Bác Hồ nói gì khi bị phê phán là "xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin" ?

Lời Đại Tướng Võ Nguyên Giáp viết cho lần xuất bản thứ ba
cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường kách mạng Việt Nam”

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta, quán triệt nghị quyết “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động…”, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh, sâu rộng và có tổ chức, nổi bật là các đề tài trong chương trình cấp nhà nước “Về tư tưởng Hồ Chí Minh”, mang mã số KX-02.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường kách mạng Việt Nam” của một tập thể tác giả do tôi làm chủ biên, được xuất bản vào tháng 5-1977, là thành quả của đề tài cấp nhà nước KX-02-01, một đề tài mang tính tổng quan, nghiên cứu, giải đáp những vấn đề chung và cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh như khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, những luận điểm sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh và phương hướng quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống, vào sự nghiệp đổi mới của Đảng ta, nhân dân ta.
Cuốn sách ra đời, được sự hoan nghênh, hưởng ứng của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ nghiên cứu và của đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong lần xuất bản thứ nhất, do sự hạn chế của bước đầu nghiên cứu và do còn ý kiến, chưa gặp nhau trong việc đưa ra công luận một số tư liệu, một số vấn đề, nên có một số thông tin quan trọng, một số điểm chưa có điều kiện nói rõ được.
Thể theo yêu cầu của bạn đọc và của Nhà xuất bản nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi đã xuất bản cuốn sách lần thứ II, có bổ sung, sửa chữa.
Từ lúc ra đời cho đến nay, đã hơn 6 năm thử thách, cuốn sách thể hiện được tính đúng đắn, khoa học và đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu tuyên truyền giáo dục quán triệt sâu sắc hơn. Chính vì vậy, Bộ phận biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã đánh giá: “Đây là một công trình lớn, có giá trị về lý luận và thực tiễn, đánh dấu một bước phát triển mới trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, hiểu sâu sắc hơn tư tưởng của Người”.
Nội dung cuốn sách, cùng với những thành tựu nghiên cứu khác về tư tưởng Hồ Chí Minh, đã cung cấp cơ sở để Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có sự khái quát cô đọng, chặt chẽ về khái niệm, nguồn gốc hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một bước tiến trong nghiên cứu và trong sự thống nhất nhận thức một số vấn đề cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là người may mắn và hạnh phúc được sống gần ba thập kỷ bên Bác, trong một hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo cũng như trong những thời cơ thuận lợi của cách mạng Việt Nam từ khi Bác trở về nước trực tiếp lãnh đạo Cách mạng cho đến lúc Bác vĩnh viễn đi xa, tôi được Bác tin tưởng giao cho nhiều trọng trách mới mẻ tưởng chừng vượt quá sức gánh vác của mình, nhất là trong những ngày đầu cuộc Cách mạng tháng Tám – 1945 và trong lĩnh vực lãnh đạo quân đội quốc phòng từ ngày đầu thành lập Quân giải phóng cho đến suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Pháp và Mỹ. Đồng thời cũng được Bác chân tình dạy dỗ, hướng dẫn từng đường đi nước bước, từng chủ trương, kế hoạch, từng lời nói, việc làm, cả trong nhiệm vụ chung và cả trong đời sống riêng tư. Lúc nào, ở đâu, việc gì, thành hay bại, khó khăn hay thuận lợi, tiến hay tạm lùi, đều như có Bác bên cạnh. Những tư tưởng, quan điểm, những lời khuyên nhủ và tấm gương thực tế xử lý mọi việc đối với mọi người của Bác đã giúp tôi bình tĩnh, dũng cảm, sáng suốt tìm được chủ trương, biện pháp, đúng đắn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên mọi cương vị công tác và trưởng thành về mọi mặt.
Mấy năm gần đây, dù đã đến tuổi 90 – cái tuổi gần đất xa trời, tôi vô cùng phấn khởi được giao trọng trách góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, có điều kiện, có thời gian, có độ lùi lịch sử cần thiết để tìm hiểu thêm về Bác và soi lại lòng mình.
Càng nghiên cứu, càng kiểm tra lại những việc Bác đã chủ trương, đã làm, để đưa cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, đạt đến những thắng lợi vĩ đại như ngày nay, càng thấy công ơn trời biển của Bác đối với Cách mạng Việt Nam và thấy sự vĩ đại vô cùng của Bác. Đúng như sự khái quát của đồng chí Trường Chinh và của một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt khác, Bác là một bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”. Bác là nhà chính trị - văn hoá kiệt xuất, nhà tổ chức vĩ đại, nhà quân sự đại tài, tấm gương đạo đức trong sáng tuyệt vời mà gần gũi bình dị. Nổi bật hơn cả và xuyên suốt là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản; là sự gắn bó, kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Tư duy nhận thức đó là sự thống nhất nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, thực tiễn với lý luận, là sự gần dân, lời nói đi đôi với việc làm, kế hoạch một biện pháp hai ba; lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của dân, do dân, dựa vào dân, phát huy mọi tiềm lực của toàn dân.
          Những đánh giá, những nhận định về bản chất, về giá trị đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh, của bạn bè quốc tế, coi Hồ Chí Minh là hiện thân của cuộc cách mạng, là một nhân vật kỳ lạ của thời đại ngày nay… Theo tôi, đây là những đánh giá, những suy xét khách quan, khoa học và vô cùng sâu sắc của những nhà lãnh đạo, những trí giả, những nhà nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế mà chúng ta cần quan tâm suy nghĩ, tìm hiểu để lĩnh hội hết cái “hồn”, cái “thần” của nó, giúp ta hiểu sâu thêm, thấy rõ hơn “cái vĩ đại”, tầm cỡ lịch sử và quốc tế của Bác và của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trọn đời đi theo con đường của Bác, của Đảng, làm người học trò, người cộng sự của Bác, tôi vô cùng tự hào là đã đáp ứng được lòng tin của Bác, tôi vô cùng tự hào là đã đáp ứng được lòng tin của Bác, đã cùng với tập thể Bộ Chính trị, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện xuất sắc tư tưởng và nguyện vọng của Người ghi trong Di chúc thiêng liêng là “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất nước nhà, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Tuy nhiên, việc lĩnh hội, tiếp thu, chấp hành những quan điểm tư tưởng, những chủ trương của Bác không phải là giản đơn, dễ dàng. Đó là vì, trình độ, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm thực tiễn của lứa tuổi chúng tôi lúc bấy giờ còn có khoảng cách lớn so với “tầm” của Bác, trong anh em chúng tôi một số có ít nhiều biểu hiện giáo điều, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin qua sách báo, như những công thức cứng nhắc… Mặt nữa là tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời kỳ bấy giờ vô cùng phức tạp. Nhiều sự kiện diễn ra ngoài suy nghĩ, tưởng tượng của chúng tôi như đại đoàn kết với mọi thành phần yêu nước, nhẫn nhịn bọn Tưởng, lùi một bước với Pháp, “hoà để tiến” vì mục tiêu của kách mạng Việt Nam.
Một sự kiện có lẽ ít người biết và sách báo hình như chưa đề cập đến. Đó là vào lúc tôi đi chiến dịch Đông – Xuân 1950 – 1952, ở căn cứ Việt Bắc, Đảng đang tiến hành Hội nghị trừ bị cho Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II với chủ trương Đảng ra công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam cùng với cương lĩnh mới: Cương lĩnh hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Trường Chinh viết thư cho tôi cho biết là tình hình thảo luận khá gay go, nhất là vấn đề đổi tên Đảng, thậm chí có đại biểu đặt vấn đề gay gắt là đổi tên Đảng vậy có còn Đảng cộng sản nữa không, đổi tên Đảng là đụng chạm đến tình cảm, truyền thống, là xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin… Tình hình trên được báo cáo lên Bác. Hôm sau, trong buổi họp ở Hội trường, Bác chỉ nêu 2 ý: một là Quốc tế cộng sản chủ trương làm Cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản, vậy có phải nơi nào cũng làm cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản như nhau không? Thứ hai, chủ nghĩa Mác – Lênin là gì? Nói tóm tắt là ích quốc lợi dân, điều gì đưa lại quyền lợi cho nhân dân, đều là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng chí Trường Chinh viết tiếp: “Sau khi nghe Bác giải thích gọn gàng, thuyết phục, cả hội trường đứng dậy vỗ tay vang dậy tán thành”. Cuối cùng đồng chính Trường Chinh nhận xét là các đồng chí ta còn giáo điều và cũ lắm, toàn Đại hội và toàn Đảng đã hoàn toàn nhất trí với việc lấy tên “Đảng Lao động Việt Nam” và với cương lĩnh mới.

Đạo Đức là gì? - Cháu ruột Bác Hồ, Thượng Toạ Thích Chân Quang

Đạo Đức là gì?

- Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được chuyển hóa, an vui, lợi ích.
Như vậy, Đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định lại là Đạo đức không phải là hành vi hay lời nói bên ngoài. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Đạo đức là gốc của những hành vi lời nói tốt đẹp bên ngoài.

Một nội tâm tràn đầy Đạo đức thì luôn luôn bị thúc đẩy phải đối xử tử tế với mọi người, phải đem an vui lợi ích cho mọi người. Nếu chúng ta không thấy mình xấu, nhưng không hề bị thúc đẩy phải cư xử tốt với mọi người thì hãy biết rằng mình chưa có Đạo đức sâu sắc.

Khuynh hướng vị tha được xem là Đạo đức vì khuynh hướng đó luôn khiến chúng ta quan tâm đến những người khác, thậm chí còn hơn lo cho bản thân mình. Vì lúc nào cũng hay quan tâm đến người nên chúng ta nhanh chóng phát hiện ra nỗi khổ, niềm đau, sự khó nhọc, cơn bệnh hoạn của người để tìm cách giúp đỡ. Có khi chúng ta chỉ giúp một lời nói, một ly nước, một viên thuốc, hoặc có khi cả một số tiền lớn… để giúp người qua lúc khó khăn.

Tâm khiêm hạ được xem là Đạo đức vì tâm lý đó luôn thúc đẩy ta phải tôn trọng mọi người. Sống trên đời ai cũng cần được tôn trọng, cần được xem là có giá trị, vì thế khi ta biết tôn trọng chân thành người khác cũng là đem an vui đến cho người. Nhưng muốn tôn trọng người thì ta đừng thấy mình hơn người, nghĩa là ta phải thấy được mình nhỏ bé kém cỏi.

Khuynh hướng kín đáo cũng được xem là Đạo đức vì khuynh hướng này khiến ta không khoe khoang để đi đến tự cao vô ích. Khi ta kín đáo không bày tỏ tài năng, tài sản, thành công, công đức của mình cũng là nhường cho người khác có thêm giá trị vì không bị cạnh tranh bởi sự nỗi bật của mình.

Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng tâm lý đạo đức ở những bài sau.

Nguồn:

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...