Hiển thị các bài đăng có nhãn lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Hai nhánh rẽ của nền văn minh nhân loại - TT. Thích Chân Quang

Thời Thổ Tả xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả một bài nói chuyện rất hay về lịch sử văn minh nhân loại của người cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - Thượng Toạ Thích Chân Quang:


Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

Phan Huy Lê đã dối trá, bịp bợm, đánh tráo khái niệm như thế nào (*)

ĐỪNG MƯỢN DANH KHOA HỌC 
ĐỂ ĐÁNH TRÁO LỊCH SỬ!

©Nguyễn Minh Tâm

"Với việc gộp cả 9 đời chúa Nguyễn có công mở mang bờ cõi với 13 đời vua Nguyễn, trong đó có đến 5 ông vua cắt đất cho giặc và cam tâm làm tay sai bán nước cho giặc, rước voi về dày mồ (Gia Long, Tự Đức, Đồng Kháng, Khải Định, Bảo Đại, riêng Bảo Đại bán nước 2 lần cho Nhật và cho Pháp); ông Phan Huy Lê đã “trộn phấn với vôi” để rửa mặt cho các triều đình của Gia Long, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định và Bảo Đại."

"Còn trước thời điểm ấy, Nhà Tây Sơn, bằng cách dựa vào ý chí của nhân dân, huy động sức mạnh của toàn dân, trong 16 năm (1771-1787) đã lần lượt đánh dẹp các thế lực phong kiến cát cứ ở Đàng Ngoài (Vua Lê – Chúa Trịnh) và Đàng Trong (Chúa Nguyễn), thu giang sơn Việt Nam về một mối, đất nước thoát khỏi cảnh bị chia cắt Bắc – Nam trong suốt 148 năm (1627 – 1775). Trong thời gian 148 năm nội chiến Đàng Ngoài – Đàng Trong ấy, các thế lực phong kiến họ Trịnh (Đàng Ngoài) và họ Nguyễn (Đàng Trong) đã gây ra 8 cuộc nội chiến lớn và hàng trăm cuộc xung đột vũ trang nhỏ. Có những cuộc chiến kéo dài hàng chục năm. Cuộc chiến Trịnh – Nguyễn đã làm hao tổn không biết bao nhiêu sức người, sức của của nhân dân dân, triệt phá hàng loạt đồng ruộng, xóm làng.


Trong quá trình xây dựng đất nước từ đống hoang tàn, đổ nát, hậu quả cuộc chiến kéo dài gần một thế kỷ rưỡi, nhà Tây Sơn còn hai lần đánh bại hai thế lực phong kiến hùng mạnh xâm lược Đại Việt là triều đình Xiêm La (Thái Lan) ở phía Nam và Nhà Thanh ở phía Bắc. Điểm đặc sắc là trong cả hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm do Nhà Tây Sơn tiến hành, quân xâm lược đều có sự tiếp tay của những kẻ phản dân, hại nước. Đó là Lê Chiêu Thống cầu viện giặc Thanh và NGUYỄN ÁNH CẦU VIỆN GIẶC XIÊM LA ("RƯỚC VOI VỀ DÀY MẢ TỔ").

Trong lập luận của mình, ông Phan Huy Lê đã ĐÁNH ĐỒNG CÁC CHÚA NGUYỄN, MỘT THẾ LỰC CÁT CỨ Ở MIỀN NAM mà người Việt Nam cũng như lịch sử Việt Nam CHƯA TỪNG CÔNG NHẬN LÀ MỘT NHÀ NƯỚC HOÀN CHỈNH NGANG HÀNG VỚI MỘT VƯƠNG TRIỀU PHONG KIẾN. Bởi vì về danh nghĩa, đứng trên cả hai thế lực phong kiến cát cứ này còn có NHÀ LÊ TRUNG HƯNG, và cả hai thế lực này đều trương khẩu hiệu chính trị “Phò Lê”. Bằng việc này, ÔNG PHAN HUY LÊ ĐÃ PHỦ NHẬN SỰ THỐNG NHẤT LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM, công nhận tính hợp pháp và hợp lý của việc CHIA CẮT ĐẤT NƯỚC. Đó là sai lầm về đạo đức nghề nghiệp KHÔNG THỂ THA THỨ!"

Bài cảm niệm công ơn các anh hùng liệt sĩ lay động núi rừng Điện Biên


Dù trong thời kỳ nào, chống Pháp, chống Mỹ, hay chống giặc ngoại xâm 2 đầu biên giới, những người chiến sĩ cách mạng vẫn là nỗi khiếp sợ của quân thù, là niềm kính thương của toàn dân, là nỗi tự hào của hồn thiêng sông núi tiên tổ nghìn đời.

- - - Xin phép đăng lại để hầu chuyện các bác, các cô, các anh chị -

Bài cảm niệm công ơn các anh hùng liệt sĩ lay động núi rừng Điện Biên.

Hỡi anh linh các anh hùng liệt sĩ!
Hỡi anh linh các anh hùng liệt sĩ!
Hỡi anh linh các anh hùng liệt sĩ!

Thịt xương các anh kết thành khí thiêng sông núi, cho Bắc Nam sum họp một nhà. Lịch sử mấy nghìn năm giữ nước trải bao lần khói lửa đao binh. Giờ đây, đất nước thanh bình, độc lập. Ân huệ ấy do công lao của biết bao thế hệ đã quên thân mình, anh dũng hi sinh. Hồn tử sĩ dệt thành hồn thiêng sông núi.

Chúng con hôm nay sinh ra khi quê hương không còn tiếng súng. Khi đất nước không còn bóng giặc ngoại xâm, cả cõi đất yên bình, tĩnh lặng. Bởi giữa lòng đất của Tổ Quốc đang ôm ấp các anh – những người con anh hùng của dân tộc. Mỗi tấc đất giấu trong mình cả một ký ức về lịch sử khốc liệt của chiến tranh mà bao đời ông cha đã kiên cường giữ lấy. Đất đã nhận lấy những gì đau thương của chiến tranh để chúng con được yên lành bước đi. Đất đã đón các anh trở về để các anh được nằm yên trong tiếng gió, được ngắm nhìn bầu trời xanh vời vợi, được thấy hoa ban nở trắng rừng Điện Biên Tây Bắc gió ngàn.

Chúng con hôm nay, tại giờ phút này, chỉ cần nhắm mắt lại một giây thôi sẽ nghe được tiếng của đất trời vang vọng. Cả một trang sử hào hùng mà cha ông đã trải qua, những con người hi sinh không tiếc máu xương mình. Là những người thanh niên, là những người thiếu nữ tuổi đôi mươi đôi mắt cháy lửa tình yêu quê hương đất nước. Với trái tim dũng cảm kiên cường bước lên theo tiếng gọi thiêng liêng. Với những năm tháng khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Vác trên mình súng đạn, vận chuyển ra chiến trường. Đắp lại từng con đường để xe pháo đi qua. Khi khí thế của tinh thần “Tất cả vì Độc lập của Dân tộc, Quyết chiến và Quyết thắng”, các anh đã kéo lên những quả pháo trên những ngọn đồi, để cảnh tỉnh những kẻ xâm lược phi nghĩa. Những con đường hầm, những trận chiến giành lấy từng tấc đất, có những người lính đã nằm xuống để đồng đội mình tiến lên giành chiến thắng.

Than ôi!

Chẳng bút mực nào tả hết nỗi đau thương! Các liệt sĩ đã chấp nhận hi sinh vì sự trường tồn của Tổ Quốc! Sự hi sinh vì nước vì dân thì không bao giờ chết được!

Có những cái chết mãi thành bất tử
Chiến công này lịch sử vẫn còn ghi
Hào khí non sông chung đúc thật diệu kỳ
Toả rạng để vang lừng bốn bể…

Các anh đã nằm lại nơi đây, nơi nghĩa trang A1 này. Và từng tấc đất, ngọn đồi giữa mảnh đất Điện Biên anh hùng, nắng vẫn chiếu màu nắng yên bình trên vai anh, hoa ban trắng vẫn nở dưới chân anh – những người anh hùng bất tử. Máu của các anh đã nhuộm thắm lá cờ đỏ của Tổ Quốc thiêng liêng. Hồn của các anh vẫn muôn đời bước cùng quê hương đất nước.

Hỡi các chị, các anh!

Trên chiến trường ngã xuống, máu của các anh không hề uổng phí. Máu của các anh đã làm xanh tươi đồng ruộng Việt Nam.

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa ban lại trắng, vườn cam lại vàng…

…cho Điện Biên ngày nay yên ả, thanh bình, mọc lên những phố phường phồn hoa, đô hội trong tình yêu thương của đồng bào các dân tộc, tạo nên bản anh hùng ca bất diệt mãi mai sau.

Chúng con hôm nay xin được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến cha anh.

Xin cúi đầu trước anh linh của cha anh.
Xin được gửi lời thề nguyện với non sông đất nước:

“Chúng con xin nguyện đem hết trái tim này để dũng cảm hi sinh cho Tổ Quốc, với tình yêu quê hương cháy bỏng trong mình. Chúng con sẽ đem hết sức trẻ trí tuệ của mình để phụng sự cho đất nước, cho nhân dân. Chúng con sẽ không sống cho riêng mình mà cống hiến tất cả cùng chung vì nhân loại. Để hoà bình mà các anh đã giành được, sẽ làm hoà bình mãi mãi cho con cháu mai sau…”

Giữa những ngày này Điện Biên hoa ban trắng nở. Giữa những cơn gió xuân nhè nhẹ thổi mát lòng người. Trong tiếng chuông chùa ngân trầm lắng, giữa khói hương trầm lan toả, chúng con xin dâng trọn tấm lòng hướng về các anh. Chúng con tin rằng ở nơi này, các anh vẫn luôn dõi bước cùng cả dân tộc, tiếp tục giữ nước và vững bước đi lên. Khi sống hiếu trung, nay thác đi với tâm thức anh hùng, nguyện các đấng thiêng liêng, nguyện hồn thiêng sông núi, tấn phong các anh hùng liệt sĩ thành những phúc thần để trợ giúp những công trình ích quốc, lợi dân. Hương linh các anh sẽ sống mãi với non sông đất nước Việt Nam, trong tâm tư ký ức của bao thế hệ dân tộc người Việt Nam luôn nghìn trùng thương nhớ.

Xin kính cẩn nguyện cầu các anh mãi thanh nhàn nơi cõi tịnh, tâm an.

Xin nguyện cầu Mười Phương Chư Phật gia hộ để các anh được bình an trong cõi yên lành, rồi một ngày bước đi trong niềm an lạc của sự giải thoát.

Tình nghĩa kia làm sao bày tỏ
Đền ơn anh còn có tấm lòng
Hướng về Phật Pháp mênh mông
Cầu Chư Phật hiển linh tế độ
Đưa các anh xa khổ về vui
Trải lòng thương khắp nơi nơi
Từ bi vô lượng đất trời chuyển theo
Ngày nào đó phước trời đã đủ
Rời cõi này về chỗ cao hơn
Chung quanh Bồ Tát ân cần
Dắt dìu dạy dỗ, nghìn lần thấm sâu…


Bài cảm niệm được ghi lại từ “Đại lễ Cầu siêu Anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang A1, TP. Điện Biên”: với giọng đọc trầm lắng, ấm áp, cảm động của Thượng Toạ Thích Đức Thiện.


Stalin thay đổi tiến trình WW-II

Hiệp ước Molotov-Ribbentrop thực sự là cái gì? Hay quá trình ngoại giao của Stalin trước WW-II, ngày nay bọn chúng sử dụng đ chống lại Nga trong cuộc chiến tranh thông tin.


Hiệp ước Molotov-Ribbentrop là sai lầm chiến lược của Liên Xô và gần như là tội ác của đồng chí Stalin – lời lẽ của Sergey Mironenko, giám đốc Lưu trữ Nga trong phỏng vấn gần đây. Ngụy biện của 1 số kẻ xét lại lịch sử Nga lại nổi lên trong thời gian gần đây. Tác giả Arsen Martirosyan của tuyển tậpHoang đường Molotov-Ribbentrop” (Мифы Пакта Молотова-Риббентропа) bác bỏ nó.

Nhưng điều tồi tệ nhất của những kẻkhoác áo khoa học lịch sửnhư Mironenko, là chúng ta không có quyền bực mình như với Poroshenko khi hắn ta tuyên bố, Hitler và Stalin đã bắt đầu WW-II, chúng ta bây giờ phải thỏa thuận với Ba Lan rằng Ukraine đã cứu châu Âu khỏi nạn Holocaust? Nhà lưu trữ quả quyết WW-II là bất ngờ của Stalin (và công nghiệp hóa trước chiến tranhlà ngẫu nhiên, và bắt đầu từ sự giận giữ), hiệp ước không xâm lược mà Anh và Pháp ký kết với Đứckhông phải là hiệp ước, mà là "hiệp ước Molotov-Ribbentrop", mặc dù chính cái tên sặc sỡ ra đời vào mùa thu 1939 theo đ nghị của các nhà báo phương Tây. Đó là bởi vì hiệp ước này mà chúng ta đã không chỉ một chút nữa thất bại cuộc chiến tranh của mình mà còn làm hao kiệt sức lực công dân Xô Viết:

"Liên Xô cung cấp cho Đức ngũ cốc, thịt, sữa và sản phẩm nông nghiệp khác. Dầu cung cấp mà nhờ đó Đức có đ nhiên liệu cho xe tăng. Cho đến 22 tháng 6, kể cả từ USSR các đoàn tàu hỏa chở nguyên tố đất hiếm. Tất cả điều này dẫn đến leo thang chiến tranh. Hiệp ước Molotov-Ribbentrop – là sai lầm chiến lược nếu không muốn nói là tội lỗi của lãnh đạo Xô Viết và chính đồng chí Stalin," – Mironenko nói.

Về việc Stalin đã bắt đầu chuẩn bị cho chiến tranh từ năm 1924, khi ký kết cái gọi là thỏa thuận Lokarnsky, thực chất vấn đề, là hình mẫu Hiệp ước Munich đã được ký kết, và những kẻ đầu tiên nói về tội lỗi lừng danh của Hiệp ước Molotov-Ribbentrop chỉ có Gorbachev và Yakovlev, bằng chính cách ấy đặt ra điểm khởi đầu làm tan rã Liên Xô - Arsen Martirosyan kể trong cuộc phỏng vấn của Накануне.RU;.

Câu hỏi: Giám đốc lưu trữ Nga Sergey Mironenko dám xoay lại câu chuyện WW-II, cụ thể là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop. Quả thực, anh ta có “tội lỗi” không như tuyên bố lúc này?? Vì cái gì mà chúng ta ký Hiệp ước với Đức trước chiến tranh?


Arsen Martirosyan: Thứ xét lại kết quả WW-II là câu chuyện dài, nó bắt đầu ngay sau khi kết thúc cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Người Mỹ và phương Tây nhìn chung, thường xuyên xuyên tạc sử liệu, nhưng đến mức độ này, thì chúng ra bây giờ mới thấy, chiến tranh thông tin không đạt được. Anh ta thật đúng lúc, chưa bao giờ coi hiệp ước – đơn giản là thỏa thuận không xâm lược, làm hiện ra cái tên "Hiệp ước Molotov-Ribbentrop", với sự tiếp tay của các nhà báo phương Tây.

Câu hỏi: Lần đầu tiên người ta nói về hiệp ước theo kiểu này là khi nào?

Arsen Martirosyan: Lần đầu tiên về tội lỗi lừng danh của hiệp ước bắt đầu trong thời Liên Xô, chính là Gorbachev và sau đó Yakovlev. Họ dựng ra nó từ "ngày tận thế" và dựa vào "tội lỗi" để tuyên nó là bất hợp pháp, đặt nó thành sự khởi đầu sụp đổ của Liên Xô.

Câu hỏi: Vả lại ở đây Liên Xô sụp đổ?

Arsen Martirosyan: Nếu hiệp ước là bất hợp pháp, tội lỗi, nghĩa là các nước CH Baltic có thể yên tâm đệ đơn "ly khai" với chúng ta – đó là điều họ đã làm năm 1991.

Câu hỏi: Tại sao chúng ta ký Hiệp ước này?

Arsen Martirosyan: Nguyên nhân để ký kết thỏa thuận là như sau: Đầu tiên, đây không phải là thỏa thuận không xâm lược và trung lập đầu tiên. Chúng ta đã có thỏa thuận như thế từ 24 tháng 4 1926, và ngoài ra, trong tiến triển của thỏa thuận này cũng như ký kết ngày 23 tháng 8 1939. Có nguyên nhân phương Tây đã công khai thúc đẩy Hitler tấn công Liên Xô, trước ký kết này với ông ta là các thỏa thuận không xâm lược thích đáng – Anh và Pháp. Thêm với các thỏa thuận này là Hiệp ước Munich tai tiếng và thực sự tội lỗi năm 1938 – nó trên thực tế bảo đảm cho Hitler có vẻ như phương Tây trung lập, để lại cho ông ta khả năng yên tâm tấn công Liên Xô. Cũng Anh và Pháp năm 1939 đã không muốn ký với chúng ta thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau trong việc ngăn chặn và hơn nữa cùng nhau đáp trả xâm lược.

Nếu Hitler tiến vào Ba Lan mà không có thỏa thuận này, quân Đức sẽ tiến đến biên giới Liên Xô cũ, hậu quả là Minsk sẽ bị phơi mình dưới tầm đạn pháo, ở đó chỉ là khoảng 25-30 km, đấy sẽ là tình cảnh khủng khiếp. Và thời gian bay cho các máy bay đến trung tâm công nghiệp Liên Xô gần nhất sẽ rất ngắn.

Câu hỏi: Hiệp ước Molotov-Ribbentrop có phải là ngoại giao có tầm nhìn xa?

Arsen Martirosyan: Đúng, Stalin đã bất đắc dĩ đơn giản là phải có bước đi này, bởi ông ấy mang trách nhiệm lịch sử với số phận quốc gia mà chính ông ấy gây dựng. Nhìn chung, có thể so sánh hoàn cảnh này với 1 tình huống trên sân bóng đá, Hitler đá trái bóng Ba Lan – giải quyết vấn đề hành lang Danzig, Đông Phổ - phương Tây bắt đầu la hét: "Hãy dừng nó lại, dừng lại!", và Stalin tuyên bố với phương Tây: "Không, các ông hãy dừng đi! Các ông đưa hắn lên quyền lực, các ông cần phải dừng". Cả đối thoại ngoại giao lúc đó là như vậy. Stalin kiên quyết đẩy bóng vào chân đồng minh Anh Pháp, làm họ rất không hài lòng. Điều này thực ra là cú đánh rất lão luyện, như sau này nhà ngoại giao Xô Viết lỗi lạc Yuli Kvitsinsky nói, thật đáng tiếc: "Stalin khi đó đã ngồi chơi với những con quỷ và cuối cùng đánh bại chúng”.

Câu hỏi: Bây giờ người ta dựng điều này, như thể chúng ta hành động đồng minh với Hitler? Nhưng Stalin có mục đích thực sự nào vào thời điểm đó?

Arsen Martirosyan: Cái kết cục đã xảy ra, nếu như nắm logic của hoàn cảnh quốc tế lúc đó: Phương Tây mong đẩy Hitler về phía Liên Xô, và sau đó, tố cáo Hitler, lao đến giải phóng Liên Xô khỏi sự xâm lược (tương tự trò 7 đồng minh bao vây Nga hồi 1918), do đó, sự bao vây này thực sự tiêu diệt Liên Xô. Và Stalin đã thay đổi tiến trình WW-II – thay vì là tấn công Đông Âu và hơn nữa xâm lược Liên Xô, phương Tây đã buộc phải thiết lập hệ thống phòng thủ để bảo vệ mình, và họ cũng bị Hitler tấn công thực sự. Vì thế mà họ tức tối đến phát cuồng tận ngày nay. Bởi chúng ta không chỉ lẳng “con nhím vào trong quần” họ - nếu dùng lối nói Khrushchev, mà đúng nghĩa đen đã thọc dùi vào giữa mông họ.

Họ vẫn mắc chứng cuồng tận ngày nay bởi chúng ta đã buộc họ phải phòng thủ và sau đó tự mình lập mặt trận thứ 2 dù không có ý định chiến tranh với Hitler. Đấy là Stalin đã tạo ra hoàn cảnh, khi Đức không tránh khỏi cần phải bị đánh bại trong bất kỳ trường hợp nào bởi chiến tranh với Anh và Pháp không tránh khỏi có sự tham gia của Mỹ, và với đồng minh như vậy, Đức sẽ không bao giờ làm nổi, đặc biệt là khi bên phía đồng minh có Liên Xô. Điều này đã được thực hiện. Và tuyên bố đây là thỏa thuận tội lỗi từ phía anh giám đốc Lưu trữ - là tội lỗi lộ liễu chống lại sự thật lịch sử! Nếu anh ta không hiểu thỏa thuận như thế có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh đặc biệt đó, khi phương Tây hoàn toàn công khai đẩy Hitler về phía Liên Xô, thì công chức lưu trữ như thế cần phải bị đuổi cổ 3 đời, còn tốt hơn – giao anh ta cho tòa án, để từ nay về sau không còn dám giả mạo.

Câu hỏi: Liệu Hitler có cân nhắc làm đồng minh phương Tây một chút nào trong cuộc chiến chống Liên Xô không?

Arsen Martirosyan: Khi đó có cái gì đó lạ thường diễn ra. Khi thỏa thuận được ký kết, phương Tây đã hoàn toàn công khai kết án Hitler là ông ta đã đểu giả và lật lọng toàn bộ hứa hẹn với phương Tây – ông ta hứa tấn công Liên Xô, và đã ký thỏa thuận như vậy, họ khóc rống lên vì điều này. Họ khóc rống lên theo đúng nghĩa đen. Nhưng khóc vẫn khóc mà vẫn phải tự lo liệu cho mình 1 "cuộc chiến tranh lạ lùng". Họ đã không làm gì, ngoài say sưa chơi con bài liều lĩnh, trong toan tính với quân đội Đức, họ có thể đè bẹp lực lượng phòng thủ Đức ở phía Tây. Nhưng họ không làm điều này. Và Hitler cũng không tấn công họ cho đến tháng 5 1940.

Câu hỏi: Chúng ta cần thỏa thuận này để làm gì – để trì hoãn chiến tranh? Người ta nói Stalin quả thực không tính đến sự tấn công của Đức, không chuẩn bị cho chiến tranh?

Arsen Martirosyan: Stalin đã chuẩn bị cho chiến tranh từ năm 1925, khi ký kết cái gọi là Hiệp ước Lokarnsky, vấn đề là ở chỗ, hình mẫu Thỏa ước Munich đã được ký. Theo các thỏa thuận này và Công ước bảo lãnh Rhine –đảm bảo cho Đức an toàn đường biên giới phía tây lúc bấy giờ trong khi tuyệt đối không có sự rõ ràng nào ở biên giới phía đông. Cũng như thế được tạo ra từ Hiệp ước Munich. Và tất cả công nghiệp hóa, tập thể hóa nông nghiệp, tăng cường trình độ văn hóa ở Liên Xô – mọi thứ là để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh. Hơn nữa, quả thực kể từ 1919, ngay sau khi ký kết Hiệp ước Versailles, cái gọi là thỏa thuận hòa bình, đã rõ ràng, sớm hay muộn sẽ lại phải nổ súng 1 lần nữa. Bởi vì ngay cả ông BT quốc phòng Pháp, đô đốc Ferdinand Fosh cũng tuyên bố thẳng thắn: "Đây không phải là hòa bình, đây là ngừng bắn. Và qua 20 năm sau súng sẽ nổ 1 lần nữa". Nó đã nổ, ông BT chỉ sai có 2 tháng.

Câu hỏi: Mironenko còn phẫn nộ, vì thỏa thuận này mà chúng ta đã phải "nuôi" quân đội Hitler và cung cấp nhiên liệu cho xe tăng của họ?

Arsen Martirosyan: Buộc phải nói rằng, đây đơn giản là kẻ dốt nát. Tất cả số liệu thống kê về sản phẩm chúng ta chở đi sang Đức theo thỏa thuận thương mại 1939 – đã công bố, và nó rất thật chứng tỏ rằng, Stalin theo nghĩa đen đã nhạo báng Đức. Thay vì là giao quặng sắt đã tuyển, lại giao cho họ loại quặng sắt rất nghèo, chỉ 30%.

Đức đã cố gắng để giải quyết vấn đề, còn Stalin bác bỏ – chúng tôi chỉ có các nhà máy tuyển quặng đơn giản để làm giàu quặng, và người Đức đành phải chấp nhận như vậy. Còn đối với dầu mỏ mà ông ta (Mironenko) nói tới, chúng ta hầu như không cung cấp dầu cho Hitler, bởi vì trong 2 năm 1939 – 1941, chúng ta chỉ bán tất cả 1 triệu tấn dầu, và Pháp âm thầm nằm dưới Đức, bề ngoài có vẻ là chống cự 40 ngày, nhưng đã giao nộp trên 5 triệu tấn dầu cho Đức. Chỉ đơn giản là giao nộp tất cả. Chưa nói đến các nguồn dầu khác. Tất cả bọn họ đã "nuôi" quân đội Hitler lớn hơn nhiều từ đâu đó. Còn về lúa mỳ – không có bất cứ mẩu bánh mỳ nào trên bàn của công dân Xô Viết bị cướp đoạt, vì chúng ta bán chủ yếu loại ngũ cốc làm thức ăn gia súc mà chúng ta dư thừa khi đó. Điều này không ảnh hưởng đến tình hình lương thực đất nước. Theo bất cứ cách nào cũng tuyệt đối không, tôi nhắc lại – tất cả số liệu thống kê đã được công bố từ lâu, và thật là hổ thẹn cho Mironenko khi anh ta tuyên bố những lời ngu dốt như thế với cả thế giới. Đáng xấu hổ! Anh ta là tội phạm vì ngữ nghĩa ngôn từ.

Câu hỏi: Một số đổ lỗi cho Liên Xô về 1 điều, cùng với hiệp ước là việc ký kết nghị thư phân chia thực tại lãnh thổ Ba lan giữa Đức và Liên Xô. Liên Xô cũng sát nhập 3 CH Baltic, các vùng lãnh thổ khác? Chúng ta làm điều này bất hợp pháp, hay Ba Lan đã không còn là Ba Lan?

Arsen Martirosyan: Liên Xô đưa binh lính của mình vào lãnh thổ cựu Ba Lan vào lúc Chính quyền và Bộ tổng tư lệnh của nhà nước Ba Lan này đã không còn tồn tại trên lãnh thổ Ba Lan. Chỉ đơn giản là lãnh thổ bị bỏ lại mà qua đó phía tây Ukraina không được bảo vệ vào lúc đó và cả tây Belarus, nơi xảy ra những cuộc tàn sát khủng khiếp những người người quan hệ đến Belarus, Ukraina, Do Thái. Liên Xô thực sự, tuyệt đối và rõ ràng đúng khi tuyên bố đưa binh lính vào để bảo vệ an toàn cho dân cư. Vào lúc quân đội tiến vào, không có chính phủ Ba Lan, không có Bộ tổng tư lệnh, mà có thể nói thẳng, họ đã bỏ chạy khỏi Warsaw thậm chí từ trước đó, đâu còn chính phủ. Để nói rằng chúng ta xâm lược – đơn giản là vô nghĩa, cần phải biết rằng, tối thiểu, cái gì đã xảy ra, còn Mironenko thì biết rõ, nhưng lại tuyên bố điều ngu xuẩn này theo nhu cầu của chủ Tây. Giữa Hitler và Stalin, không có bất cứ ai “chia Ba Lan”, trước đó cũng không có.

Câu hỏi: Có thể chứng tỏ điều này như thế nào?

Arsen Martirosyan: Không có nghị thư bí mật nào như thế tồn tại, tất cả điều này chỉ là giả mạo đến khủng khiếp. Tôi đưa các viên tình báo Mỹ vào sách của mình – Người Mỹ lúc đó có 2 viên tình báo trong Đại sứ quán Đức ở Mat-xcơ-va. Một trong số họ là thư ký cho đại sứ Shulenburg, người thứ 2 cũng giữ chức vụ rất cao. Dựa vào thông tin tình báo của họ, người Mỹ biết Liên Xô đã ký cái gì. Họ biết rõ không tồn tại 1 nghị thư bí mật nào hết như thế, bởi họ đã chẳng có gì báo cáo với Washington về ký kết như vậy. Mironenko biết rõ điều này, cái quỉ gì mà ông ta tuyên bố bây giờ lại hoàn toàn khác? Phương Tây đã trả ông ta rất nhiều tiền, để ông ta bỗng nhiên muốn nói điều kinh tởm như thế về tổ quốc của mình?

Câu hỏi: Ký hiệp ước với Đức, chúng ta có biên giới chung với họ, mà nó không có từ 1939 - điều này hình như là sai lầm. Latvia, Lithuania, Estonia, Ba Lan – như nói, họ trên thực tế là các nước đệm của chúng ta. Ông hãy cho biết, trong trường hợp bị tấn công, họ có bảo đảm cho chúng ta dù chỉ là 1 tuần trì hoãn?

Arsen Martirosyan: Không có bảo đảm nào như thế vì 1 lý do đơn giản: chế độ các nước Baltic là thân phát xít, họ từ lâu đã hợp tác với Hitler và làm tất cả để ảnh hưởng Đức ở Baltic lấn át. Có nhiều bằng chứng hợp tác của tình báo Đức với Baltic. Đầu tiên. Thứ hai – quân đội của họ thể hiện mình như khoe với chúng ta là 1 thứ bóng bảy – "quân đội phường chèo". Họ bây giờ vẫn là những kẻ diễn kịch – 20 nghìn quân chống Wehrmacht năm 1939 có tổng số 3 triệu? Baltic có thể chống cái gì? Tôi không muốn nói thêm là Anh quốc muốn bỏ lại hành lang Baltic và ép Ba Lan làm tất cả để hành lang Baltic là dành cho Hitler. Bởi vì họ chống và không muốn thỏa thuận với Hitler, và thậm chí là đã phải ký kết thỏa thuận kín đặc biệt giữa đại sứ Ba lan ở London Rachinsky và Ttg Anh Chamberlain để Ba Lan giúp Đức tiến quân qua hành lang Baltic.

Câu hỏi: Các lãnh thổ này – là vấn đề sống còn của USSR?

Arsen Martirosyan: Cũng như vậy. Nghĩa là chúng ta đã buộc phải giữ các lãnh thổ này, buộc phải cuối cùng chiếm lấy, nhưng theo con đường tuyệt đối dân chủ, đúng như cách ở Crimea – trưng cầu. Còn binh sĩ quân đội chúng ta khi đó đã tiến vào trên cơ sở hiệp định, ký kết với chính phủ hiện tại chính thức của các CH Baltic này. Nghĩa là không phải chúng ta đơn giản là tiến vào đây, đe dọa gây chiến, vấn đề chính là đã ký kết hiệp định ngay từ đầu, chúng ta chính thức được phép đưa quân. Và các hiệp định này được chính thức công nhận tại Liên hiệp các dân tộc, khi đó là năm 1940, đã thông qua các trưng cầu này, không có bất cứ ai bị xua đuổi dưới nòng súng trong các trưng cầu này. Ngược lại, dân chúng rất nhiệt tình, rất hài lòng đi đến các cuộc trưng cầu này, họ tin tưởng sống dưới chế độ Xô Viết sẽ tốt đẹp hơn. Và, nhìn chung, họ đã không nhầm. Dĩ nhiên, những kẻ giàu có, theo lẽ tự nhiên, đã chống lại, nhưng đó chỉ là 1 bộ phận nhỏ dân chúng.

Bên cạnh đó, các lãnh thổ Baltic này đã bị tước đoạt khỏi chúng ta trong nội chiến, và bị tước đoạt 1 cách hoàn toàn vô luật lệ, tôi muốn chú ý đặc biệt đến vấn đề này. Đầu tiên là từ xa xưa. theo hiệp ước 30 tháng 8, 1721 – Hiệp ước hòa bình Nishtadtsky theo đó chiến tranh phương Bắc giữa Nga với Thụy Điển kết thúc – các lãnh thổ này trở thành sở hữu vĩnh viễn và không chia tách của Nga mà không phụ thuộc vào chế độ, tổ chức nội bộ và những điều tương tự của Nga. Vả lại, kẻ bảo lãnh cho hiệp ước này là Anh và Pháp. Thứ hai – vấn đề CH Baltic trong nội chiến 1919 được giải quyết hoàn toàn không có luật pháp. Tại sao? Các lực lượng phương Tây đưa Kolchak lên nắm quyền, công nhận ông ta, nhà cầm quyền tối cao Nga, sau đó đòi ông ta đồng ý bằng văn tự, để Hội đồng tối cao Entente giải quyết vấn đề các lãnh thổ này. Sau đó, ông ta 12 tháng 7, 1919, đưa ra sự đồng ý – cùng lúc, họ cũng nhắc tới cả Bessarabia (Moldova sau này) – sau đó, họ nhẹ nhàng làm nhục Kolchak, giao và cuối cùng giao hẳn ông ta vào tay Bolsheviks, để bị xử bắn 1 cách công bằng. Điều này đã xảy ra. Nhưng các lãnh thổ đó đã xuất hiện ngoài nhà nước Nga 1 cách hoàn toàn vô luật lệ, không quan trọng là chúng được gọi như thế nào. Có thể nói thêm rằng năm 1991, cũng cách này, Boris Yeltsin – lãnh đạo bất hợp pháp mang danh tổng thống – đã đồng ý ly khai các CH này khỏi Liên Xô.

Câu hỏi: Nếu như trên góc độ chính mà hiệp ước 23 tháng 8, 1939 bị thừa nhận là tội lỗi – thì Galicia cũng cần ly khai khỏi? Và tại sao họ lại ghét bỏ Ukraine và biên giới của nó được Stalin lập ra?

Arsen Martirosyan: Người Ukraine rơi vào cái bẫy của sự tự mình khờ khạo, nói thẳng, và không đáng ngạc nhiên. Bởi vì Ukraine – được hình thành 1 cách hoàn toàn gượng ép, chỉ mới dưới chính quyền Xô Viết, cho đến lúc đó, Ukraine chưa bao giờ là 1 nhà nước, và nhìn chung từ ngữ "Ukraine" mới chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, theo đệ trình của đồng chí thân mến Bismarck. Năm 1922, Ukraine lần đầu tiên trong lịch sử trở thành nhà nước. Buộc tội Nga như thể là xâm lược trong quan hệ với Ukraine, nhìn chung làm nổi lên 3 câu hỏi – Tôi đặt chúng vào vị trí thận trọng. Bởi vì cái đến với Bogdan Khmelnytsky năm 1654 (thủ lĩnh Cô dắc, từ kết quả Hiệp ước hòa hoãn của Sa hoàng với Ba Lan) là 22 lần nhỏ hơn, trước khi Ukraine hoàn trả Crimea với chúng ta. Và nó là 75 lần ít dân cư hơn khi Khmelnytsky đến, và ông ta có 1 dúm đất – dải bờ trái Ukraine. Một dúm đất. Và họ ra đi – với hơn 50 triệu dân cư.

Câu hỏi: Ukraine phía tây khi đó, theo logic "tội lỗi" của Hiệp ước Molotov-Ribbentrop – cần rời về Ba Lan?

Arsen Martirosyan: Liên quan đến tây Ukraine, đúng – khi đó họ gào khóc rằng đó là lỗi lầm của CS đã sát nhập vô luật lệ, họ có thể đụng phải 1 điều là người Ba Lan đòi trả lại lãnh thổ này. Bên cạnh đó, con số chính thức 120 nghìn dân Ba Lan đưa ra câu hỏi trở về, bồi thường đất đai và tài sản ở Tây Ukraine. Và không chỉ ở Tây Ukraine, mà cả các vùng lãnh thổ Ukraine khác, cùng với việc đưa ra tài liệu xác đáng. Vì thế người Ukraine đã đụng phải sự ngu ngốc của mình, và sự ngu ngốc như thế dẫn đến những rắc rối trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Bởi vì nếu họ ký văn kiện gia nhập EU, sau đó 1 cách tự động, chuẩn mực pháp lý EU sẽ mở rộng ra đối với họ, và lúc này bồi thường là 1 trong các nguyên tắc cơ bản. Họ sẽ buộc phải bồi hoàn. Bồi thường nghĩa là gì, khi qui mô là 120 nghìn? Anh hình dung, điều này như thế nào? Có nghĩa là, sẽ không tránh được xung đột với cư dân Tây Ukraine, không tránh được xung đột với vấn đề chủ quyền của Ukraine, Tôi không nói về hậu quả xấu nhất. Và sau những yêu sách này là Hungary, Slovakia, và Romania. Anh hình dung, điều gì sẽ, nếu như tất cả đều đưa ra yêu sách của mình? Ukraine không hiểu rằng, đây là hiệp ước không xâm lược, nhờ nó mà họ có các vùng đất này, một cách tội lỗi, họ tự phán định mình những hậu quả không thể nói trước. Đó sẽ là gần với nổ 1 quả bom nguyên tử - làm Ukraine tan vỡ.

Câu hỏi: Kẻ thù kêu gọi dân chúng ta "đánh Do Thái và Cộng Sản", nhưng không ai hưởng ứng điều này? Mặc dù ở tây Ukraine, người ta nói, có rất nhiều người ủng hộ phát xít, và họ cũng không ưa Do Thái ở đó?

Arsen Martirosyan: Vâng. điều này đúng hoàn toàn, người phía tây Ukraine – nhìn chung là giáo dân Công giáo nhưng họ cũng thuộc về Giáo hội Hy Lạp. Họ chống Xê-mít gọi là từ trong máu. Họ giết cả Do Thái và Ba Lan. Như, ví dụ, cuộc tàn sát Lvov nổi tiếng năm 1941 là rất khủng khiếp, người bình thường sẽ thấy nặng nề khi nhìn những bức ảnh của cuộc tàn sát ghê gớm này. Rất nặng nề, thậm chí là cả ngày nay, sau đã gần 75 năm. Trong vấn đề này, họ là những kẻ tòng phạm rất hăng hái, đến mức mà chính cả quân Đức đôi khi cũng phải ngăn cản họ. Vụ Komarovsky cũng thế, nhưng không có liên quan gì đến TT Ba Lan, hắn ta là người tây Ukraine. Hắn bị bắt năm 1939, nhưng thật không may, lại được thả vì 1 số lý do. Tên cặn bã này đã thành lập cánh vũ trang dưới trướng SS, và chúng giết chóc với sự hăm hở đến thế nào, mà ngay cả binh lính Hitler cũng buộc phải trừng trị chính tên Komarovsky, bởi vì hắn ta, như họ (quân của Hitler) coi, đã làm ô uế bộ quân phục Đức. Họ đã bắn chết hắn. Đó là tên cướp bất trị. Đó là thú vật, đặc biệt là sư đoàn "Galicia". Đơn giản là thú vật. Còn sau chiến tranh, Stalin đã thể hiện lòng nhân đạo cao cả, đối xử mềm dịu với nhiều người dân tây Ukraine, những kẻ gây tội ác bị đưa đi đày có kỳ hạn ở Kolyma, trong khi lẽ ra chúng phải bị xử bắn, bởi những con thú vật như thế không có quyền tồn tại. Những băng đảng này, thật không may, đã đã được mở lồng dưới thời Khruschev, tạo nền tảng cho những gì đang xảy ra hiện nay. Khrushchev – đã gây ra tội lỗi vì điều này. Bởi ông ta đã thả chúng, gọi là ân xá. Không lẽ, có thể tha cho những kẻ phạm tội bị xét xử ở tòa án Nuremberg?

Câu hỏi: Trong thời kỳ chiến tranh không ai ở châu Âu thực sự hay biết về lò thiêu trong trại tập trung? Hay là họ nhắm mắt?

Arsen Martirosyan: Họ biết. Bởi vì Liên Xô có thông báo chính thức về điều đó, có tuyên bố đặc biệt của NKVD về sự tàn bạo của binh lính Hitler trong lãnh thổ bị chiếm đóng, bao gồm cả vấn đề liên quan đến dân Do Thái. Phương Tây giả bộ như họ không biết – thực sự tất cả họ biết rõ, đơn giản là họ không muốn tham gia vào bảo vệ người Do Thái 1 cách kịp thời. Họ nhắm mắt. Nhân thể, theo cùng cách này họ nhắm mắt trước việc để cho WW-II xảy ra bởi Hitler, vì khi người Do Thái cố để rời Đức về Palestine – họ không cấp giấy phép di cư cho người Đức Do Thái, những người gặp nhiều khó khăn để đi đến các nước khác vi gặp phải cản trở từ Anh, Pháp và các nước. Ngay cả Colombia dưới áp lực của Mỹ cũng không chấp nhận họ. Còn khi chiến tranh bắt đầu, họ cũng lờ đi – "Ô, chúng tôi chẳng biết gì". Mặc dù họ biết rất rõ về Hội nghị Vanzeysky năm 1942, khi đó quyết định giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái ở châu Âu. Họ biết nó rất rõ. Người Mỹ có thông tin tốt, người Anh cũng vậy có thông tin từ Đức, họ biết rõ mọi thứ – qua điều tra rất dễ để chứng tỏ. Bởi những tin tức này cả tình báo Xô Viết cũng chặn bắt được.

Câu hỏi: Do Thái, nghĩa là không được chấp nhận, thế nhưng, sau chiến tranh phát xít, binh lính SS tìm thấy ở phương Tây tổ quốc mới, và công việc mới dễ dàng?

Arsen Martirosyan: Phương Tây luôn luôn có tiêu chuẩn kép. Chuyện tôi kể chẳng có gì mới. Họ đã lôi kéo những băng đảng này để phục vụ lợi ích của mình, theo cùng cách ấy họ lôi kéo cả các nhân vật tình báo, sĩ quan SS và nhiều kẻ khác. Đối với họ khái niệm đạo đức, lẽ phải, quyền sống của con người, quyền sống của dân tộc – chẳng có nghĩa lý gì hết. Làm ăn với chúng là bình thường.

Câu hỏi: Có thể ai đó trong số người Ba Lan kết tội tòng phạm Đức, lãnh đạo FBI đã làm gì về Holocaust gần đây?

Arsen Martirosyan: Nếu nói thẳng thắn, Ba Lan trước cũng như sau chiến tranh, đã luôn luôn và đang mắc chứng anti-Semitism nặng nề. Điều này chẳng mới đối với châu Âu. Sau chiến tranh, ví dụ, cho đến khi giải tán khối Hiệp ước Warsaw, họ đã loại bỏ tất cả Do Thái. Còn trước chiến tranh, điều lạ kỳ nhất là ở chỗ Do Thái Ba Lan chạy khỏi cuộc anti-Semitism ở Ba Lan vào Đức Hitler – họ tin rằng ở đó sẽ yên ổn hơn. Theo nhà sử học Mỹ Hoggan, từ 30 tháng 1 1933 till đến 8 tháng 11 1938 có 600 nghìn Do Thái chạy khỏi Ba Lan và chạy khỏi Đức – chỉ có 170 nghìn.

Có câu chuyện đau buồn nổi tiếng như thế trong lịch sử - Cuộc xua đuổi Zbonshchinsky, Ba Lan đã trục xuất vài chục nghìn Do Thái khỏi Ba Lan, họ có hộ chiếu Đức mà thời hạn, dĩ nhiên đã hết. Vì thế Ba Lan đẩy họ trở về Đức. Nước Đức Hitler lại không chấp nhận họ, vì thế lính biên phòng Đức buộc họ quay lại biên giới Ba Lan. Thế là lính Ba Lan bắt đầu bắn những người này. Ngay trên biên giới. Cuộc trục xuất Zbonshchinsky xảy ra vào tháng 10 1938. Sau đó 1 tội ác kinh khủng diễn ra – một Do Thái trẻ tuổi ở Paris bắn chết thư ký thứ nhất Đại sứ quán Đức Ernst von Rat, (nói thêm, cuộc chống phát xít và truy đuổi Do Thái, để đáp trả cái mà chính quyền Hitler sắp đặt "Đêm thủy tinh - Kristall-Nacht " ở Đức - là cuộc triệt hạ chống Do Thái bạo lực). Rõ ràng, ban đầu Ba Lan là kẻ có tội. Nhưng đến khi tuyên bố, giám đốc FBI lại cho rằng họ là kẻ tiếp tay, thế là, nói thật, ông ta đã đánh tráo 1 ít sự thật. Dù là Ba Lan đã không tham gia vào hủy diệt hàng loạt người Do Thái. Dĩ nhiên là nói dối. Nhưng vấn đề là họ đã luôn luôn mắc chứng anti-Semitism, và thường nổi cơn thịnh nộ với Do Thái – là như vậy.

Câu hỏi: Ba Lan trước chiến tranh có thực sự nghĩ đến việc trở thành đồng minh Hitler không? Và họ sẽ cùng nhau chia nước Nga? Nhưng trên thực tế xảy ra là chúng ta đã cứu Ba Lan khỏi lò thiêu?

Arsen Martirosyan: Đúng là như vậy – họ thực sự mơ mộng, tình báo Xô Viết đã thu được những tài liệu đáng giá của Bộ tổng tư lệnh Ba Lan, theo đó, họ rõ ràng có kế hoạch hoạt động cùng Đức và kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ đến biển Đen. Họ có tham vọng như vậy cho đến tận ngày nay, khi họ thường nhắc đến "Từ biển đến biển" – nghĩa là lãnh thổ "từ biển Baltic đến biển Đen”. Họ muốn dựng lại đế chế Ba Lan - Lithuanian. Điều này ở họ – chưa bao giờ chịu yên.

Câu hỏi: Tại sao bây giờ người ta lại hay "dí mũi" vào hiệp ước này của chúng ta? Để gọi nó là tội lỗi?

Arsen Martirosyan: Câu hỏi này đã được trả lời từ lâu nhờ Fedor Tyutchev vĩ đại:

Давно на почве европейской,
Где ложь так пышно разрослась,
Давно наукой фарисейской
Двойная правда создалась:
Для них - закон и равноправность,
Для нас - насилье и обман,
И закрепила стародавность
Их, как наследие славян.

Đã lâu trên đất trời Âu,
Nơi sinh dối trá đượm mầu thị phi,
Đã lâu học thuật giả nhân
Có hai sự thật xoay vần bên nhau:
Cho mìnhphải thật sáng ngời,
Cho người bùn trát đen trời chưa thôi,
Kim cô cổ lỗ kiếp người
Đấy họ di sản một thời Sla-vơ.

Vậy đấy, tôi không thể kể tốt hơn Tyutchev, tôi chỉ có thể bình luận. Bởi như thế là tốt đ đi đến chỗ xóa bỏ Hiệp ước Yalta và trật tự thế giới được tuyên bố và phê chuẩn bởi lãnh đạo các quốc gia lớn tại Hội nghị Yalta, sau đó được xác nhận bởi Hội nghị Potsdam 1945. Họ muốn thủ tiêu điều này, vứt nó vào thùng rác và 1 lần nữa bước qua đ thả cương cuộc chiến tranh kế tiếp. Nhưng ơn Chúa, Stalin đã đ lại cho chúng ta di sản, bom nguyên tử và tên lửa, cùng quyền năng vĩ đại đ nước Nga hiện nay sẵn sàng  đáp trả, và có đ khả năng cũng như đang tích cực đ đáp trả.

Câu hỏi: Nhưng đáng đ nhớ rằng, nền văn minh châu Âu như thế này còn tồn tại là nhờ ân điển Liên Xô?

Arsen Martirosyan: Không nghi ngờ gì. Nếu Liên Xô bị phá tan, ví như thế, Baltic sẽ bị trục xuất lên phương bắc theo "kế hoạch OST", nơi họ sống những ngày còn lại và hết. Hitler coi Pháp không đáng làm người – ông ta coi họ ngang với loài tinh tinh. Một cách phù hợp, sẽ tập trung để diệt trừ dẫn. Duy nhất, ông ta ít nhiều công nhận – Anh Quốc và Scandinavia, nhưng không coi họ hoàn toàn là bình đẳng. Đức không coi Italia là người, Romania – còn hơn. Wehrmacht có câu chuyện hài hay ho về người Ý: "Xe tăng Italia có bao nhiêu tốc độ? Bảy! Sáu lùi và một tiến". Đức không quan tâm ai xây dựng cuộc sống phúc lành. Họ sẽ hợp nhất toàn bộ châu Âu vào mình, họ trở thành ông tổ của châu Âu. Nhìn chung tất cả ý tưởng này – là Fuhrer đứng đầu nước Đức, nước Đức đứng đầu châu Âu – đã trở thành hiện thực sống, và cũng chính lúc này – Angela Merkel làm Fuhrer, còn Đức cầm đầu EU. Tất cả cũng thế, chỉ có điều họ đạt được bằng phương pháp kinh tế.

Câu hỏi: Chúng ta làm gì trong bối cảnh chiến tranh thông tin láo xược như thế này? Liệu chúng ta có thể đương đầu 1 cách có hiệu quả khi chúng tấn công trên khắp các hướng?

Arsen Martirosyan: Dĩ nhiên, chúng ta có thể. Khi họ lần đầu tiên bắt đầu làn sóng tuyên truyền này, cả một loạt các nhà sử học, trong số đó có cả những người không phải viện sĩ, cả tôi trong đó – chúng tôi bắt đầu phản công. Chúng tôi xuất bản một lượng lớn sách. Tôi có 24 cuốn và những người khác cũng không ít hơn. Chúng tôi tham gia vào các chương trình truyền hình, phim tư liệu nhiều hơn 10 lần. Nhưng điều chủ yếu ở đây – là vai trò của chính quyền, họ cần nắm lấy vai trò rõ ràng và nghiêm khắc. Như 1 ví dụ, theo các câu hỏi cơ bản, trước hết, Hiệp ước 23 tháng 8 1939, câu hỏi dường như đã có xử bắn sĩ quan Ba Lan bởi an ninh Xô Viết, mà họ, có thể nói là đã không bị bắn. Họ đã lao động xây dựng sân bay ở khu quân sự phía tây – có tài liệu chứng tỏ điều này và tôi đã đưa vào sách, nói rõ ràng, với dẫn chứng dựa trên tài liệu lưu trữ xác đáng, đã có minh chứng từ lâu, rằng chúng ta không liên quan đến việc này. Ở đó chúng ta, dĩ nhiên, đã xét xử 1 số kẻ này khác, nhưng chúng đã phạm các tội ác riêng rẽ, và thực sự đã có xử bắn – một số trường hợp cá biệt. Tại sao bây giờ lãnh đạo lại không ngừng thú nhận: vâng, là chúng tôi, là Liên Xô, đã phạm tội xử bắn hàng loạt sĩ quan Ba Lan?

Đó chỉ là 1 ví dụ. Ý chí chính trị ở lãnh đạo chúng ta, thật đáng tiếc lại không có. Cần tuyên bố rõ ràng và dứt khoát cả một loạt các vấn đề đang tranh cãi: vâng, đó là như thế, hay, không, nó không như vậy. Đừng để lại cơ hội lớn cho những kẻ thủ đoạn tuyên truyền, những kẻ vu khống đủ loại. Và cần thiết hơn – như nói theo cách Nga – bịt mõm những kẻ như Mironenko. Khóa họng chúng lại, bởi không thể nào, làm lãnh đạo lưu trữ mà lại tuyên bố những điều ngu xuẩn như vậy. Ông ta biết rõ, Hiệp ước 23 tháng 8 1939 chỉ là hiệp ước không xâm lược, không có nghị thư bí mật nào cả ở đây. Nó không phạm tội lỗi với bất cứ ai, bởi mọi quốc gia khi đó đều ký kết các hiệp ước không xâm lược. Tại sao Liên Xô, Nga hiện nay lại phải đóng vai cậu bé gây gổ? Tại sao? Chỉ có 1 lý do – vì chúng ta là kẻ cuối cùng ký thỏa thuận như vậy? Khi tình cảnh đơn giản là đã buộc phải, khi rút lui là không đơn giản, nếu khác đi thì chiến tranh đã bắt đầu với ngoại ô Minsk hay ngoại ô Kiev. Một lần nữa tôi muốn nhắc lại: "Stalin khi đó đã ngồi chơi trên bản đồ với những con quỷ và cuối cùng đánh bại chúng”. Còn chiến tranh đã kết thúc đúng như Stalin lập kế hoạch – kết thúc với chiến thắng thuộc về Liên Xô vĩ đại và nhân dân Xô Viết vĩ đại.



Đọc thêm:

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...