Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa-đạo đức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn văn hóa-đạo đức. Hiển thị tất cả bài đăng

Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc

"Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc - nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó - tức là giết chết dân tộc đó".

Milan Kundera.

Bài giảng "Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc"


Thượng Toạ Thích Chân Quang, thế danh Vương Tấn Việt, cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Huy, tức cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh của Hồ Chủ Tịch; viện chủ Thiền tôn Phật Quang (thung lũng núi Dinh, Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu, cách chùa Thị Vải ở núi Thị Vải của cô Lê Thị Huệ không xa), chùa Viên Quang (huyện Nam Đàn, tình Nghệ An) và Thiền thất Bảo Quang (huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh).

Nếu chỉ có đời sống vật chất, thì con người bằng ngang với các loài thú khác (*)

Nếu chỉ sống bằng vật chất, con người sẽ chỉ bằng ngang với thân phận các giống loài khác (*)

[…] Con người có 3 điều trong cuộc sống này:
- Thứ nhất là đời sống vật chất.
- Thứ hai là đời sống tinh thần.
- Thứ ba là đời sống tâm linh.

Đời sống vật chất: Ta cần ăn, mặc, ở, cần không khí để hít thở, đó là nhu cầu cơ bản về vật chất. Rồi sau này khi cuộc sống ngày càng phát triển thì ta cần thêm nhiều thứ khác, thêm giày dép, thêm điện thoại, thêm xe hơi… Tất cả đều là vật chất phục vụ cho đời sống.

Đời sống tinh thần: Đó là kiến thức, quan điểm sống, đạo đức sống, những hiểu biết, những tương quan, tình thân ái giữa người và người …


Đời sống tinh thần rất quan trọng. Sở dĩ ta được làm người là do có một đời sống tinh thần phong phú. Bởi nếu chủ sống bằng vật chất, con người sẽ chỉ bằng ngang với thân phận của các giống loài khác. Ví như trong cuộc sống, người nào chỉ quan tâm đến nhu cầu hưởng thụ vật chất là ăn, uống, mặc, ở thì con người đó vẫn còn tương đương với loài thú, mặc dù có tiến bộ hơn một chút là tiện nghi cao cấp hơn mà thôi. Ta xây nhà thì thú chỉ đào hang, làm tổ; ta ăn thức ăn được nấu chín, còn thú thì ăn sống; ta biết dệt vải may đồ để mặc, thú thì không mặc áo quần.

Loài người muốn vượt lên trên khỏi loài thú, mang đến một nền văn minh giá trị cao trong vũ trụ này thì con người cần có một đời sống tinh thần phong phú. Tinh thần bao gồm kiến thức và tình cảm.

Kiến thức có thể được định nghĩa nôm na là sự hiểu biết về một vấn đề, một hiện tượng nào đó (gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, kỹ năng…) có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục. Con người tuy nhỏ bé nhưng đã dần khám được cả vũ trụ bao la rộng lớn. Chúng ta biết ngôi sao này cách ngôi sao kia bao nhiêu nghìn năm ánh sáng, ngôi sao này quay quanh ngôi sao kia với vận tốc bao nhiêu vòng… Chỉ cần phân tích ánh sáng phát ra từ một hành tinh mà chúng ta biết được hành tinh đó có những loại vật chất gì. Đó là kiến thức, chính kiến thức cao siêu đó khiến con người cực kỳ có giá trị dù rằng nếu xét trên kích thước, con người không bằng hạt bụi trong vũ trụ bao la.

Còn tình cảm là sự rung động, là thái độ của con người trong mối tương quan đối với những sự vật, hiện tượng, với người khác và với chính bản thân. Trong sự tương quan với nhau, con người biết yêu thương, tử tế, tôn ti trật tự. Đối với cha mẹ biết hiếu kính, nuôi dưỡng, thờ phụng; đối với con cái biết yêu thương, răn dạy nghiêm khắc cho con nên người; đối với thầy giáo thì một lòng ân nghĩa không quên; đối với những người lãnh đạo có công với đất nước thì một lòng cũng trung thành, kính trọng; đối với những người lớn tuổi, đi trước thì dù cho ta có quyền cao chức trọng, ta vẫn luôn trân trọng, lễ phép. Tức là sự tương quan giữa người và người trong nền văn hoá, nhất là văn hoá của dân tộc Việt Nam ta thật sâu sắc, nền nã, đằm thắm, không thể thay thế.

Tuy nhiên, một số người Việt Nam có tư tưởng thần tượng văn hoá phương Tây, bởi vì đời sống vật chất và khoa học ở nhiều nước phương Tây quá phát triển. Nếu chỉ dừng lại ở việc yêu mến và chắt lọc những điều hay để học hỏi thì việc này không có gì phải bàn cãi. Nhưng điều đáng nói ở đây là họ luôn cho rằng bên Tây phương cái gì cũng tốt, cái gì Tây phương làm đều là đúng. Họ tiếp cận với nền văn hoá nước ngoài chủ yếu là một chiều, thông qua sách báo, tranh ảnh, internet… Họ thấy xã hội phương Tây không có những văn hoá như Việt Nam nên vội vàng kết luận rằng văn hoá của Việt Nam là lạc hậu, là lỗi thờ. Họ cho rằng cách sống tự do, đề cao cái tôi và chú trọng tới sự hưởng thụ mới là văn minh tiến bộ. Họ không biết rằng, chính vì lối sống đó mà tinh thần người phương Tây đầy bất an, rất dễ bị stress, trầm cảm, không kiểm soát được hành vi, không tự cân bằng được cuộc sống, các bệnh lý về tâm thần kinh xảy ra thường xuyên hơn.

Điều đó cho thấy mặc dù dư dả về vật chất nhưng phương Tây vẫn cần phải học phương Đông nhiều về chiều sâu trong cách đối xử giữa người với người. Tiếc rằng những tình cảm tốt đẹp hợp đạo lý của tổ tiên chúng ta chưa được quy định thành những công thức cụ thể cho các thế hệ con cháu ngày nay hiểu được tầm quan trọng của việc giữ gìn, kế thừa và phát huy. Nên rất nhiều người đã mải mê đi du học nước ngoài mà quên mang theo những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc để giới thiệu với bạn bè thế giới. Họ chưa ý thức được rằng còn rất nhiều điều quý giá tồn tại lâu đời ở đất nước Việt Nam này xứng đáng để thế giới phải hướng về học tập.

Thế hệ trẻ của Việt Nam cũng vậy. Có thể một lúc nào đó, chúng ta đã từng xao lãng với những giá trị truyền thống vì sớm được tiếp cận dễ dàng với rất nhiều nền văn hoá khác nhau. Nhưng giờ đã đến lúc nhìn lại, dân tộc ta có Đạo Phật đồng hành bao nhiêu năm nay, giáo lý của Đạo Phật đã in sâu vào từng nếp sống, từng cách nghĩ, từng việc làm của cha ông chúng ta và cả thế giới này đang hướng về Đạo Phật để tìm hiểu và kính ngưỡng. Vì vậy, xin hãy trở về với cội nguồn văn hoá tâm linh của dân tộc. Để rồi kiến thức ấy, tình cảm ấy hợp thành một đời sống tinh thần ngày càng phong phú, khiến cho con người vượt lên, bỏ xa hẳn loài thú.

Trong đời sống tinh thần có một yếu tố rất quan trọng là đạo đức. Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người xung quanh được chuyển hoá, an vui và được nhiều lợi ích.

Người có đạo đức thường biết phân biệt giữa đúng sai, phải trái mà lựa chọn cách cư xử cho đàng hoàng, thích hợp.

Trên thế giới, xã hội nào cũng có luật pháp nhưng nếu trong đó con người sống thiếu đạo đức thì xã hội sẽ hỗn loạn dù cho pháp luật có cứng rắn đến đâu đi chăng nữa. Vì sao? Vì con người tạo ra luật pháp được thì con người cũng có cách để lách khỏi luật pháp đó. Thiếu đạo đức, một quan chức vẫn có thể tham nhũng, một người dân vẫn có thể hối lộ để đạt được mục đích của mình một cách không chính đáng. Cho nên, chỉ khi có đạo đức thì người làm quan sẽ thanh liêm, thượng tôn pháp luật, lo cho dân cho nước, còn người dân thì vừa biết lo bổn phận đối với gia đình mình, vừa biết lo cống hiến phụng sự cho cộng đồng, cho xã hội, cho đất nước.

Đạo đức cá nhân được xây dựng từ sự tự giác của mỗi người, không phải từ sự bắt buộc, cưỡng bách của luật pháp và quyền lực. Vậy làm sao để người ta có được đạo đức một cách tự nguyện? Chính luật Nhân Quả đã làm được điều kì diệu này. Khi tin chắc vào luật Nhân Quả, hiểu biết về đường đi của luật Nhân Quả, biết rằng gieo nhân nào gặt quả đó thì người ta biết chọn nhân để gieo, không dại khờ gì gieo nhân xấu xa ác độc để rồi phải chịu đau khổ. Con người sẽ sống biết kiềm chế lại trước những việc xấu ác, tích cực làm những việc thiện lành tốt đẹp để có được những quả lành. 

Nói như vậy không có nghĩa là ai tin nhân quả cũng là người tốt. Vì sao vậy? Bởi vì khi có chuyện bất như ý xảy ra, tham sân si trong lòng sẽ nổi lên khiến tâm trí con người trở nên mịt mờ, mất đi sự sáng suốt và rồi người ta vẫn làm điều sai trái, độc ác như thường. Cho nên, bên cạnh việc tin hiểu nhân quả, chúng ta còn cần phải đến chùa tu tập hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng để diệt đi cái tham sân si vốn luôn có sẵn trong lòng mình […].

(*) Trích đoạn từ bài giảng “Đừng đi một mình” – Thượng Toạ Thích Chân Quang, thời điểm 00:23:17:  https://youtu.be/kyiX73j4uIs?t=23m17s 

Tương ứng với trích đoạn từ trang 33 đến trang 43 của sách Đừng đi một mình, song ngữ Anh – Việt của Thượng Toạ Thích Chân Quang, do NXB Tổng hợp Tp. HCM ấn hành.

Đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam...

Đạo Phật luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam và thật sự đã trở thành một Đạo, một tôn giáo của người Việt Nam … (*)

[…] Sau khi Đức Phật nhập diệt, giáo lý của Người để lại truyền bá đi khắp nơi, tràn về phương Đông và về nước ta từ rất sớm. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thời Hùng Vương thứ XVIII và người Phật tử đầu tiên chính là Chử Đồng Tử – chồng của công chúa Tiên Dung. Đã có một thời gian, nhiều nhà sư của Việt Nam sang Trung Hoa để dạy đạo, như Ngài Khương Tăng Hội. Ngài là một vị tăng nổi tiếng của Việt Nam. Chính vua của nước Ngô là Tôn Quyền đã phải mời Ngài sang giảng đạo. Rồi sau này có một thời gian Đạo Phật ở Việt Nam bị suy, các vị tăng ở Trung Hoa lại sang Việt Nam giảng đạo khiến nhiều người lầm tưởng Đạo Phật đến Việt Nam sau Trung Hoa, sự thật không phải như vậy.

Trước khi Đạo Phật về Việt Nam, nhân dân ta không có những tín ngưỡng rõ rệt. Khi đó ta chỉ thờ Quốc tổ của mình là Cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ và các đời vua Hùng mà thôi. Đến khi Đạo Phật vào Việt Nam mang theo đạo lý Nhân quả Nghiệp báo, rất phù hợp với lương tâm và cách sống của người dân Việt nên Đạo Phật được nhân dân dễ dàng tiếp nhận. Trải qua bao nhiêu nghìn năm đồng hành cùng dân tộc Việt Nam, Đạo Phật trở thành tôn giáo của dân tộc, không còn là Đạo của Ấn Độ nữa. Người dân thương yêu mái chùa, thường đến chùa lễ Phật, nghe tiếng kinh thiêng, tiếng chuông ngân nga thong thả lúc hôm sớm, chiều khuya… Cứ như vậy mà trở thành một nếp sống cao đẹp của cả dân tộc từ bao đời nay. Rồi dần dần đạo lý nhân quả, từ bi thấm sâu vào từng người dân, từng xóm làng và vào cả dân tộc, kết hợp với lòng yêu nước và tín ngưỡng thờ quốc tổ, thờ Cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ đã tạo thành một nền tâm linh thiêng liêng rất thiêng, rất đặc biệt của dân tộc ta.

Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, có rất nhiều chiến thắng oanh liệt đã đi vào lịch sử, để lại những dấu chấm hỏi mãi chưa ai có thể trả lời tường tận: “Sức mạnh của dân tộc nhỏ bé ấy từ đâu ra”. Ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông” là một trong những sự kiện lịch sử không thể nào quên. Lúc đó, vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên hết cả thế giới này, dường như chỉ biển cả mới ngăn được bước chân của họ. Ngay như Trung Hoa rộng lớn và hùng mạnh cũng bị Mông Cổ chiếm sạch, lập nên triều đại nhà Nguyên. Vậy mà cả ba lần dẫn quân sang đánh chiếm Việt Nam, Mông Cổ đều phải ê chề trở về trong thất bại.

Đầu thế kỷ XIII (13), Trần Thủ Độ âm thầm cài đặt thế lực cho riêng mình để cướp ngôi nhà Lý. Ông đưa người cháu ruột là Trần Cảnh vào cung vua và gả cho Lý Chiêu Hoàng (vị vua thứ 9 của triều Lý), lúc bấy giờ cả hai vị vua còn rất nhỏ. Sau đó, Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng, và quyền lực từ đó chuyển giao cho nhà Trần. Việc này cả nước đều biết. Chúng ta cũng hiểu tâm tình của người Việt Nam là trung quân ái quốc, nên khi nhà Trần soán ngôi nhà Lý thì chắc chắn không được lòng dân thương mến. Đó là quy luật bình thường vào thời phong kiến xưa.

Nhưng, một điều bất ngờ đã xảy ra.

Khi Trần Cảnh đến tuổi trưởng thành và được Trần Thủ Độ đưa lên làm vua, hiệu là Trần Thái Tông thì trong đêm tối Ngài đã trốn khỏi kinh thành Thăng Long, chạy lên núi Yên Tử để xuất gia tu hành. Việc đó tất nhiên không qua được tai mắt của Trần Thủ Độ. Vua trốn đi trước, Trần Thủ Độ nhanh chóng kéo quân đuổi theo sau. Vua Trần Thái Tông lên đến Yên Tử, lập tức đến gặp Quốc sư Phù Vân đảnh lễ xin xuất gia. Cùng lúc đó, Trần Thủ Độ và quân lý cũng ầm ầm kéo tới.

Vua Trần Thái Tông nói với Trần Thủ Độ:
- Ta còn nhỏ dại, không đủ sức để gánh vác việc nước và triều đình này, tâm nguyện ta một lòng mến Phật, ta chỉ muốn đi tu.
Trần Thủ Độ trả lời với thái độ cương quyết:
- Bây giờ cả giang sơn gấm vóc này đặt lên vai bệ hạ, bệ hạ không thể đi đâu được, nếu bệ hạ ở đây thì đây là kinh đô, thần ra lệnh đóng quân ở đây và xây dựng triều định tại đây ngay.
Quốc sư Phù Vân bèn chắp tay nói với vua Trần Thái Tông rằng:
- Làm vua tức là sống theo lòng dân, lấy tâm của dân làm tâm của mình, bây giờ triều thần đã quyết như vậy thì bệ hạ không thể cưỡng được. Xin bệ hạ hãy quay về gánh vác chuyện non sông đất nước, nhưng cũng đừng xao lãng việc tu hành

Trước lời khuyên của quốc sư Phù Vân, vua Trần Thái Tông đành phải theo Trần Thủ Độ trở lại kinh thành.

Tin đồn về việc trong đêm vua bỏ ngai vàng đi tu ngay sau đó đã lan ra khắp cả nước. Dân ta vốn kính mộ Đạo Phật, khi nghe tin có ông vua không màng ngôi báu mà bỏ đi tu thì ngay lập tức sự ác cảm đối với nhà Trần tan biến, người dân chuyển sang yêu mến nhà Trần như đã từng yêu mến nhà Lý. Chính nhờ lòng dân yêu mến, nhà Trần đã giúp cho dân tộc ta có đủ sức mạnh đoàn kết để ba lần chiến thắng vang dội quân Nguyên Mông hung bạo. Sức mạnh của Đạo Phật là ở chỗ đó. Nhờ một vị vua tin yêu Đạo Phật mà ông được toàn dân yêu mến, và vì được toàn dân yêu mến nên ong có được sức mạnh đoàn kết của toàn dân, tạo nên chiến thắng lẫy lừng mà cả thế giới này không có được.

Cho đến thế kỷ XX (20), trước sự xâm lược của những siêu cường quốc làm bá chủ thế giới là thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, dân tộc Việt Nam đã chiến thắng. Đất nước, con người Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng sức mạnh chiến đấu thật phi thường, thông minh tài giỏi đến lạ lùng.

Phải chăng Việt Nam đã có điều gì đó rất quý giá, quý giá hơn rất nhiều sức mạnh cơ bắp và sức mạnh của khoa học kỹ thuật? Đó chỉ có thể là nguồn tâm linh cao quý của dân tộc, trong đó có Đạo Phật. Từ bao đời nay, giáo lý Đạo Phật đã làm đẹp thêm truyền thống văn hoá giàu bản sắc, đã đồng hành với dân tộc, thấm vào máu của mỗi người dân tinh thần trung quân ái quốc, biết sống có đạo lý, uống nước nhớ nguồn, tin sâu nhân quả, … tạo thành sức mạnh bền bỉ và vô cùng to lớn cho dân tộc chúng ta.

Đi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, mái chùa không những là điểm tựa tâm linh mà còn là nơi nuôi giấu chiến sĩ, cán bộ và cơ sở cách mạng. Khi hoà bình lập lại, chúng tôi được gặp rất nhiều người cán bộ từng được ở trong chùa. Họ gánh vác công việc nhà nước nhưng đồng thời vẫn ăn chay, vẫn ngồi thiền nghiêm túc.

Một lần chúng tôi về thăm một ngôi chùa ở huyện Long Đất (Đồng Nai). Ông Chủ tịch huyện tên là Sáu Sơn thường tới lui qua chùa thăm viếng. Hỏi ra thì ông kể, trong cách mạng ông cũng là người ở trong chùa. Từ nơi chùa, ông chỉ huy chiến đấu cả một lực lượng du kích rất lớn. Ông tin Phật, niệm Phật Quan Âm và những cuộc chiến đấu của ông thường là chiến thắng. Sau khi đất nước hoà bình thống nhất, ông giữ chức Chủ tịch huyện, công việc bận rộn là thế nhưng đêm nào ông cũng ngồi thiền. Ông kể cho chúng tôi nghe về công phu thiền định của ông, về việc ông đã nhập được những tầng bậc thiền định như thế nào, các cảnh giới ông đạt được ra sao… Sau này ông mất rất an lành.

Trải qua mấy ngàn năm thăng trầm của lịch sử, chúng ta thấy rõ ràng Đạo Phật luôn đồng hành và đem lại nguồn sức mạnh âm thầm, bền bỉ cho dân tộc này. Sức mạnh tâm linh đó biến thành sức mạnh chiến đấu, sức mạnh bảo vệ và xây dựng đất nước. Ta hiểu điều này và các thế lực ngoại bang cũng đã kịp hiểu điều này. Vì vậy trong diễn biến hoà bình, để chống phá đất nước ta, họ luôn cố tìm cách thay thế Đạo Phật bằng một tôn giáo khác. Đây là dã tâm muốn bứng đi cội gốc văn hoá tâm linh của dân tộc ta. Nếu ngày nào đó Đạo Phật biến mất, ta sẽ lại trở thành nô lệ cho ngoại bang. Cho nên việc chúng ta tu tập theo Đạo Phật, bảo vệ và giữ gìn Phật Pháp cũng chính là ta đang bảo vệ đất nước mình. Chính cái tâm linh thẳm sâu thiêng liêng trong lòng mỗi người dân đã hợp thành một sức mạnh kỳ lạ, lớn lao để bảo vệ và phát triển đất nước.

Trích đoạn gõ lại từ bài giảng Đừng đi một mình của Thượng Toạ Thích Chân Quang, thời điểm 00:11:34 https://youtu.be/kyiX73j4uIs?t=11m35s

Tương ứng với trích đoạn từ trang 23 đến trang 33 của sách Đừng đi một mình, song ngữ Anh – Việt của Thượng Toạ Thích Chân Quang, do NXB Tổng hợp Tp. HCM ấn hành.

Đạo Đức là gì? - Cháu ruột Bác Hồ, Thượng Toạ Thích Chân Quang

Đạo Đức là gì?

- Đạo đức là những khuynh hướng tốt trong tâm ta, mà những khuynh hướng đó tạo nên những lời nói và hành vi bên ngoài khiến cho mọi người chung quanh ta được chuyển hóa, an vui, lợi ích.
Như vậy, Đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ở bên ngoài. Chúng ta khẳng định lại là Đạo đức không phải là hành vi hay lời nói bên ngoài. Đạo đức chỉ chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Đạo đức là gốc của những hành vi lời nói tốt đẹp bên ngoài.

Một nội tâm tràn đầy Đạo đức thì luôn luôn bị thúc đẩy phải đối xử tử tế với mọi người, phải đem an vui lợi ích cho mọi người. Nếu chúng ta không thấy mình xấu, nhưng không hề bị thúc đẩy phải cư xử tốt với mọi người thì hãy biết rằng mình chưa có Đạo đức sâu sắc.

Khuynh hướng vị tha được xem là Đạo đức vì khuynh hướng đó luôn khiến chúng ta quan tâm đến những người khác, thậm chí còn hơn lo cho bản thân mình. Vì lúc nào cũng hay quan tâm đến người nên chúng ta nhanh chóng phát hiện ra nỗi khổ, niềm đau, sự khó nhọc, cơn bệnh hoạn của người để tìm cách giúp đỡ. Có khi chúng ta chỉ giúp một lời nói, một ly nước, một viên thuốc, hoặc có khi cả một số tiền lớn… để giúp người qua lúc khó khăn.

Tâm khiêm hạ được xem là Đạo đức vì tâm lý đó luôn thúc đẩy ta phải tôn trọng mọi người. Sống trên đời ai cũng cần được tôn trọng, cần được xem là có giá trị, vì thế khi ta biết tôn trọng chân thành người khác cũng là đem an vui đến cho người. Nhưng muốn tôn trọng người thì ta đừng thấy mình hơn người, nghĩa là ta phải thấy được mình nhỏ bé kém cỏi.

Khuynh hướng kín đáo cũng được xem là Đạo đức vì khuynh hướng này khiến ta không khoe khoang để đi đến tự cao vô ích. Khi ta kín đáo không bày tỏ tài năng, tài sản, thành công, công đức của mình cũng là nhường cho người khác có thêm giá trị vì không bị cạnh tranh bởi sự nỗi bật của mình.

Chúng ta sẽ đi sâu vào phân tích từng tâm lý đạo đức ở những bài sau.

Nguồn:

NÓI CHUYỆN VỚI SINH VIÊN VÀ CÁN BỘ VIỆT NAM ĐANG HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC Ở MÁTXCƠVA

Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô là một Đại hội có ý nghĩa vĩ đại: Đại hội của những người xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đại hội có ý nghĩa to lớn không những đối với Liên Xô mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phe xã hội chủ nghĩa, đối với nhân dân lao động thế giới. Các cô, các chú, các cháu đã theo dõi công việc của Đại hội, Bác không cần nói nhiều, Bác chỉ nói một điều là trong cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô có một đoạn nói đại ý rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa cộng sản phải có những con người cộng sản chủ nghĩa, nghĩa là phải có những người có đạo đức cộng sản. Nước ta cũng áp dụng đúng tinh thần như thế: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đạo đức xã hội chủ nghĩa không phải ở đâu cũng biểu hiện giống nhau. Ở nước ta, đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà. Mọi người thi đua học tập theo cách xã hội chủ nghĩa, lao động theo xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa. Các cô, các chú, các cháu ở đây thì thi đua học tập để về nước phục vụ việc xây dựng nước nhà.

Nói ngày 29-10-1961.
Theo tường thuật của
báo Nhân dân, số 2781,
ngày 2-11-1961.

Karl Marx và Friedrich Engels có phủ nhận Đạo đức hay không?

"Коммунисты вообще не проповедуют никакой морали... Они не предъявляют людям морального требования: любите друг друга, не будь­те эгоистами и т. д.; они, наоборот, отлично знают, что как эгоизм, так и самоотверженность есть при определенных обстоятельствах необ­ходимая форма самоутверждения индивидов."

К.Маркс и Ф.Энгельс

Nguồn: Sách của Angel viết về Mác có tên là "Mác thần thánh"
và Mác toàn tập (có thể đã bị lược bỏ trong bản tiếng Anh, tiếng Việt) nhưng còn trong toàn tập tiếng Nga, tập 3, trang 236.

"Мораль - это "бессилие в действии". Всякий раз, как только она вступает в борьбу с каким-либо пороком, она терпит поражение."

К.Маркс

Nguồn: Có ở nhiều nguồn, một nguồn trong số đố là sách sưu tầm các châm ngôn của các vĩ nhân, tác giả Eremishin xuất bản năm 2006.

Thời Thổ Tả tạm dịch:

"Những người Cộng sản nhìn chung không cổ xúy bất cứ đạo đức nào... Họ không đòi hỏi mọi người phải có những đạo đức như: yêu thương lẫn nhau, không được làm kẻ ích kỷ và tương tự; họ, trái lại biết rõ, cả tính ích kỷ, cũng như tính hy sinh trong những hoàn cảnh nhất định là hình thức cá nhân tự khẳng định cần thiết".

K. Marx and F. Engels

"Đạo đức - là sự “yếu đuối trong hành động”. Mỗi khi, ngay lúc nó (đạo đức) can dự vào cuộc đấu tranh với thói hư tật xấu nào đó, nó chờ đợi thất bại".

K. Marx

Câu trả lời, xin nhường lại cho bạn đọc.

Quyền trẻ em (Child Rights) và Tự do tình dục (Sexual Liberation) là hai công cụ mà Chủ nghĩa đế quốc (Imperialism) sử dụng để thống trị loài người về văn hoá

Quyền trẻ em (Child Rights) và Tự do tình dục (Sexual Liberation) là hai công cụ mà Chủ nghĩa đế quốc (Imperialism) sử dụng để thống trị loài người về văn hoá

1.    Vì sao để xâm lược và duy trì sự cai trị, chủ nghĩa đế quốc luôn phải bứng tận gốc rễ văn hoá bản sắc truyền thống của dân tộc bản địa?
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, họ truyền đạo, dẹp đi bàn thờ ông bà tổ tiên. Thánh Kinh đã đi trước, súng đạn nối bước theo sau. Khi xâm lược châu Mỹ, Thực dân Anh và Tây Ban Nha cũng truyền đạo, họ thảm sát người da đỏ bản địa đến đâu, thì truyền đạo đến đó. Sau khi xâm lược Việt Nam, ngay lập tức Pháp dựng lên những nhà thổ, tiệm rượu, và nhà buôn thuốc phiện. Theo con số thống kê mà nhà báo Nguyễn Ái Quốc công bố, 12 triệu người Việt mỗi năm nốc 24 triệu lít rượu, tính cả đàn bà, trẻ nít [1]. Sau khi liên quân tám nước xâu xé thành công Trung Quốc, ngay lập tức mọc lên những nhà thổ, nhà buôn thuốc phiện. Các cô gái ở nông thôn lũ lượt rũ bỏ bộ đồ nhà quê, khoác lên mình bộ xườn sám theo cách phong cách Âu Mỹ (gợi dục, xẻ lên cao một cách táo bạo), để làm gái điếm. Ngay sau khi Diệm lên nắm quyền ở miền nam Việt Nam, hàng trăm nghìn quyển sách khiêu dâm, đồi truỵ lan tràn khắp mọi ngõ ngách miền nam, mà nhất là ở đô thành Sài Gòn.
Tại sao? Tại sao chủ nghĩa đế quốc phải làm những công việc đó? À, đó là vì, để khuất phục một dân tộc đời đời kiếp kiếp cúi đầu khom lưng làm nô lệ, chủ nghĩa đế quốc buộc phải BỨNG TẬN GỐC RỄ VĂN HOÁ BẢN SẮC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC đó. Xin nhấn mạnh hai chữ "bản sắc", nghĩa là văn hoá rất đặc thù, không lẫn lộn. Vì hễ còn ý thức về văn hoá truyền thống thì cho dù dân tộc đó bị cai trị trăm năm, nghìn năm, triệu năm, dân tộc đó vẫn đứng bật lên quét sạch mọi quân thù ra khỏi bờ cõi.
Để khuất phục một dân tộc đời đời kiếp kiếp cúi đầu khom lưng làm nô lệ, chủ nghĩa đế quốc buộc phải BỨNG TẬN GỐC RỄ VĂN HOÁ BẢN SẮC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC đó

Tại sao tổ tiên ta nghìn năm Bắc thuộc, nhưng vẫn bất khuất quật cường? Đó là vì chúng ta bảo vệ được bản sắc văn hoá dân tộc. Dĩ nhiên, giữa chúng ta và Trung Quốc có sự giao thoa về văn hoá, ở một chừng mực nào đó, vì dù sao Người Cha của dân tộc ta là Cha Lạc Long Quân, cũng là người Trung Quốc. Nhưng sự giao thoa đó không là gì cả nếu so với những bản sắc văn hoá đặc trưng của ta.
2.    Chủ nghĩa đế quốc làm gì để BỨNG TẬN GỐC RỄ VĂN HOÁ BẢN SẮC TRUYỀN THỐNG CỦA MỘT DÂN TỘC?
Vậy thì, chủ nghĩa đế quốc làm gì để BỨNG TẬN GỐC RỄ VĂN HOÁ BẢN SẮC TRUYỀN THỐNG CỦA MỘT DÂN TỘC? Muốn trả lời câu hỏi này, ta phải hiểu, cái gì là gốc rễ của văn hoá bản sắc truyền thống của một dân tộc? Là gì ạ? Là những GIA ĐÌNH BỀN VỮNG [2]. Mỗi một gia đình Việt Nam hạnh phúc, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, có trách nhiệm nuôi nấng dạy dỗ con, con cái hiếu kính cha mẹ, lễ phép với người lớn, tôn sư trọng đạo, anh chị thương yêu em, em kính trọng anh chị ... Một gia đình có được những điều đó thì vô cùng bền vững. Và, gia đình bền vững đó, chính là những cái nôi của văn hoá bản sắc truyền thống dân tộc, cũng chính là thành trì vững chắc bảo vệ Tổ Quốc trước mọi mưu đồ xâm lăng, dù là chủ nghĩa Sô Vanh Đại Hán, chủ nghĩa Phục Quốc Do Thái hay chủ nghĩa Đại Hồi.
Mất gia đình bền vững là mất văn hoá dân tộc. Mất văn hoá dân tộc là mất nước, mất chế độ.
Muốn xâm lược Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc chỉ cần băm nát gia đình Việt Nam ra, là thành công. Băm nát được gia đình Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc đã xâm lược được Việt Nam, còn lại chỉ là vấn đề thời gian.
Mất gia đình bền vững là mất văn hoá dân tộc. 
Mất văn hoá dân tộc là mất nước, mất chế độ.

Để băm nát gia đình Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc phải: (1) kích động con cái chống lại cha mẹ, học trò chống lại thầy cô, người nhỏ tuổi chịu ảnh hưởng lối sống Âu Mỹ chống lại thế hệ trước, và (2) tuyên truyền lối sống hưởng thụ ích kỷ, tự do phóng đãng về tình dục để làm nhạt màu tất cả những giá trị bản sắc văn hoá vốn cao đẹp, cao thượng và nhân văn.
Vậy thì, công cụ hiệu quả nhất, để chủ nghĩa đế quốc thực hiện hai điều đó là gì? Là QUYỀN TRẺ EM và TỰ DO TÌNH DỤC.
3.    Quyền trẻ em.
Quyền trẻ em là gì? Là một bộ luật cho phép trẻ em được những điều ở mục (1): chống lại cha mẹ, chống lại thầy cô và chống lại thế hệ đi trước. Một nghìn người cha mẹ thì bao nhiêu người cha mẹ thương yêu con, nuôi nấng dạy dỗ con; bao nhiêu người cha mẹ đánh đập, đối xử tệ với con? Trường hợp nào là đa số? Một nghìn trường hợp ý kiến của cha mẹ khác ý kiến con trẻ, thì bao nhiêu trường hợp ý kiến con trẻ đúng hơn ý kiến cha mẹ? Trường hợp nào là đa số? Vậy một bộ luật ra đời, dựa trên những trường hợp thiểu số rất cá biệt, bộ luật đó có đúng đắn, có khôn ngoan, có trí tuệ không? Thật khó hiểu khi ở những nước thường tự cho mình là văn minh, trong đó có nước Mỹ, lại chấp nhận ban hành một bộ luật phục vụ cho thiểu số, tước đoạt quyền nghiêm khắc dạy dỗ con cái của cha mẹ, góp phần đánh vỡ cấu trúc gia đình bền vững. Trong phim Mỹ, không khó để ta thấy cảnh tượng con cái lớn tiếng, sùng sộ, trợn mắt với cha mẹ. Hình ảnh ấy, là nỗi buồn của một nền văn minh đang tàn lụi.

Bản chất của Quyền trẻ em là tước đoạt trẻ ra khỏi vòng tay của cha mẹ, đánh vỡ ngay từ trong trứng nước mối quan hệ cha mẹ - con cái, từ đó nền tảng bền vững của gia đình bị lung lay tận mống!

Sau khi kích động được sự nổi loạn, sự bùng nổ cái tôi (bản ngã) của lớp trẻ, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục nhồi sọ các em bằng đòn thứ hai: Tự do tình dục. Tự do tình dục và quyền trẻ em là anh em sinh đôi. Khi cái tôi (bản ngã) được kích động (cùng lúc với độ tuổi phát dục vốn có nhiều xáo trộn trong tâm sinh lý) bằng quyền trẻ em, các em bị đẩy ra xa khỏi vòng tay gia đình, yêu sớm hơn, sống thử trước hôn nhân, thì việc lớp trẻ dần dần hình thành khuynh hướng Tự do tình dục, là một hệ quả tất yếu.
Chủ nghĩa đế quốc kích động cái tôi, khiến lớp trẻ nghĩ rằng, bản thân luôn có gì đó đặc biệt, là trung tâm của tất cả, thấy mình luôn có điều gì đó hơn mọi người. Cái ý nghĩ "thấy mình luôn có điều gì đó hơn mọi người" là ý nghĩ tự cao. Mà một người tự cao, chắc chắn là một người nặng về tình dục, tiến trình tâm sinh lý này đã được Đức Siddhārtha Gautama - bậc Thầy vĩ đại của Trời Người, ông tổ của ngành Tâm lý học, chứng minh và tuyên thuyết quá nhiều trong suốt 45 năm hoằng dương chánh pháp, nên không có gì khó hiểu, khi một người tự cao luôn dễ dàng chấp nhận lối sống Tự do tình dục. Quyền trẻ em tạo ra sự kiêu mạn nơi trẻ, chuẩn bị sẵn đống rơm, Tự do tình dục chỉ việc quẳng vào một can xăng và châm lửa. Ngọn lửa dâm dục sẽ thiêu đốt tâm hồn lớp trẻ ở nước bản xứ, bứng tận gốc rễ, thiêu rụi bản sắc văn hoá ở đó, để chỉ còn lại một thứ “văn hoá đế quốc chủ nghĩa” tự tư tự lợi, ích kỷ, hưởng thụ và dâm đãng.
4.    Tự do tình dục.
Tự do tình dục là gì? Tự do tình dục, hiểu một cách nôm na, là một phong trào, một khuynh hướng, một quan điểm cho rằng tự do thoả mãn ham muốn tình dục khi cơ thể có sự đòi hỏi, là một điều đúng đắn. Khuynh hướng tự do tình dục biểu hiện ở những hành vi sau:
1.    Hành vi thủ dâm (Masturbation) nhiều, trước và trong hôn nhân, có hoặc không có sử dụng đồ chơi tình dục, búp bê tình dục.
2.    Hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân, sống thử.
3.    Mức độ sinh hoạt tình dục (sexual performance) cao và chấp nhận những tư thế tình dục, những hành vi tình dục có tính thống trị. Ví dụ như quan hệ tình dục bằng miệng (blow job, oral sex), bằng tay (hand job) hay những tư thế quan hệ tình dục mà ở đó tạo cho người nữ hoặc người nam một tâm lý quái đản rằng họ đang thống trị người bạn đời. Tâm lý thống trị là một hệ quả của tâm lý khát khao quyền lực ngủ ngầm trong tất cả mọi người, khi tâm lý thống trị này xuất hiện ở những người nặng về tình dục, nó khiến cho khoái cảm họ đạt được trong khi giao hợp là tột độ vì tâm lý thống trị kích động tâm lý kiêu mạn, tâm lý kiêu mạn như rơm và xăng, rơm và xăng càng nhiều thì lửa khoái cảm càng bùng cháy mãnh liệt, mãnh liệt đến tột cùng. Dĩ nhiên, cái giá của sự tột cùng này là sự băng hoại, đổ vỡ nhân cách và lạc lõng tâm hồn của chính họ, đồng thời là sự rạn vỡ lòng kính trọng giữa hai người đối với nhau.
Bản chất của Tự do tình dục là kích động ham muốn tình dục của con người, kéo sập cấu trúc gia đình, bứng tận gốc rễ mọi văn hoá bản sắc truyền thống của dân tộc bản địa, để chỉ còn lại một thứ lối sống đế quốc chủ nghĩa tự tư tự lợi, thiếu trách nhiệm, ích kỷ đố kỵ, phóng túng, dâm đãng, cặn bã.

Tại sao, tại sao khuynh hướng tự do tình dục mà cụ thể là 3 biểu hiện hành vi trên là không đúng? Đúng và sai nên đứng trên phương diện khách quan lý trí, chúng ta bảo vệ bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc thì phải khẳng định được điều ta bảo vệ là đúng, chứ không phải chỉ bảo vệ bằng một tình cảm yêu nước đơn thuần. Như thế là chưa đủ. Bây giờ ta sẽ cùng đánh giá từng biểu hiện.
Thứ nhất, thủ dâm nhiều là đúng hay sai? Mình nhấn mạnh chữ “nhiều” vì hiếm ai trong đời chưa từng thủ dâm, nhất là thế hệ trẻ. Mình là người thuộc thế hệ trẻ. Mình, cũng đã từng thủ dâm. Nên vấn đề này mình chỉ xin đóng góp quan điểm cá nhân, chứ không dám khẳng định gì mạnh mẽ. Thủ dâm là gì? Là tự mình tạo ra khoái cảm tình dục cho chính mình (1), để thoả mãn sự đòi hỏi, thường kết thúc bằng hành vi xuất tinh (2) đối với người nam. Có một quãng thời gian dài, có lẽ do một số ký ức không được …êm thắm về tính dục ở tuổi thơ, cũng có thể do tâm lý tín ngưỡng tuyệt đối bám chặt trong tâm thức, nên mình đã nhiều lần tìm đến cái chết khi mình không thể chế ngự được ham muốn. Vì mình biết đó là sai. Việc tự tạo khoái cảm (1) sẽ dẫn đến sự yếu đuối của tâm hồn, không làm chủ được tâm hồn, tạo nên phản xạ có điều kiện là hễ có ham muốn, thì thoả mãn. Nếu chẳng may phản xạ có điều kiện này của mình, sau này khi đã có công ăn việc làm, bị người khác lợi dụng để hãm hại sự nghiệp của mình, thì sau? Lỡ sau này mình có vợ, trong lúc nào đó vợ mình mệt mỏi, không muốn quan hệ, nhưng do cái phản xạ có điều kiện này, mình vẫn lao vào vợ  như một con thú đầy dục vọng, thì quả thật mình là người chồng tệ hại, và hạnh phúc gia đình tan vỡ? Lỡ có ai đó lợi dụng sự yếu đuối trước dục vọng của mình, để gài bẫy hãm hại, buộc mình phải làm những điều có lỗi với gia đình, tổ chức, quê hương, tổ quốc thì sao? Còn hành vi xuất tinh (2) sẽ làm tổn hao năng lượng của cơ thể, trong khi năng lượng đó là từ máu của bao nhiêu con heo, con cá, con tôm, con tép, từ máu của bao nhiêu là chúng sinh, từ bao nhiêu là rau củ thực vật lớn dậy trong sự nuôi dưỡng của đất mẹ, của cha mặt trời … Năng lượng đó là từ những giờ phút căng thẳng mưu sinh của ba, từ những giọt dầu ăn bắn đỏ tay của mẹ. Từ những cánh đồng mà người nông dân quằng lưng cày cấy. Thiêu đốt năng lượng chỉ để tạo khoái cảm cho bản thân, lãng phí nó bằng sự xuất tinh, mình nghĩ, có điều gì đó sai sai. Mình là người học dốt, chậm hiểu nên mình sợ những sự sơ xuất, ác độc len lõi trong tâm hồn như thế, mà mình không nhìn thấy. Cũng có thể do sức khoẻ cơ địa mình từ nhỏ rất kém. Vấn đề này mình tạm chỉ xin góp mấy lời như thế, mình xin để ngỏ để mọi người cùng suy ngẫm thêm và chỉ bảo mình thêm bằng chức năng bình luận ở bên dưới ạ.
Thứ hai, sống thử, quan hệ tình dục trước hôn nhân có đúng không, có nên không? Thay cho phần biện giải, mình xin dẫn lại trích đoạn nội dung lá thư của mình gửi cho những anh em đồng bào Hồi Giáo ở An Giang:
“…Hành vi tình dục luôn đi kèm với trách nhiệm. Hành vi tình dục ở đây không phải chỉ là hành vi giao hợp. Cho dù là một cái nắm tay, chạm vai, một nụ hôn, một sự xúc chạm ban đầu về xác thịt …tất cả những điều mơn trớn đó cho đến hành vi giao hợp thật sự, đều phải kèm theo trách nhiệm của hai bên, trong đó, trách nhiệm của người đàn ông là nhiều hơn.
Vì sao phải kèm theo trách nhiệm?
Vì nền tảng của một gia đình bền vững là gì? Là sự kính trọng lẫn nhau giữa chồng và vợ. Khi nào thì sự kính trọng đó là hoàn hảo nhất? Khi cả hai người đều có đạo đức, có lý tưởng sống và “cái đầu tiên” của họ, thuộc về nhau. Không có người đàn ông nào không có chút “gợn sóng” trong lòng về vợ mình, nếu như “cái đầu tiên” của người vợ không thuộc về mình.
Nghĩa là việc kiềm chế ham muốn bằng tình yêu thương vị tha, kính trọng người bạn, chính là yếu tố tạo nên sự bền vững của một gia đình. Mà sự bền vững của một gia đình nhân rộng lên, hình thành sự ổn định của một xã hội. Vậy, chúng ta có thể nói, khuynh hướng dè dặt với tình dục, kiềm chế ham muốn tình dục là khuynh hướng đúng đắn, đạo đức vì khuynh hướng này rèn luyện cho cả hai người con trai, con gái, khả năng yêu thương vị tha, sự trân trọng người bạn của mình với tinh thần trách nhiệm – là nền tảng cho một gia đình bền vững – cũng là nền tảng cho sự ổn định của xã hội.”

Kiềm chế ham muốn tình dục bằng tình yêu thương vị tha, kính trọng người bạn, chính là yếu tố tạo nên sự bền vững của một gia đình

Xã hội không phải có riêng ai, không một cá thể nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối với cộng đồng. Vì lẽ đó, mà lợi ích cá nhân, sự hưởng thụ cá nhân cho dù là sự hưởng thụ rất riêng tư như tình dục, cũng cần được cân đối hợp lý với trách nhiệm cộng đồng. Sống thử là một hành vi, mà ở đó sự hưởng thụ cá nhân đã vượt hơn trách nhiệm cộng đồng, như thế là ích kỷ (trong chính trị, còn gọi là chủ nghĩa cá nhân), thiếu trách nhiệm.
Thứ ba, mức độ sinh hoạt tình dục cao là đúng hay sai? Mình chưa lấy vợ nên mình xin hoãn lại quan điểm của mình về điều này. Nhưng theo mình được biết về Y lý Đông Phương, thì việc sinh hoạt tính dục nhiều sẽ làm hao tổn Chân Âm, dẫn đến sự khó tập trung trong công việc, suy giảm trí nhớ và tai hại nhất là suy giảm khả năng miễn dịch. Đa phần những hệ quả tích cực của sinh hoạt tính dục mà nền y học Âu Mỹ tuyên truyền, đều có sự góp phần không hề nhỏ của một tham số, mà không biết vô tình hay cố ý, bộ máy tuyên truyền của họ đã bỏ qua, đó là tình yêu thương.
Có lần, mình đọc một báo cáo y học của một tổ chức nào đó, ghi rằng việc sinh hoạt tính dục ở người cao tuổi khiến tuổi thọ cao hơn. Và họ đưa ra một loạt so sánh giữa người cao tuổi có gia đình và người cao tuổi độc thân. Nghĩa là họ chỉ thấy được rằng người cao tuổi có gia đình với không có gia đình, chỉ khác nhau ở chỗ có làm tình và không có làm tình. Nhìn nhận như thế là phiến diện. Còn có tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc, cảm giác an toàn... Thật khó hiểu khi những nhà khoa học, những trường đại học lớn có tiếng tăm lại cho rằng hôn nhân, gia đình chỉ là tình dục. Càng khôi hài hơn khi kết luận “khoa học” này lan đi không giới hạn bằng các bộ máy truyền thông khắp nơi thế giới.
Vậy còn những tư thế quan hệ tình dục có tính thống trị thì sao, nó làm tăng khoái cảm tình dục lên tột độ, vậy nó có đúng không?
          Mình nghĩ là không. Dĩ nhiên đây là quan điểm của một thanh niên mới lớn chưa lập gia đình, nhưng hiện tại thì mình nghĩ là không. Vì mình thấy rằng, những hành vi như quan hệ bằng miệng, hay những tư thế kích động khoái cảm thống trị tính dục, đều …dễ làm mất đi sự kính trọng lẫn nhau giữa vợ chồng. Không phải vô lý mà ông bà xưa hay dạy vợ chồng lấy nhau phải “tương kính như tân”, “vợ không được thay áo trước mặt chồng”, “suốt đời xem nhau như khách quý”. Vì ông bà ta nhận ra rằng đời sống chung đụng của vợ chồng, nhất là đời sống tình dục, rất dễ làm tiêu tan niềm kính trọng lẫn nhau giữa hai người. Trước khi ăn nằm với nhau, người con trai thấy người con gái thật thiên thần dễ mến, “đường xưa lối cũ có em tôi tóc xanh bay mơ màng, đường chiều dịu nắng dáng em đi áo nâu in đường trăng”. Còn người con gái vì ngưỡng mộ, kính trọng tài năng, nhân cách người con trai mà đem lòng yêu thương. Nhưng trong đời sống tình dục, những giá trị lãng mạn, mơ mộng dễ thương đó, hoàn toàn bị khoái cảm bình thường, đôi khi là tầm thường của bản năng xác thịt lấn át, nếu không muốn nói là dập tắt. Sau khi khoái cảm qua rồi, hình ảnh người mình yêu thương bỗng trở nên bình thường, dung dị hơn, lòng kính trọng vì thế cũng phai màu một ít. Và ngày qua ngày, cái một ít đó cứ tích luỹ dần, cộng thêm vào những khuyết điểm, lỗi lầm của cả hai trong cuộc sống, sự “tương kính như tân” cứ thế mà phai màu nhanh chóng. Để rồi đến lúc nào đó, người ta sẵn sàng buông những lời xúc phạm nhau, thậm chí là những cái bạt tai đầy đau đớn. Và hôn nhân tan vỡ. 

Vợ chồng không còn kính trọng nhau, hôn nhân sẽ đổ vỡ.

         Do đó, thay vì đi tìm khoái cảm tột độ trong sinh hoạt tính dục bằng những tư thế quan hệ có tính thống trị, nên chăng, người vợ và chồng nên: một mặt tìm cách tiết giảm ham muốn tình dục, chung vui với nhau trong những niềm vui khác cao thượng hơn như văn học, âm nhạc, hội hoạ, trồng cây xanh, trồng rừng, tập Yoga, tập võ, làm từ thiện, thiền định kiết già tĩnh tâm …, mặt khác khi quan hệ tính dục, vợ và chồng sẽ cùng nhau định ra những câu hỏi, những cử chỉ nhỏ do hai người tự đặt ra, để sự chung vui xác thịt không bào mòn lòng “tương kính như tân”. Ví dụ như trong sự âu yếu, trong từng nụ hôn, ta luôn tự nhắc nhở chính mình gửi vào đó sự kính trọng, ban đầu sẽ chưa quen, nhưng tác ý lâu ngày sẽ quen. Khi đã quen rồi, sau cuộc chung vui xác thịt, lòng kính trọng không những còn nguyên, mà ta còn thấy thương người bạn đời hơn, nhất là người chồng sẽ thấy yêu thương vợ của mình hơn, vì đã bỏ lại gia đình để theo mình, yêu thương mình và thuộc về mình một cách trọn vẹn như thế này. Ý thức trách nhiệm làm chồng, ý thức gia đình sẽ đánh vỡ tâm lý khinh lờn nhau, nên giúp củng cố thêm cho lòng “tương kính như tân”.
          …
5.    Thay lời kết
Quyền trẻ em và Tự do tình dục như hai viên đạn bạc, một viên găm vào đầu, một viên găm vào tim. Nếu không cứu chữa kịp thời, tim sẽ ngừng đập, não sẽ chết, và nền văn hoá bản sắc truyền thống dân tộc sẽ tử vong. Dân tộc sẽ đời đời kiếp kiếp khom lưng, quỳ gối, cúi đầu làm trâu ngựa cho ngoại bang, liếm láp gót giày đầy mùi máu người và thuốc súng của chủ nghĩa đế quốc.
Ở Nhật Bản, từ khi Thánh Đức Thái Tử tuyên bố: “Toàn dân Nhật phải theo Đạo Phật”, thế là ảnh hưởng của Phật giáo, đặc biệt là ảnh hưởng của thiền tông len lỏi, tuôn trào vào mọi ngõ ngách cuộc sống người Nhật, hình thành phong thái sâu sắc, điềm đạm, thâm trầm và trách nhiệm. Những việc tưởng như chỉ dừng lại ở mức nghệ thuật như cắm hoa, uống trà, bắn cung …người Nhật Bản đều nâng lên thành Đạo học. Họ tìm thấy những triết lý sâu xa cao thượng, ẩn sau mọi điều bình dị của cuộc sống. Những câu chuyện về những Thiền sư Nhật Bản với lòng thương yêu vô hạn, tâm bất động nhẫn nhục phi thường, suốt hàng trăm năm sau đó đã lay động, làm thổn thức không biết bao nhiêu con người trên khắp thế giới. Ấy vậy mà, kể từ khi những công ty phim khiêu dâm được hợp pháp ở Nhật, những cảnh tượng dâm dục trơ trẽn được công khai bày bán, có cả những nội dung loạn luân, cưỡng hiếp …người Nhật đang dần dần tụt khỏi tay họ, nền văn minh vĩ đại rực rỡ của họ, trong quá khứ. Đã có những người Nhật biết tiếng Việt sang Việt Nam, đến phòng phát hành sách của một ngôi chùa, đọc những quyển sách như Góp nhặt cát đá – những mẫu chuyện Thiền, rồi bật khóc nức nở. Vì nước Nhật huy hoàng ngày đó đã trôi về nơi góc trời xa xôi …
. . .
Cách đây ít ngày, mình đọc được một confession của một nữ sinh viên, do một người bạn mình chia sẻ trên facebook. Trong confession ấy, bạn nữ sinh viên kể rằng, bạn và người yêu đã sống thử, đến khi có bầu thì người yêu rời bỏ, mọi niềm tin tan vỡ, mọi nụ cười như tắt lặng. Rồi mình chợt nhớ đến quyển sách “Sex và những thứ khác” của Tâm Phan, được in cả thảy 4 lần, mỗi lần 2000 quyển, vị chi là 8000 quyển, trong đó nội dung cổ suý mạnh mẽ lối sống tự do tình dục, quan hệ trước hôn nhân. Người viết lời giới thiệu đầy ngợi khen, là nhà thơ Đỗ Trung Quân. Rồi mình nhớ lại năm ngoái, các rạp phim công chiếu bộ phim dâm đãng 50 sắc thái, nội dung khai thác yếu tố kích dục từ những hành vi khổ dâm (bạo lực tình dục để tạo ra khoái cảm). Mới tháng 8 vừa rồi, VTV2 quyết định phát sóng trở lại phim Sex and the city, trong đó, nội dung xuyên suốt là cổ suý cho 3 hành vi tình dục mình đã dẫn ở trên. Mình là một đứa con nít trong thân xác thanh niên. Mình khá là mít ướt. Có những lần mình lau sạch bụi bám vào ảnh Bác Hồ, mà nước mắt tuôn hoài. Mình thầm hỏi Bác: Bác ơi, nếu Bác còn sống, Bác có chấp nhận cho những điều như thế này xuất hiện lan tràn ở đất nước mình không
Mình nhớ lúc Bác còn sống, có lần Bác đã nghiêm khắc nhắc nhở, răn dạy một anh chiến sĩ ta, đã dán hình của những cô ca sĩ nào đó nơi đầu giường, dù dĩ nhiên là tấm hình lúc bấy giờ chẳng có gì là gợi dục, hở hang. Nhưng Bác vẫn trách, Bác nói với anh chiến sĩ rằng, người phụ nữ duy nhất anh được quyền dán ảnh lên đầu giường hay mang theo trong trái tim của anh, phải là vợ của anh, chứ không phải người con gái nào khác. Phải chung thuỷ ngay từ trong suy nghĩ. Nghe Giáo sư Hoàng Chí Bảo kể câu chuyện đó, mình ngỡ ngàng lắm. Quả thật những nhân cách càng vĩ đại, thì càng tinh tế sâu sắc trong từng điều mà người chậm tiến như mình, tưởng như vô cùng vụn vặt.

“Bác ơi, nếu Bác còn sống, Bác có chấp nhận cho những điều như thế này xuất hiện lan tràn ở đất nước mình không”

. . .
Bài viết đã dài, mình xin phép lắng đọng lại bằng câu hỏi không phải của riêng mình, mà là của tất cả những người Việt Nam yêu nước và ý thức được tầm quan trọng của việc quyết liệt bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc:
Kính thưa ông Trần Bình Minh, giám đốc Đài truyền Quốc gia Việt Nam (VTV), uỷ viên ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ở Đài truyền hình Quốc gia Việt Nam vậy ạ? VTV là Đài truyền hình Quốc gia Việt Nam hay là cái loa tuyên truyền của ngoại bang? Ngày vào Đảng ông đã đập tay lên ngực mà thề thốt điều gì? Ông còn nhớ chứ, ông có cần tôi nhắc?

          VTV đã vi phạm khoản 1 điều 60 của Hiên pháp năm 2013 nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. VTV đã vi phạm điều 253 bộ luật hình sự vì VTV đã "truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ có tổ chức".

           Không những chà đạp lên hiến pháp, công khai phạm pháp có tổ chức, VTV2 còn bán rẻ linh hồn dân tộc, rắp tâm bứng gận gốc rễ văn hoá dân tộc, quỳ gối cúi đầu làm tay sai cho ngoại bang, cho chủ nghĩa đế quốc.

            Bằng tất cả máu và danh dự, tôi khuyên VTV nên dừng lại hành vi dẫm lên văn hoá bản sắc dân tộc và bán nước này. Và phải có lời xin lỗi công khai trước nhân dân Việt Nam!

              Nếu không, các người nhất định sẽ hối hận. 
    Tôi xin lặp lại một lần nữa.
    Các người nhất định sẽ hối hận.

            Hãy nhớ lấy điều này: Đừng bao giờ xúc phạm những giá trị thiêng liêng! Chúng tôi, những người Việt Nam, trong đó có đồng bào Hồi Giáo Việt Nam, luôn biết cách bảo vệ những giá trị thiêng liêng trước sự báng bổ!

[1] Bản án chế độ thực dân Pháp – Nguyễn Ái Quốc.
[2] Tài liệu tham khảo: Bài giảng Gia đình bền vững – TT. Thích Chân Quang: https://www.youtube.com/watch?v=aB01Jb7aGdM.

Xem thêm: TÌNH YÊU VÀ SỰ TRONG SẠCH 16+

duyphanhung@gmail.com

TÌM LẠI BẢN SẮC CHÂU ÂU! P2


I-D chống lại: Dân chủ

"Trong chiều dài lịch sử chưa bao giờ lại có lầm lạc nhất thời và kỳ dị trong tâm trí con người khi mà các nước lớn bầu ra chính phủ để làm nhiệm vụ và sau đó lại bầu ra phe đối lập để ngăn chặn họ làm điều đó. May mắn thay, ngay cả trong cơn ngông cuồng hoang dại nhất của chứng điên thoáng qua này, thì ảo tưởng đó cũng không bao giờ lan rộng ra thế giới kinh doanh, và không có doanh nhân nào ngoài trại tâm thần lại quan sát đội ngũ nhân viên thực hiện các công việc của doanh nghiệp mình, và sau đó thuê thêm các nhân viên khác để ngăn chặn họ làm công việc của họ.”

"Kỳ dị với hậu thế khi xuất hiện nguyên tắc hình thành cùng một lúc chính phủ để thực hiện công việc của quốc gia và phe đối lập để làm hỏng nó… Tuy nhiên, trò hề lạ thường này, lại là không có gì nghiêm trọng - theo nghĩa tinh thần hiện đại, để được thực hiện, và ít nghiêm trọng thậm chí để được thảo luận, để ngày nay đại diện như phương tiện duy nhất giữ các quyền tự do của dân chúng."

-Oswald Mosley, "Ngày mai chúng ta sống- Tomorrow We Live"

Dân chủ là một lực lượng có tổ chức, như Mosley đã chứng tỏ, không có ý nghĩa gì. Dân chủ quả quyết quá nhiều vào ý tưởng rằng "quyền lực suy đồi", và do đó, không một cá nhân nào được có quá nhiều quyền lực, vì sợ đám đông bị mang ách cai trị với những ý tưởng hay mục đích mà họ không thích, điều đó không thể tránh được vì sẽ dần dần "suy đồi”. Đó là triệu chứng chia rẽ xã hội. Như vết nứt xã hội theo cùng dòng tư tưởng, văn hóa-đạo đức và trở nên ít quan tâm đến phúc lợi và sự sống còn của toàn bộ, mà quan tâm nhiều hơn trong "vấn đề", mẫu phổ quát, chế độ bè cánh của nền dân chủ phương Tây trở nên rõ ràng.

Quá trình trở thành "dân chủ" này đòi hỏi chuyển giao quyền lực từ phần lớn tầng lớp quý tộc và truyền thống, cho các nhóm thiểu số nạn nhân “quan tâm", hình thành các liên minh để bao vây và cướp bóc sự giàu có của họ. Cái xã hội bị mê hoặc bởi ý tưởng rằng cá nhân phải được tự do để trở thành bất cứ thứ gì họ muốn tùy ý thích cá nhân (thực tế cả giới tính cũng vậy), và thể hiện điều này bằng việc tham gia vào các nhóm dán nhãn thiểu số lợi ích, sẽ mở rộng ra thành kinh sợ với ý tưởng rằng bất kỳ một nhóm nào cũng có thể nắm quyền lâu dài, khi điều này đòi hỏi trở lại với tư duy của số đông. Sự trở lại này sẽ là nơi đa số vô nghĩa lý, và sự xâm nhập các nhóm dân tộc, một lần nữa sẽ bị hạn chế để duy trì số đông.

Một khi dân chủ có tổ chức, quyền bảo thủ cố gắng bảo tồn truyền thống xã hội và ngăn cản việc không thừa nhận các chuẩn mực văn hóa-đạo đức và nguồn gốc truyền thống của nó, bởi vì điều đó sẽ không được lòng quần chúng, bởi vì nó đặt ra tiêu chuẩn và hành vi thuộc về nó mà không có tính toàn cầu. Những tán tụng cánh tả - bởi vì xã hội giờ có thể bị thúc đẩy để ngày càng toàn cầu nhiều hơn, cho đến khi không còn chuẩn mực xã hội hoặc sự đồng thuận của các giá trị còn lại – là họ có thể tự phong mình cấp tiến để dẫn dắt các hành động của tiến trình được chấp nhận này tiến lên phía trước.

I-D hoàn toàn phản đối các quyết định chính xã hội không có mục tiêu, để làm thất bại các nỗ lực của những người muốn khôi phục lại quyền của đa số trên quyền lợi cá nhân. Không gì có thể đảm bảo mọi người có "nhân quyền" và "tự do" tuyệt đối, ví dụ, bởi vì đây không phải là đánh giá về giá trị, mà là đồng thuận để không có sự đồng thuận về giá trị. Nếu không có chuẩn mực xã hội về những gì là có giá trị, xã hội không thể hoạt động vì nó là vô hướng. Bản sắc truyền thống lúc đó trở thành vô nghĩa khi nhóm văn hóa-đạo đức tan rã trong một tập những cá nhân phù phiếm tự phong thái quá, tất cả những gì những cá nhân này đòi hỏi gây ra nhu cầu công quỹ nhà nước.

Đây là bá chủ toàn trị của chủ nghĩa cá nhân, nơi mà tất cả các nỗ lực văn hóa-đạo đức và đoàn kết bị đè bẹp. Cá nhân đã lựa chọn không giới hạn ngang, anh có thể ngao du khắp thế giới, theo mọi hướng, và với bất kỳ tốc độ nào; anh ta có thể bỏ thì giờ của mình theo đuổi bất cứ điều gì anh ta muốn, thay đổi trang phục, thay đổi chỗ ở, thay đổi lối sống, thay đổi giới tính. Tuy nhiên, mọi suy xét đứng lại bị từ chối. Mọi nỗ lực tự cải thiện quí giá đều biến thành "sở thích" vô hại, ai cũng có thể dỡ bỏ "hàng rào", dựng hình thể và thực hành tôn giáo. Những mục đích trừu tượng “tiến bộ” đòi hỏi tái hội nhập của các cá nhân vào toàn bộ nền văn hóa-đạo đức, khi nó là duy nhất để tất cả có thể thành công cá nhân và chống chọi lại sự suy đồi theo thời gian (vì thế mà ám ảnh chủ nghĩa cá nhân hiện đại và phân tán, với vẻ đẹp và trang điểm, nhưng không thể là tác phẩm của cái đẹp và đẹp chỉ như hiện tượng, trẻ trung, sinh lực, vv). Nó đòi hỏi lãnh thổ phải được kiểm soát một lần nữa bởi nhóm bên trong, bởi "bộ tộc", bởi dân tộc. Nó đòi hỏi phải bỏ qua "nguyện vọng" của đám đông "dân chủ". Nó đòi hỏi rằng cơ chế, chiến tranh cấp độ thấp của nhà nước chống lại các quần chúng khác nhau, được gọi là "thực thi pháp luật" phải bị đình chỉ, do đó, chủ quyền của các bên tham gia địa phươngnhà hoạt động có thể được tự xác định và phán xét, trong thế đối lập với các quốc gia "dân chủ" cai trị.

Bản sắc truyền thống và bảo tồn của họ là chuẩn mực sống đòi hỏi một số nhượng bộ quyền tự do cá nhân. Đây là bản chất của khái niệm "trách nhiệm xã hội, thói xấu cá nhân", hay trách nhiệm xã hội, và lợi ích cá nhân. (Đó chỉ là khi chuẩn mực truyền thống tồn tại mà xã hội và cá nhân được phân biệt như các qui tắc ứng xử xã hội chứ không phải khái niệm quyền sở hữu về kinh tế). Tuy nhiên, quyền tự do cá nhân là một tuyệt đối - "quyền" “con người” với "tín ngưỡng" và "mưu cầu hạnh phúc" và cứ vậy – đòi hỏi xóa bỏ mọi ranh giới văn hóa-đạo đức. Nó đòi hỏi toàn bộ dân gian bị khuất phục bởi "dân chủ" đi đến chỗ phải chấp nhận những gì đầu sỏ bề trên chính trị quyết định. Về điều này, thực sự có thể nói rằng chúng ta đang chống lại chủ nghĩa toàn trị. Chúng ta muốn có một xã hội nhiều phân chia chính trị lành mạnh và cạnh tranh, xây dựng trên sự đồng thuận mà nòi giống di truyền của chúng ta và sự tồn tại chủng tộc là trên hết. Các cá nhân có thể xây dựng bản sắc và thành tích của họ trong ma trận sinh học chủng tộc rõ rệt và thịnh vượng lớn hơn này. Nó là lý do duy nhất để bất kỳ cá nhân nào cũng có thể thực sự trở nên có ý nghĩa.

I-D chống lại: Thao túng truyền thông đại chúng

Dân chủ có hiệu ứng san bằng tạo ra căn nguyên "bình đẳng", và bình đẳng giá trị. Sự chối bỏ khác biệt phẩm chất và tầm quan của phẩm chất tạo ra hệ thống phân cấp số học, đảo ngược kim tự tháp xã hội loài người, đặt một số quý tộc dưới gót chân tự lợi và nhiều tầm nhìn thiển cận. Cuối cùng dân chủ thay thế hiện thực bằng đồng thuận giả tạo về thực tế là vấn đề cấp bách nhất ngày nay. Các nhà khoa học, nhân chủng học và các tâm hồn dũng cảm có thể kêu lên về sự tuyệt chủng di truyền sắp xảy ra đối với người da trắng là quan trọng sống còn, nhưng những gì quan trọng của dân chủ là cái tất cả những gì mọi người đồng ý là quan trọng, ví dụ, vấn đề hoàn toàn tầm thường như "hôn nhân" đồng tính hay truyền hình thực tế mới nhất.

Sự "đồng thuận" bị áp đặt này được trao quyền lập pháp qua dân chủ phổ quát, là đường ống dẫn đến quyền lực bởi những kẻ định hình tường thuật xã hội - Những ai trong Đảng nội bộ là kẻ kéo đòn bẩy truyền thông đại chúng và các tổ chức "học thuật". Sức mạnh báo chí trở thành duy nhất, khi "nhà báo anh hùng" đứng lên và phơi bày các hệ thống cấp bậc ẩn của lợi ích tiền tệ, thì bị mua sạch và chỉ cho phép tồn tại cho đến nào khi công lao của anh ta được sử dụng để thực thi những điều cấm kỵ được tạo ra và được ưa thích bởi tài phiệt toàn cầu; phơi bày "phân biệt chủng tộc", "phân biệt giới tính", lật tẩy "lý thuyết âm mưu", và cứ như vậy. Ngắn gọn đối lập của "nhà nước tập đoàn", là quỉ xứ đáng sợ của "chủ nghĩa phát xít" dân chủ là nhà nước tập đoàn hoàn thiện (nhưng hoán đổi từ tổ chức sang lĩnh vực tư tưởng). Dân chủ là khối số đông được trao quyền hợp pháp, số đông bị kiểm soát, bị tước đoạt và bị quây nhốt bởi ngành công nghiệp hàng loạt, sản xuất hàng loạt, phương tiện truyền thông hàng loạt và ảo giác hàng loạt.

I-D thay thế: Quyền tự chủ phân cấp

Vấn đề của thế giới hiện tại không phải là quá nhiều chính quyền tập trung, mà là chính quyền tập trung mà không có đối trọng của hành động ý thức I-D địa phương. Phân biệt giai tầng kinh tế rất sâu sắc cảm thấy được ở phương Tây - đặc biệt trái ngược với học thuyết bình đẳng chủng tộc đui mù bị cưỡng bức - tuy nhiên sự phân biệt sinh học, lịch sử và địa lý, khác biệt lối sống, đã bị mai một, cùng với sự mất bản sắc địa phương có ảnh hưởng chính trị của bộ lạc.

Tập trung hóa sản xuất và xuất khẩu sản xuất đến sau dẫn đến việc giảm dân số phương Tây trước các nông nô trong lĩnh vực dịch vụ, đã hoàn toàn xé rách trung tâm châu Âu.

Dây chuyền sản xuất quốc tế xuất khẩu việc làm và chuyên môn kỹ thuật từ phương Tây ra thị trường toàn cầu. Trong khi đó, người da trắng đã bị gắn vào sản xuất hàng hoá và vốn văn hóa, da trắng bây giờ "bị phân rã" từ sự hình thành các xã hội xung quanh họ. Một cuộc tổng tấn công của người da trắng sẽ gặp phải sự thờ ơ vô tình khi tất cả các đòn bẩy kinh tế và văn hóa được chuyển tới Trung Quốc và Hollywood, hay phân tán vào các cá nhân trong mạng lưới đã thưa của thương mại toàn cầu. Toàn cầu hóa này, sớm kéo công dân phương Tây vào một "ngôi làng toàn cầu", chỉ đơn giản là đã tan vỡ xã hội phương Tây từ toàn bộ chức năng vào các cá nhân và lĩnh vực cạnh tranh. Sự nhầm lẫn, vẻ đạo đức giúp các nước "đang phát triển" thông qua chủ nghĩa tư bản quốc tế đi kèm với cái giá mất phát triển trên sân nhà, và cuối cùng, mất độc lập về kinh tế.

Quốc tế hóa này là ví dụ vật chất hữu hình nhất của sự chuyển đổi tính hợp pháp và đạo đức từ địa phương, sự đồng thuận hữu cơ, sang đồng thuận quốc tế bí hiểm. Trọng tâm xã hội đã lộn cực từ thích hợp địa phương sang hoạt cảnh truyền hình những nơi xa xôi, và nền tảng đạo đức tương ứng cũng đã bị chuyển đổi từ những gì là lành lạnh khách quan ở hiện tại, sang thể không tưởng trong tương lai.

Con người có đạo đức – là con người của hành động và thành tích cao - không còn là nhà hoạt động địa phương kết nối lành mạnh với cộng đồng địa phương và con cháu họ; thay vào đó anh ta trượt vào sự hoàn toàn không thích đáng trong khuôn mặt của cuộc thập tự chinh quốc tế. Tương tự như vậy, những người thành đạt cao và người thành công về mặt kinh tế không phải là doanh nhân nhỏ tại địa phương; anh ta là đội viên quốc tế phân phối sản phẩm trên sân khấu thế giới tập đoàn đa quốc gia. Lợi ích địa phương của anh ta đã đầu hàng, và đổi lại, anh ta trở thành một phần của xã hội lớn thế giới bị điều khiển bởi kẻ đang xây dựng đế chế tăng trưởng kinh tế, bất kể chi phí nhân lực.

Sự đảo ngược giá trị này là triệu chứng của học thuyết toàn cầu tạo duy cảm truyền thông. Đứng lên vì "nhân quyền" ở các nước chiến tranh tàn phá mang ấn tượng không thể trước khi sự bùng phát các tổ hợp truyền thông. Nó không thể đủ bị nhấn mạnh khi hệ thống kinh tế hoạt động trong "mô hình” giá trị quốc gia hiện tại, nhưng đạo đức quốc tế hiện nay đã thay thế và làm phụ thuộc tất cả các mối quan tâm khác. Ngắn gọn: Đừng hỏi nhân quyền có thể làm cho anh, mà hãy hỏi anh có thể làm gì cho nhân quyền. Kết luận hợp lý và mục tiêu dẫn tới của chương trình này tất nhiên là nhà nước "dân chủ" toàn cầu - Mọi người có thể bầu cử, nhưng bầu cho ai, cơ chế bầu cử, và cái gì là được cho phép để bầu bị bức chế bởi lợi ích tập đoàn tập trung hóa. Dân chủ muốn thế giới, để nó có thể ăn nó. I-D muốn thế giới, để có thể bảo vệ và nuôi dưỡng nó. Kế thừa là khôi phục quyền sở hữu từ "hệ thống" sang "con người", vì vậy nó không thể bị cướp đoạt khỏi của quê hương và bản sắc tổ tiên của họ bởi những kẻ ăn thịt trên thị trường.

Khi nền văn minh I-D dựa vào khả năng và giới tinh hoa, còn nền văn minh hiện nay dựa vào lợi ích cá nhân và lừa dối, ý định của I-D là thay thế hoàn toàn hoặc sửa đổi cơ chế của thế giới hiện tại ở tất cả các cấp độ xã hội, trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, và trong tất cả các khía cạnh hoạt động. I-D:

  • Bãi bỏ các ngân hàng tập trung hóa và giải phóng tiền tệ khỏi tài phiệt quốc tế. Tạo ra đồng tiền nhà nước mới và cho phép các nhóm địa phương tạo của riêng mình. Điều này sẽ trao quyền cho người địa phương để tạo ra và thi hành các nền kinh tế độc lập cách ly khỏi tác hại toàn cầu.

  • Bãi bỏ các quy định nhà nước tập trung hóa mà không phải là "mục đích"; bứt ném toàn bộ thư viện pháp luật, đưa hàng ngàn trang luật lệ và quy định tối tăm khó hiểu vào lò đốt. Tất cả pháp luật tập trung hóa mâu thuẫn hoặc cản trở sự biểu hiện của chủ quyền địa phương sẽ bị đưa vào thùng rác. Điều này bao gồm, tất nhiên, tất cả các luật liên quan đến "phân biệt đối xử". Hiệp hội tự do sẽ không còn là tội ác đối với người da trắng. 

  • Bãi bỏ mọi cấu trúc quyền lực quốc tế và rút hoàn toàn khỏi chính sách quốc tế. Quan tâm đến sức khỏe, đạo đức và phục hồi quần thể người châu Âu và cộng đồng châu Âu hải ngoại về chủ quyền trong quê hương tổ tiên của họ và những nền văn minh được xây dựng ở nước ngoài là điều quan trọng nhất. Cho đến khi điều này hoàn thành, trật tự thế giới có thể có đột biến. 

  • Loại bỏ tất cả quyền lợi tập đoàn khỏi truyền thông và tăng tính phát sóng địa phương. Có thể giữ lại các công cụ truyền thông đại chúng để chống lại ý tưởng bình đẳng hiện có, mục tiêu cuối cùng là "mở cửa xã hội” để công dân tham gia, cho phép bản sắc địa phương phát triển, và hiện thực hóa đầy đủ chính mình. 

  • Khôi phục văn hóa địa phương qua việc trao chủ quyền cho các hội đồng địa phương, và qua tháo cùm hội đồng địa phương khỏi quản trị quốc gia. Chúng tôi không tin rằng để di chuyển như một con người, để diễn tả thống nhất dân tộc và đồng thuận về mục đích, tất cả mọi người phải trả mức cùng 1 mức thuế hay tuân thủ cùng 1 giới hạn tốc độ. Cuối cùng, qua quá trình này, trộm cắp và cướp bóc quốc tế của châu Âu qua phương tiện thị trường sẽ bị chấm dứt bở các cơ quan vũ trang địa phương, loại bỏ áp bức quốc tế khỏi hâu Âu, và tạo các chính sách thích đáng và sống còn.

Quá trình giải thoát châu Âu khỏi con ma cà rồng tài chính toàn cầu này sẽ rất khó khăn và gian khổ. Theo đúng nghĩa đen, chúng ta sẽ phải học cách tự chăm sóc bản thân mình một lần nữa. Cắt minh ra khỏi sợi dây rốn giảm đau của lao động toàn cầu giá rẻ sẽ khôi phục lại các mục tiêu và những gì thuộc về dân tộc châu Âu, khi chúng được gọi một lần nữa là nỗ lực to lớn để sống còn và tiến bộ. Mọi người đều quan trọng khi tất cả các tay sẽ cần đến trong việc tái thiết châu Âu.

Cuối cùng, chúng tôi tin vào tinh thần con người tự khắc phục và khả năng của người châu Âu để định hình số phận của chính mình. Chúng tôi không phải là kẻ "bảo vệ chủng tộc da trắng" - chúng tôi là các chủng tộc da trắng tự vệ. Chương trình chính trị của chúng tôi đơn giản là loại bỏ thị trường và thú ăn thịt người hợp pháp ở châu Âu. Thông qua đó, nền văn hóa sôi động tự khám phá và thử nghiệm tiến bộ sẽ diễn ra. Châu Âu sẽ lại một lần nữa, không bị đe dọa tù tội hay thủ tiêu khắp nơi, đem cuộc sống của mình vào tay của mình. Chúng tôi tin rằng châu Âu sẽ không nô dịch ai. Chúng tôi tìm cách trao cho mình các điều khoản chính trị thực tế cơ bản nhất, để thống nhất mình, và đưa mình đến ý thức tự lập như một phần của toàn bộ giống loài sinh học. Điều này hoàn thành, thế giới hiện đại - một sáng tạo của biến dạng văn hóa ăn thịt và tiến bộ công nghệ châu Âu - sẽ không còn tồn tại, và Kỷ nguyên vàng mới sẽ bắt đầu. 





Bài viết của Bain Dewitt, nhân tiện giới thiệu trong COUNTER-CURRENTS có rất nhiều thứ thú vị!

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...