Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Trung Quốc. Hiển thị tất cả bài đăng

TẬP CẬN BÌNH TIÊU DIỆT “ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN”!

 

Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra ngoài trong Đại hội CPC

Mang CS ra chế diễu là Putin đã đốt cháy cây cầu phía sau lưng. Cũng như Putin, ông Tập Cận Bình chủ trương nhà nước Tập quyền, củng cố quyền lực trung ương. Điều này không dung hòa với Tán quyền cộng sản. Loại bỏ giới “Đoàn Thanh niên Cộng sản” tân tự do cấp tiến cũng là Tập Cận Bình đã đốt cháy cây cầu phía sau lưng.

Cả hai đã đốt cháy cây cầu CNCS kết nối với phương Tây, CNCS là học thuyết của phương Tây, ra đời ở London. Không phải bây giờ CNCS mới bộc lộ sự thối tha băng hoại của nó, hay lộ ra bản năng cá nhân tham lam độc đoán của nó. Ngay từ khi ra đời nó đã như vậy, nó ra đời và bén rễ trong sắc dân nông thôn-bán thành thị bị đào thải trong xã hội công nghiệp hóa. Họ cùng đường, nổi loạn và mong muốn lật đổ nhà nước. Đã đủ lâu để CNCS mang gen di truyền phá hoại. Do đó, cứ mỗi lần tiêu diệt CNCS, đất nước lại phát triển. Điều này đã xảy ra dưới thời Stalin, Putin, Tập Cận Bình.

Các cuộc biểu tình ở Trung Quốc nổ ra, lan rộng ở các thành phố lớn, Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, Nam Kinh, Urumqi (thủ phủ của Tân Cương). Đó là sự quẫy đạp của phe phái cũ, phe “Đoàn Thanh niên Cộng sản” TQ thân Mỹ trong ĐCSTQ. Từ sự kiện bất ngờ trong Đại hội XX, Hồ Cẩm Đào (nắm quyền 2002-2012) bị dẫn giải ra ngoài trong phiên họp là đánh bại nhóm thân phương Tây trong các cơ cấu quyền lực của CHND Trung Hoa, nhưng các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" còn có một con át chủ bài - khủng bố xã hội.

Phát triển nhanh chóng để lại tình trạng bất ổn ở Trung Quốc kể từ năm 1989. Lần cuối cùng có các cuộc biểu tình chống Nhật Bản là vào năm 2012 về một vấn đề khá nhỏ liên quan đến tranh chấp các hòn đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sau đó, nó được chuyển sang một mối đe dọa từ bên ngoài, và vào năm 2022 - hoàn toàn là chính sách đối nội của nhà nước.

Có một lý do và nó khá hợp lý, chính sách Co-vi của ông Tập là “khủng bố nhân dân”, không có sự tương tự trên thế giới về thời lượng và quy mô. Chưa từng có ai bị đối xử khắc nghiệt như ở Trung Quốc. Chính sách không khoan nhượng đối với Co-vi đang tiến triển và bây giờ vấp phải phản ứng.

Nhóm quyền lực "Đoàn Thanh niên Cộng sản" mang tư tưởng tự do cấp tiến thân Mỹ

Komsomol là một từ bị lãng quên ở Nga nhưng ở TQ vẫn có ý nghĩa rất lớn. Các nhân vật đi lên từ bệ phóng Đoàn viên không chỉ chiếm các vị trí lãnh đạo nhà nước cao nhất, mà còn tạo thành một mạng lưới quyền lực bao trùm gần như toàn bộ TQ. Nhóm này gồm những ai, hệ tư tưởng của họ là gì - và ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa "Đoàn Thanh niên Cộng sản" và "hoàng thân"?

Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Lý Nguyên Triều, Lãnh đạo Chính phủ Lý Khắc Cường, Trưởng ban Tuyên giáo Lưu Vân Sơn, Chánh án Tòa án Tối cao Chu Khương, các lãnh đạo các Ủy ban khu vực, bao gồm các khu vực phát triển nhanh nhất của đất nước như: Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Đông - tất cả giới lãnh đạo hàng đầu này, cũng như hàng chục lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố - đã bắt đầu sự nghiệp của họ từ Đoàn thanh niên Cộng sản. Họ thăng tiến sự nghiệp của mình phần lớn là do cựu TBT-cựu CTN Hồ Cẩm Đào, người nắm quyền cao nhất ở TQ các năm 2002 đến 2012. Tất cả đều có chung quá khứ bệ phóng Đoàn Thanh niên, hình thành phe nhóm thượng tầng độc nhất trong ĐCSTQ. Kể từ khi ông Tập Cận Bình củng cố quyền lãnh đạo và phát động "đả hổ diệt ruồi”, ở mức ý thức hệ, đã có cuộc đối đầu tư tưởng đường lối dù ít được công khai. Đó cũng là cuộc đối đầu giữa phe "hoàng thân" của ông Tập – với những Đoàn viên đã thăng tiến, tự coi mình là tự do cấp tiến, thân Mỹ và được quyền thừa kế làm nhà lãnh đạo hàng đầu của TQ.

Con đường qua Thiên An Môn

Đến đầu những năm 80, giới Cộng sản TQ đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng quyền lực rộng lớn: cải cách diễn ra ở một quốc gia có nền kinh tế kế hoạch hóa, đội ngũ Cận vệ Mao đã bộc lộ đen tối hoàn toàn bởi hành động của những kẻ ông ta đỡ đầu - băng đảng bốn người, bè lũ 4 tên do cô vợ lẽ Giang Thanh cầm đầu và hàng chục triệu HVB cuồng tín. Nhưng Đặng đã khá khéo phẫu thuật cắt bỏ khối u ác tính quá lớn này. Ông ta hiểu đốn hạ một cái cây cổ thụ, sẽ để lại khoảng trống cho cỏ dại, cây độc, giun sán khác sinh trưởng. TQ vẫn cần một cái tượng và những người cộng sản làm chỗ dựa niềm tin cho dân chúng, nhưng không liên quan đến "cực tả" của vợ lẽ Mao. Đó là chỗ để nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng sản" kiểu Đặng chui ra và sau này trèo tít lên ngọn cây như đã thấy.

Tuy nhiên! Đấu trường Thiên An Môn sớm nổ ra, giới thanh niên trong các trường đại học của đất nước đã cố gắng chứng tỏ là lực lượng đáng gờm. Chúng tụ tập trên Quảng trường và trung tâm các thành phố đòi tự do, dân chủ.

Qui mô và tổ chức chứng tỏ có kẻ giật dây và không ai khác phải ở cấp rất cao, cao nhất là TBT Hồ Diệu Bang, cha đẻ của tổ chức “Đoàn Thanh niên Cộng sản”. Cuộc đấu Thiên An Môn và cuộc đấu trong đảng vượt ra khỏi tầm kiểm soát, Đặng đã phải dùng đến quân đội để hành động - các cuộc biểu tình biến thành bạo loạn và đã bị đàn áp, giải tán.

Kể từ đó, có một sự cân bằng nhất định giữa "hoàng thân đỏ" và "Đoàn Thanh niên Cộng sản" ở Trung Quốc. Nhưng Thiên An Môn đã để lại sự chia rẽ sâu sắc trong đảng, nó sâu đến mức là điều cấm kỵ để được nói tới ở Trung Quốc. Một minh chứng cho điều này, kể từ 1989, mọi vấn đề liên quan tới Hồ Diệu Bang đều bị kiểm duyệt. Ông ta như thể đã tàng hình biến mất, nhưng kể từ năm ngoái, nhân vật này đã xuất hiện trở lại, ai đó đã cho phép.

Sau Thiên An Môn, Hồ Diệu Bang mất hết các chức vụ, nhân sự trong Đoàn Thanh niên cũng bị thay thế hầu hết. Năm 1992, quyền lực ở TQ thuộc về "người Thượng Hải" Giang Trạch Dân, được cho là, với một số điều kiện ràng buộc nhất định từ Đặng Tiểu Bình, còn sau đó, 10 năm sau là Hồ Cẩm Đào.

Hệ tư tưởng định hướng trong tương lai thuộc về Quân đội hay Đoàn viên?

Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) là tổ chức nền tảng của nhà nước Trung Quốc hiện đại. Hồng quân TQ xuất hiện sớm hơn nhiều so với nhà nước. Đặng và cả Mao đều ít nhiều là những chỉ huy chiến trường, giới chức trưởng thành trong PLA đã cố gắng thiết lập một nhà nước TQ khả thi theo tầm nhìn xa về chính trị của họ. Trước cải cách thị trường, gần như toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc đã trong tình trạng quân sự hóa và phụ thuộc nhịp điệu duy nhất từ quân đội. Quân đội sau này vẫn là nguồn sức mạnh thực sự của chế độ, thậm chí gần như là khi nói về "đảng" cũng là nói về "quân đội".

Tuy nhiên, có một khái niệm khác nữa gọi là nhóm "hoàng thân" – mô tả không chỉ các nhân vật chính trị có di truyền, có ảnh hưởng, mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn hùng mạnh mới nổi của Trung Quốc, nhưng đồng thời, nền tảng chính của họ, của các tập đoàn cũng là từ nguồn gốc chính quân đội của họ, như mọi khi hay vào vào thời điểm quan trọng, quân đội sẽ đóng vai trò là người bảo đảm cho việc duy trì trật tự quyền lực. Do đó, các bước tiến tư tưởng của các “hoàng thân” để khôi phục truyền thống đế chế Trung Quốc hoặc nỗ lực tạo ra một hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc bành trướng đều có dấu vết quân đội. Khẩu hiệu mới "một đội quân có khả năng chiến thắng trong mọi cuộc xung đột" cũng là sự hồi sinh của truyền thống cách mạng quân sự thời Mao và Bành Đức Hoài, việc tổ chức các cựu chiến binh PLA, việc hình thành một "think tank" để ra quyết định từ họ là những đường hướng để bảo đảm quyền lực của "các hoàng thân-hồng quần”. Câu hỏi liệu Trung Quốc có tham gia vào một "cuộc chiến nhỏ nhưng chiến thắng" vì lợi ích của giới tinh hoa quân sự hay không vẫn nằm trong chương trình nghị sự.

"Đoàn Thanh niên Cộng sản" thu hút quyền lực và sự ủng hộ đông đảo từ dân chúng. Điều này làm cho Trung Quốc ngày càng giống với thời cổ đại, ví dụ, thời La Mã, nơi yêu nước và quân đoàn bảo vệ nhà nước bị cấm đoán bởi các tòa án phổ hiến. Thiên An Môn là nơi diễn tập sức mạnh của đám đông, sức mạnh của sắc nông dân-bán thành thị bất mãn với lòng mong muốn đổi mới và một bậc thang xã hội nhanh chóng.

Đô thị hóa - di cư và định cư hàng chục triệu nông dân trong ranh giới thành thị - là một trong những điều kiện chính để giới Đoàn Thanh niên mở rộng ảnh hưởng. Công cụ khác để mở rộng ảnh hưởng của giới Đoàn Thanh niên Cộng sản là dân nghèo. Đầu thế kỷ, có đến 300 triệu người nghèo đói ở TQ. Chính "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đã tỏ ra quan tâm chăm sóc và là cơ hội tuyên truyền CNCS và mị dân của họ.

Hệ tư tưởng của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản", gọi một cách tương đối là cấp tiến, dân chủ cải cách, mang lại quyền tự do bình đẳng cho tất cả mọi người.

Nếu giới “hoàng thân” là một đẳng cấp khép kín của những ai được chọn – từ tướng lĩnh quân đội TQ, tuy nhiên gần đây, đã có sự thu nạp ngày càng nhiều giới trí thức, tinh hoa học thức, sinh viên có trình độ cao, thì "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là ở tầng lớp thấp, số lượng đông từ dân bán thành thị với khoảng 200 triệu người di cư và nông dân, cũng có giới trí thức trong các thành viên. Nhưng họ là phe phái khác biệt, ảnh hưởng của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong quân đội là rất hạn chế - Thủ lĩnh Hồ Cẩm Đào cũng từng nỗ lực nắm quân đội, ông ta đã thay thế hàng ngũ lãnh đạo PLA ít lâu sau khi nắm quyền.

Cho dù nghe có vẻ kỳ lạ trong thời đại công nghệ chính trị, nhưng quyết định - con đường nào của Trung Quốc sẽ đi trong tương lai là tùy thuộc phe phái nào thắng thế. Nếu Trung Quốc chọn chiến lược pháo đài, áp dụng học thuyết đối đầu với Mỹ, với Nhật thì đó là xuất phát từ các “hoàng thân” và giới tinh hoa chính trị quân sự, còn nếu Trung Quốc đòi hỏi cơ hội bình đẳng, giá trị phương Tây phổ quát thì đó là phe phái "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đang trên ngựa. Vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi này, thường là có sự hòa trộn của cả hai.

Cái nôi An Huy

"Xương sống" của phe nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng sản", còn được gọi là "Tuanpai - 團派" đến từ tỉnh An Huy - nằm trong vành đai của khúc giữa dòng sông Dương Tử. Không có gì tình cờ khi An Huy lại là căn cứ địa của "Đoàn Thanh niên Cộng sản", và cốt lõi khu vực này là An Huy – quê của Hồ Cẩm Đào, Lý Khắc Cường và Uông Dương – một lãnh đạo chính trị, nhà cải cách tự do cấp tiến nhất trong ĐCSTQ.

Chắc chắn rất ít người biết, tình trạng bất ổn đầu tiên của sinh viên đã diễn ra ở đây, ở An Huy, sau đó phát triển thành các sự kiện Thiên An Môn.

Thủ lĩnh của “Đoàn Thanh niên Cộng sản” Hồ Diệu Bang, đến từ tỉnh Hồ Nam lân cận, và giới lãnh đạo từ bệ phóng Đoàn khác, ủy viên BCT tương lai như Hồ Xuân Hoa và Tôn Chính Thành, đến từ tỉnh Hồ Bắc. Do đó, có thể nói nòng cốt của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là những người đến từ một cụm khu vực, mà Lý Khắc Cường đặt tên là "Vành đai sông Dương Tử". Nhân tiện, "Vành đai kinh tế" là một khái niệm khác được chỉ định bởi lãnh đạo của "các hoàng thân" Tập Cận Bình.

Các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" cũng phát triển một "sườn phía bắc" – là các tỉnh Thiểm Tây và Nội Mông - một thành viên của BCT xuất thân ở đây là Lưu Vân Sơn; ông này từng nhân vật số 5/7 trong giới lãnh đạo TQ. Thời nắm quyền Ban tuyên giáo, ông ta thả nổi báo chí truyền thông, cực tả thái quá theo hướng phương Tây hóa. Con trai Lưu Vân Sơn là Lưu Lạc Phi, một đại gia chứng khoán, từng được tạp chí Fortune xếp hạng 25 trong số các nhà giàu châu Á. Có tin tức Lưu Vân Sơn hiện lúc này đã bị bắt giữ.

Một cựu lãnh đạo Mặt trận Thống nhất (liên minh các đảng ở TQ) là Lệnh Kế Hoạch cũng đến từ khu vực này, còn Hồ Xuân Hoa từng làm việc ở đây trong một thời gian dài trước khi làm Bí thư tỉnh Quảng Đông.

Thành phần “trí thức” của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đến từ Đại học Bắc Kinh - chính ở đó, là nơi đào tạo khối kinh tế của Lý Khắc Cường. Nhưng còn một nhóm Đoàn viên khác nữa từ Đại học Thanh Hoa do Hồ Khải Lập (Hu Qili) – cựu thủ lĩnh Đoàn, thành viên BCT. Trong sự kiện Thiên An Môn, Hồ Khải Lập công khai ủng hộ giới đoàn viên thanh niên biểu tình và bị trừng phạt, mất chức uv BCT nhưng vẫn làm Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Máy và Điện tử đến năm 1998.

Lý Tòng Quân, một thành viên thuộc giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" xuất thân An Huy - nắm quyền kiểm soát Tân Hoa Xã cho đến năm 2014. Người kế nhiệm là Thái Danh Chiếu đến từ tỉnh Sơn Đông.

Trò chơi rượu mới bình cũ

Không phải đến tận Đại hội XX mà sau hỗn loạn Hồng Kông 2017, ông Tập Cận Bình đã muốn thay máu chính trị và chuyển đổi hơn nữa cơ cấu nhà nước cho phù hợp tình hình mới. 2017 là năm bản lề, có cuộc bầu cử ở Hồng Kông mà giới thân Mỹ đặt nhiều hy vọng sẽ trở thành hình mẫu dân chủ cho TQ. Nhưng điều này đã không xảy ra, cũng năm 2017 có Đại hội XIX CPC, tại đó một thế hệ lãnh đạo mới được chỉ định và có kỳ vọng thăng tiến ở các nhà tư tưởng tự do cấp tiến, xuất thân "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Hồ Xuân Hoa - người là Bí thư Quảng Đông, tỉnh cận kề Hồng Kông, cái ổ bất ổn nhất của TQ. Phương Tây đã rất kỳ vọng Hồ Xuân Hoa kế nhiệm ông Tập Cận Bình. Có lẽ, ai đó đã mộng tưởng bất thành Hồ Xuân Hoa làm Tổng thống được bầu đầu tiên của đất nước này, một phiên bản Gorbachev của TQ.

Bất cứ nơi nào và ở mọi nơi

Sau Đại hội XIX, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đứng đầu các tỉnh và khu vực Hồ Nam, Giang Tô, Quảng Đông, Trùng Khánh, Quý Châu, An Huy, Thiểm Tây, Hà Bắc và Cát Lâm – không tình cờ, khi hầu hết các tỉnh này nằm trong "Vành đai Dương Tử", những tỉnh nằm ngoài biên giới của nó có lãnh đạo người bản địa đến từ cùng khu vực, ngoại trừ tỉnh Cát Lâm ở phía bắc là một người Mông Cổ. Đó là một sự giảm sút so với trước đó, năm 2013, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" nắm chức vụ Bí thư/Chủ tịch của 25/31 tỉnh thành Trung Quốc. Có thể nói, những năm này, "Đoàn Thanh niên Cộng sản" gần như kiểm soát hoàn toàn Trung Quốc. Trong số đó, các nhân vật nổi bật là Hồ Xuân Hoa – Bí thư Quảng Đông; Tôn Chính Tài – Bí thư Trùng Khánh và Chu Cường lãnh đạo Tòa án Tối cao Trung Quốc. Cả 3 đều vào Ủy ban thường vụ BCT sau Đại hội XIX.

Nội các Thủ tướng Lý Khắc Cường

Dưới thời thủ lĩnh "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lý Khắc Cường làm thủ tướng, có 7 người đến từ Đoàn Thanh niên. Họ nắm Bộ Kiểm soát, Bộ Hành chính Dân sự, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên Đất đai, Bộ Nông nghiệp và Bộ Văn hóa. Riêng Ttg Lý Khắc Cường trực tiếp nắm 3 bộ. Trong Bộ Chính trị, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" có Lý Khắc Cường, Lưu Vân Sơn, Lý Nguyên Chương (phó Chủ tịch nước), Lưu Diên Đông (phó Ttg), Lưu Kỳ Bảo (trưởng Ban tuyên giáo) và Hồ Xuân Hoa (chủ tịch Quảng Đông).

Rắc rối của Tập Cận Bình

Với việc ông Tập Cận Bình củng cố quyền lực ở Trung Quốc, một cuộc chiến chống tham nhũng chưa từng có đã được phát động, nó thường được nhắc đến với cái tên “đả hổ, diệt ruồi”. Tham vọng thăng tiến của các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đối với danh pháp đảng dường như đã được sử dụng để chống lại họ. Ngay từ đầu chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi”, nhân vật Chu Vĩnh Khang – uv BCT, đã trở thành trung tâm của các mũi nhọn. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là bề nổi. Trước đó, đã có sự giận dữ của các "hoàng thân" phải loại bỏ quyền lực của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lưu Vân Sơn, uv BCT, lãnh đạo Ban tuyên giáo. Sau vụ bắt giữ Chu Vĩnh Khang, người ta nói rằng, không có lá bài miễn tử nào cho bất cứ ai ở Trung Quốc.

Đằng sau công cuộc chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình là cuộc chiến tư tưởng. Như đã đề cập ở trên, quyền lực của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đến từ sự mộng mị xã hội công bằng, tốt đẹp của sắc dân bần cùng bán thành thị và nông thôn, đáng tiếc, lại là đông đảo rộng lớn – cũng không ngạc nhiên, Lưu Vân Sơn, một đồng sự thân cận của Hồ Cẩm Đào và cỗ máy tuyên truyền trở thành công cụ chính của nhóm này. Bây giờ, khi Lưu Vân Sơn bị bắt, ngày càng có ít ai nghi ngờ các cuộc "thanh trừng" là nhằm vào giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong khi họ đã cố gắng nắm giữ quyền trong suốt các thập kỷ qua. Vụ bê bối gần đây liên quan đến "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là việc xuất bản một video cá nhân của người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Bi Phúc Kiến bôi đen Mao Trạch Đông trong một khung cảnh riêng tư. Bi Phúc Kiến gắn liền với Đài truyền hình trung ương TQ và cũng đến từ Đoàn viên Thanh niên. Có rất nhiều cái tên Đoàn Thanh niên Cộng sản mang họ "Hu" – phát âm gần như là “Hổ” và có lẽ không tình cờ khi “Đả hổ, diệt ruồi” là chiến dịch của ông Tập nhằm vào họ. Đó là Hổ Cẩm Đào, Hổ Diệu Bang, Hổ Khái Lập, Hổ Xuân Hoa; còn TQ được Mỹ ca ngợi là con Hổ mới nổi ở châu Á.


Tiếp theo là gì?

Phía sau các “hoàng thân” của ông Tập Cận Bình là quân đội, còn đằng sau "Đoàn Thanh niên Cộng sản" – là tuyên truyền và ảnh hưởng trong giới quần chúng. Các “hoàng thân” đang cản lại xu hướng tự do hóa thân Mỹ ở TQ, họ cản trở vấn đề Hàn Quốc, coi Hồng Kông, Đài Loan là mảnh đất của TQ và coi Nhật Bản, Mỹ là đối thủ. Khi TQ mạnh lên, sự ủng hộ từ “hoàng thân” của ông Tập Cận Bình sẽ chỉ tăng lên, trong khi "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đang giảm tốc tăng trưởng, còn lượng các nhân vật liên quan đến các vụ bê bối tham nhũng ngày càng lớn. Sự cân bằng đã mất đi khi các thành phần “hoàng thân” mới đi vào trong cơ cấu BCT. Điều này được khẳng định qua Đại hội XX gần đây, quyền lực của ông Tập Cận Bình và phe "hoàng thân" được củng cố, gần như tất cả các nhân vật cao cấp của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đã bị loại bỏ.

Không có đường lùi, các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" sẽ phải tiếp tục tấn công để duy trì quyền lực. Biểu tình chống phong tỏa Co-vi gần đây là cuộc tấn công phản đối của họ nhằm vào chính sách “Zero co-vi” của ông Tập Cận Bình, họ vẫn còn con bài: vận động dân chúng bất mãn biểu tình bạo loạn lật đổ nhà nước, khủng bố xã hội.

Cha đẻ các Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc là ai!?

Có một ông già trầm lặng thường ngồi một mình trên chiếc ghế dài trong công viên Regent ở London. Xung quanh ông ta, các diễn biến xảy ra: đấu tranh nữ quyền, quyền của giới chuyển giới, chống áp bức bất công, biểu tình đủ các kiểu, các màu sắc. Người đó chính là Trần Đại Tôn (陈岱孙), ông ta đã chọn London, cái nôi của CNCS để sinh sống những năm cuối đời.

Năm 1900, Trần Đại Tôn sinh ra ở Trung Hoa. Cậu trẻ sớm theo học tại trường Cao đẳng Anh-Trung, ngôi trường Helin Yinghua có các giáo viên người Anh và người Mỹ này được thành lập vào năm 1881 bởi một ngân hàng và đặt dưới sự giám hộ của người Mỹ.

Trần Đại Tôn sau đó tiếp tục được đào tạo tại vườn ươm tự do dân chủ Harvard. Năm 1926, Trần Đại Tôn trở về Trung Quốc và giảng dạy tại ĐH Thanh Hoa. Sau đó, Trần Đại Tôn làm Viện trưởng Viện Kinh tế và Tài chính Trung ương Bắc Kinh và là giáo sư tại ĐH Bắc Kinh trong rất nhiều năm.

Sự trống rỗng trong thuyết giáo Marx khiến CNCS không có gì để vận hành trong thực tế, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Không có gì để vận hành, không có gì để phát triển. Sự trống rống đó là chỗ để các học trò thân Mỹ của Trần Đại Tôn nổi lên.

Tại Đại hội CPSU cuối cùng của cuộc đời, năm 1952, Stalin nói rằng: “Tôi thấy cần loại bỏ một số yếu tố Chủ nghĩa Marx, gắn một cách giả tạo vào xã hội của chúng ta…”. Còn Putin nói, giáo lý CNCS là cóp nhặt, có thể đọc thấy ở bất cứ nhà thờ nào. Đúng, CNCS chỉ tốt đẹp trên giấy, thì có thể đọc trên giấy thứ tương tự trong Kinh thánh, nguyên bản, cổ truyền hơn. Còn trong thực tế, không thể ứng dụng, không thể vận hành ở bất cứ đâu. Làm thế nào để 3 thằng học việc nhân danh Chuyên chính vô sản đòi lãnh đạo ông thợ cả trong nhà máy?

Trần Đại Tôn để lại nhiều thế hệ học trò, trong đó có Lê Yên Ninh (Li Yining), người sinh cùng năm với George Soros và được coi là cha đẻ của thị trường chứng khoán Trung Quốc vào năm 1990 cũng như khởi động công cuộc tư nhân hóa các công ty nhà nước TQ. Ba anh em nhà Lê Yên Ninh đều nắm giữ các vị trí quan trọng trong các trường Đại học về tài chính và kinh tế ở TQ.

Trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, Lê Yên Ninh đã gặp may khi chỉ bị đày về nông thôn, dọn cỏ vườn trong 6 năm. Nhưng dưới thời Đặng Tiểu Bình, ông ta đã thăng tiến trở lại và là một trong những nhà lý luận chính về "tự do hóa và mở cửa hòa nhập". Vào những năm 1980, Lê Yên Ninh được coi là “hạt giống đỏ” như Gaidar và Chubais ở Liên Xô. Cũng giống như thế, đề xuất tư nhân hóa quy mô lớn các doanh nghiệp nhà nước của Lê Yên Ninh chỉ dành cho các tay chơi lớn. Giới đầu tư tài chính quốc tế đã đến Trung Quốc nhờ sự tự do hóa và mở cửa của Đặng.

Các học sinh học các trường đạo Tin lành Anh-Mỹ ở Trung Quốc năm xưa, đã quay trở lại để mua và họ đã kiếm được hàng nghìn tỷ đô la nhờ đúng cậu học trò cũ học trường này.

Cũng không ngạc nhiên, con nhang đệ tử Cộng sản của Lê Yên Ninh khá nhiều, ba nhân vật dưới này là tiêu biểu:

- Lý Khắc Cường, thủ tướng Trung Quốc (2013-2023), ông này nói năm 2020 rằng, “Trung Quốc có 600 triệu người ăn xin”, dường như ông ta ám chỉ chính sách phát triển TQ của Tập Cận Bình là thất bại, trong khi ông Tập hứa hẹn sẽ xây dựng TQ thành một “Tiểu Khang”, một xã hội thịnh vượng vừa phải. Lý Khắc Cường đi lên từ Đoàn Thanh niên, là Bí thư Thứ nhất Đoàn các năm 1993-98.

- Lý Nguyên Triều, bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên Thượng hải. Sau đó giữ chức Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa từ năm 2013 đến tháng 3 năm 2018. Thời kỳ đó, một phiên họp của Quốc vụ viện đã phê chuẩn việc mở rộng quyền hạn của Tập Cận Bình còn Lý Nguyên Triều xin nghỉ hưu. Giấc mộng kế vị Hồ Cẩm Đào của Lý Nguyên Triều sớm tan vỡ. Ông ta đau sót chứng kiến cảnh phe nhóm suy tàn, phe hoàng thân Tập Cận Bình lên ngôi.

- Lục Hạo năm 28 tuổi, anh ta đã là lãnh đạo của một nhà máy với 5.000 công nhân – chứng tỏ cũng là người có tài năng. Sau này, Lục Hạo làm Bí thứ thứ nhất Đoàn Thanh niên các năm 2008-13, rồi làm Chủ tịch tỉnh Hắc Long Giang ở tuổi trẻ nhất TQ cho chức vụ này. Khi đó, ông ta báo cáo: "Lương của những người thợ mỏ được trả liên tục". Biết được điều láo toét này, họ đi biểu tình phản đối và đòi lương. Lẽ ra, Lục Hạo đã bị sa thải, nhưng lại được phe nhóm che chắn và lên cao hơn, trở thành Bộ trưởng Bộ Tài nguyên vào năm 2018 và phó Thị trưởng Bắc Kinh. Một thời, Lục Hạo được đánh giá là có tiềm năng làm "lãnh đạo thế hệ thứ 6" (aka TBT vào năm 2020). Nhưng sau đó, sự nghiệp chính trị của Lục Hạo đã đi xuống. Đến tháng 6 năm 2022, ông này chỉ còn giữ chức vụ vô thưởng vô phạt, trưởng một Trung tâm tư vấn nào đó.

Các tác phẩm mà Trần Đại Tôn để lại không nhiều, chủ yếu đề cập lĩnh vực kinh tế: "Lịch sử lý thuyết kinh tế", "Từ kinh tế học cổ điển đến Marx: Giới thiệu tóm tắt về sự phát triển của một số lý thuyết chính" (Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 1981).

Nhưng tất cả bây giờ chỉ là cát bụi. Trần Đại Tôn chết năm 1997, ông ta sống thọ, nhưng không đủ lâu để chứng kiến các học trò bị Tập Cận Bình hạ bệ, đặc biệt là không thấy được cảnh Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra khỏi phòng họp ngay tại Đại hội đảng, không thấy được CNCS thân Mỹ của ông ta chết như thế nào.

Trần Đại Tôn, nhà kinh tế Marxist


 

Hồng Vệ Binh Mao ở Paris!

 Xứ Buốc bông này cực lạ, dung nạo đủ thứ tạp nham cặn bã khắp thế giới, Trotskyism và Maoism là một ví dụ. Trong vấn đề phát triển Mao giáo ở Pháp không tránh khỏi có bàn tay lãnh tụ Khrushchev. Chống Stalin làm uy tín và hình ảnh Stalin xấu đi rõ rệt, tạo ra bối cảnh bỏ lại khoảng chân không và nó được lấp đầy bằng Mao giáo. Dĩ nhiên, không loại trừ điều này thành Cây Gạo, lãnh địa lâu đời của giới người Hoa, nhưng đó là chủ đề riêng.

Khi xem xét vấn đề tư tưởng và thực tiễn của Maoism du nhập vào Pháp những năm 1960, thấy là khái niệm của Mao phát triển trong bối cảnh Đại cách mạng văn hóa TQ đã được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình Buốc bông. Maoism ở Pháp tỏ ra có ảnh hưởng đặc biệt đối với tầng lớp sinh viên – Hồng vệ binh tại École normale supérieure ở rue d'Ulm, một địa hạt thuộc Paris. Có điều này là bởi vai trò đặc biệt của nhà lý luận, ông thầy giáo Mác-xít, Louis Althusser. Triết học Maoism đã tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề chỉ trích chính sách thân Moscow-Stalin của ĐCS Pháp và hội sinh viên của họ. Thậm chí, triết gia Althusser còn đặt lại vấn đề với chủ nghĩa Marx nguyên bản, và tư tưởng của ông ta cuối cùng đã khiến các học trò đi đến chỗ đoạn tuyệt với “chủ nghĩa lý thuyết” của ông. Sự đóng góp phong phú của Mao giáo vào văn hóa tri thức Pháp trong những năm 1960, giúp đặt nền móng cho các sự kiện tháng 5 năm 1968, bắt nguồn chủ yếu từ bản chất lý luận và thực tiễn kép của nó. Dưới này nêu 2 đối tượng cụ thể của Maoism: Bản chất bạo lực không thể tránh khỏi của cuộc cách mạng và phương pháp “điều nghiên thực tiễn” theo chủ nghĩa kinh nghiệm thay thế tri thức. Cuối cùng, sau năm 1968, Maoism ở Pháp đã từ bỏ chính Maoism vì nền chính trị dân chủ tỏ ra hữu ích trước những đổ nát kinh hoàng ở Pháp cũng như ở TQ vì Hồng Vệ Binh.

TQ trong giai đoạn 1920-1970 trải qua nhiều biến động và thay đổi, từ nội chiến và cuộc đấu tranh đồng thời với chế độ phong kiến, ​​ruộng đất và giới CNTB dân tộc, sau đó là cuộc chiến chống Quân phiệt Nhật những năm 1930-40, đến tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa năm 1949. Mao nổi lên như một nhà lãnh đạo các nước Thế giới thứ ba trong quá trình phi thực dân hóa sau chiến tranh. Biến loạn loại bỏ Stalin mở ra cuộc đối đầu với Liên Xô, đặc biệt là sau năm 1956, đến cuộc Đại Cách mạng Văn hóa bắt đầu những năm 1960.

Vào nửa cuối thập kỷ 1960, nhà báo Pierre Hervé đã đặt một câu hỏi tự nhiên: “Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một phe bất đồng chính kiến ​​Trung Quốc trong ĐCS Pháp?"

Ngày nào đó đã đến 2 năm sau khi ĐCS Pháp liên kết với Liên Xô trong các cuộc xung đột với Trung Quốc, Albania và sự e ngại sự kiện Hungary mở ra khả năng du nhập phong trào Maoism vào Pháp. Đó là thời kỳ Pháp gặp khủng hoảng, còn ĐCS Pháp chìm trong bế tắc.

Khó hình dung, giới thanh niên Pháp lại si mê cuồng tín Mao đến vậy nếu không kể đến sự du nhập tư tưởng. Kể từ 1962, một lượng lớn các ấn phẩm của Mao và về Mao, trong đó có Mao tuyển đã được giới lãnh đạo ĐCS Pháp dịch ra tiếng Pháp. Đồng thời, giới du học người Hoa cũng đóng góp đáng kể vào việc phát tán các tài liệu này.

Ông thầy triết gia Marxist Althusser ở rue d'Ulm là nhân vật có công lao chính trong việc trang bị cho giới sinh viên lý luận để khám phá các lựa chọn khác ngoài chủ nghĩa Stalin chính thống. Mặc dù, trên thực tế, Althusser cũng đôi lần chỉ trích Mao. Từ nền tảng ấy, cùng một số yếu tố khác, Mao giáo và Hồng Vệ Binh Pháp ra đời, tuy nhiên, sau Đại văn cách Pháp 1968, ông ta cho rằng, đám sinh viên của ông ta chỉ “bằng cách nào đó tìm thấy chủ nghĩa Mao”.

UJC(ml) - Union des jeunesses communistes marxistes-léninistes được thành lập năm 1966 từ các thành viên ly khai khỏi Hội đoàn thanh niên Cộng sản. Mặc dù cái tên vẫn là Mác-Lê, nhưng thực chất là tổ chức Hồng vệ binh Maoist đúng nghĩa. Thực tế, UJC cũng không phải là duy nhất, nhưng mạnh nhất.

Mang đặc trưng "Cánh tả vô sản cấp tiến", UJC đặc biệt chống trí thức, chối bỏ sách vở và văn hóa truyền thống. Họ thích những khẩu hiệu ngắn gọn trong Mao tuyển. Họ cho rằng, đã là giai cấp công nhân thì nhất nhất phải trải qua giai đoạn “tự căm thù, tự gột rửa chất tiểu tư sản trong mình”. Họ không thích những lý luận khó hiểu trong sách Marx, mà thích “Sách Đỏ” của Mao. Chính Mao mới khai sáng chủ nghĩa Marx cho họ qua những khẩu hiệu đơn giản, dễ hiểu và họ có được quyền “tự do tư tưởng theo cách mà nó không phải là quyền tự do của một nhóm tinh hoa".

Phát triển nhanh chóng, đầu 1968 đám HVB Pháp bắt đầu nổi loạn.

 

Một cảnh bạo loạn tại Paris tháng 5 1968

Đến tháng 5 1968, Đại Văn cách trộn lẫn Thiên An Môn chính thức nổ ra ở Pháp, nhờ mạng lưới rộng lớn, các cuộc biểu tình bạo động xảy ra gần như đồng thời tại các thành phố lớn khắp cả nước.

Cũng như ở TQ, đám HVB Pháp xông vào trường học, nhà máy chiếm giữ, bắt bớ giáo viên và các viên quản đốc. Cũng không kém phần long trọng là các cuộc ẩu đả, bạo loạn đường phố. Đỉnh điểm “Tháng Năm Đỏ, Tháng Năm Tự do”, phong trào HVB lan đến công đoàn và giới công nhân, gần như toàn bộ nền kinh tế và xã hội Pháp tê liệt. Lượng người biểu tình lên đến con số 11 triệu – hơn 20% dân số Pháp khi đó. Chính phủ và TT Charles de Gaulle sợ hãi bỏ chạy sang Đức lánh nạn. Báo giới nói đến một cuộc nội chiến đang diễn ra. Trên các khu phố La tinh ổ chuột nghèo đói ở thủ đô Paris là những cuộc chiến thực sự.

Cảnh sát đàn áp nặng nề không dập tắt được cuộc tổng đình công “Mèo hoang” lớn nhất lịch sử nước Pháp. Tuy nhiên, đến cuối tháng 5, một số sự kiện đã thay đổi. Chính phủ de Gaulle ký được Thỏa thuận Grenelle vào ngày 27 tháng 5 với giới công đoàn và giới chủ với các điều khoản nhượng bộ. Cuộc phản công của đảng Gaullist tổ chức vào ngày 29 tháng 5 tại trung tâm Paris đã giúp cho de Gaulle tự tin giải tán Quốc hội và bầu cử sớm. Bạo lực và hỗn loạn nhanh chóng chấm dứt sau 7 tuần, công nhân quay trở lại nơi làm việc. Phe chính phủ Gaulle giành thắng lợi lớn hơn nhờ bầu cử.

Không có tin tức các thủ lĩnh Hồng Vệ Binh Pháp bị trừng phạt, còn tổ chức Maoism Union des jeunesses communistes tự giải tán cùng năm 1968.

***

 

Giới thanh niên, sinh viên Maoist biểu tình

Louis Althusser sinh tháng 10 năm 1918. Đến cuối đời, năm 1980, vị triết gia Marxist này gây ra cái chết bi thảm của cô vợ, là nhà xã hội học Rytmann khi ông ta lên cơn hoang tưởng và đã bópcổ bà vợ đến chết. Tuy nhiên, tòa không xét xử vì cho rằng Althusser mất trí nhớ, không nhận thức được hành vi và chỉ phải vào viện tâm thần điều trị trong 3 năm.

Sự sụp đổ team Đoàn viên thanh niên ở TQ

Đoàn Thanh niên Cộng sản, là một trong những cái nôi đào tạo lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc. Nhân vật cao nhất xuất thân từ Đoàn phái là cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cùng những thành viên đáng chú ý là thủ tướng đương nhiệm Lý Khắc Cường, chủ tịch chính hiệp Uông Dương và "tiểu Hổ" Hồ Xuân Hòa từng được cho sẽ kế nhiệm Tập Cận Bình. Và các nhân vật cao cấp khác như Lệnh Kế Hoạch "hổ lớn bị tiêu diệt", phó chủ tịch nước Lý Nguyên Triều (2012-2017) đều từng là bí thư trung ương Đoàn.

Lý Khắc Cường và Uông Dương bị loại khỏi thường vụ ở tuổi 67. 3 thành viên mới trong thường vụ là thuộc cấp cũ của Tập, như thủ tướng Lý Cường là thư ký của Tập ở Chiết Giang, phó thủ tướng Đinh Tiết Tường là thư ký của Tập ở Thượng Hải, bí thư thường trực ban bí thư Thái Kỳ nhiều năm là thuộc cấp của Tập, chỉ có bí thư ủy ban kiểm tra kỷ luật Lý Hi chưa có thời gian làm việc dưới quyền Tập có thể xem như là sự thoả hiệp để cơ chế kiểm tra kỷ luật còn yếu tố độc lập nhất định. Tiểu Hổ là nhân vật thân cận của lão Hổ (Hồ Cẩm Đào) vào bộ chính trị lúc 49 tuổi, sau 10 năm bị gạt ra bộ chính trị, Đoàn phái không còn bất kỳ thành viên nào trong bộ chính trị.

Ngân sách của Đoàn Thanh niên năm 2012 là 700 triệu nhân dân tệ. Nhưng năm 2021, ngân sách Đoàn chỉ còn 200 triệu tệ trong khi nền kinh tế TQ từ 53 ngàn tỷ tệ 2012 lên 114 ngàn tỷ tệ 2021 .Trong cùng thời gian, số lượng Đoàn viên ở Trung Quốc cũng giảm từ 90 triệu nay còn 70 triệu. Việc Hồ Cẩm Đào rời họp ủy ban trung ương Đảng bất ngờ có thể do lý do sức khỏe hoặc lý do chính trị. Khi Giang đã sắp hết thở, Hồ Cẩm Đào cũng được thấy thở khó khăn thì Trung Quốc chỉ có 1 tiếng nói độc tôn duy nhất.

Nguồn: Thông tin về các điểm nóng xung đột trên thế giới.

 






TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc!

 Nhiều tờ báo TQ đưa tin TBT Nguyễn Phú Trọng - Việt Nam nhận lời mời của ông Tập Cận Bình đã sang thăm và làm việc tại TQ. Họ gọi đó là “Ngoại giao vĩ đại” và cho rằng một trong các nội dung làm việc giữa 2 lãnh đạo là vấn đề trao đổi kinh nghiệm xây dựng đảng. Ví như tờ The Paper ấn bản tiếng Trung. Viết ngắn gọn ngay trên tiêu đề bài báo của họ như vậy.


TBT Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm TQ ngay sau bế mạc ĐH CPC lần thứ XX, chuyến thăm thể hiện tình hữu nghị truyền thống giữa 2 đảng, 2 nước.

Theo Tân Hoa Xã, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đến TQ nhiều lần, đó là các năm 1992, 1997, 2001, 2003 và 2007, 2011, 2015 và 2017. Sau khi nhậm chức TBT ĐCSVN vào năm 2011, Bác Trọng đã đi thăm TQ vào dịp tháng 10 cùng năm, dịp khác là tháng 4 năm 2015 và tháng 1 năm 2017. TTXVN hôm 29/10 cũng dẫn bài phân tích nói rằng, là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên thăm TQ ngay sau Đại hội XX phản ánh đầy đủ tính đặc thù và tầm quan trọng của mối quan hệ giữa 2 nước.

Cách đây 5 năm, sau khi kết thúc ĐH CPC lần thứ XIX, ông Tập Cận Bình, với tư cách là nhà lãnh đạo cao cấp nhất của đảng và nhà nước TQ cũng đã chọn Việt Nam là nơi đến trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên của mình. Bài viết của TTXVN cũng dẫn lời ông Xu Liping, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho biết: “Chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng có thể nói là một chuyến “trở lại” của TBT Việt Nam, tương tự như ông Tập Cận Bình đã thể hiện năm 2017. Đó là tình hữu nghị truyền thống của quan hệ Trung - Việt”.

Dù có những bất đồng và mâu thuẫn, quan hệ giữa 2 đảng, 2 nhà nước vẫn được duy trì và củng cố, các sự kiện chính trị quan trọng được tham vấn, trao đổi.

 

TTXVN ngày 27/9 nêu rõ, mối quan hệ 2 đảng, hai nhà nước đã được tiếp xúc và duy trì ở cấp cao, thiết lập các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ban ngành trung ương các bên. Mặc dù việc trao đổi giữa hai bên đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của đợt đại dịch nhưng hai bên vẫn duy trì các kênh liên lạc thường xuyên với hình thức linh hoạt và đạt kết quả tốt. Lãnh đạo 2 đảng, 2 nước đã thường xuyên điện đàm và hội đàm trực tuyến trao đổi.

Trả lời phỏng vấn của TTXVN, ông Xu Liping cho biết quan hệ giữa 2 đảng, 2 nước được nâng lên trong thời kỳ đại dịch thay vì giảm đi, đã có sự hợp tác tốt đẹp về vắc xin, vật tư phòng chống dịch, công nghệ chẩn đoán, điều trị và các mặt khác.

Về kinh tế và thương mại, tờ "Nikkei Asia" ngày 25/10 đưa tin, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam trong chiều hướng tăng dần qua từng năm. Thương mại giữa hai nước đã vượt 133 tỷ USD vào năm 2020, cao hơn 3 lần so với năm 2012 - theo số liệu của LHQ. Năm 2021, trong bối cảnh trì trệ và suy giảm kinh tế toàn cầu vì đại dịch, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn đạt con số ấn tượng 165,9 tỷ USD, tăng 24,6% so với năm 2020. Còn trong 8 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 117,4 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2021.

Theo TTXVN chỉ rõ, về đầu tư, tính đến ngày 20/8/2022, TQ đứng thứ 6 trong số 139 quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam, với 3.453 dự án đang có hiệu lực và tổng vốn đăng ký 22,43 tỷ đô la. Trong 8 tháng đầu năm nay, trong số 94 quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam, Trung Quốc đứng thứ 4 với 143 dự án đầu tư và số vốn đăng ký 1,4 tỷ USD.

Tờ The Paper của TQ viết: "Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á và là một quốc gia đích của nguồn vốn đầu tư quan trọng. Việc mở cửa hợp tác và tăng cường năng lực cảng biển của Việt nam sẽ tiếp tục được củng cố trong thời gian gần."

Như TTXVN viết, hiện nay, hai bên đã thiết lập các cơ chế hợp tác, trao đổi như lý luận chính trị-kinh tế-xã hội, đào tạo cán bộ, phối hợp với các cấp ủy địa phương, định hướng dư luận xã hội. Hai bên cũng thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo lý luận giữa 2 đảng để trao đổi kinh nghiệm, thực tiễn trong công tác xây dựng đảng và quản lý nhà nước. Cho đến nay, hai bên đã tổ chức 16 cuộc hội thảo lý luận như vậy giữa 2 đảng. Một nhà nghiên cứu tại ĐH Phúc Đán cho rằng: "Do cả 2 đảng đang phải đối mặt với những thách thức thực sự, đặc biệt là sức ép từ hoạt động 'diễn biến hòa bình' và sự xâm nhập chính trị của phương Tây, 2 bên đã thảo luận về cách thức duy trì ổn định an ninh và trật tự xã hội của hệ thống XHCN trong tình hình mới…. trong đó các nhà lãnh đạo của 2 đảng cần trao đổi kinh nghiệm về cách thức đấu tranh chống tham nhũng, củng cố nền tảng lãnh đạo và xây dựng đảng, v.v. Cùng nhau tìm hiểu lý luận, thực tiễn phong phú và phát triển trong công cuộc xây dựng CNXH”.

Trung Quốc cũng chỉ thực sự đổi mới vào năm 1991, nhưng “đã làm rất tốt và có nhiều kinh nghiệm để giới thiệu với Việt Nam, cũng như là Việt Nam vẫn còn rất nhiều điều để học hỏi từ Trung Quốc” – nhà nghiên cứu Hoàng Hợp nói với The Paper.

 

Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch trong 2 năm, nhưng Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt trong phát triển kinh tế. Điều này không tránh khỏi một số đồn thổi từ truyền thông phương Tây rằng “Made in Vietnam đang vươn ra toàn cầu” và “có tiềm năng cạnh tranh thay thế Trung Quốc” hoặc chuyển giao sản xuất từ Trung Quốc đến Việt nam và Việt Nam đóng vai trò thay thế thế vị trị "công xưởng thế giới" của Trung Quốc. Họ thổi phồng tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù một số tiếng nói ở Việt Nam coi đó là "rủi ro an ninh", nhưng Việt Nam vẫn chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp liên quan là quan điểm chủ đạo. Ông Hoàng Hợp cho biết trong một cuộc phỏng vấn với báo chí nước ngoài rằng TBT Nguyễn Phú Trọng dự kiến ​​sẽ bày tỏ quan điểm của mình về "giải quyết hòa bình các tranh chấp liên quan đến vấn đề Biển Đông" trong chuyến thăm.

Ông He Jiajie của ĐH Phục Đán nhấn mạnh, sự tương tác giữa lãnh đạo 2 đảng đóng vai trò “bánh lái” nhiều hơn, chủ yếu là “vạch ra phương hướng chung cho sự phát triển trong tương lai của quan hệ song phương”, đồng thời một lần nữa cũng làm rõ tính “cộng đồng chung vận mệnh” có ý nghĩa chiến lược giữa hai nước.

Khái niệm “cộng đồng chung vận mệnh” là của ông Tập Cận Bình đưa ra gần đây, chỉ các nước trong khu vực có mối liên kết địa chính trị, kinh tế , lợi ích và cùng chung những thách thức trước tình hình thế giới đang thay đổi và nhiều biến động.

Theo TTXVN, chuyến thăm TQ của TBT Nguyễn Phú Trọng khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam: coi mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại và mong thúc đẩy mối quan hệ lâu dài, bền vững giữa 2 nước, phù hợp với tinh thần nhất trí của 2 đảng và lãnh đạo cấp cao 2 nước. Phát triển ổn định, ngày càng hiệu quả và thực chất, đồng thời nêu rõ “sự quan tâm, lập trường và lợi ích hợp pháp” của Việt Nam.

Nhưng cũng cần thừa nhận, như ông Ge Hongliang, giám đốc Viện nghiên cứu An ninh hàng hải TQ nói: "Có một số vấn đề cũ giữa Trung Quốc và Việt Nam chưa được giải quyết, và một số vấn đề mới đã xuất hiện. Các vấn đề cũ như quan điểm lịch sử và vấn đề Biển Đông vẫn là nhân tố chính ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Việt hiện nay. Các vấn đề mới, chẳng hạn như mở cửa và giao lưu quốc tế trong thời đại dịch cũng đang ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Việt”. Tuy nhiên, ông Ge Hongliang tin rằng, chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ cho phép thảo luận hầu hết các vấn đề và Việt Nam cũng sẽ đặt ra nhiều yêu cầu hơn về các chủ đề như phát triển công nghiệp và mở cửa biên giới.

Ông Tập Cận Bình, trong chuyến thăm Việt Nam năm 2017 đã chỉ ra nội hàm phong phú của "Tinh thần 4 tốt": Một là, Trung Quốc và Việt Nam nên là những người đồng chí tốt, tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau; Hai là, Trung Quốc và Việt Nam nên là đối tác tốt để hợp tác cùng có lợi; Ba là, Trung Quốc và Việt Nam nên là láng giềng tốt gần gũi trong một ngày không xa; Bốn là, Trung Quốc và Việt Nam nên là những người bạn tốt, những người thường xuyên đến với nhau.

Ông He Jiajie tin rằng nếu tinh thần "láng giềng tốt, bạn tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt" được đưa vào thực tế, Trung Quốc và Việt Nam nên tiến hành các cuộc thảo luận sâu rộng về cách quản lý hợp lý sự khác biệt và thiết lập một phương thức tương tác được thể chế hóa. Điều đó có lợi cho sự tin cậy lẫn nhau để tránh sự leo thang xung đột trên biển đã lan rộng, để tránh lập luận gọi là "cảnh giác với Trung Quốc" của Mỹ khi can thiệp vào việc ra quyết định của Việt Nam.

Ông He Jiajie nói với The Paper: "Hiện nay, sự cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ ngày càng gay gắt, còn sự cân bằng và phòng ngừa rủi ro giữa Trung Quốc và Mỹ từ phía Việt Nam ngày càng trở nên khó khăn hơn. Các nhà lãnh đạo nhân cơ hội gặp gỡ này cũng là một sự xác nhận chiến lược, làm rõ vị trí và nền tảng của quan hệ song phương, củng cố sự tin cậy lẫn nhau tạo để tạo ra động lực cho sự phát triển của quan hệ song phương trong giai đoạn tiếp theo.

Ông Hoàng Hợp nhấn mạnh, bất chấp những khác biệt, Trung Quốc và Việt Nam đang thúc đẩy phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và duy trì hợp tác trong các vấn đề như thương mại và sáng kiến ​​"Vành đai, Con đường".

"Sự ổn định và hòa bình mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, vì vậy hy vọng rằng quan hệ Trung Quốc-Việt Nam sẽ tiếp tục giúp đảm bảo ổn định và hòa bình cho cả 2 nước và tất cả mọi người" - ông Hoàng Hợp nói.



 

"Biển Đông dậy sóng" và những trò lố của những người kém tử tế

Bài viết: Những người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng vào ngày 12/6/2011 tại chùa Từ Tân của Thượng Toạ Thích Chân Quang như thế nào?






Trên mạng xã hội Facebook, Youtube và các trang mạng có nhiều người đang lan truyền thông tin rằng “Trong bài giảng Biển Đông dậy sóng, Thượng Toạ Thích Chân Quang khẳng định Trung Quốc là anh, Việt Nam là em, nên việc Lý Thường Kiệt mang quân đánh Trung Quốc xong rút về vào thời nhà Lý là hơi hỗn” khiến cho nhiều người nghe xong tin liền, thiếu tinh thần kiểm chứng đã có những ý nghĩ, lời nói không hay dành cho Thượng Toạ Thích Chân Quang – một vị tôn túc của Phật Giáo Việt Nam.

Hôm nay, bằng tất cả tinh thần khách quan, tôi xin được chia sẻ bài viết này để chứng minh rằng thông tin về Thượng Toạ Thích Chân Quang đã đề cập ở trên là một thông tin đã bị những người kém tử tế bóp méo, cắt đầu, cắt đuôi… một cách cố ý, làm lệch đi hoàn toàn ý nghĩa câu nói của Thượng Toạ.

Tuy nhiên, trước khi đi vào câu nói đó, ta hãy tìm hiểu xem Thượng Toạ Thích Chân Quang giảng bài Biển Đông dậy sóng vào lúc nào, ở đâu và với đối tượng thính chúng là ai?


1. Hoàn cảnh, địa điểm và đối tượng thính chúng của bài giảng Biển Đông dậy sóng

Thượng Toạ giảng bài pháp trên tại khoá tu thiền hàng tháng ở chùa Từ Tân, ngã tư Bảy Hiền, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra sau khi tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh của Việt Nam vào tháng 6 năm 2011 trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, khiến những người dân Việt Nam yêu nước nói chung và những thiền sinh yêu nước của khoá thiền Từ Tân có những dấy động lớn lao về tình cảm. Nhiều người Việt Nam vì quá bức xúc đã xuống đường biểu tình ầm ĩ, nhiều thiền sinh đã hỏi khẽ nhau về hành vi đó của tàu Trung Quốc và có lẽ đã có một số thiền sinh bị suy giảm trong công phu tu tập. Trước tâm tình đó, Thượng Toạ Thích Chân Quang đã giảng bài Biển Đông dậy sóng để các thiền sinh yên tâm tu tập vì hiểu rằng việc tu tập đạo đức, thiền định của mình cũng góp phần lớn vào việc bảo vệ tổ quốc; để những người dân định hướng lòng yêu nước của mình vào những việc làm có ý nghĩa thiết thực hơn, như là rèn luyện thể lực như một chiến sĩ, làm giàu, nhắc nhau lòng yêu nước, dạy răn con trẻ lòng yêu nước, sử dụng hàng Việt Nam, trải lòng với những người bạn người Hoa hay khách du lịch người Trung Quốc về chủ quyền biển đảo của Việt Nam… Hơn nữa, nhiều thiền sinh cũng như Phật tử, người đến nghe giảng là người Hoa (Thành phố Hồ Chí Minh là nơi nhiều người Hoa sinh sống nhất cả nước) nên những lời đạo lý của Thượng Toạ còn có tác dụng xoa dịu tâm lý lấn cấn, ngại ngùng đôi khi có thể là khó chịu, ngăn cách giữa người Hoa và người Việt trong và sau buổi thuyết giảng, khoá thiền.

Thượng Toạ là người chịu trách nhiệm với khoá thiền, là một vị tôn túc uy đức với hàng vạn đệ tử xuất gia lẫn tại gia và là một nhà yêu nước với hàng chục bài giảng, ca khúc ca ngợi lòng yêu thương quê hương đất nước – một tình cảm hết sức cao đẹp vốn là một bộ phận quan trọng cấu thành nên tâm từ bi của nhà Phật. Vậy, việc Thượng Toạ giảng bài Biển Đông dậy sóng trong điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng thính chúng như trên là rất nhân văn, hoàn toàn hợp lý, thoả đáng, hợp tình, thể hiện được tinh thần đồng hành thuỷ chung son sắt giữa Phật Giáo và Dân Tộc.


2. Những người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng như thế nào?

Một chiếc lá xanh khi tách rời khỏi cành thì không còn là một - chiếc - lá - ở - trên – cành nữa. Nên nó sẽ có những khác biệt nhất định với chiếc lá xanh trên cây, ví dụ như nó sẽ mau úa hơn, dễ bị người hay loài vật dẫm lên hơn... Sự thật này không ai có thể phủ nhận. Cũng vậy, bài giảng Biển Đông dậy sóng của Thượng Toạ là bài giảng phức tạp vì liên quan đến lịch sử, chính trị, Thượng Toạ giảng gần hai giờ đồng hồ. Ngoại trừ những bài giảng cho Chư Tăng Ni, có thể nói Biển Đông dậy sóng là bài giảng dài nhất trong cuộc đời giảng sư của Thượng Toạ, tính đến hiện tại (hết năm 2016). Trong bài giảng, luận điểm ngắn nhất cũng kéo dài gần 12 phút, luận điểm dài nhất dài hơn 20 phút, chưa từng có bài giảng nào trong gần 2000 bài giảng đã qua mà Thượng Toạ chia ít luận điểm như thế, dành nhiều thời gian cho từng luận điểm như thế. Những chi tiết này nói lên rằng đứng trước vấn đề chính trị phức tạp nhạy cảm, Thượng Toạ đã vô cùng cẩn thận, có trách nhiệm với từng lời từng chữ mình ứng khẩu mà thành, để tạo thành một chỉnh-thể-bài-giảng tuyệt vời lay động lòng yêu nước trong thính chúng…

          Việc có một số người chỉ cắt lấy hai câu trong bài giảng "Trung Quốc là anh, Việt Nam là em", "Lý Thường Kiệt đem quân đánh Trung Quốc là hơi hỗn"... rồi kết luận, dẫn dắt suy luận đủ điều về nội dung bài giảng, về mục đích giảng của Thượng Toạ và thậm chí là bôi nhọ về đạo đức của Thượng Toạ, trước hết, phải nói thẳng: đó là việc làm kém tử tế. Vì việc tách rời hai câu nói ngắn ngủn ra khỏi một chỉnh-thể-bài-giảng gần hai tiếng rồi phê phán đúng, sai, phải, trái, giống hệt việc ngắt cái lá xanh khỏi cành rồi vò đầu bứt tai, nổi trận lôi đình, mắng nhiếc chiếc-lá-xanh-đã-bị-ngắt-khỏi-cây, vì nó không có những đặc tính của chiếc-lá-xanh-trên-cành vậy. Tự họ đã làm biến đổi ý nghĩa câu nói của Thầy thông qua việc tách rời câu nói đó khỏi chỉnh thể bài giảng, tự họ lại suy luận, phê phán, công kích. Họ tự biên tự diễn như thể trong họ có hai người, một người làm méo mó nội dung bài giảng và một người thoá mạ Thượng Toạ vì những nội dung bị méo mó đó.

          Mặc dù họ đã bôi nhọ, nhục mạ Thượng Toạ không thương tiếc, tôi cũng sẽ không đáp lại họ như cách họ đã làm với Thượng Toạ. Tôi sẽ thử, bằng sự tử tế nhất khách quan nhất của cá nhân tôi, tiếp cận vấn đề mà họ đã đặt ra một cách kém tử tế.

          Quay trở lại bài giảng, tại sao Thượng Toạ lại khẳng định "Trung Quốc là anh, Việt Nam là em"?

Buổi nói chuyện: Biển Đông dậy sóng - Thượng Toạ Thích Chân Quang




Vừa qua, ngày 01/07/2011, tại khoá tu Thiền của chùa Từ Tân, TT.Thích Chân Quang – Trụ trì Thiền Tôn Phật Quang đã có bài Pháp thoại mang tính thời sự với chủ đề BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG với sự tham dự của gần 2000 Phật tử. Tinh thần bài Pháp nhằm un đúc tinh thần yêu nước đồng thời nhắc nhở, chia sẽ, gợi ý cho mọi người, không ai được chủ quan lơ là trong việc chuẩn bị tư tưởng và năng lực để đối phó với những hành động bành trướng bá quyền đang diễn ra như hiện nay của Trung Quốc.  
  
Tuy rằng, TT.Thích Chân Quang là một nhà Sư Phật giáo, nhưng những kiến giải Phật pháp đem đạo vào đời từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội thì lại vô cùng sâu sắc, tạo được sự đồng cảm đối với những ai đã vài lần nghe qua những bài Pháp thoại mà Thượng toạ đã thuyết. Điều này cho thấy, các nhà tu hành chẳng những không bi quan yếm thế hay trốn đời mà họ rất yêu thương cuộc đời bằng những hành động dấn thân, hy sinh với tinh thần hướng thượng. Người đã đưa ý thức sống vượt lên tầm cao thời đại, xây dựng một nền tảng văn hóa tâm linh cho dân tộc, khẳng định tinh thần giải thoát, vị tha và nhập thế của đạo Phật trước mọi dòng thời gian.

Thật vậy, liên tiếp trong thời gian qua, chúng ta nghe nhiều tin không vui là người Trung Quốc anh em với ta, bỗng nhiên tuyên bố rằng toàn bộ biển Đông này là của họ, rồi thường xuyên xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để đánh bắt cá. Chẳng những vậy họ còn bắt giữ ngư dân, phá tàu của Việt Nam, tịch thu hải sản và đòi tiền chuộc đối với ngư dân trên vùng biển đánh bắt của họ (quần đảo Hoàng Sa). Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam phải lên tiếng phản đối và nhiều người dân Việt Nam, nhất là thanh niên đã đổ ra đường biểu tình. Còn dư luận quốc tế thì ủng hộ Việt Nam.

Trước tình hình đó, Thượng toạ đặt vấn đề “Chúng ta đứng trên quan điểm của đạo Phật, ta vừa là một công dân Việt Nam, vừa là một người Phật tử thì nên hiểu vấn đề này như thế nào? nên có thái độ ra sao”? thì hôm nay với đề tài BIỂN ĐÔNG DẬY SỐNG sẽ gợi mở cho chúng ta nhiều khái niệm dựa trên quan điểm của đạo Phật.

Mở đầu bài Pháp thoại, đi ngược lại lịch sử bốn nghìn năm trước, Thượng toạ dẫn chứng câu chuyện Vua Đế Minh (vua Đế Minh là vua của Trung Hoa), cho thấy Trung Quốc và Việt Nam có mối quan hệ anh em không chối cãi được. Lúc đó vua Đế Minh có nhiều người con. Con trưởng của ông là Đế nghi và người con thứ là Kinh Dương Vương hay còn gọi là Lập Tục. Theo truyền thống, Đế Nghi đương nhiên sẽ là Vua nước Trung Hoa, nhưng ông ngạc nhiên khi thấy người con thứ mới vĩ đại hơn.

Người con thứ này cực kỳ đạo đức, cực kỳ thông minh, đức độ siêu việt, ai nhìn cũng thương và ông nghĩ rằng người con thứ hai này mới thực sự là Vua chứ không phải người con trưởng. Thế là ông quyết định bỏ người con trưởng không lập thái tử nữa mà đưa Kinh Dương Vương lên làm Vua nước Trung Hoa.

Tuy nhiên, với bản chất hiền lành, nhân hậu, Kinh Dương Vương biết rằng quyết định của Vua cha sẽ làm anh mình buồn và lòng ông cũng không tham vọng uy quyền, cho nên một mực khước từ “Xin Vua cha cứ để anh con làm Vua như cũ, còn con phận làm em, con cũng hỗ trợ anh mình hết lòng, không có gì trở ngại”. Trước lời nói quá khẩn khoản tha thiết của Kinh Dương Vương thì Vua Đế Minh quyết định cắt đôi đất nước Trung Hoa, phân nửa phương Bắc từ hồ Động Đình giao cho người anh là Đế Nghi, còn hồ Động Đình xuống về phương nam cho tới Việt Nam hiện nay là giao cho Kinh Dương Vương. Mặc dù kính trọng anh nhưng không dám cãi lời cha, Kinh Dương Vương đành chấp nhận làm Vua phân nửa nước Trung Hoa từ hồ Động Đình xuống về biên giới ải Nam Quan. Tuy nhiên thái độ của Kinh Dương Vương lúc nào cũng nhường nhịn, cũng xem mình là phần em, xem mình như một Chư hầu, mặc dù trong tâm của Vua cha, thực sự coi trọng Kinh Dương Vương hơn cả Đế Nghi.

Đến khi Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân thì người con này cũng nhiễm tinh thần nhường nhịn đó của cha nên không coi trọng vương quốc giang sang và uy quyền. Thế là Lạc Long Quân nhân lúc đất nước được thanh bình nhàn hạ, ông vượt khỏi Trung Quốc về Việt Nam. Ông phiêu bạt lần lần về vùng Bắc Ninh thì gặp một người nữ chúa, đó là Âu Cơ. Không ngờ khi đến đây, phải duyên chồng vợ, họ kết thành phu thê và theo truyền thống mẫu hệ của nhà vợ, Lạc Long Quân phải ở rễ. Lúc đó, ở phía Bắc họ thấy phương Nam trống, quyền lực không ai cai quản, nên họ chiếm lần lần lấy hết giang sang.

Người anh lấy hoài mà mấy nghìn năm qua vẫn chưa thỏa mãn, cứ thòm thèm, vì sao vậy? Xét về mặt tâm thức của Tổ tiên truyền đời thì tâm thức của Kinh Dương Vương là nhường nhịn, truyền tới người Việt Nam ta đến bây giờ. Còn tâm thức của vua Đế Nghi thì ông buồn bực còn truyền mãi đến nay. Nói về nguồn gốc thì đúng là anh em. Trung Quốc là anh, Việt Nam là em. Mà theo đạo lý của Á đông “Em phải kính trọng anh”. Từ xưa đến nay (cả mấy ngàn năm qua), người Việt Nam luôn có thái độ kính trọng người Trung Quốc đàng hoàng, không bao giờ mất cái lễ này, không bao giờ mất cái đạo lý của người em, tức là về phần người em mình đã làm đầy đủ bổn phận là luôn kính trọng người anh. Chỉ có một lần mà Lý Thường Kiệt hơi hỗn, sau khi nghe tin ông anh sắp đánh mình, ông đem quân đánh trước, diệt hết tất cả những hậu cứ làm bàn đạp đánh sang Việt Nam như thành Châu U, Châu Ly, Châu Âm. Còn lại thì đa số ta đều bày tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc.

Tuy nhiên, theo đạo lý Á đông, anh đối với em thì sao? Phải yêu thương đùm bọc chứ không có chuyện ỷ làm anh mà ăn hiếp em. Nhưng mà ông anh Trung Quốc đã mấy nghìn năm qua, luôn làm sai bổn phận của người anh. Hôm nay ta chính thức nhắc ông anh “Anh đã làm sai bổn phận quá nhiều trong đạo lý của Á Đông, em lúc nào cũng kính trọng anh nhưng mà anh toàn ăn hiếp em mãi”. Nên nói về đạo lý, ta không hổ thẹn vì ta đã làm đầy đủ bổn phận mình, nhưng mà ông anh Trung Quốc yêu cầu xem lại, coi chừng sống trái với di huấn của tổ tiên từ đời vua Đế Minh.

Đây là giữa Việt Nam với Trung Quốc thôi mới có chuyện anh em, còn nếu theo Luật pháp Quốc tế thì các quốc gia đều bình đẳng với nhau hết. Cho dù anh chỉ là một đảo quốc nhỏ như Singapore hoặc anh to như hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Còn trong thương mại và trong trao đổi gì đó, có sự thương lượng đôi bên đều có lợi thì đó là một chuyện khác.

Tuy nhiên, nói vậy chứ trong cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vừa qua để dành độc lập thống nhất thì Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Điều này ta không phủ nhận, thậm chí ta sẽ không có cuộc chiến Điện Biên Phủ oai hùng nếu không có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Lúc đó các khí tài (lương thực, quần áo, vũ khí, đạn dược) đều là của Trung Quốc, thậm chí Trung Quốc còn đưa qua nhiều cố vấn về quân sự. Giúp thì giúp nhưng cái máu buồn bực từ đời vua Đế Nghi truyền xuống chưa hết. Cho nên Tổng bí thư Lê Duẩn đã báo cáo với Bộ Chính Trị trong một lần ông sang Trung Quốc, ông gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông lúc đó ngồi bên cạnh Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông mới nói với Tổng bí thư Lê Duẩn rằng “Đất nước của tôi có năm trăm triệu dân mà không đủ đất để sống, tôi sẽ mang đại quân xuống chiếm hết Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình ngồi một bên gật đầu nói “Đúng như vậy vì người Trung Quốc không đủ đất sống”.

Tổng bí thư Lê Duẩn cười cười, không nói gì. Sau đó Mao Trạch Đông mới hỏi tiếp “Nước anh đời nhà Tống, anh đã đánh tôi phải không?” - “Dạ có”. Rồi “Đời nhà Minh có đánh không?” - “Có”, “Đời nhà Thanh cũng đánh luôn phải không?” - “Có”. Vậy “Bây giờ các anh có đánh chúng tôi không?”. Tổng bí thư Lê Duẩn nói “Cũng đánh luôn nếu cần”.

Và sự thực ở biên giới phía Bắc ta đã đánh nhau nhiều lần. Sau này giữa Việt Nam với Lào, có những cái hiệp ước hợp tác cho nên Lào với Việt Nam như là một khối với nhau không tách rời được. Thực ra Việt – Miên – Lào không thể tách rời, bất cứ ba nước này mà tách ra là ta bị nước khác ăn hiếp liền. Đặc biệt nước Lào thì cũng lại là anh em với ta, cùng nguồn gốc của mẹ Âu Cơ, nên người Lào rất giống người Việt Nam. Trung Quốc cũng hỏi Bí thư Lê Duẩn “Đất nước Lào có bao nhiêu dân”? Lê Duẩn trả lời “Khoảng hai triệu dân”. Mao Trạch Đông nói “Nước rộng quá mà có bao nhiêu đó, chúng tôi sẽ xuống đó ở”. Thế là rất nhiều lần người Trung quốc đã đưa người và đưa quân về Lào nhưng vì Lào trong hiệp ước hợp tác yêu cầu Việt Nam bảo vệ, nên ta đánh bật hết tất cả những lần Trung Quốc xâm nhập vào Lào. Đó là nói chuyện ân nghĩa đời xưa (đạo lý), trong thời cận đại, Trung Quốc đã giúp ta rất nhiều.

Bây giờ nói về chính trị. Nếu mà định nghĩa theo chữ nghĩa thì chính trị là gì đó như chính sách, chính quyền, chính phủ, v.v… nhưng mà nói về bản chất của chính trị thì thủ đoạn, hơn thua, giành giật lừa gạt, mưu mô, thậm chí làm điều bỉ ổi nhất nếu cần, miễn dành được quyền lợi cho mình, hoặc cho đất nước, bất chấp tất cả là vậy. Tuy nhiên nhân quả là nhân quả, đạo lý là đạo lý. Luật nhân quả lúc nào cũng dành cho những anh hùng quân tử, cho sự công bằng chính đáng. Thượng toạ minh chứng về cuộc đời và sự nghiệp của các vị vua đời nhà Trần, đặc biệt là Trần Hưng Đạo. Một con người không đi theo con đường chính trị thủ đoạn mà đi theo con đường nhân nghĩa, quân tử, anh hùng. Chính vì vậy đất nước ta đời đời tôn thờ bậc Thánh Trần Hưng Đạo. Cho nên nói luật nhân quả vẫn công bằng, vẫn dành vị trí xứng đáng đó cho người tốt là vậy. Đến nỗi trong đạo Phật, chúng ta có Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã đắc đạo vậy mà trong dân tộc, ta vẫn xếp hai người đó dưới Trần Hưng Đạo vì cái nhân nghĩa, cái quân tử, cái anh hùng này.

Phải chăng, chính những người nắm quyền lực cao nhất phải là người giữ giềng mối đạo đức, đạo lý cho dân tộc, cho loài người. Đừng dại khờ khi ta nắm quyền lực cao nhất lại là một người thủ đoạn thì sau này sẽ bị trả giá, lịch sử sẽ phán xét công tội đâu đó rõ ràng. Mà quan trọng là người dân thờ một vị lãnh tụ của họ, anh hùng của họ trên hai phương diện là công lao với Tổ quốc và phẩm chất đạo đức của cá nhân người đó. Vì vậy, những người làm chính trị, quyền lực càng cao thì phải cư xử như một bậc Thánh, đó là yêu cầu. Yêu cầu của đạo lý không thể nào là khác hơn được. Dù chính trị là thủ đoạn nhưng mà tình nghĩa vẫn là ngọn hải đăng soi rọi cuộc sống này, làm cho mọi người ấm lòng, tin cậy và làm cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ví dụ bây giờ, khi người dân họ nhìn lên những người lãnh đạo cao cấp nhất như Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Thủ tướng, v.v… thì họ mong mỏi gì ở những người đó? Họ mong rằng những người đó là thật lòng vì dân vì nước, có tài có công lo cho nước mà phẩm chất đạo đức cá nhân là sáng ngời. Mà chính cái phẩm chất đạo đức cá nhân sáng ngời đó mới làm cho lòng người yên, dân tin và một lòng theo Nhà nước. Người lính có thể đổ xương đổ máu, người dân đứng lên có thể sẵn sàng chiến đấu chết vì màu cờ Tổ quốc, hy sinh cho đất nước này, bởi vì người ta tin được Lãnh tụ của mình là những người tài đức. Dù yêu nước cách mấy nhưng nếu họ nghi ngờ tư cách của người Lãnh tụ thì không dám hy sinh, vì sợ sự hy sinh của họ là vô nghĩa.

Mặc dù mọi người vẫn phê bình chính trị là thủ đoạn, là ác nhưng trên bình diện của Luật Nhân Quả, trong đạo lý thì cái đạo đức, cái tình nghĩa luôn luôn là chỗ nương tựa của mọi người. Thì bây giờ cũng vậy, trong cái tình nghĩa đối với người Trung Quốc, người Việt Nam ta đã chọn lối sống là tình nghĩa đạo đức chứ ta không chọn lối sống thủ đoạn, mà ta đã bày tỏ sự kính trọng đối với người anh của mình đúng mức trong nhiều nghìn năm qua, thậm chí ta còn nhường luôn cả một nửa đất nước Trung Hoa đó cho người anh của mình, nếu nói về lễ, ta không còn gì phải phân vân.

Hiện nay, mỗi khi báo chỉ đăng tin là bên Trung Quốc bị sập hầm mõ làm bao nhiêu người công nhân phải chết, ta nghe vẫn đau lòng giống như người dân Việt Nam mình gặp nạn, rồi ta nghe bão tố lụt lội gây khốn đốn khổ sở cho người Trung Quốc thì người Việt Nam ta vẫn bày tỏ một sự cảm thông chia sẻ như là đứt một khúc ruột của mình, v.v… Đó là cái tình cảm chia sẻ, đồng thời ta cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với văn hóa của Trung Quốc.

Thật sự trên thế giới này, cái nền văn minh văn hóa Trung Quốc hết sức là vĩ đại, đến nỗi bây giờ các bộ phim Hollywood đều ghi lại “dấu ấn của Trung Hoa”, nội cái võ thuật thôi là cả thế giới bắt đầu học theo. Rồi đạo Nho, là đạo của Khổng Tử truyền dạy thì nhiều nghìn năm nay, người Việt Nam cũng xem đó là khuôn vàng thước ngọc. Thế là cả một thời gian rất dài, người Việt Nam chấp nhận cái văn hóa của Trung Quốc là đúng và học một cách hết sức trân trọng. Người xưa mà thấy có tờ giấy viết chữ Nho là không dám quăng bậy, phải dùng đi nếu không thì đốt, vì họ chắc chắn rằng trên đó viết những lời của Thánh hiền.

Mà những lời Thánh hiền cũng là Trung Quốc, cho nên văn hóa văn minh của Trung Quốc so với Việt Nam lớn hơn rất nhiều và đôi khi ta nói Trung Quốc như là thầy của Việt Nam. Những bộ kinh của Khổng Tử để lại vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho đến ngày hôm nay, nhiều khi người ta chê Khổng Tử phong kiến, nhưng bây giờ xem lại thì những đạo lý đó không ai có thể bắt bẻ được. Rồi những nhà Nho của Việt Nam tuân thủ những đạo lý của Khổng Tử thành xương thành máu của mình nên ta đối với người anh Trung Quốc hết sức là kính trọng, kính trọng cả văn hóa của họ.

Còn nói đến những công trình kiến trúc thì họ cũng lớn gấp trăm gấp ngàn lần Việt Nam. Ví dụ như Vạn Lý Trường Thành, Cung điện của Vua, Lăng tẩm, những đền những chùa, nhiều thắng cảnh nguy nga tráng lệ, v.v… Và trong đạo Phật có nói sáu vị Tổ của Thiền Tông, Lục Tổ cuối cùng là Lục Tổ Huệ Năng được người Trung Quốc tôn thờ, trong khi Ngài chính là người Việt Nam. Đây là thái độ cởi mở của họ.

Ngoài ra Thượng toạ còn nêu lên sự vĩ đại của Vua Càn Long trong cách đối nhân xử thế. Nếu ta có một anh hùng áo vải Quang Trung cực kỳ vĩ đại thì lúc đó bên Trung Hoa cũng có một ông Vua Càn Long rất tuyệt vời (Ông uyên bác cả về Phật học, cái học của ông cũng rất là giỏi). Ta nghĩ đời đời thế hệ lãnh đạo người Trung Quốc phải học, đó là tinh thần hào hiệp của một người anh yêu thương bảo bọc người em, đúng với đạo lý của Á Đông.

Ngoài một vài vị Vua như vậy, còn đa phần các vị Vua Trung Quốc lại có khuynh hướng tiềm tàng là cứ thích xâm chiếm mở rộng bờ cõi của mình, như khi năm 49 là chiếm mất Tây Tạng. Vừa rồi Trung Quốc dùng tiền để mua chính quyền, mua quốc hội, mua luôn cả một lãnh thổ mấy trăm ngàn cây số vuông của Pakistan giáp với Trung Quốc, Đài Loan thì nằm trong tầm ngắm, nhưng mà vẽ một bản đồ chiếm hết Biển Đông của các nước Đông Nam Á.

Đây là cái bệnh của Trung Quốc, bệnh này cần chữa trị, nếu không nó tổn hại cho người Trung Quốc rất nhiều, vì khi anh xô láng giềng ra xa tức là anh kéo kẻ thù lại gần. Bởi vậy dân gian có câu “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Nếu Trung Quốc gây hấn với láng giềng, ăn hiếp một vài nước Đông Nam Á thì buộc họ phải kiên kết với các nước khác để về chặn đứng Trung Quốc. Anh Trung Quốc hiểu điều này nên tìm cách vuốt ve Mỹ, yêu cầu Mỹ đừng xen vào Biển Đông nhưng có được không? Do Đó, khi ta đối xử tệ với láng giềng thì tự nhiên tạo thành vòng vây của kẻ thù chung quanh mình, điều này bất lợi cho Trung Quốc, vì gây mất uy tín trên cộng đồng thế giới.

Sau này người Trung Quốc đi đến đâu sẽ bị nghi kỵ, tự nhiên sẽ mất rất nhiều hợp đồng kinh tế khác đối với thế giới vì không ai tin nữa.

Chúng ta thấy, cả một vũ trụ mênh mông này chưa ai khám phá, mà muốn thám hiểm được vũ trụ thì cả loài người phải chung sức chứ một hai quốc gia làm không nổi. Nếu cả loài người không đoàn kết chung sức mà lo đánh nhau thì nó làm hao tổn tài nguyên của nhân loại, bởi vì lấy tài nguyên đó để làm vũ khí. Ví dụ, ta đem tất cả vũ khí của các nước trên thế giới như Nga, Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Canada, Anh, Pháp tính ra hết thì ứng với số tiền đó ta đủ để xây dựng cả trái đất này thành thiên đường, cực lạc, tuyệt đối không còn người đói nghèo, đất nước nào cũng đủ ăn đủ mặc, con người ta sống thịnh vượng, ấm no hạnh phúc.

Vì vậy người nào gây hấn tạo thành chiến tranh thì đó là người kích động những sự hao tổn tài nguyên của nhân loại, quả báo nước đó sẽ rơi vào nghèo khổ, sẽ bị những cơn khủng hoảng làm cho kinh tế suy sụp hẳn. Nhưng mà chưa đợi sau này, ngay bây giờ mưa lũ đang kéo đến tàn phá Trung Quốc liên tiếp trong thời gian gần đây. Cái đập Tam Điệp là niềm tự hào của Trung Quốc bây giờ trở thành cơn ác mộng, nó là hiểm hoạ đối với con người và môi trường. Rồi việc sập hầm mỏ cũng không ngừng xãy ra, đồng thời sự kiện hàng loạt dưa hấu nổ làm người dân rơi vào cảnh “Dở khóc, dở cười”, v.v...
.
Thế giới đã tới lúc chung tay góp sức lại, làm những điều tốt đẹp cho văn minh loài người, chứ không phải là gây hấn đánh nhau để làm hao tổn tài nguyên của nhân loại. Cho nên việc ta cư xử theo đạo lý, đạo đức, trước mắt thấy thì không có lợi nhưng phần thưởng về sau sẽ rất lớn. Nếu Trung Quốc đối xử với tấm lòng như Vua Càn Long ngày xưa thì không cần phải xâm chiếm nước nào, tự động người ta xin qui đồng với mình vì người ta biết về với Trung Quốc người ta được hạnh phúc, ngược lại, nếu anh hành xử côn đồ thì chung quanh anh đầy kẻ thù và người ta sẵn sàng chiến đấu liền.

Vì vậy người Trung Quốc phải xem lại, muốn cộng đồng thế giới kính trọng hay khinh ghét mình? nếu muốn cộng đồng thế giới kính trọng thì người Trung Quốc phải chữa cái bệnh “Khoái giật đất thiên hạ”. Trung Quốc tự nhiên vẽ bản đồ, vạch đường lưỡi bò lấy hết toàn bộ Biển Đông các nước Đông Nam Á. Hành động này không phải là anh đang sử dụng luật quốc tế mà là luật của cướp biển. Không gì tốt đẹp hơn, anh hãy thực hiện đạo lý mà chính mình đã dạy cho thế giới là sống như một người quân tử, tức là nhường nhịn, yêu thương, độ lượng, nhân nghĩa. Vì cái đạo lý đẹp đó lại từ Trung Quốc mà ra.

Lâu nay, Việt Nam ta có ba vùng chiến công:

1/  Trên bộ: biết bao nhiêu nghìn năm qua đánh nhau với giặc ở trên bộ ta đều thắng.

2/  Trên sông: sông Bạch Đằng chôn vùi không biết bao nhiêu quân thù.

3/ Trên không: ta đánh rơi tất cả những máy bay của kẻ thù.

 Nhưng ta chưa có chiến công trên biển. Ta xin báo với Trung Quốc và Thế giới, lần này Việt Nam sẵn sàng lập chiến công trên biển dù đeo đuổi cuộc chiến này hai mươi năm. Bây giờ người Trung Quốc đã nói rằng họ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự trên Biển Đông, khi mà họ tuyên bố như vậy thì Việt Nam ta cũng phải sẵn sàng, vì ông anh ông ép mình mà.

Để bắt đầu bước vào chiến tranh, sẵn sàng chiến đấu thì ta phải làm sao? Thượng toạ chỉ ra công thức chiến tranh, kỹ thuật quân sự theo nhãn quan của đạo Phật:

- Trước hết, tất cả người Việt Nam ta phải củng cố lòng yêu nước, chẳng tiếc hy sinh vì Tổ quốc mình, phải xác định lập trường này trước trong từng con người của ta ở mọi lứa tuổi. Có 3 khẩu hiệu mà chùa Phật Quang đã dạy cho các em thanh thiếu niên tham gia khóa sinh hoạt hè (2011) phải hô to sau mỗi lần tập luyện thể lực. Khi người huynh trưởng dõng dạc hỏi:  “Tu nghĩa là gì?”, mấy em hô lên “Diệt trừ  bản ngã”. Câu hỏi thứ hai “sống nghĩa là gì”, các em trả lời “Phụng sự mọi người”. Câu hỏi thứ ba “Khi Tổ quốc bị xâm phạm thì sao”, các em đồng trả lời “Cả nước đứng lên”. Đây là những câu trả lời rất đúng với Phật pháp và rất chuẩn. Nhưng đó không phải là chuyện chỉ riêng của các em, tất cả chúng ta cũng đều phải biết và nằm lòng ba khẩu hiệu này.

- Bước thứ hai là cố gắng làm phước. Trong một cuộc chiến tranh nước nào có phước nước đó thắng chưa nói đến chính nghĩa hoặc phi nghĩa. Cái chính nghĩa bắt đầu làm cho người ta tăng cái phước lên rồi mới thắng sau, nhớ như vậy. Tất cả mọi người phải lo nỗ lực làm phước gấp năm gấp mười lần trước đây. Khi cái phước của mọi người lớn lên rồi cũng chính là phước chung của toàn dân tộc. Đừng xem thường việc này, coi chừng đó chính là yếu tố quyết định cho việc thắng thua trong cuộc chiến.

- Bước thứ ba, từng người phải rèn luyện cơ thể, rèn luyện thể lực hết sức vất vả, vì có những lúc khó khăn thì người nào đã rèn luyện người đó mới vượt qua được. Ví dụ trong một cuộc chiến bom nổ đạn bay, không có lương thực để sống trong vài ngày, với người không có rèn luyện thể lực sẽ không chịu nổi nhưng người có tập luyện họ chịu đựng được 3 ngày đói khát, chờ tiếp tế để sống và chiến đấu tiếp.

- Bước thứ tư, chúng ta phải biết làm giàu hơn nữa, tức là đẩy mạnh kinh tế kỹ thuật Việt Nam lên một bước cao hơn nữa. Bằng cách làm hết trách nhiệm của mình, để làm sao từng người giàu lên thì cả nước mới giàu và như thế mới đánh nhau được.

- Bước thứ năm, là học sinh phải học giỏi hơn nữa, nhất là giỏi những kỹ thuật số về vi tính (phải biết lập trình, phải biết chống lại Hacker, v.v…), vì trong những trận chiến sắp tới, cái phương tiện khí tài nó lệ thuộc vào các thiết bị kỹ thuật số rất nhiều.

- Bước thứ sáu, khi chiến tranh xãy ra, mỗi người chúng ta sẽ đứng đằng sau để ủng hộ chiến sĩ chiến đấu bằng những gì mình có được (tài vật, rèn luyện thể lực, làm phước, làm giàu, học tập). Cả nước phải vào trận thì ta mới chiến thắng chứ không phải là chỉ ỷ vào quân đội. Trong lịch sử của ta, chỉ có một lần ỷ vào quân đội ta chiến thắng, đó là Vua Quang Trung đánh quân Thanh, không cần tới dân, tức là Ngài tuyển quân xong, luyện quân trong hai ngày, dắt ra Bắc đánh thắng liền, trên thế giới chưa có người thứ hai anh hùng vĩ đại như vậy. Còn hầu hết như đời quân Nguyên đánh nhà Trần thì cả nước phải vào trận.

Và trong cuộc chiến tranh lần này cũng vậy, CẢ NƯỚC PHẢI VÀO TRẬN nhưng không phải cả nước ai cũng cầm súng đi đánh, ai đánh thì đánh nhưng người không đánh thì đứng đằng sau ủng hộ, tiếp sức kế thừa, nuôi quân thăm hỏi, động viên an ủi mọi thứ để cho những người chiến sĩ của ta yên lòng mà chiến đấu, dù cuộc chiến sẽ kéo dài tới đâu. Mặc dù ở hậu phương nhưng tình thần ta lúc nào cũng như một người chiến sĩ ngoài trận tuyến.

- Bước thứ bảy là ta đứng sau lưng Nhà nước đoàn kết một lòng trên dưới. Không thể có chiến thắng nếu người dân không tuân phục, không ủng hộ Nhà nước. Thượng tọa đặt câu hỏi “Lịch sử thế giới từ xưa đến nay có một nhà nước nào, có một chính quyền nào hoàn hảo tuyệt đối 100% không? Nhưng để gọi là một Nhà nước chính nghĩa nếu nhà nước đó trên 60% là tốt, chứ còn nói đúng hoàn toàn thì tuyệt đối không bao giờ có từ xưa tới nay. Nhà nước nói tốt có những nhà nước tốt 10% còn 90% là bóc lột.  Còn nói tốt lắm thì được 70% tốt, 30% tham nhũng. Tất cả các nước trên thế giới kể cả nước văn minh nhất đều như vậy.

Việt Nam ta thì sao? Cũng bị tham nhũng và tham nhũng khá nhiều, làm mất tiềm lực quốc gia, đôi khi làm mất niềm tin của quần chúng nữa. Tuy nhiên, Nhà nước này vẫn là Nhà nước chính nghĩa đại diện cho dân tộc Việt Nam, không có Nhà nước nào khác. Vì sao vậy, vì ta điểm lại trong thời gian gần đây nhất, bất cứ Nhà nước nào cũng phải làm tay sai cho một nước khác, chịu sự chỉ đạo của một nước khác, chỉ có Nhà nước Việt Nam đứng độc lập một mình không sợ ai, dám đánh với bất cứ ai ăn hiếp mình, dù có nhận viện trợ, đây là một điều rất lạ.

Khi các Nhà Sử Học thế giới nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, họ thấy trong chiến tranh, ông Hồ Chí Minh cũng nhận viện trợ của Liên Xô nhưng mà không lệ thuộc Liên Xô, ông nhận viện trợ Trung Quốc nhưng không hề lệ thuộc Trung Quốc, sẵn sàng đánh nhau với Trung Quốc. Nên đây là một Nhà nước độc lập nhất từ xưa tới giờ. Việt Nam làm bạn với các nước, giúp đỡ các nước, nhận sự giúp đỡ các nước nhưng luôn luôn độc lập. Và nếu họ độc lập, họ không chịu sự chỉ đạo của ai thì họ dành quyền lợi cho dân của mình, mặc dù có thể cấp dưới có vi phạm, có tham nhũng. Điều đó làm ta buồn, ta đau lòng khi có những con người biến chất đó (lòng tư riêng quá lớn mà vơ vét, tham nhũng, hối lộ). Hôm nay ta lên án những Cán bộ tham nhũng đã làm mất tiềm lực quốc gia, mất niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.

Ta mong rằng, hễ ai làm Cán bộ quan chức phải sống cho thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Vì đó là chủ trương của Nhà nước, Nhà nước nào cũng muốn Cán bộ lo cho dân cho nước, chứ không ai muốn Cán bộ mình tham nhũng.

Thử hỏi, khi chiến tranh xãy ra, anh còn sống, anh còn tham nhũng được không? Nước mất thì nhà tan, tài sản anh gom góp được sẽ không còn. Vì vậy đừng tham nhũng mà làm mất đi tiềm lực quốc gia, trái lại phải chung tay góp sức để cùng nhau đánh thắng giặc. Đó là lời mà ta nói với những người quan chức tham nhũng, chứ còn trên tổng quát theo đa số Nhà nước ta hiện nay vẫn là chính nghĩa, thật lòng lo cho dân lo cho nước, giữ được độc lập Quốc gia không bị lệ thuộc nước nào, thậm chí còn vươn tay ra giúp đỡ hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Vì ba nước này là một khối, không thể nào tách ra được. Nước nào tách ra là bị ăn hiếp liền.

Và Việt Nam là đàn anh nhưng Việt Nam cư xử rất quân tử, không bao giờ Việt Nam ăn hiếp Lào và Campuchia, mặc dù phải hết sức thuyết phục hai nước đó hợp tác với Việt Nam vì lợi ích chung của ba nước. Cho nên Việt Nam rất có thái độ quân tử từ xưa nay. Nếu có người hỏi quân tử gì mà diệt luôn nước Chiêm Thành chiếm mất của người ta thì chúng ta trả lời rằng, Việt Nam phải chiếm Chiêm Thành, đó là trách nhiệm không thể làm khác được, vì sao? Vì Chiêm Thành có một tục lệ man rợ, Vua chết thì chôn theo hết những vợ hoặc cung tần.

Rồi mấy ông quan, mấy ông nhà giàu cũng bắt chước theo. Đó là tục lệ giết người, đất nước đó không thể tồn tại được. Giống như Maya ở Nam Mỹ, đất nước này cũng rất văn minh nhưng lại có tục lệ rất là man rợ, mỗi khi mất mùa người ta thường nói là do thần linh giận, cho nên họ bắt người đem về, đưa lên đài tế lễ, cắt cổ lấy máu tưới xuống đất. Như vậy họ nói là làm vừa lòng thần linh để thần linh cho mùa màng được tươi tốt. Chính vì tục lệ man rợ đó mà dân tộc Maya diệt chủng luôn.

Ta nhớ là khi có những cái tục lệ man rợ liên quan đến hành động giết người thì đất nước đó phải biến mất, đó là nhân quả. Cho nên, việc mà cha ông ta đã chiếm hết Chiêm Thành, đó là sự công bằng của Luật Nhân Quả, không thể để một quốc gia có tục lệ man rợ đó tồn tại trên trái đất này. Vì vậy cha ông ta chiếm Chiêm Thành là một công lao chứ không phải là tội lỗi. Ngày hôm nay, khi ta dạy con cháu, ta phải nhắc điều này, đó là một chiến công và cùng là một công lao. Cũng giống như năm 1979, ta đem quân qua giải phóng Campuchia, đánh tan Polpot thì đó cũng là một công lao, công đức lớn của dân tộc ta. Nếu ta không đem quân qua kịp, Polpot giết sạch Campuchia không còn sót người nào.

Ta đã giúp họ giữ gìn được chủng tộc của Campuchia, đó là công đức rất lớn của dân tộc ta, cho nên chính những công lao đó mà Nhà nước Việt Nam hôm nay, thực sự là một Nhà nước chính nghĩa của Việt Nam.

Tiếp theo, Thượng tọa kể câu chuyện Bác Hồ thành lập ngày 27/07 (Ngày thương binh liệt sĩ) tại cái Đền mà ngày nay có tên là Đền 27/07 ở Thái Nguyên. Bên cạnh ngôi đền có nhà thờ Phật rất nghiêm trang, mà nhà thờ Phật này có trước cả trăm năm.

Như vậy ý Bác Hồ muốn là phải đưa hương linh các anh hùng liệt sĩ về nương tựa với Phật. Khi giải mã được thâm ý Bác Hồ, Thượng tọa mạnh dạn kiến nghị lên TW Nhà nước “Từ đây bất cứ nơi nào có nghĩa trang liệt sĩ, Nhà nước phải xây thêm nhà thờ Phật để cho anh em liệt sĩ được về nương tựa với tâm linh của đạo Phật”.

Rõ ràng Bác Hồ là người cực kỳ yêu quý đạo Phật vì bố Bác Hồ (Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc) là người có công chấn hưng đạo Phật Việt Nam. Vì vậy Nhà nước ta tuy nói là Nhà nước Cộng sản nhưng thật sự có nguồn gốc tâm linh của đạo Phật. Do đó, ta không còn có con đường nào để chọn lựa, ta chỉ có một đất nước này để yêu thương, một Nhà nước này để ủng hộ và một Phật Pháp này để phát triển.

Vì sao nói Đạo Pháp đồng hành cùng Dân tộc? Vì trong thẩm sâu tâm linh Nhà nước này theo đạo Phật, ủng hộ đạo Phật. Vì vậy trong cuộc chiến tranh sắp tới, ta ủng hộ chiến sĩ cũng phải ủng hộ Nhà nước, tức là làm cho Nhà nước tốt hơn nữa. Chính dân đã đưa những người con ưu tú ra làm Cán bộ -Quan chức lãnh đạo Nhà nước thì khi họ hư dân phải dạy. Tuy nhiên lâu nay thấy Cán bộ tham nhũng dân chì biết chê chứ không mạnh dạn dạy.

Dạy cán bộ cho tốt hơn đó là nhiệm vụ của dân. Chính sự góp ý của dân làm cho chính quyền tốt lên từng ngày. Mà chính quyền tốt lên từng ngày, nhân dân tin tưởng, ta mới đoàn kết trên dưới một lòng chuẩn bị đi vào chiến tranh. Nếu trên dưới không một lòng ta sẽ thua trong trận chiến sắp tới.

Tóm lại, nhà nước phải thật lòng lo cho dân, kiểm điểm những cán bộ sai của mình và người dân phải giúp cho nhà nước tốt lên từng ngày. Đó là sự tương quan giữa nhà nước và dân là như vậy.

Sau nữa, ta phải tu tập vô ngã. Đạo lý vô ngã của nhà Phật rất quan trọng trong chiến tranh. Khi ứng dụng vô ngã trong tu tập thì ta đi đến giải thoát. Còn khi ứng dụng tu tập vô ngã trong đời sống thì ta tạo thành vô số công đức. Và khi ứng dụng vô ngã trong chiến tranh ta sẽ chiến thắng được kẻ thù, vì người vô ngã là người dám quên mình, có thể yêu thương được cả thế giới này, chứ không còn trong phạm vi đất nước của mình nữa, đồng thời phải yêu thương kẻ thù dù ta đánh tan họ. Đó là thái độ của người chính nhân quân tử.

Thái độ này là Trung Hoa dạy ta và ta ứng dụng thái độ đó để đối xử lại với họ. Ta sẽ chiến thắng họ, sẽ đánh tan họ nhưng vẫn yêu thương họ. Đây là đạo lý vô ngã. Vì vậy từng người phải tu tập lại đạo lý vô ngã cho thật kỷ để dám hy sinh, dám quên mình và dám yêu thương kể cả kẻ thù của mình. Mỗi ngày ta phải quỳ trước Phật nguyện diệt trừ bản ngã.

Ta nhớ lời Bác Hồ “Khi trong hòa bình thì lúc nào cũng sẵn sàng như trong chiến tranh nhưng khi bước vào chiến tranh thì ung dung như đang trong hòa bình”, đây là bản lĩnh mà Bác Hồ dạy lính của mình. Cũng vậy, hiện tại chiến tranh chưa xảy ra, nhưng ta chuẫn bị sẵn sàng như đang chiến tranh nhưng nếu ngày nào chiến tranh xãy ra thì ta không sợ hãi, rất bình tĩnh để đối phó.

Mặc khác ông bà dạy ta “Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”, tức là cả nước đều vào trận nếu phải đánh.

Hiện nay hàng Trung Quốc tràn ngập ở Việt Nam vì giá rẻ. Bình thường ta mua hàng Trung Quốc không có vấn đề gì, ta mua hàng của họ cũng là ủng hộ anh em mình thôi nhưng bây giờ khi cầm hàng Trung Quốc ta phải suy nghĩ “Hôm nay Trung Quốc đã gây hấn ta tới đâu rồi, nếu mua một món này là ta giúp cho anh em Trung Quốc có thêm một viên đạn, một khẩu súng để bắn vào nhân dân ta. Vậy sao không mua hàng của Việt Nam để chiến sĩ ta có thêm một viên đạn, một khẩu súng. Điều này cho thấy, chưa cần chiến đấu chỉ mua hàng thôi là ta chuẩn bị chiến tranh được rồi".

Ta quở trách những ai ăn chơi lêu lỏng, phí phạm. Bây giờ phải chuẩn bị mọi thứ để cả nước bước vào cuộc chiến. Hễ bước vào chiến tranh rồi thì cả nước là cha là mẹ của nhau. Lúc này ai mà phí phạm một đồng, một hạt gạo, một giọt nước là ta được quyền nhắc nhở, phê bình. Cả nước phải đồng lòng tập trung sức mạnh để chiến đấu, bằng cách sống có kỷ cương như quân đội. Và ta dồn sức để rèn luyện, lao động, học tập, tu hành cùng cả nước chiến đấu.

Đặc biệt là yếu tố tu hành. Ta đánh giặc không phải chỉ có vũ khí mà Thần Thánh cùng đánh với ta. Khi đất nước ta có một nền tâm linh mạnh mẽ thì Thần Thánh cùng vào trận với ta. Vì vậy ta phải xây dựng cho dân tộc mình một nền tâm linh mạnh mẽ.  Đó là, trong cả nước mỗi người đều biết tu hành (lễ Phật, ngồi thiền, làm phước) thì ta chiêu cảm được sự gia hộ của Thần Thánh, để khi vào trận không chỉ có những chiến sĩ mà Thần Thánh cùng ta đánh giặc. 

Bây giờ nên xây dựng tình đoàn kết cả nước lại để chuẩn bị chiến đấu, vì vậy ta nghiêm khắc quở trách bất cứ những ai làm mất đoàn kết trong đất nước này. Một lời nói chê bai, chỉ trích, gây hiềm khích đều tiếp tay cho giặc. Khi đất nước đang vào cuộc chiến mà ta làm lạc lòng người, làm mọi người lung lay, không còn sức mạnh để chiến đấu là có tội lớn với Tổ quốc.

Lúc này ta chỉ được nói những lời yêu thương, đem đến sự hòa thuận. Tránh trường hợp con người nói xấu nhau, đạo này chê đạo kia, dân tộc này chê dân tộc kia, nhất là chê Nhà nước. Tinh thần này mọi người phải nghiêm khắc thực hành, ai nói những lời gây chia rẽ, ta phải quở trách và nói rằng anh vừa tiếp tay cho giặc ngoại xâm.

Cuối cùng ta nói với thế giới rằng người Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng sẵn sàng chiến tranh. Người Việt Nam ta kính trọng Trung Quốc nhưng sẵn sàng đối phó và Việt Nam không bao giờ ăn hiếp nước nhỏ hơn mình. Ta sống xử sự với tư cách của một người anh, người quân tử.

Đồng hành với dân tộc Việt Nam này là Phật giáo, thăng trầm theo từng bước khổ, vui của dân tộc. Cho nên ta tinh tấn tu hành, cầu nguyện và giáo dục lẫn nhau, để mọi người nâng cao nhân cách, tinh thần mình lên mà xây dựng, bảo vệ đất nước. Ta gửi một thông điệp đến tất cả Tôn giáo bạn cũng phải giống như đạo Phật vậy. Hãy quên đi nguồn gốc từ đâu đến mà nhớ rằng dù đạo nào anh cũng là người Việt Nam, cùng cái khổ, cái vui với dân tộc này. Nên đặt tình yêu dân tộc cao hơn tình cảm tôn giáo của ta. Khi đất nước bị ngoại xâm, nếu ai không đủ lòng yêu nước, không đủ lòng hy sinh thì người đó có tội lớn. Và cái tội đó nó không phân biệt anh thuộc tôn giáo nào.

Thời Pháp thoại kết thúc bằng những tiếng vỗ tay vang rền, biểu hiện sự đồng cảm của thính chúng trước những lập luận rõ ràng, mạnh mẽ, dứt khoát của một nhà sư có tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền lửa tinh thần này cho mọi người, nhất là lớp trẻ thanh thiếu niên.

Tâm Trụ.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...