makhno bị Trotsky tuyên bố phạm tội và bị dừng cung cấp đạn dược, quân trang. Mệnh lệnh của Trotsky được in đặc biệt và phát tán, làm Hồng quân mất tinh thần, "hậu quả của Trotsky làm mất Ukraine, và Bạch vệ bắt đầu tấn công Mat-xcơ-va, mặc dù lẽ ra đã có thể phản công và đẩy lùi họ xuống phía nam.” (Р. К. Баландин. «Маршал Шапошников. «Военный советник вождя»)

Trotsky thường được mô tả như kẻ cuồng tín của cách mạng thế giới, sẵn sàng tham gia vào trận chiến chống CNTB phương tây. Nhưng thực sự, trotsky đã làm mọi thứ để ngăn chặn cuộc chiến tranh như vậy. Dường như, chính hắn đã loan tin, theo kênh nước ngoài của mình về việc chuẩn bị "cách mạng Đức" năm 1923, mà theo kế hoạch sử dụng 200 ngàn Hồng quân. Biết là, kẻ được Trotsky giao phó E. Behrens có tiếp xúc thân cận với giới Mason di cư và một kẻ theo phái tự do là Guchkov. Vì một số lý do, hắn ta cần đàm đạo với phe Guchkov về khả năng hỗ trợ Hồng quân – nếu như những kẻ di cư quan tâm gì đó về việc này. Thực tế là Trotsky đã để lộ thông tin cơ bản cho những kẻ bảo trợ ở phương tây của mình, và ngoại phạm trước các đồng nghiệp ở của hắn ở Kremlin.

5. Nhà lobby tư bản nước ngoài


Mặt khác, Trotsky lại thường chứng tỏ với Quốc tế cộng sản và chỉ huy của ông ta, Grigory Zinoviev, nằng nặc đòi xuất khẩu cách mạng sang châu Âu và châu Á. Ví dụ hắn tuyên bố: "Tiềm năng cách mạng Xô Viết ở phương Đông đối với chúng ta hiện giờ đã trở thành lợi thế chủ yếu như một đồ vật quan trọng trao đổi ngoại giao với Anh."

Hơn nữa, "con quỉ cách mạng" rất tích cực đóng góp làm giầu cho tư bản phương tây. Vào đầu những năm 20 được đứng đầu Dân ủy ngoại giao, hắn ta đã hiện thực hóa giao kèo, điều đó hết sức có lợi cho các trùm sò phương tây.

Theo chỉ đạo của Trotsky, đầu máy xe lửa được mua số lượng lớn từ Thụy Điển, 1000 đầu máy với giá 200 triệu rub vàng, 1/4 lượng vàng Xô Viết có khi đó. Vì một số lí do, người ta đã chọn nhà máy không có khả năng chế tạo 1000 đầu máy. Tiền vàng được trả là để xây dựng nhà máy đóng đầu máy hơi nước. Và năm 1921 chỉ mua được 50 đầu máy. Cuối cùng, sau 5 năm chỉ có 500 đầu máy được giao, còn tiền vẫn trả đủ. Hóa ra giá quá đắt? Không có gì là rõ ràng vào lúc ấy. («Кто заставил Гитлера напасть на Сталина»)

Dường như là tiền vàng cũng chẳng phải rơi hết vào tay phía Thụy Điển. Trotsky đơn giản là đã cúng tiền cho phong trào dân chủ phương tây. Thậm chí nó còn được tuyên là trả nợ cho vua Thụy Điển, điều mà Bolsheviks đã từ chối tại Hội nghị Genoa 1922.

Trotsky có quan hệ thân cận với giới tài phiệt nước ngoài – một phần là qua ông bác của hắn, nhà băng Stockholm A. Zhivotovsky, nhà băng này hóa ra lại hợp tác với nhà băng đầy thế lực "Kuhn, Loeb & Co". Cầm đầu thế lực nhà băng này là DO THÁI J. Schiff, kẻ đã làm rất nhiều điều để “cách mạng Nga” thắng lợi.

Khi đứng đầu Ủy ban nhà nước về chuyển nhượng, Trotsky đã làm mọi cách để giúp giới đầu cơ cơ nước ngoài làm nghèo Nga. Hắn cương quyết đứng về phía A. Khammera, kẻ có công ty "Alamerika" chịu trách nhiệm kiểm soát ngoại thương của Hội đồng dân ủy. Hóa ra, Khammera đã xóa sạch nhiều tài khoản chi tiêu khổng lồ của nhiều cá nhân, cung cấp hàng ngoại nhập giảm giá không có lý do cho bạn bè đối tác và chuyển tiền cho bên thứ 3. Nhưng Trotsky không quan tâm – hắn cương quyết ủng hộ Khammera. Bố của Khammera là nhà XHCN Mỹ mà “con quỉ cách mạng” đã làm việc cùng khi vẫn còn ở New York.

Còn khi Trotsky lại phải lưu vong một lần nữa, giới tư bản đã không bỏ rơi kẻ “kết tội” mạnh mẽ - vị khách hàng của mình. Báo chí tư sản giành trang để hắn viết bài. "Con quỉ cách mạng" viết bài hung dữ thậm chí cả trên tờ báo phản động của quí ông Beaverbrook, lập luận rằng hắn dường như chẳng có tiền. Tuy nhiên, kẻ hâm mộ hắn nhiệt thành và viết tiểu sử Trotsky là I. Deutscher thừa nhận nghèo túng không bao giờ đe dọa thần tượng của hắn. Sống ở đảo Hoàng tử, hắn có thu nhập 12-15 ngàn đô la một năm. Năm 1932, tờ báo "Saturday Evening Post" trả hắn 45 ngàn đô la cho quyển sách "Lịch sử cách mạng Nga".

Vấn đề không phải là tiền bạc. Cho dù Trotsky là kẻ hùng biện cánh tả, thì vấn đề chính là ở chỗ hắn cho rằng Nga Xô Viết không chống lại tư bản, mà là phải hòa nhập vào trong hệ thống đó, nuôi dưỡng phương tây bằng tài nguyên Nga và tư tưởng Marxist. Năm 1925, hắn đề xuất kế hoạch công nghiệp hóa đất nước Xô Viết mà trong đó nền công nghiệp hiện đại dựa trên nhập khẩu dài hạn trang thiết bị phương tây, đến cỡ 40-50% năng lực. Phần nhập khẩu sẽ được trả bằng xuất khẩu nông nghiệp, bên cạnh đó là tích cực vay mượn của nước ngoài.

Năm 1932, “Bản tin” của phe đối lập Trotsky công bố bài viết có tên: "Nền kinh tế Xô Viết đang gặp nguy hiểm". Trong đó có thể đọc được những dòng như sau: "Hàng hóa nhập khẩu bằng 1 đồng vàng có thể đưa sản xuất nội địa trị giá hàng trăm và hàng ngàn đồng vàng ra khỏi tình trạng chết chóc. Tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế, một mặt, làm xuất hiện nhu cầu mới và mất cân bằng mới, mặt khác, liên tục tăng nhu cầu liên hợp với nền kinh tế thế giới. Chương trình "độc lập", nghĩa là tính chất độc lập của nền kinh tế Xô Viết, càng ngày càng mở ra tính hoang tưởng-phản động của mình. Tự cung tự cấp – là ý tưởng của Hitle, không phải Marx và Lenin.”

Như đã thấy, thực sự Trotsky cũng không hắn kêu gọi tự do thị trường hay kinh tế tư bản. "Con quỉ cách mạng" cũng không hề dám đi đến chỗ đòi tước bỏ quyền lực của đảng CS. Hắn chỉ dám cho phép mình trong lĩnh vực kinh tế. Đó cũng là bằng chứng Trotsky bị ảnh hưởng tư tưởng của Parvus. Parvus đã ấp ủ xã hội hóa không đúng thời. Điểm chính của ông ta là toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới – với sự hiện diện của “tổng hành dinh cách mạng” nào đấy, dần dần các nước phương tây sẽ dịch chuyển thành CNXH.

Một là không phải đến bây giờ, các nhà “dân chủ” cấp tiến mới nằng nặc đòi theo phương tây, mà là từ thời Trotsky, thậm chí còn sớm hơn nữa. Hai là nhờ kinh tế độc lập mà Liên Xô mới trụ được qua WW-II. Giai đoạn này, thật may cho Xô Viết bởi vẫn còn những con người khác, như Stalin, nhưng đó là chủ đề khác.

Trong lăng kính này, chế độ Stalin, nỗ lực để độc lập kinh tế tối đa, trở thành kẻ thù số 1 của Trotsky. Và cuộc đấu chống Stalin của “con quỉ cách mạng” có sự sẵn lòng hợp tác của cơ quan tình báo phương tây.

Ví dụ, ngày 13-7-1940, "con quỉ" tự mình giao cho lãnh sự Mỹ ở Mexico danh sách các nhà hoạt động chính trị-xã hội, các lãnh đạo nhà nước Mexico có quan hệ với đảng cộng sản thân Mat-xcơ-va, kèm danh sách các điệp viên Xô Viết. Việc này vô cùng tai hại, và tình báo Xô Viết rất lo lắng. 5 ngày sau, hắn cung cấp mô tả chi tiết các hoạt động của người đứng đầu tình báo NKVD Enrique Martinez Rica ở New York. Trotsky đã hợp tác với Mỹ.

Phương tây thậm chí còn sử dụng Trotsky và đồng sự của hắn để phục vụ chiến tranh ở CCCP, theo kế hoạch được xây dựng mùa thu 1939. Đây là từ báo cáo của lãnh sự Đức ở Geneva: "Điệp viên ở Pháp báo cáo rằng người Anh dự định qua nhóm Trotsky ở Pháp thiết lập liên lạc với đồng sự Trotsky ở Nga và cố gắng tổ chức đảo chính chống Stalin. Âm mưu đảo chính là một nỗ lực để chiếm nguồn dầu mỏ Nga. Nói đúng ra, theo kế hoạch này Trotsky sẽ leo lên làm lãnh đạo đứng đầu Xô Viết, để thủ tiêu chính nhà nước Xô Viết."

Số phận Trotsky chứng tỏ rõ ràng – điều gì có thể dẫn đến muôn vẻ sắc màu không tưởng của chủ nghĩa quốc tế. Ở Nga, hắn ta bị coi là nhân vật phản diện, thậm chí phản động. Ngay cả các đồng chí cánh tả cùng hắn cũng không mấy hâm mộ “con quỉ cách mạng”, điều ấy rất điển hình.

Ngay cả khi đã lưu vong ở Mexico, hắn ta cũng không yên chống phá Xô Viết, và án tử hình hắn đã được thi hành. Đó là câu chuyện tiếp theo: Stalin nhiều nước cờ để loại bỏ Trotsky như thế nào.

Yandex:
«Демон революции» на службе у Запада;

6. Stalin nhiều nước cờ loại bỏ Trotsky


Từ ngày 2-19 tháng 12 năm 1927, Đại hội đảng CS toàn Xô Viết lần thứ XV được tổ chức tại Mat-xcơ-va. Các đại biểu gồm 1669 người đã ra một số quyết định quan trọng về tương lai phát triển đất nước. Nghĩa là thông qua kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm. Ngoài ra, các đại biểu quyết định tập thể hóa nông thôn. Đại hội này là sự kết thúc của cái gọi là “đối lập cánh tả” do Trotsky-Zinoviev cầm đầu, hay còn gọi bằng cái tên khác: “khối chống đảng Trotsky-Zinoviev”. Khối này gồm một số nhóm khác nhau dựa vào sự chống lưng của 3 nhân vật nổi bật: Leon Trotsky, Grigory Zinoviev và Lev Kamenev.

Kể từ ngày Stalin lên làm Tổng bí thư – lãnh đạo cao nhất của đất nước năm 1922, mất 5 năm, số phận những kẻ cầm đầu phá hoại Xô Viết mới bị định đoạt.

a. Đại hội “bất thường”

Người ta kết tội các thành viên phe đối lập cố gắng tạo ra thứ gì đó như một đảng riêng lẻ. Trong báo cáo gửi Ban chấp hành trung ương, TBT Stalin tổng kết tình hình như sau: "Các đồng chỉ hỏi, bất đồng giữa đảng và phe đối lập, sau tất cả, là về cái gì, những bất đồng này là về những vấn đề gì? Bất cứ câu hỏi nào, thưa các đồng chí. (Có tiếng nói: “Đúng rồi!") Mới đây tôi đã đọc tuyên bố của một người lao động không đảng phái ở Mat-xcơ-va, anh ta đang vào hoặc cũng đã vào đảng. Thế anh ta nhận định vấn đề về sự khác nhau giữa đảng và phe đối lập như thế nào: ‘Trước đó chúng tôi cũng đã tìm kiếm, giữa đảng và phe đối lập khác nhau về cái gì. Và cho đến bây giờ cũng không tìm ra, nó đồng thuận với đảng về cái gì.’ (có tiếng cười và vỗ tay) Đó là những người công nhân đôi khi lại tỏ ra hiểu biết điều đó chuẩn xác và ngắn gọn. Tôi nghĩ rằng, đó là đặc điểm đúng đắn nhất và chuẩn xác nhất của thái độ phe đối lập đối với đảng, với tư tưởng của đảng, với chương trình của đảng, với chiến thuật của đảng. Chính vì thế, phe đối lập xa rời đảng trong mọi vấn đề, chính vì thế phe đối lập là nhóm có tư tưởng của mình, chương trình của mình, chiến thuật của mình, những nguyên tắc tổ chức của mình. Tất cả, mọi thứ cần thiết cho một đảng mới, tất cả mọi thứ đều có ở phe đối lập. Chỉ thiếu “một thứ nhỏ mọn”, là không đủ lực lượng để làm điều này. (các đại biểu cười và vỗ tay)”.

Cái chết của phe đối lập cánh tả Trotskyist-Zinovievist đã đến!

Các biện pháp tổ chức đã được thực hiện ngay tại Đại hội - 75 thành viên phe đối lập cánh tả “Trotskyist-Zinovievist” bị khai trừ khỏi đảng, đặt đường kẻ đậm nét kết thúc cuộc đấu tranh nội bộ nhiều năm, diễn ra dữ dội trên nhiều chiều hướng của những kẻ đại diện đứng đầu đội ngũ “Cận vệ Lenin”. Như những gì đã xảy ra, tại sao những biện pháp hết sức đột ngột và mạnh mẽ lại được áp dụng đối với phe đối lập? Để hiểu được điều đó, chúng ta cần quay lại thời điểm khởi đầu xung đột.

Ngay từ đầu người ta đã hiểu Trotsky là kẻ trục lợi cách mạng. Nhưng lực lượng ban đầu non trẻ, mỏng và yếu nên phải tạm thời gạt bỏ sang một bên để tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt. Củng cố đội ngũ đảng, tập hợp quần chúng, đề xướng đường lối độc lập, thúc đẩy hoạt động kinh tế, đưa đất nước ra khỏi thảm họa nạn đói và nội chiến. Trotsky lại tỏ ra hoàn toàn trái ngược với những vấn đền này, hắn ta ngày càng thất thế.

Khi phe Trotsky thất thế, chúng lại giở trò cũ: ám sát, khủng bố. Các lãnh đạo cấp cao bị hàng trăm vụ mưu sát, ám sát. Ngay cả Lenin cũng là mục tiêu, chỉ năm 1918, Lenin bị thương và thoát hiểm trong 2 vụ ám sát. Một kẻ ám sát ông ta là Fanya Kaplan, một ả DO THÁI. Có hàng ngàn tên khủng bố Do Thái thời đó, kể cả kẻ ám sát Hoàng tử Áo-Hung Franz Ferdinand, châm ngòi WW-I. Mất Lenin, đương nhiên Trotsky - nhân vật số 2 sẽ lên đứng đầu và Xô Viết sẽ bị lái đi con đường khác.

b. Cuộc chiến vì di sản Lenin

Năm 1923, sức khỏe Lenin đã suy yếu rất nhiều. Trotsky không khó để nhận ra thời cơ đã điểm. Cơ hội để hắn leo lên làm lãnh đạo tối cao của “giai cấp công nhân toàn thế giới” đã đến. Hiển nhiên, những cuộc xung đột bè phái thường xuyên nổ ra, bây giờ không còn cần phải ngấm ngầm, mà công khai thách thức. Đó là khuynh hướng ly khai “cánh tả” do Trotsky cầm đầu và cái gọi là phong trào “tập trung dân chủ” (như Bubnov)… Các phe phái này kêu gọi và yêu sách tự do cho tất cả các lực lượng và phe nhóm. Bọn chúng mưu toan làm quần chúng đảng sửng sốt bằng cái gọi là “lá thư 46”, có nội dung công kích các lãnh đạo theo “chủ nghĩa quan liêu bảo thủ”.

Lúc đó trong đảng và đất nước có cái gọi là thế “chân kiềng”, quyền lực đang nằm trong tay 3 người: Stalin với chức vụ Tổng bí thư CPSU; Bí thư ban chấp hành TW Mat-xcơ-va Kamenev; Bí thư ban chấp hành Leningrad Zinoviev.

Còn Trotsky thì đã thực sự khởi xướng cái gọi là “cánh tả đối lập”, hắn viết báo khuyếch trương và ủng hộ cánh tả, chẳng hạn như bài báo “Hướng đi mới - Новый курс”. “Con quỉ cách mạng” đang tìm cách để chuyển giao quyền lực khi Lenin đau ốm. Thực sự, cánh tả của hắn cũng rất nhanh chóng có được sự ủng hộ tương đối rộng trong tầng lớp trẻ, đặc biệt là sinh viên.

Đó là nhờ khéo léo vận dụng tố chất đối đầu phản nghịch sẵn có của mình và nó được nhân lên gấp bội bằng các kinh nghiệm thu thập được qua năm tháng. Tuy nhiên, hắn cho rằng chỗ dựa chính của mình là từ quân đội, nói đúng ra, là Trotsky đã nắm được các đồng sự của hắn trong các lực lượng vũ trang. Hắn đã từng giữ nhiều chức vụ cao trong quân đội, nhưng người lãnh đạo quân đội về mặt chính trị lại là Vladimir Antonov. Ông ta giúp Trotsky công bố và giới thiệu tư tưởng của bài viết “ Hướng đi mới” trong hàng ngũ lãnh đạo quân sự. Một kẻ tâm phúc khác của Trotsky là chỉ huy quân khu Mat-xcơ-va thậm chí còn đi xa hơn, đòi sử dụng quân đội để loại bỏ các lãnh đạo đảng. Nhiệm vụ còn lại của Trotsky là làm sao thu phục được các viên tướng “trung lập” – ví dụ như chỉ huy trưởng Mặt trận phía tây Mikhail Tukhachevsky. Nhìn chung, lúc đó trong giới quân đội đã bắt đầu bốc mùi âm mưu bạo loạn, trong “hàng ngũ nội bộ” nổi lên những thì thào bàn bạc đảo chính quân sự.

Trong tình cảnh ấy, lãnh đạo đảng cũng phải thực hiện một số biện pháp đề phòng, loại bỏ một số tay chân của Trotsky ra khỏi các vị trí lãnh đạo, trong đó có Antonov, Ovseenko. Nhưng phần thú vị nhất, là phải tìm xem kẻ nào là “con cá” to hơn. Và dĩ nhiên cần phải quay lại đến tận Cách mạng tháng 10. Người ta nhớ là Trotsky tự nhiên trở thành Bolshevik chỉ ít tháng trước tháng 10, còn trước đó, hắn thường bênh vực và thỏa hiệp với Mensheviks. Dĩ nhiên, hắn không đóng vai chúa trùm khi này bởi, ít nhiều Zinoviev và Kamenev nắm Chính phủ lâm thời, sau đó hắn đứng cùng Lenin chống Zinoviev, Kamenev và khởi nghĩa vũ trang.

Ngay cả các đảng viên khi đó cũng biết đến câu chuyện đảo chính ít nhiều, các tiết lộ gây ra cơn chấn động. Họ đã bắt đầu thói quen tôn sùng các lãnh đạo của mình, và bỗng nhiên bắt đầu tự phát tán những điều khủng khiếp. Chính điều đó làm quyền uy lãnh đạo bị xói mòn nghiêm trọng.

c. Tổng bí thư tập hợp lực lượng

Stalin gặp Trotsky khá sớm, lần đầu tiên là năm 1905 tại Hội nghị Tammerforssky. Ông biết thừa sắc dân Do Thái này là như thế nào. Ông biết đất Nga không phải là quê hương của Trotsky, hắn ta thích sống ở Na-uy, Mexico, America, Canada hơn ở Nga. Bản tính hài hước nên cũng sớm ông hay bông đùa về “anh chàng Do Thái” nhỏ bé bừa bãi trong đảng. Hai bên không ưa gì nhau ngay từ đầu. Nhưng Stalin không phải là người ưa phân biệt chủng tộc. Những người đồng chí tận tâm kề vai sát cánh với ông từ đầu đến cuối có cả người Nga như Molotov, người Gruzia như Ordzhonikidze, người Armenia như Mikoyan và người Do Thái như Kaganovich. Ông coi đồng chí là đồng chí hướng, một lòng vì nước Nga, dân tộc không phải là vấn đề. Đó cũng là một phần tính cách làm cho ông sớm tập hợp được đội ngũ của mình.

Stalin đứng ở vị trí khá đặc biệt, ông hầu như không tham gia vào các cuộc đấu đá tranh giành ảnh hưởng. Ông cũng không để bụng thù dai bất cứ ai. Tháng 3 năm 1917, ông nhận thấy Chính phủ lâm thời có thể là có ích, nên đã đứng ra bênh vực và bảo vệ, ghi nhận khả năng hỗ trợ họ, điều đó có nghĩa là có khả năng không cần đến cuộc Cách mạng tháng 10. Tuy nhiên, điều đó cuối cùng đã không xảy ra. “Stalin đã tránh thoát những cú đánh hiểm nghèo vào uy tín của mình. Kết hợp tính cứng rắn và ôn hòa thể hiện trong quá trình tranh luận chỉ càng làm tăng uy tín của Stalin. (Юрий Емельянов "Троцкий. Мифы и личность")

Nhờ đứng ngoài các cuộc tranh giành phe phái, uy thế và lực lượng Stalin dựa vào bộ máy đảng nhờ thế vẫn được bảo toàn, mà không bị rơi rụng. Ông chú tâm vào trọng trách các bí thư tỉnh, thành và tổ chức đảng cơ sở. Thật ra, chính sự phụ thuộc của đoàn đại biểu vào các Đại hội CPSU, mà nhờ đó công việc tỉ mỉ với hoạt động địa phương đã tạo ra số đông lực lượng Stalin trong tương lai, cho phép đánh bại phe đối lập cánh tả.

Stalin tập trung lực lượng, mài dũa qua các cuộc đấu tranh, đồng thời ông và các đồng nghiệp hành động theo nguyên tắc "trong chiến tranh là trong chiến tranh". Đúng, chiến tranh cần tình báo và chống tình báo, tất cả các thông tin quan trọng đã được bộ máy an ninh thu thập cho Tổng bí thư cả từ cơ sở và từ cấp cao. Thời kỳ 1923-1927 đảng phát triển nhanh chóng, qui mô tổ chức cơ sở tăng gấp đôi, khiến phe cánh Trotsky đụng phải cản trở.

Có chỗ đứng cơ sở, năm 1924 Stalin, bắt đầu công kích rõ nét vào luận điệu “độc tài đảng” và được tất cả các lãnh đạo đảng ủng hộ. Stalin tuyên bố không có độc tài trong đảng và độc đoán trong tầng lớp lao động. Còn Đại hội XIV tháng 12 năm 1925, trong báo cáo ông nhấn mạnh: “đảng không đồng nhất với nhà nước", và "Bộ chính trị là tổ chức cao nhất – không phải của nhà nước, mà của đảng". Đó là bước đầu tiên giảm nhẹ thượng tầng cầm quyền của đảng (ПАРТОКРАТИЯ - Правящая партийная верхушка). Đúng như sau khi đánh bại cánh tả, là nỗ lực cải cách đảng.

Tháng 12 năm 1927, tại phiên họp toàn thể Ban chấp hành TW sau Đại hội XV, Stalin đề nghị bỏ chức vụ Tổng bí thư ông đang giữ. Ông nói: “Nếu như Lenin đi đến chỗ cần thiết đưa ra vấn đề thành lập qui chế tổng bí thư, thì tôi nghĩ, nó phải dựa vào những điều kiện đặc biệt nào đấy, mà chúng xuất hiện sau Đại hội X, khi nội bộ đảng được dựng lên ít nhiều đã mạnh và phe đối lập có tổ chức. Nhưng bây giờ các điều kiện này đã không còn trong đảng, bởi lẽ phe đối lập đã bị vỡ tan tành. Do đó cần phải đi đến chỗ hủy bỏ qui chế này…” Đồng thời Stalin đề cử mình làm chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân, điều này chỉ rõ trung tâm sức mạnh chính trị cần phải ở đâu. Nhưng tiếc là các đại biểu không ủng hộ đề xuất này của Stalin.

d. Trotsky bày vẽ nửa vời ra sao

Zinoviev và Kamenev phủ nhận "tư tưởng dân tộc hẹp hòi" là rất gần với Trotsky hơn là với Stalin và chủ bút tờ báo "Pravda" Nikolai Bukharin. Nhưng Trotsky ban đầu kìm chế liên minh với cả 2 bên. Hắn ta hy vọng 2 phía sẽ tự làm suy yếu lẫn nhau và hắn, chờ đúng thời điểm để bước ra làm trọng tài.

Trotsky đã từng có lần liên minh với Zinoviev và Kamenev, nhưng quả thật hắn đã phải chịu đau đớn khổ sở trước. Năm 1924, Zinoviev thậm chí đề nghị bắt Trotsky, còn yêu sách đòi loại bỏ “con quỉ” Trotsky ra khỏi đảng, thì Zinoviev đòi hỏi hầu như thường xuyên. Stalin lại cho rằng cần nâng đỡ đảng phái liberal, bởi họ căm phẫn phản đối chống lại các biện pháp đàn áp của Trotsky.

Và cuối cùng thì, không thể bỏ qua điều này, hắn đã có những đúc kết sai lầm tai hại về vị Tổng bí thư ôn hòa mềm mỏng. Thật hài hước, trong phe cánh của Trotsky thậm chí có nhiều người ủng hộ Stalin thật tình – mà trong thành phần đó, là như quan điểm của Karl Radek. Radek về sau ăn năn hối hận vì đã theo Trotsky, ông ta được trọng vọng và trở thành lãnh đạo Cục ngoại giao của Ban chấp hành TW, Karl Radek đã có rất nhiều cố gắng để thiết lập mối quan hệ hữu nghị với nước Đức những năm 1930.

Bên cạnh nguy cơ chiến tranh với nước Đức, Stalin biết hiểm họa thực sự đe dọa nhà nước Xô Viết non trẻ là từ hàng ngũ cán bộ cũ. Các đồng chí Bolsheviks sau Cách mạng tháng 10 đã chẳng còn biết làm gì hơn. Cuộc đời họ đã quen với bắn giết và cướp bóc, họ không có kỹ năng hay được đào tạo để xây dựng kiến thiết. Khi không có kẻ thù chung, thì Zinoviev và Kamenev chống Trotsky, Bukharin chống Zinovyev và Kamenev trong cuộc đấu đá loạn đả. Trotsky dù có không muốn cũng bị lôi vào cuộc. Trotsky đã mắc phải nhầm lẫn tai hại là từ thái độ đối với nhà cánh tả Zinoviev. Không được 2 bí thư các thành phố lớn nhất Mat-xcơ-va và Leningrad ủng hộ - phe cánh Trotsky mất chỗ dựa trong đảng, thiếu sự giúp đỡ của Trotsky - Zinoviev và Kamenev ở vào thế vô cùng khó khăn và không chống chọi nổi áp lực tổ chức nặng nề của Stalin. Tại Đại hội CPSU thứ XIV - 1925, tất cả các đại biểu chống lại họ, có lẽ chỉ trừ những người đến từ Leningrad. Kết quả là các thủ lĩnh phe “đối lập mới” đã đánh mất vị thế lãnh đạo của mình.

Đến đây thì Trotsky hiểu ra, hắn sẽ chẳng thành công với vai trò trọng tài. Thế là hắn lại tìm cách kết thân với Zinoviev và Kamenev. Điều đó kết thúc bằng việc thành lập liên minh cánh tả hùng mạnh. Chính liên minh này đưa ra chương trình siêu-công nghiệp dựa dẫm vào nước ngoài để tạo ra “bước đại nhảy vọt”. Nhưng tất cả đã quá muộn.

Phe đối lập cánh tả, trước hết là chống "tư tưởng dân tộc hẹp hòi”, làm đất nước bị “cô lập”. Theo phe đối lập cánh tả, Xô Viết phải ủng hộ toàn diện phong trào cách mạng thế giới ở các nước khác, nhưng đồng thời phải gia nhập nền kinh tế thế giới (tư bản). Vì thế, kế hoạch công nghiệp hóa của Trotsky với chủ trương nhập khẩu dài hạn và tích cực vay mượn từ phương tây được phe này ủng hộ. Điều đó rõ ràng, nó làm Xô Viết phụ thuộc phần lớn vào quyền lực phương tây. Còn “ủng hộ cách mạng thế giới” cũng là cách để phương tây đặt áp lực lên hàng ngũ mang tinh thần dân tộc các quốc gia Thế giới thứ 3 và các “yếu tố dân tộc” của họ. Phe đối lập cánh tả sẵn sàng làm lao công cho các ông chủ phương tây? Đúng như vậy, bất chấp lối diễn đạt cách mạng của họ, đó là thực tế quá rõ ràng. Công nghiệp hóa của Stalin hoàn toàn ngược lại, hạn chế nhập khẩu, tận dụng chuyên gia nước ngoài, sử dụng nhân công lao động cưỡng bức (Gulag) xây dựng cơ sở hạ tầng – như sau này, hàng ngàn công trình đường sắt, cầu cống, đường giao thông, mỏ khoáng sản là do lao động khổ sai thực hiện, họ được trả lương, nhưng ở mức thấp hơn lao động thông thường.

Và như phân tích đã dẫn của nhà sử học Nikolai Starikov, "Кто заставил Гитлера напасть на Сталина?": “Phe đối lập đã soạn ra các chương trình khác với đường lối của Stalin ở vào một thời điểm khác. Kết hợp chúng lại chỉ đem đến một điều duy nhất: Chấp nhận các chương trình như thế thì đảng và đất nước rất nhanh chóng chẳng còn lại gì. Những lời lẽ đẹp đẽ, ví dụ, "Chương trình hành động 83 - платформа 83-х"… đối chiếu ngày tháng Trotsky đã soạn thảo là khi nào? Thì thấy là tháng 5 năm 1927. Ngày 27 tháng 5 năm 1927, nước Anh hủy bỏ quan hệ ngoại giao với Xô Viết! Liệu có tin vào sự tình cờ như thế không? … Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra thực tế quan trọng là quan hệ ngoại giao đã sớm bị đứt đoạn: từ chỗ công nhận Xô Viết tháng 2 năm 1924, tháng 5-1927 đã không còn muốn biết hơn nữa. Tại sao? Bởi vì chiến thắng của Stalin trước Trotsky đã trở nên rõ ràng và nước Anh không do dự rõ ràng đã biểu dương phe đối lập của mình. Ẩn ý rất rõ: muốn chiếm thế thượng phong trước đường lối Stalin đến cùng – những hậu quả bi thảm sau này đối với đất nước Xô Viết."

Đó là gì? Trotskyism không thắng ở Nga thì thành công ở Đức, nơi có đông đảo đồng bào đồng chí Trotsky hơn. Gánh nặng nợ nần WW-I và tái thiết phục dựng nước Đức được các tài phiệt quốc tế giúp đỡ tận tình, thể chế bù nhìn liberal dựng lên sau WW-I quan liêu tham nhũng khủng khiếp, lao động bị bóc lột nặng nề căm hận đến tận xương tủy. Một môi trường không còn gì tốt hơn để chủ nghĩa phục quốc phát xít Hitle nổi lên… Đám lửa chiến tranh WW-II đã được nhen nhóm từ rất sớm.

Có rất nhiều thứ mà khi nói đến, phe liberal và các nhà dân chủ ngày nay sẽ im lặng. Thực sự, kể từ sau WW-I, Đức đã áp dụng mô hình kinh tế Công nghiệp hóa kiểu như Trotsky, nhận khoản đầu tư và vay nợ khổng lồ từ phương tây, hàng trăm nhà máy qui mô lớn do Anh-Mỹ xây dựng, còn xăng dầu cho đến tận WW-II vẫn do phương tây cung cấp. Đáp lại phe Lenin thân Đức, Trotsky cũng đã sớm tìm đến liên minh với Đức, phe mà hắn chọn là Dân tộc chủ nghĩa Đức, tiền thân của phát-xít sau này. Năm 1934, đích thân Hitle lệnh ban tặng Do Thái Trotsky danh hiệu “Người Aryan Danh giá”.

Nhưng năm 1927, Stalin đã nắm chắc đảng, tuyên truyền cổ động gột rửa đầu óc đảng viên và quần chúng trước nạn bè phái đối lập cánh tả. Đường lối độc lập và mang tinh thần dân tộc Stalin được số đông đảng viên và quần chúng ủng hộ. Liên minh đối lập cánh tả trước cái chết đã lên cơn giãy giụa tuyệt vọng.

e. Cuộc cách mạng thất bại

Thất bại và mất mát trong bầu cử đảng, Trotsky và phe cánh không chịu từ chức. Bọn chúng chuẩn bị những hành động liều lĩnh – huy động quần chúng biểu tình và lật đổ, những tờ báo in trộm được phát tán ở thủ đô và các thành phố, kế hoạch biểu tình chiếm đường phố nhân kỷ niệm 10 năm Cách mạng tháng 10 vào 1927 được tổ chức. Trotsky đã bố trí sẵn các nhóm hoạt động trẻ chiếm đường phố. Hắn có cả đoàn tàu hỏa bọc thép để chở các nhóm binh lính trung thành, một trong số đó là sư đoàn trưởng Dmitri Schmidt – kẻ ngay trước lễ kỷ niệm đã công khai đe dọa trừng trị Tổng bí thư Stalin bằng vũ lực.

Stalin cũng đã sẵn sàng, đội quân của ông lập chốt gác trên các ngả đường, an ninh đề cao cảnh giác. Lực lượng trẻ-sinh viên của ông tổ chức thành các đội xung kích, các nhóm trẻ cơ động này sẵn sàng sẵn sàng lao vào đám đông biểu tình của Trotsky, làm rối loạn hàng ngũ cánh tả. Hành động này được đặt dưới sự chỉ huy của thư ký Georgy Malenkov, thật thú vị là ông ta lại được giao trách nhiệm này, và khi không lập được công trạng gì nên đã phải thay bằng người khác. Còn Boris Shaposhnikov, chỉ huy quân sự quân khu Mat-xcơ-va, điều động xe bọc thép về thành phố, phòng sẵn nguy cơ binh biến Trotsky, thì sẽ chặn các ngả đường.

Ngày 7 tháng 10, Trotsky đến thủ đô bằng xe hơi, hắn sẽ phát biểu trước đám đông biểu tình. Hắn đã cố để phát biểu trước đám đông quần chúng từ ban công khách sạn "National", nhưng dự định của hắn đã bị phá hoại đầy bạo lực, đám đông tụ tập biểu tình bị giải tán. Kế hoạch tiếm quyền đã bị phá hỏng. Số phận Trotsky và phe cánh đã bị định đoạt. Sau thất bại bầu cử và những huyên náo ồn ào, những âm mưu biểu tình bạo loạn – đó là những nỗ lực cuối cùng trước cái chết, tháng 12-1927 cả bọn bị khai trừ trong Đại hội đảng XV.

Năm 1917, khi Trotsky cùng các đạo hữu khắp thế giới đổ vào Nga làm cách mạng, hắn ta tuyên bố:

“Nước Nga – là cành củi, mà chúng ta ném vào đống lửa cách mạng thế giới;
Россия - это хворост, который мы бросим в костер мировой революции”.

Năm 1924, trong tang lễ Lenin, Trotsky tuyên bố:

“Trên đống đổ nát tang lễ nước Nga chúng ta trở thành lực lượng đến mức, trước nó cả thế giới phải quì gối;
На погребальных обломках России мы станем такой силой, перед которой весь мир опустится на колени”.

Năm 1927, Trotsky và đồng bọn bị loại bỏ, từ đó bị trục xuất và vĩnh viễn cuộc đời lưu vong.

Những gì xảy ra ở Nga ngày nay - cánh tả, phe đối lập, liberals, biểu tình “Đầm lầy” chống Putin, có bóng dáng xưa cũ cách đây gần một thế kỷ. Người ta nói lịch sử hay lặp lại, nhưng đúng hơn thì có những thế lực chưa bao giờ chịu từ bỏ xoay vần bánh xe lịch sử theo cách hoàn toàn xưa cũ.

Phần
chính tham khảo tại: Конец левой оппозиции (Как Сталин Троцкого переиграл)
http://www.warandpeace.ru/ru/reports/view/78709/

HAI LOẠI TƯ BẢN


TÀI PHIỆT (mại bản)
TƯ BẢN DÂN TỘC
Là Do Thái, dòng tộc Ashkenazi, Rotschild, Marx, Trotsky, Gorbachov, Edison, Bill Gates, Hilton...
Là các nhà tư sản, trí thức, quí tộc phong kiến: Lenin, Stalin, Putin, Nobel, Henry Ford, Silvio Gesell, Tesla…
Đại bản doanh: London, New York
Đại bản doanh: không có
Coi trọng buôn bán, cho vay nặng lãi, phát triển NGTW, bành trướng đô la
Chú trọng sản xuất, phát triển công nghiệp
Có xu hướng toàn cầu
Có xu hướng dân tộc
Bóc lột, mang lợi nhuận, thặng dư về phương Tây, sử dụng của cải tích lũy để gây chiến và tiếp tục bóc lột.
Không bóc lột, để lại giá trị thặng dư cho cộng đồng. Họ là người bản địa, họ cũng phải chăm sóc cha mẹ già, nuôi con nhỏ, lo cho cộng đồng, do đó sẽ sẽ để lại tài sản cho cộng động, phát triển phúc lợi xã hội, xây dựng hạ tầng, phát triển văn hóa, nâng cao nhận thức, phát triển khoa học kỹ thuật.
Kiểm soát tiền tệ (tư bản)
Nắm khoa học kỹ thuật
Cấp tiền cho các phe phải (tư sản-vô sản) làm cách mạng xã hội, chiến tranh, bạo loạn lật đổ để thôn tính NGTW, bóc lột tiền tệ.
Làm các mạng khoa học kỹ thuật
Chia để trị - ngu để trị
Tinh thần cộng đồng cùng phát triển
Văn hóa hủ bại, phá hủy truyền thống, tiêu diệt dân tộc
Văn hóa lành mạnh
Thúc đẩy toàn cầu hóa
Phản đối toàn cầu hóa
Bảo trợ dân chủ - nhân quyền giả tạo
Xây dựng hệ thống tôn ti trật tự đảm bảo quyền con người thực sự
Coi con người là súc vật từ kinh thánh Do Thái
Coi con người là bình đẳng, chủ thể sáng tạo, tất cả đều là con thượng đế
Biến tất cả thành vật chất (tiền hóa)
Coi trọng tinh thần
Bản chất ăn bám ký sinh trùng
Bản chất chủ thể xã hội, lao động sáng tạo
Hiện tại: đang thắng thế
Hiện tại: đang trỗi dậy

Nguồn gốc của tiền!
(Đoạn 15:59 có chút nhầm lẫn: ... không cho phép đồng GreenBack tồn tại...



Lịch sử tiền tệ:

https://youtu.be/NgL6VpA5d_M
https://youtu.be/-VjxHv8bzCc
https://youtu.be/tDkXsFTcNhM
https://youtu.be/edLXIpMWU2M
https://youtu.be/xSg2Uz9id0Q
https://youtu.be/hkI4HOjitvg
https://youtu.be/1yze6UpYuwg
https://youtu.be/Wv_rlYwRPt8


10 ảo tưởng về CNTB - Ten myths about capitalism


Chủ nghĩa tư bản phiên bản tân tự do đã kiệt quệ. Đám cá mập tài chính không muốn đánh mất lợi nhuận, và chuyển gánh nặng nợ nần chính sang những người nghỉ hưu và người nghèo. Bóng ma "mùa xuân châu Âu" ám ảnh Thế giới cũ và các đối thủ của chủ nghĩa tư bản giải thích với dân chúng cuộc sống của họ đang bị hủy diệt như thế nào. Đây là nội dung chính bài viết của một nhà kinh tế Bồ Đào Nha tên là Alves Guilherme Coelho.

Có một thành ngữ nổi tiếng rằng mỗi quốc gia có một chính phủ xứng đáng. Điều đó không hoàn toàn đúng sự thật. Dân chúng có thể bị lừa bởi sự tuyên truyền hùng hổ định hướng ý kiến người ta, và khi đó dễ dàng thao túng. Bịa đặt và thao túng là vũ khí đương thời để hủy diệt hàng loạt và áp bức các dân tộc. Nó cũng hiệu quả như các phương tiện truyền thống của chiến tranh. Trong nhiều trường hợp, chúng bổ sung cho nhau. Cả hai phương pháp được sử dụng để đạt được chiến thắng trong cuộc bầu cử và tiêu diệt các quốc gia ngang bướng.

Có nhiều cách để điều khiển quan điểm công chúng, trong đó hệ tư tưởng của CNTB đã dựa vào và đi đến mức độ hoang đường. Nó là sự kết hợp của những sự thật giả dối được lặp đi lặp lại hàng triệu lần, qua các thế hệ, và do đó trở thành không thể bàn cãi đối với nhiều người. Chúng được thiết kế để đại diện cho CNTB như là sự tín nhiệm, giành được sự ủng hộ và tin tưởng của quần chúng. Những huyền thoại này được phát tán và và quảng bá thông qua các công cụ truyền thông, các tổ chức giáo dục, truyền thống gia đình, thành viên nhà thờ...

Dưới đây là những ảo tưởng phổ biến nhất.

Myth 1. Dưới chủ nghĩa tư bản, bất cứ ai làm việc chăm chỉ có thể trở nên giàu có

Hệ thống tư bản sẽ tự động đem lại sự giàu cho các cá nhân làm việc chăm chỉ. Các lao công đã định hình niềm hy vọng giàu có hão huyền một cách vô thức, nhưng nếu như không đi được đến chỗ toại nguyện, họ sẽ tự đổ lỗi cho chính mình mà thôi. Trên thực tế, dưới chế độ TB, khả năng thành công, bất kể anh có làm việc bao nhiêu đi chăng nữa, cũng ngang bằng với sổ xố. Giàu có, với một ít ngoại lệ, không hề có được từ làm việc siêng năng, mà là do gian lận và không thương xót của những kẻ uy thế hơn, quyền lực hơn giành được. Có hoang tưởng rằng thành công là kết quả của lao động siêng năng kết hợp với may mắn hay số phận, tùy thuộc vào khả năng lanh lợi hoạt động kinh doanh hay mức độ cạnh tranh. Ảo tưởng này tạo những tín đồ của hệ thống hỗ trợ nó. Tôn giáo, đặc biệt là Tin lành, nuôi dưỡng loại ảo tưởng này.

Myth 2. CNTB tạo ra sự giàu có và thịnh vượng cho tất cả

Sự giàu có tích lũy trong tay nhóm thiểu số, sớm hay muộn sẽ được phân phối cho tất cả mọi người. Mục đích của ảo tưởng này là làm cho ông chủ tích lũy giàu sang mà không bị đòi hỏi gì. Đồng thời giữ niềm hy vọng sớm hay muộn người lao động sẽ được trả công cho công việc và cống hiến của họ. Thực sự, ngay cả Marx cũng phải kết luận rằng mục tiêu cuối cùng của CNTB không phải là phân phối của cải mà là tích lũy và tập trung của cải. Khoảng cách giàu nghèo trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt là sau khi giới tân-tự do thiết lập ách thống trị, đã chứng tỏ điều đó. Ảo tưởng này là một trong những thứ phổ biến nhất trong thời kỳ gọi là "phúc lợi xã hội" sau chiến tranh, và nhiệm vụ chính của nó là hủy hoại những đất nước theo CNXH. 

Myth 3. Tất cả chúng ta cùng chung một con thuyền

Xã hội tư bản không có tầng lớp, vậy nên chịu trách nhiệm về thất bại và khủng hoảng cũng nằm trên tất cả và bất cứ ai cũng phải chịu. Mục đích là tạo ra một phức hợp tội lỗi cho người lao động, cho phép giới tư sản tăng cường thu lời và đẩy trách nhiệm về phía quần chúng. Thực tế, những kẻ chịu trách nhiệm là toàn bộ giới đầu sỏ bao gồm những tỷ phú, những kẻ ủng hộ chính phủ và được chống lưng từ chính phủ. luôn được hưởng đặc quyền lớn về thuế, thầu khoán, đầu cơ tài chính, gia công ngoại, gia đình trị... Ảo tưởng này được giới đầu sỏ gieo rắc để tránh phải chịu trách nhiệm về cảnh ngộ khó khăn của dân chúng và tránh cho chúng buộc phải trả giá cho những lỗi lầm của mình.

Myth 4. CNTB nghĩa là tự do

Tự do thực sự chỉ có được dưới CNTB với sự giúp đỡ của cái gọi là "thị trường tự điều chỉnh". Mục đích của ảo tưởng này là để tạo ra cái gì đó tương tự như tôn giáo của CNTB, ở đó mọi thứ bị chiếm đoạt, như là từ chối quyền của dân chúng tham gia vào việc đưa ra các quyết định kinh tế vi mô. Thay vào đó, quyền tự do trong việc ra quyết định là một quyền cơ bản, nhưng lại chỉ có một nhóm nhỏ cá nhân đầy quyền lực được hưởng, chứ không phải dân chúng, cũng không phải các cơ quan chính phủ. Trong các hội nghị hội thảo (ví như Bindenberg) của những nhóm nhỏ sau cánh cửa đóng kín, lãnh đạo những công ty lớn, nhà băng và các cartel đa quốc gia đưa ra những quyết định kinh tế tài chính mang bản chất chiến lược. Do đó mà thị trường, không hề là tự điều chỉnh, mà chúng bị thao túng. Ảo tưởng này đã được sử dụng để bào chữa cho việc can thiệp vào vấn đề nội bộ các nước không-tư bản, với giả bộ rằng họ không có thị trường tự do, mà có thị trường bị điều chỉnh bằng luật lệ. 

Myth 5. CNTB nghĩa là dân chủ

Dân chủ chỉ tồn tại dưới CNTB. Ảo tưởng này cũng ngọt ngào như ảo tưởng 4, nó được dựng lên để ngặn chặn người ta bàn luận về những mô hình xã hội khác, những trật tự xã hội khác. Nó được dùng để biện bạch rằng tất cả thế giới còn lại là độc tài. CNTB tự khoác cho mình là tự do là dân chủ, trong khi điều đó chỉ đồng nghĩa với xuyên tạc. Bởi thực tế xã hội bị phân chia thành các tầng lớp và tầng lớp giàu chỉ là một nhóm siêu nhỏ, lại thống trị toàn bộ số đông còn lại. Không gì khác hơn "dân chủ" tư bản là độc tài trá hình, còn "cải tổ dân chủ" là quá trình phản tiến bộ. Cũng như ảo tưởng 4, ảo tưởng này được dùng để bào chữa cho mục đích chỉ trích và tấn công các quốc gia không tư bản.

ND: Thật đáng thương, có những "nhân sĩ tây học" da vàng mũi tẹt, thấp cổ bé họng nhất trong đất nước tư bản, sống ở đáy xã hội tư bản, lại cứ tưởng mình là tự do là dân chủ, nên cứ theo chủ sủa về quê. Chưa bao giờ thấy họ tru tréo hay rên rỉ cùng số đông dân chúng chính quốc. Lẽ ra được ăn học hơn người, họ phải có cách nào đó tích cực, sáng sủa hơn chứ.

Myth 6. Bầu cử là đồng nghĩa với dân chủ

Bầu cử là đồng nghĩa với dân chủ. Mục đích là để bôi nhọ hay phỉ báng các hệ thống khác và ngăn chặn bàn luận về các hệ thống bầu cử và chính trị mà ở đó, các lãnh đạo được xác định qua bầu cử không tư bản. Lấy ví dụ, như bầu cử dựa vào đạo đức thế hệ, kinh nghiệm hay sự nổi tiếng của đại biểu. Trên thực tế, hệ thống tư bản bị thao túng và mua chuộc, ở đó lá phiếu là một thuật ngữ có điều kiện, và bầu cử chỉ là một việc làm hình thức. Thực tế chỉ ra bầu cử chỉ có và luôn luôn thắng bởi những đại diện của giới tư sản thiểu số không đại diện cho dân chúng. Ảo tưởng rằng bầu cử tư sản bảo đảm mang tính dân chủ là một trong những cản trở lớn nhất và thậm chí một số đảng phải cánh tả cũng buộc phải tin tưởng vào hoang đường.

Myth 7. Các đảng phái thay phiên nhau trong chính phủ giống như có sự thay thế

Các đảng phải tư sản, định kỳ thay phiên nhau nắm quyền có sự thay đổi nền tảng, là ảo tưởng. Mục đích là để duy trì hệ thống CNTB bên trong tầng lớp cai trị, nuôi dưỡng ảo tưởng rằng dân chủ bị giảm sút cho đến bầu cử. Trên thực tế, rõ ràng là hệ thống 2 đảng phải (như Mỹ) hay đa đảng phải (như các nước phương tây khác) là hệ thống một đảng. Có hai hay nhiều hơn phe phái của cùng một lực lượng chính trị, chúng thay nhau, bắt chước là đảng có chính sách thay thế. Dân chúng thì luôn luôn phải chọn tay sai của hệ thống này, khi bị thuyết phục rằng đó không phải là điều chúng làm. Ảo tưởng rằng các đảng CNTB có nền tảng khác nhau và thậm chí đối lập nhau là điều quan trọng nhất, lại thường xuyên được đen ra bàn luận để làm cho hệ thống CNTB vận hành.

Myth 8. Chính trị gia được bầu đại diện cho dân chúng và do đó có thể quyết định thay cho họ

Chính trị gia được sự ủy quyền bởi dân chúng, và có thể cai trị theo ý muốn. Mục đích của ảo tưởng này là để dân chúng nuôi nấng những lời hứa trống rỗng và để che đậy những phương sách thực sự sẽ được thi hành trong thực tế. Thực sự, những kẻ được bầu không thực hiện những hứa hẹn này, hoặc tồi tệ hơn, chúng bắt đầu triển khai những phương sách ngầm, thường mâu thuẫn hay thậm chí trái ngược với Hiến pháp nguyên bản. Thường thì các chính trị gia được bầu bởi một thiểu số hoạt động ở giữa nhiệm kỳ đạt phổ biến tối thiểu của họ. Trong những trường hợp này, sự mất mát của các đại diện không dẫn đến một sự thay đổi của chính trị thông qua phương tiện hiến pháp, nhưng ngược lại, dẫn đến sự thoái hóa của nền dân chủ tư bản chủ nghĩa trong chế độ độc tài thực sự hay trá hình. Việc thi hành có hệ thống dân chủ giả mạo dưới CNTB là một trong những nguyên nhân làm cho ngày càng tăng số lượng dân chúng không đi bầu cử.

Myth 9. Không có gì thay thế được CNTB

CNTB không phải là hoàn hảo, nhưng là hệ thống kinh tế chính trị duy nhất có thể, và vì thế là chế độ thích hợp nhất. Mục đích là để hạn chế nghiên cứu và thúc đảy các hệ thống chế độ khác và loại trừ đối thủ cạnh tranh bằng mọi biện pháp có thể, kể cả bằng bạo lực. Trong thực tế, có những hệ thống kinh tế chính trị khác, và nổi tiếng nhất là CNXH khoa học. Ngay cả trong khuôn khổ của CNTB, cũng có những phiên bản Nam Mỹ "CNXH dân chủ" hay phiên bản châu Âu "CNTB xã hội chủ nghĩa". Hoang đường này được thiết kế để dọa dẫm dân chúng, để ngăn chặn các cuộc thảo luận lựa chọn thay thế CNTB đạt đến sự nhất trí. 

Myth 10. Tiết kiệm tạo ra của cải

Khủng hoảng kinh tế là do người lao động hưởng quá nhiều lợi ích. Nếu chúng bị loại bỏ, chính phủ sẽ tiết kiệm được và đất nước sẽ trở thành giàu có. Mục đích là đẩy khoản nợ tư bản phải trả sang khu vực công, kể cả những người hưu trí. Mục đích khác là làm cho dân chúng chấp nhận nghèo đói, với lý lẽ đấy chỉ là tạm thời. Nó cũng nhằm ý định tạo thuận lợi cho quá trình tư nhân hóa khu vực công. Dân chúng bị thuyết phục để tin rằng tiết kiệm là "sự cứu rỗi" mà không hề đề cập đến nó đạt được thông qua việc tư nhân hóa những lĩnh vực lợi nhuận cao cho những ai có thu nhập trong tương lai sẽ bị mất. Chính sách này dẫn đến việc giảm thu nhập nhà nước và giảm phúc lợi, lương hưu và trợ cấp.

http://english.pravda.ru/business/companies/15-02-2012/120518-ten_myths_capitalism-0/

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...