The Trans-Pacific Partnership

TỰ DO THƯƠNG MẠI!!!???

Tự do thương mại và toàn cầu hóa, đa văn hóa là những khẩu hiệu được phương Tây xổ súy!

Nói như vậy là sai, chính xác là chúng được tập đoàn tài phiệt quốc tế cổ súy.

Khi mà hàng loạt tai to mặt lớn mở mồm ra là thấy thối tha, trèo lên TV và báo chí là thấy bệnh hoạn, thấy lộ rõ khát vọng làm nô tài cho đế quốc, thì tự dân chúng buộc phải lên tiếng.

Vì vậy mong tất cả những ai có thể phổ biến bài này các nhiều càng tốt.



Mỹ không thực sự có một nền dân chủ. Đó là kết luận của một nghiên cứu gần đây từ Đại học Princeton. Thay vào đó, giới bề trên Mỹ và các nhóm lợi ích đặc biệt thống trị khủng khiếp ở Washington, trong khi: ưu đãi của những người Mỹ trung bình tỏ ra chỉ là rất nhỏ bé, gần như bằng 0, không có cách nào để đa số dân chúng Mỹ có tác động đáng kể đến chính sách công nước Mỹ.

Chúng ta đem sự khẳng định này vào để kiểm tra cụ thể Hiệp định thương mại tự do và mối quan hệ với dân chủ và chủ quyền các quốc gia.


"Dân chủ" thường dùng để chỉ một hệ thống chính phủ trong đó người dân quyết định các quy tắc của quốc gia có chủ quyền của họ. Sự thật là vậy, tinh thần dân chủ và chủ quyền, tất cả các lĩnh vực của chính sách - bao gồm cả môi trường, thương mại, tài chính, sở hữu trí tuệ và văn hóa - phải nằm trong một quá trình chính trị công bằng và tự quyết.

Trong thế giới hiện đại và toàn cầu hóa, các tổ chức dân chủ và độc lập tồn tại trong mối quan hệ căng thẳng với một tổ chức mạnh mẽ khác: Thị trường toàn cầu và các thể chế tự do thương mại của nó.


Theo một nghĩa, hệ thống thị trường tự do duy trì nền dân chủ. Nó tạo ra sự giàu có và làm dịu việc tập trung quyền lực – là 2 điều kiện tiên quyết cho dân chủ. Nhưng theo một nghĩa khác, chủ nghĩa tư bản thị trường tự do toàn cầu xung đột với dân chủ và độc lập chủ quyền. Điều này đặc biệt đúng đối với thứ chủ nghĩa tư bản "tân tự do", khi mà phái này nổi lên kể từ những năm 1980. Ở một khía cạnh nó thúc đẩy các nguyên tắc để bãi bỏ các luật lệ có quy mô toàn cầu, tự do hóa, tư nhân hóa, và đảo ngược phúc lợi công - tất cả điều này đều làm tăng bất bình đẳng và phân phối lại quyền lực kinh tế - chính trị cho các tập đoàn và các cá nhân giàu có.


Đối tác xuyên Thái Bình Dương - The Trans-Pacific Partnership


Một trong những ví dụ sinh động nhất gần đây của cuộc xung đột giữa các nền dân chủ, chủ quyền và CNTB toàn cầu là quan hệ Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP) - cái gọi là Hiệp định "tự do thương mại" trong số 12 quốc gia ven biển Thái bình dương, bao gồm Mỹ, Chile, Việt Nam, Malaysia, Nhật Bản và một số nước khác.

Theo Barack Obama, kẻ ủng hộ mạnh mẽ hiệp định: "TPP sẽ thúc đẩy nền kinh tế của chúng ta, hạ thấp các rào cản đối với thương mại và đầu tư, tăng cường xuất khẩu và tạo thêm việc làm cho người dân của chúng ta". Từ quan điểm này, TPP là một tình huống win-win, trong đó người lao động, các doanh nghiệp, và các quốc gia nói chung sẽ được hưởng lợi.


Tuy nhiên, trái ngược mạnh với sự quả quyết nhiệt tình của Obama, nhiều nhà phê bình xem TPP là lừa đảo và nguy hiểm. Theo lời Lori Wallach của Public Citizen, Hiệp định này là một "Trojan horse" – con ngựa gỗ mang cạm bẫy được ngụy trang khéo léo như một món quà, mà thực tế sẽ phục vụ lợi ích của số ít các tập đoàn đa quốc gia và các nhánh hành pháp chứ không phải là công chúng.


Theo quan điểm phê phán này, xu hướng TPP phá hoại nền dân chủ và chủ quyền quốc gia là do hai yếu tố: quá trình mà qua đó nó đang được thiết kế, và kết quả có thể có được của các cuộc đàm phán.


Trước tiên, hãy nhìn quá trình:


Trong nền dân chủ, các quy tắc ràng buộc có được tính hợp pháp thông qua một quá trình thương lượng tập thể và thỏa hiệp - một cách để cân bằng quyền lực giữa các nhóm lợi ích trong một quốc gia. Để có được điều đó, các công dân và các nhà lập pháp cần phải biết nội dung của luật lệ đang được thảo luận.


Trong TPP, điều hoàn toàn ngược lại là thật. Rất ít thông tin chi tiết được làm sáng tỏ cho công chúng, hoặc thậm chí cho Quốc hội, để họ có thể thảo luận về ưu/nhược điểm của điều ước quốc tế. Phần lớn những gì người ta biết chỉ xuất hiện qua rò rỉ.

Mức độ bí mật không phải luôn luôn là tiêu chuẩn. Gần đây nhất là thời TT Bush, các thỏa thuận được đối xử minh bạch hơn. Ví dụ, các chính phủ tham gia vào các cuộc đàm phán Khu vực Thương mại Tự do châu Mỹ (FTAA) - ​​phần mở rộng đề xuất của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) trải rộng khắp Tây bán cầu – đã phát hành bản dự thảo hiệp định, mặc dù có một số phần bị giữ lại.


Không phải ngẫu nhiên, sau khi hội nghị thượng đỉnh xã hội dân sự và các cuộc biểu tình quân chúng lớn lan truyền phản đối rộng rãi, các bên đã kết thúc nỗ lực của họ để hình thành FTAA năm 2004. Ngược lại, và mặc dù đã cam kết minh bạch trong chính phủ, chính quyền Obama cho đến nay đã hành xử trái ngược với tiết lộ dự thảo TPP.


Trong khi một số ít các công đoàn lao động và các tổ chức NGO có vẻ một số can dự vào quá trình đàm phán này, các nhà phê bình lưu ý rằng nhiều bên có liên quan đã bị đóng cửa ở ngoài. Như nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph Stiglitz và Dean Baker cho rằng, chủ yếu là các nhánh hành pháp và một số tập đoàn lớn có đặc quyền được tham gia vào quá trình đàm phán này, và do đó có khả năng hình thành các điều ước quốc tế phù hợp với quyền lợi hẹp hòi ích kỷ của họ.

Và trở ngại công khai tư liệu có thể đi xa hơn nữa. Tại Mỹ, Quốc hội phải chấp nhận mọi thỏa thuận mà các nhánh hành pháp đàm phán. Tuy nhiên, chính quyền Obama đang tìm cách để có được phê chuẩn TPP bằng quyền thương mại "theo đuối nhanh - fast-track trade", mà theo đó sẽ cho phép hạn chế thời gian tranh luận và không được quyền sửa đổi.


TPP không thực sự là thương mại


Vậy thì cái gì là không giống về hiệp định này đang được đàm phán kín?


Cái hiệp định thương mại TPP hiện nay thực sự có rất ít thứ để làm với thương mại. Thay vào đó, TPP có thể sẽ có tác động lớn nhất về các quy định và tiêu chuẩn nội địa. Trong khi các chi tiết vẫn còn chưa rõ ràng, các nước có thể sẽ phải đối mặt với áp lực gia tăng để đảo ngược quy định an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường, tự do Internet, và thậm chí các quy định tài chính đã ban hành gần đây.

Và những gì sẽ xảy ra nếu một quốc gia từ chối tuân thủ? Các nhà đầu tư tư nhân có thể kiện chính phủ nếu, ví dụ, họ tin rằng các quy định về môi trường làm giảm lợi nhuận tương lai dự kiến ​​của họ - ngay cả khi những quy định đã được ban hành một cách dân chủ và áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp trong nước.


Những kiện tụng này sẽ được quyết định bởi tòa án quốc tế không được bầu và không có trách nhiệm với công dân của bất kỳ quốc gia nào.

Với tất cả điều này trong tâm trí, trở nên rõ ràng rằng cái gọi là TPP – hiệp định "thương mại tự do" đối nghịch nghiêm trọng với dân chủ và chủ quyền quốc gia.


Dani Rodrik, cựu giáo sư kinh tế chính trị quốc tế tại Đại học Harvard, gọi sự căng thẳng vốn có giữa nền dân chủ - chủ quyền quốc gia - toàn cầu hóa kinh tế cấp tiến là "nghịch lý toàn cầu hóa". Ông cho rằng không thể duy trì ba yếu tố cùng một lúc - chỉ có hai có thể tồn tại cùng một lúc. Do đó ông lập luận rằng chúng ta phải hạn chế tự do hóa kinh tế cực độ và hạn chế bãi bỏ quy định (là những gì ông gọi "siêu toàn cầu hóa") để duy trì dân chủ và chủ quyền.


Cho đến nay, không có đường hướng nào tỏ ra là như Obama đã nói: "TPP có tiềm năng trở thành một mô hình không chỉ đối với khu vực châu Á Thái bình dương mà còn đối với các hiệp định thương mại trong tương lai". Chúng tôi đã có 20 năm kinh nghiệm tồi tệ với NAFTA để đi theo. Trong khi đó, EU và Mỹ cũng đang đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Đại Tây Dương - TAFTA (Trans-Atlantic Free Trade Agreement)– hay còn gọi là TTIP - Quan hệ Đầu tư Thương mại xuyên Đại tây dương (Transatlantic Trade and Investment Partnership), trong đó có những quy định tương tự.


Vì vậy, nó sẽ là cái gì: quyền của chúng ta để kiểm soát các quyết định có ảnh hưởng đến chúng ta? Hay quyền lợi của các tập đoàn và các nhánh hành pháp để đưa ra các quyết định vụng trộm làm suy yếu sự kiểm soát và cân bằng? Nếu chúng ta không thực hiện lựa chọn, nó sẽ chọn cho chúng ta.


Nguồn tư liệu chính là của Moritz Laurer

The free-trade regime: Oligarchy in action 

https://www.google.com/search?q=The+free-trade+regime%3A+Oligarchy+in+action

Dịch chuyển mới của kinh tế thế giới!

Thực sự là chưa biết đặt tên bài viết này là gì. Sẽ không nói đến khủng hoảng Mỹ hay EU nữa, nhưng đúng là các quyền lực kinh tế thế giới đang có những động thái dịch chuyển. Thực sự là có rất nhiều điều thú vị để tìm hiểu. Sau đây là các ý kiến thu thập được từ một số nguồn Nga:

Trước hết, là những dấu hiệu ông chủ của nước Mỹ - Zionist đang bỏ rơi Mỹ!

Có rất nhiều dấu hiệu gã nô tài Mỹ không làm ông chủ tài phiệt Zionist hài lòng. Chỉ cần nhìn cái cách Obama và Kerry nhục nhã mất mặt trong vụ khủng hoảng Ukraina là đủ rõ. Đã không còn sự phối hợp nhịp nhàng giữa truyền thông của tài phiệt Mỹ, phương Tây và chính quyền Mỹ, thậm chí qua media, người ta thấy rõ sự cô lập, đơn độc của Mỹ: những kẻ nắm quyền bính nhưng cùng khổ bất hạnh: ngoại trưởng Condoleezza Rice, John Kerry, bt QP Chuck Hagel và cả Obama.

Như mọi khi, gã nô tài thất bại sẽ bị chủ trừng phạt. Đức quốc xã thua bị tấn công từ phía Tây, Nhật bản thua ở Viễn Đông bị Mỹ tuyên chiến. Nhưng trừng phạt như thế nào trong trường hợp này, khi ngay cả vị trí thống trị thế giới của Zionist cũng đang lung lay hơn bao giờ hết.

Toán học cân bằng quyền lực thế giới hiện nay không thể bàn cãi đang nghiên về liên minh BRICS. BRICS hiện kiểm soát 90% dân số thế giới và 68% GDP, theo số liệu WB và các dữ liệu khác.

Châu Âu bây giờ gia nhập BRICS, chính quyền Do Thái Zionist Mỹ không có lựa chọn nào khác là phải đầu hàng.

Lý do chính của việc chậm trễ lâu đưa ra công bố về những gì đến tiếp theo là thiếu sự đồng thuận về cái gì sẽ thay thế mạng lưới kiểm soát cũ.

Đang có các cuộc thảo luận sâu về điều này diễn ra và đây là những gì đang được nói đến từ các bên khác nhau.

Trước hết, nhóm G7 ​​cũ có một động thái lớn để cố gắng thay thế đồng đô la Mỹ bằng SDR, một rổ qui ước gồm đồng đô la Mỹ, bảng Anh, Euro và Yên Nhật. Động thái này đến dưới hình thức một thông báo từ IMF rằng nó sẽ cho Ukraina vay 10,976 tỷ SDR (17 tỷ USD).

Thông báo này được đặt ra trước rất nhiều cảm giác hay ho về sự thay thế khác nhau mà người ta dự đoán là một sự "định giá lại". Hóa ra đây chỉ đơn giản là một động thái bất ngờ tăng phần SDR lên 800% và biến SDR thành đồng tiền thế giới mới bằng cách bắt đầu với Ukraina. Nhưng động thái này là một thất bại. Các quốc gia ủng hộ giá trị SDR chỉ có 10% dân số thế giới và 32% GDP.

Các dữ liệu cho điều này xuất phát từ một nghiên cứu của WB về GDP các nước khác nhau dựa trên sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power Parity), được chấp nhận rộng rãi bởi các nhà kinh tế như là một cách chính xác hơn để đo lường qui mô thực của một nền kinh tế.

Hơn nữa, IMF vẫn là một tổ chức băng đảng có quyền biểu quyết nghiêng về các nước bị tài phiệt Do Thái kiểm soát. Mỹ, ví dụ, chiếm 16,7% quyền biểu quyết của IMF (đủ để Mỹ có quyền phủ quyết), còn TQ chỉ có 3,6% mặc dù các số liệu mới nhất của WB cho thấy nền kinh tế Trung Quốc hiện nay là lớn hơn so với Mỹ. Mọi yêu cầu cải cách IMF đến từ các quốc gia đang phát triển TQ, Nga, Ấn Độ… đều rơi vào im lặng hay chỉ đưa đến những thay đổi không đáng kể.

IMF có một hồ sơ dấu tích tối tăm cưỡng bức các quốc gia đến bần cùng hóa và biến các nguồn tài nguyên của họ thành của các tập đoàn quốc tế. Nói thẳng ra, khi IMF thông báo rằng họ sẽ cho Ukraina vay $17 tỷ, thì điều đó thực sự có nghĩa là: "Chúng tao sẽ biến một số đầu sỏ chính trị Ukraina thành giàu có bẩn thỉu để đổi lấy quyền cướp đoạt Ukraina."


Không cần phải nói sự khởi đầu trò chơi gần đây nhất này đã thất bại. Cái SDR của IMF này sẽ không bao giờ thấy có tương lai. Các vùng phía Đông Ukraina hiện nay đã bỏ phiếu độc lập khỏi chế độ Quốc xã/Lính đánh thuê Academi của Kiev và chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ trở thành một bộ phận của Nga.

Vì vậy, những gì mà chế độ Đức Quốc xã/Zionists này bây giờ nói về thất bại lịch sử của họ ở Ukraine? Họ đang đe dọa sử dụng "vũ khí dầu mỏ" để chống lại Nga.

Thứ "vũ khí dầu mỏ" này hóa ra, là đe dọa ép giá dầu thế giới xuống để triệt tiêu nguồn thu nhập của Nga bằng cách bán dầu từ kho dự trữ dầu chiến lược của Mỹ. Đó là sự lừa bịp của một kẻ thua cuộc tuyệt vọng. Nguồn dự trữ dầu này chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu của thế giới trong có 8 ngày, thực sự là chỉ 8 ngày chứ không phải 8 tuần hay 8 tháng. Không phải là băng đảng này cho rằng mình đang kiểm soát DẦU MỎ-ĐÔ LA bởi vì chúng kiểm soát nguồn cung dầu mỏ thế giới hay sao? Dường như là không còn kiểm soát được nữa bởi vì, những gì mà sự đe dọa này thực sự có nghĩa là không có nước sản xuất dầu nào đồng ý đi cùng kế hoạch của George Soros/Obama làm phá sản Nga bằng cách buộc giá dầu xuống thấp. Vì vậy, tài phiệt quốc xã đang cu rút lại nhỏ bé trong các nhà băng heo con của bọn chúng.

Băng đảng tài phiệt quốc tế này lại bị Putin đánh bại thêm một lần nữa, và bây giờ là lúc để bắt đầu một hệ thống tài chính mới. Các quốc gia BRICS không vội vàng để xây dựng ngay sự thay thế của họ, vì thời gian đang đứng về phía họ. Họ nhìn chế độ nô tài Mỹ như con sư tử oai phong một thời đang chết và biết rằng thay vì cố gắng để chiến đấu với nó, thì tốt hơn là chờ đợi tạo hóa tự nhiên tự diễn ra. Như họ làm, BRICS đang âm thầm xây dựng thể chế mới để điền vào các khoảng trống sẽ được tạo ra bởi sự sụp đổ của cấu trúc tài chính băng đảng tài phiệt quốc tế.

Nguồn tin chính phủ Trung Quốc nói rằng có một cái gì đó lớn lao đang diễn ra ở Trung Quốc và Hàn Quốc liên quan đến hệ thống tài chính nhưng nó vẫn không rõ ràng là cái gì. Họ nói rằng mặc dù Hàn Quốc vẫn đang tích cực vận động hành lang để giúp đỡ một số phe phái Mỹ có tiền mặt trả cho trái phiếu lịch sử. Chắc là sẽ không lâu nữa sẽ có thêm chi tiết từ Bắc Kinh. Nửa nô tài xứ Hàn ôm chân chủ Mỹ là vậy, nửa khác đang cố gắng đoạn tuyệt với đám ăn bám hút máu mủ để vươn lên. Nếu họ trỗi dậy thành công, sẽ thấy những thay đổi lớn lao và lại thêm một thất bại nữa của băng đảng tài phiệt.

Trong khi đó, nếu như Mỹ có thể phục hồi trở lại từ thất bại gây ra bởi băng đảng tài phiệt, chỉ còn cách quân đội và các tổ chức thuần Mỹ phải hành động nhanh chóng để lật đổ chế độ nô tài tài phiệt quốc tế đã hoàn toàn chiếm quyền bằng vụ tấn công cờ giả 911.

Gần đây, có nhiều e-mail hàng ngày từ nguồn tổ chức và Lầu năm góc nói rằng các vụ bắt giữ đã bắt đầu". Tuy nhiên, đã có rất nhiều cảnh báo sai lạc và những lời hứa không thực hiện, chưa thể có hy vọng gì cho đến khi nhìn thấy điều đó thực sự diễn ra, các e-mail sẽ được hiểu như là mơ tưởng. Giống như bất kỳ bong bóng nào, có thể chắc chắn cái bong bóng bị tài phiệt kiểm soát và thổi căng phồng sẽ vỡ, nhưng không thể dự đoán chính xác khi nào sẽ xảy ra. Điểm mấu chốt là mọi thứ sẽ chỉ tồi tệ hơn với Mỹ cho đến khi nào người Mỹ nhận ra và quốc hữu Cục dự trữ liên bang - FED.


Trong khi đó, BRICS và các lực lượng tiến bộ đã đặt kế hoạch cho một sự chuyển tiếp hòa bình vì một thế giới tốt hơn. Cũng đã có những kêu gọi hủy bỏ mọi khoản nợ tư nhân và nợ công, có sự phân chia lại tài sản và cải tạo các tổ chức thế giới tiếp theo một chiến dịch lớn để chấm dứt đói nghèo và ngăn chặn sự phá hoại môi trường bởi thói tham lam của chủ nghĩa tư bản.


Ania Lorak bị cáo buộc quảng bá bi kịch Ukraina

Truyền thông Ukraina đang giận sôi lên vì một clip mới mà cũ của ca sĩ gốc Ukraina. Cô ca sĩ thành danh từ thới LX và Nga này được media Ukraina mô tả là bị ruồng bỏ vì bản clip mới: “Ba lát hoa cẩm quỳ” (Балада про Мальви) có nội dung quảng bá “tiêu cực”. Thực ra, đây là một bản cover của Rotaru với phông nền khác và cái chỗ để giới media Ukraina kiếm cớ chính là cái phông nền hiện thực này.

Theo truyền thông Kiev, trong clip của Lorak đã cố ý sử dụng hình ảnh những sự kiện bi kịch gần đây về Maidan để thu hút sự chú ý lớn của công chúng và quảng bá cho mình. Ví dụ như hình ảnh dân chúng bị chết trên đường phố.

Thực ra thì chẳng có gì to tát nếu như Ani Lorak không sinh sống ở Nga, những hình ảnh chiến tranh, tàn phá và chết chóc trong clip là nhẹ nhàng với nội dung phản đối chiến tranh, bất ổn và loạn lạc, đau thương và mất mát. Bản thân Lorak nói đây là khúc ba lát quân đội, dành cho các bà mẹ có những đứa con phải tham gia chiến tranh.

Cô nói mình không dính dáng gì đến chính trị hay tuyên truyền mà chỉ vì hòa bình và cất tiếng nói lo lắng sâu sắc cho những bất ổn đối với người dân Ukraina.

Giới Bloggers pro-Ukraina đang kêu gọi tẩy chay biểu diễn của Lorak. Nhưng điều này chẳng có nghĩa gì lắm bởi Ani Lorak có hàng triệu khán giả ở Nga và các nước khác cùng nhiều giải thưởng cao quí.

Có rất nhiều ca sĩ gốc Ukraina thành danh Nga, không thể nhớ hết tên, Sofia Rotaru, Vera Brezhneva, Sofia Tarasova, Ruslana, Ani Lorak



Sau thời gian ngắn, video clip đã đạt nửa triệu lượt xem!




Cromwell và Do Thái

Năm 2006 đánh dấu kỷ niệm 350 năm tái nhập người Do Thái vào nước Anh.


Oliver Cromwell - Menasseh ben Israel

Họ đã bị trục xuất năm 1290 trong triều đại vua Edward Ist. Tái nhập của họ năm 1656 nằm dưới sự bảo hộ của Cromwell được giải thích bởi một số thứ như là bằng chứng của sự khoan dung và lòng từ bi của Cromwell. Điều này mở ra thách thức trên một số điểm.

Mặc dù được cộng đồng Do Thái cuối thế kỷ 19 đánh dấu kỷ niệm, và liên kết nó đặc biệt với sứ mệnh của 1 giáo sĩ ở Amsterdam, Menasseh ben Israel, có bằng chứng của việc có cộng đồng Do Thái đã được thiết lập ở London trước 1655. Vì sợ bức hại mà họ đã không khai báo danh tính của họ, và sống như các thương gia Tây Ban Nha. Trong khi các vấn đề thương mại của họ là công khai và tôn giáo của họ là cá nhân.

Có lợi ích trong các vấn đề của người Do Thái trong sự lãnh đạo của Khối thịnh vượng chung và bảo hộ vì 2 lý do, một là sự thực dụng và hai là khác giáo lý. Lý do thực tế là trên cơ sở kết nối thương mại và thương mại quốc tế của cộng đồng Do Thái Amsterdam đã công nhận rằng sự hiện diện mạnh mẽ của người Do Thái ở London sẽ được thuận lợi. Với các kết nối hưng thịnh về phía Đông và Tây Ấn với các nhà buôn Do Thái Thế giới mới ở London có thể làm cho thành phố Amsterdam là một trung tâm thương mại.

Lý do giáo lý là đức tin giữa người Tin Lành sùng đạo, bao gồm cả Cromwell, nên việc chuyển đổi người Do Thái sang Kitô giáo là điều cần thiết trước khi Chúa Kitô sẽ trở lại thống trị trên trái đất. Năm 1656 được cho là có một số điều thực sự xảy ra.

Nhân vật chủ chốt cho lễ kỷ niệm 250 năm vào 1906 là Menasseh ben Israel. Ông ta sinh ra ở Lisbon năm 1604 và định cư ở Amsterdam và trở thành một giáo sĩ. Menasseh còn là một học giả: nhà văn, nhà in, nhà xuất bản, nhà bán sách và học giả liên kết với chế độ Commonwealth mới ở Anh. Niềm tin của Menasseh rằng Đấng cứu thế của người Do Thái (Messiah) sẽ chỉ xuất hiện khi người Do Thái đã phát tán rộng khắp thế giới. Xây dựng cộng đồng ở Anh sẽ giúp đem cho điều này. Menassen ben Israel xuất bản một cuốn sách mỏng năm 1651 cầu khẩn Cromwell

http://cf.uba.uva.nl/en/collections/...9f5/index.html

Tháng 9 năm 1655 Menasseh ben Israel đến London với một phái đoàn và các thành viên của gia đình và cá nhân kiến nghị Cromwell nhận trở lại người Do Thái. Cromwell gặp ông ta và một ủy ban của Hội đồng nhà nước, có sự đồng ý rằng nên triệu tập một hội nghị để thảo luận về vấn đề này. Kiến nghị yêu cầu quyền công dân, tự do thờ phụng, được chôn cất, tự do thương mại và thu hồi tất cả các luật chống lại người Do Thái.

Hội nghị đã nhóm họp vài lần trong tháng 12 năm 1655 nhưng, cuối cùng, đã bỏ lửng. Không có quyết định chính thức cho phép người DT quay trở lại nhưng nó là dấu hiệu sớm sự hiện diện của người Do Thái sẽ được chấp nhận cởi mở hơn. Cromwell cho phép người Do Thái thờ phụng riêng tư như họ đã làm trước khi kiến nghị, và trong vòng 1 vài tháng một giáo đường Do Thái và chôn cất đã được cho phép.

Tầm quan trọng của sứ mệnh Menasseh ben Israel trong việc đạt được mức độ khoan dung đến trong năm 1656 là một cuộc thảo luận sẽ được tiếp tục. Động cơ tương tự của Cromwell cho tranh luận vấn đề này một cách công khai có thể phải là do lòng ham muốn tự do của lương tâm như được hiểu trong cuối thế kỷ 19 hoặc ngày nay, nhưng nó đã dẫn đến một tiến bộ đáng kể trong quan hệ Anh-Do Thái.

Vì những lý do kỷ niệm 350 năm là thích hợp, ngay cả khi có thể là một yếu tố phóng đại, về vai trò của cả 2 Cromwell và Menasseh ben Israel.

Thêm ít sự thật lịch sử đáng ghét về nước Anh!

Thuộc địa hóa Irish

Kể từ khi bị Do Thái cai trị, nước Anh trở thành dã man khủng khiếp, chưa từng có trong lịch sử. Bộ lạc Do Thái gây ra những tội ác kinh hoàng chống người Anh và các dân tộc khắp thế giới, kéo dài đến tận ngày nay. Thực sự là loài cầm thú ăn thịt với hàng trăm triệu sinh mạng đã mất.

Cromwell, cũng như Napoleon sau này, trở thành cỗ máy kiếm tiền bằng chiến tranh cho các ông chủ Do Thái. Nhưng cỗ máy đẫm máu này lại mang tên nước Anh.


Hẳn nhiên, sau hành quyết Charles I, Cromwell tấn công Scotland năm 1650. Scotland giáng trả năm 1651, sau khi Cromwell chết, Scotland giành lại độc lập và chỉ sát nhập với Anh năm 1707.


Cuộc tàn sát người Irish ở Ireland là diệt chủng. Cromwell bắt đầu tấn công Ireland năm 1649. 

Các thành phố Droedas, Wexford và Dublin bị thiêu rụi trong bão lửa. Ở Droedas, Cromwell ra lệnh cắt đầu tất cả binh lính và thầy tu Catholic, còn ở Wexford là thảm sát kinh hoàng mọi thứ binh lính Cromwell bắt được. Phần lớn dân Irish tháo chạy về phía tây, hầu hết đất đai của người Irish bị Cromwell chiếm đoạt và giao cho con rể Ayrton cai quản.

Năm 1641, ở Ireland có hơn 1,5 triệu cư dân, năm 1652 chỉ còn 700 ngàn người Irish. Dân số đã hầu như giảm 1 nửa. Âm mưu diệt chủng và đồng hóa thâm độc ở chỗ, chúng hầu như giết sạch đàn ông Irish trong độ tuổi trưởng thành, đàn bà, trẻ em Irish bị biến thành nô lệ. Những người chạy trốn cũng không yên. Luật định cư ban bố năm 1952, trục xuất người Irish ra khỏi đất đai của họ, đẩy họ về phía tây vùng Connacht cằn cỗi, với nạn đói đến chết, bất cứ ai trục xuất mà bị bắt đều bị tội chết. Họ bị coi chẳng khác gì sói hoang, mỗi đầu sói bị giết được binh lính Anh trả 6 bảng, còn đầu người Irish “nổi loạn hoặc thầy tu” được trả 5 bảng. Người Irish gọi đó là “địa ngục Connacht”.

Quá trình thuộc địa hóa Ireland kéo dài sang thế kỷ sau. Ở London năm 1691, chúng bắt đầu chia đạo Thiên chúa thành Tin lành không thuộc giáo hội Anh. Tin lành là tôn giáo quái gở, ru ngủ tầng lớp bị trị chấp nhận số phận bị cai trị. Cơ cấu dân số, văn hóa xã hội và chính trị Irish bị đảo lộn. Dân số Anh và Scots trên đất Irish tăng, người Irish giảm, giới bề trên và luật lệ Tin lành hình thành, cho đến 1775, toàn bộ người Irish Thiên chúa chỉ còn sở hữu có 5% đất đai. Họ bị cấm đưa trẻ em đến nhà thờ của họ, bị ngăn cấm các hoạt động xã hội, giao thương và chỉ còn được làm nông nghiệp trong sự kìm kẹp như nô lệ. Ireland trở thành nguồn tích lũy tư bản cho các ông chủ bước vào giai đoạn công nghiệp hóa.

Nạn đói kéo dài khiến dân số Irish tụt giảm. Mất mùa khoai tây giai đoạn 1845-1849 là thảm họa chết chóc và bị trầm trọng hơn rất nhiều bởi những luật lệ hà khắc ngăn cấm, người Irish thậm chí không được cứu trợ từ họ hàng ở các nước. Hậu quả, 1,5 triệu người Irish chết đói, rất nhiều người tìm đường di cư sang Mỹ hay bỏ quê tha hương – khoảng 1,5 triệu. Cho đến 1850, dân số Irish giảm 30%, nếu năm 1841 họ có 8,178 triệu người thì năm 1901 chỉ còn lại 4,459 triệu.



Vì nhiều lý do, cuộc diệt chủng người Irish rất ít được đề cập đến và nguyên nhân thực sự bị lờ đi.



Nhà băng Do Thái Khai sáng tổ chức cách mạng Anh

Người Kitô giáo nếu nghe lời Chúa của họ dạy bảo, thì đến buôn bán cũng khó bởi họ không được phép nói dối hay lừa lọc. Còn vua, trừ trộm cướp hay giết chóc quá đáng, không thể treo cổ thần dân của mình khi họ là con chiên của Chúa, chỉ có thể đi đày hoặc trục xuất. Bởi vậy mà, thời trước, nhà tù châu Âu đầy nhong nhóc. Chẳng thế mà thời Tân thế giới đào vàng ở Mỹ, là một cơ hội hiếm có để châu Âu tống cổ đám cặn bã, du thủ du thực sang bên kia đại dương cho khuất mắt. Thật không may, sang đó đất đai màu mỡ, vàng và khoáng sản nhiều, sắc dân này lại khấm khá phát đạt. Nhưng đó là câu chuyện khác.

Rothschild, là một DT cho vay nặng lãi, không bị ràng buộc bởi Chúa răn, hắn ta có cơ khấm khá. Nhưng không bằng lòng với nghề cho vay, mà phải buôn vua mới nhanh giàu hơn như nhà Windsors. Hắn ta cũng nhanh chóng tìm đến họ hàng DT ở Anh để làm chỗ nhờ dựa. Nhưng còn phải chờ cách mạng Anh thành công đã.

"Đó là số phận mà Anh phải chịu như nạn nhân đầu tiên của một loạt các cuộc cách mạng, mà hiện vẫn chưa kết thúc."

Với những từ khó hiểu, Isaac Disraeli, cha của Benjamin Earl xứ Beaconsfield, viết 2 tập sách của mình về Charles I, xuất bản năm 1851.

Nguồn gốc của thế giới hiện đại và trật tự thế giới mới (New World Order) có lẽ bắt nguồn từ cuộc cách mạng Anh 1641-1660 và cuộc "Cách mạng Vinh quang" vĩ đại năm 1688 sau đó, khi các nhà băng Do Thái Illuminati thiết lập chỗ đứng vững chắc ở Anh và đã biến nhà băng của chúng thành công cụ để thống trị thế giới.

Tập sách "Life of Charles I" của Isaac Disraeli là tác phẩm chi tiết đáng kinh ngạc có cái nhìn sâu sắc, dựa trên thông tin thu được từ các hồ sơ của Melchior de Salom, phái viên Pháp ở Anh trong thời gian đó.

Cảnh tượng này sẽ mở ra cái nhìn thoáng qua xa xôi của Vương quốc Anh dựa trên Kitô giáo, và truyền thống cổ xưa của mình, những biện pháp hà khắc của chế độ quân chủ trói buộc, Giáo hội, Nhà nước, quý tộc và dân chúng trong một ràng buộc trang nghiêm ở một mặt, ở mặt khác, những bất ổn sâu sắc đáng ngại từ cải cách đức tin Cơ đốc - Calvin.

Calvin, là kẻ đã đến Geneva từ Pháp, nơi mà tên hắn được viết là Cauin (có thể là một cố gắng đánh vần Pháp Cohen), tổ chức một số lượng lớn các nhà hùng biện mang tính cách mạng, không chỉ là một vài trong số đó đã gây thảm họa cho Anh và Scotland. Mà còn đặt nền móng cho cuộc cách mạng dưới tấm áo chùng nhiệt tình tôn giáo.

Trên cả hai mặt của tấm vải tuýt, những kẻ mị dân giao kèo với tất cả các tôn giáo vào sự tuân thủ cứng nhắc "ngày Sa-bát” (Sabbath), ngày nghỉ hoặc ngày thiêng cuối tuần theo tôn giáo Abraham. Theo những lời Isaac Disraeli viết, "quốc gia đã bị chia rẽ khéo léo thành Sabbatarians và Sabbat ly khai"

Theo Disraeli, "Calvin coi Sabbat có nguồn gốc của người Do Thái, giới hạn ở những dân thần thánh." Khi Calvin nắm được quyền lực của họ trong nước, "có vẻ như tôn giáo chủ yếu là Sabbatarian hà khắc, và rằng thượng nghị viện Anh đã bị chuyển đổi thành một công ty Do Thái của Rabbins", và sau đó "Năm 1650, sau khi hành quyết nhà vua, một đạo luật đã được thông qua cho phép trừng phạt đối với vi phạm Sabbat".

Phát tín hiệu giai cấp vô sản

Đến thời điểm này đột nhiên bắt đầu xuất hiện dân chúng vũ trang "operatives" từ các thành phố, từ tương đương “lao công” thời trung cổ. Disraeli viết:

"Họ nói số lượng lên tới cả chục ngàn... với vũ khí giống như chiến tranh. Đó là lực lượng dân binh nổi dậy mọi mùa trong năm, và tin vào bất kỳ việc hủy diệt nào ở mức giá rẻ mạt nhất... với những cuộc xông xáo cùng dao găm và dùi cui, suy luận rõ ràng là đoàn quân phá hoại này đã được chuẩn bị từ lâu."

Đám đông vũ trang này của "công nhân" đe dọa mọi thứ, bao gồm cả nhà Quốc hội và Cung điện vào những thời điểm quan trọng, chính xác trong mô hình được thuê sau này bởi "ban nhạc Thánh" và "Marseillais" trong cuộc Cách mạng Pháp.

Isaac Disraeli rút ra một lần nữa và một lần nữa sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa điều này và cuộc cách mạng Pháp, đáng chú ý là trong đoạn đăng của mình trên báo chí, "không còn bị hạn chế, " và dồn dập các tờ rơi và các cuốn sách nhỏ mang tính cách mạng. Ông viết, dường như từ 1640-1660, đám đông đã lên đến 30 ngàn người.

Và sau này, bộ sưu tập tờ rơi cách mạng Pháp là cùng kiểu với thời Charles I, nhưng phong phú hơn về số lượng và tính khốc liệt.

Ông tiếp, "bàn tay nào phía sau bức màn chơi của đám đông... có thể đưa ra một danh sách chính xác 59 nhân vật, xây dựng thương hiệu của họ bằng danh hiệu đáng ghét Straffordians hay kẻ phản bội đất nước."

Có kể thực sự đứng sau? Disraeli biết rõ nhưng hãy tham khảo Bách khoa toàn thư Do Thái của Sombart: Người Do Thái và CNTB hiện đại, cũng như các tác phẩm khác.

Từ đó những gì chúng ta biết là Cromwell, là nhân vật tư lệnh của cuộc cách mạng, ông ta có tiếp xúc gần gũi với các nhà tài chính Do Thái giàu có ở Hà Lan, và trong thực tế đã được trả một số tiền lớn bởi Manasseh Ben Israel, qua Fernandez Carvajal , “người Do Thái vĩ đại" như ông ta gọi, và cũng là nhà thầu chính cho của quân đội mô hình mới của Cromwell.

Trong cuốn “Người Do Thái ở Anh - The Jews in England”, chúng ta đọc thấy: - "1643 đã mang đến một đội ngũ đông đảo người Do Thái Anh, điểm tập hợp của họ là ngôi nhà của đại sứ người Bồ Đào Nha De Souza, một Marano (tên mật của người Do Thái). Nổi bật trong số đó là Fernandez Carvajal, nhà tài chính vĩ đại và nhà thầu quân đội."

Tờ rơi cổ vũ cách mạng được tung ra trong dịp này, như Disraeli nói: "Mang tiếng khóc nổi dậy quái gở “đến túp lều của bạn, hỡi Israel”. Ngay sau đó nhà vua và Hoàng gia rời cung điện Whitehall.

Các thành viên với đám đông vũ trang và biểu ngữ đi theo họ, đã ca khải hoàn trở về Westminster. Sân khấu được thiết lập tại cho sự ra đời của Carvajal và người Do Thái và sự nổi lên của quái vật Cromwell của họ.

AI CẤP TIỀN CHO CROMWELL?

Tình cảnh đã thay đổi, cuộc nội chiến đã thực hiện xong nhiệm vụ của mình. Đến năm 1647, nhà vua đã thắng và bại trong trận chiến Naseby. Vua sau đó hầu như là một tù nhân bị giam lỏng, nhưng được đối xử như một vị khách danh giá tại nhà mình Holmby.

Theo bức thư được công bố trên “Plain English” 03 tháng 9 năm 1921: Những người cao tuổi uyên bác đã có ngờ vực lâu hơn nhiều họ có. Người bạn của tôi, ông L. D. van Valckert, Amsterdam, gần đây đã gửi cho tôi một lá thư có chứa hai trích dẫn từ giáo đường Do Thái Mulheim. Nhiều nội dung chứa trong đó bị mất trong một số giai đoạn trong chiến tranh Napoleon, và gần đây đã thuộc sở hữu của ông van Valckert.

Nó được viết bằng tiếng Đức, và có trích dẫn từ lá thư được gửi và nhận bởi các tác giả giáo đường DT Mulheim. Lá đầu tiên gửi cho tôi: 

16 tháng sáu 1647.

Từ O.C. (nghĩa là Oliver Cromwell), bởi Ebenezer Pratt.

Đáp lại sự ủng hộ tài chính sẽ biện hộ việc thu nhận người Do Thái vào Anh: Tuy nhiên điều này là không thể khi vua Charles còn sống.

Không thể hành quyết Charles mà không có xét xử, có căn cứ thích đáng mà hiện tại không hiện hữu.

Do đó khuyên rằng Charles nên bị ám sát, nhưng sẽ không có gì để làm với các thỏa thuận để kiếm được sát thủ, mặc dù đã sẵn sàng giúp đỡ hắn trong việc trốn thoát.

Phần trả lời được gửi đi như sau:

12 tháng 7 năm 1647.

Gửi O.C. bởi E. Pratt.

Sẽ cấp hỗ trợ tài chính ngay sau khi Charles bị loại bỏ và người Do Thái được thừa nhận. Ám sát là quá nguy hiểm. Charles sẽ có cơ hội để trốn thoát: Việc bắt lại ông ta sẽ làm cho xét xử và hành quyết là có thể. Sự hỗ trợ sẽ là hào phóng, nhưng vô ích để thảo luận về các điều khoản cho đến khi xét xử (vua) bắt đầu." 

'Plain English' là tạp chí hàng tuần bằng tiếng Anh của nhà xuất bản North British Publishing Co. và bien tập bởi nhà quí tộc Alfred Douglas.

Với thông tin này sẽ rõ hơn những động thái giết vua diễn ra sau đó. Ngày 04 tháng 6 năm 1647, Cornet Joyce hành động theo lệnh bí mật từ chính Cromwell, và theo Disraeli, ngay cả tổng tư lệnh Fairfax cũng không hay biết, 500 tên lính cách mạng đã đến nhà Holmby và bắt giữ nhà vua.

Theo Disraeli, "Kế hoạch này đã được sắp xếp vào ngày 30 tháng 5 tại một cuộc họp bí mật tổ chức tại nhà Cromwell, mặc dù sau đó Cromwell giả vờ rằng nó xảy ra mà không có sự nhất trí của mình."

Động thái này trùng hợp với tiến triển đột ngột trong quân đội, sự nổi lên của "Levelers" và "Rationalists”.

Giáo lý của họ cũng là của những nhà cách mạng Pháp, mà trong thực tế, những gì chúng ta biết ngày nay là chủ nghĩa cộng sản. Đó là những kẻ giết vua, những kẻ đã 4 lần "thanh trừng" Quốc hội, cho đến khi để lại cuối cùng 50 thành viên, Cộng sản cũng như họ, được biết đến sau này là những kẻ sống sót.

Hành quyết Charles I

Quay lại lá thư từ giáo đường Do Thái Mulheim ngày 12 tháng 6 năm 1647, và đề nghị xảo quyệt của nó để nhà vua trốn thoát và sử dụng điều đó như một cái cớ để hành quyết. Đúng sự kiện như thế đã xảy ra, vào ngày 12 tháng 11 cùng năm đó.

Hollis và Ludlow cho rằng việc chạy trốn là mưu kế của Cromwell. Isaac Disraeli viết: "các nhà sử học đương đại đã quyết định rằng nhà vua từ ngày bị trục xuất khỏi Holmby đến khi trốn thoát đến Isle xứ Wight, suốt từ đầu đến cuối là trò lừa bịp của Cromwell."

Vẫn còn ít nhiều điều để nói. Cromwell đã thực hiện các đơn đặt hàng từ giáo đường Do thái, và bây giờ việc còn lại chỉ là chờ giai đoạn xét xử giả tạo.

Vận động cho điều này được tiếp tục trong một thời gian. Và nó trở nên rõ ràng khi Hạ viện, thậm chí khi họ trong điều kiện bị "thanh trừng " một phần, vẫn ủng hộ khuynh hướng đi đến thỏa thuận với nhà vua. Vào ngày 5 tháng 12 năm 1648, các nghị sĩ ngồi cả đêm để bàn bạc, và cuối cùng đi đến kết luận cho câu hỏi, "Nhượng bộ đó của nhà vua là thỏa đáng để giải quyết."

Nếu thoả thuận của Hạ viện là đạt được, dĩ nhiên, Cromwell sẽ không thể nhận được khoản tiền lớn mà ông ta hy vọng có được từ những người Do Thái. Ông lại phải tấn công Hạ viện 1 lần nữa. Vào đêm 6 tháng 12, Đại tá Pryde, theo chỉ đạo của ông ta, thực hiện cuộc “thanh lọc” Hạ viện lần cuối cùng và nổi tiếng nhất, được gọi là "thanh trừng của Pryde”. Đến 04 tháng 1, phần Hạ viện còn lại là 50 thành viên Cộng sản, (Rump), tự trao cho mình "quyền tối cao".

Ngày 9 tháng 1, "một Tòa án tối cao Tư pháp" để xử vua được công bố. Hai phần ba thành viên của nó đến từ quân đội của Cromwell.

Algernon Sidney cảnh báo Cromwell: "Đầu tiên, nhà vua có thể bị xét xử bởi không phải tòa án. Thứ hai, không ai lại bị xét xử bởi tòa án như thế này." Vì vậy, Hugh Ross Williamson viết trong “Charles and Cromwell”, và cho biết thêm một tác động cuối cùng rằng "không có luật sư Anh nào có thể tìm được cách kết tội, và cuối cùng vai luật sư đã được giao cho một kẻ ngoài hành tinh, Isaac Dorislaus."

Không cần phải nói, Isaac Dorislaus là chính xác cùng dạng ngoài hành tinh Carvajal và Manasseh Ben Israel, cùng các nhà tài chính khác, những kẻ trả tiền "cho người bào chữa" bằng tiền máu của chúng.

BẢN CHẤT THỰC CỦA CUỘC CÁCH MẠNG

Người Do Thái đã một lần nữa được phép đổ bộ tự do vào Anh bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của các cơ quan Hội đồng Nhà nước, trong đó họ tuyên bố rằng họ sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Nhà nước và Kitô Giáo.

Có lẽ đó là do các cuộc biểu tình của họ mà đạo luật trục xuất thực sự đã không bao giờ bị bãi bỏ cho đến ngày nay.

Isaac Disraeli viết, "Cuộc cách mạng Anh dưới thời Charles I, không giống bất kỳ điều gì trước đó... Từ thời điểm đó và các sự kiện chúng ta chiêm nghiệm trong lịch sử của chúng ta qua các giai đoạn của cuộc cách mạng."

Có nhiều thứ hơn nữa đi theo con đường tương tự, đặc biệt là ở Pháp. Năm 1897, có một đầu mối quan trọng hơn nữa nói về những diễn biến bí ẩn rơi vào tay người Gentile: Nghị định thư của trưởng lão Zion (Protocols of the Elders of Zion).

Trong tài liệu đó chúng ta đọc được câu này đáng chú ý: "Hãy nhớ rằng cuộc Cách mạng Pháp, những bí mật của sự chuẩn bị nó được biết rõ với chúng ta bởi toàn bộ là công việc với sự tham gia của chúng ta." Nghị định thư số 3, 14.

Những trưởng lão Do Thái có lẽ thậm chí đã viết thông điệp còn đầy đủ hơn, viết, "Hãy nhớ rằng các cuộc cách mạng Anh và Pháp, những bí mật trong đó được biết rõ với chúng ta bỏi đó hoàn toàn là công việc của chúng ta."

Vấn đề khó khăn của cuộc chinh phục cả hai vương quốc, tuy nhiên vẫn còn chưa được giải quyết. Scotland là xứ trung thành với hoàng gia hơn ai hết, và họ đã công bố vua Charles II. Quân đội Cromwell hành quân bao vây Scotland, được hỗ trợ bởi những kẻ Geneva có cảm tình, chúng phát tán bọn Judaic man rợ, nhưng Scotland vẫn chấp nhận vua Charles II. Ông hơn nữa chấp nhận Kitô giáo Presbyterian của Scotland, chậm nhưng đều đặn cảm xúc ở Anh bắt đầu đồng điệu với Scotland.

Cuối cùng sau cái chết của Cromwell, cả các nước Anh chào đón sự phục hồi của nhà vua mới lên ngôi của Anh.

Công tước xứ MARLBOROUGH

Một nhân vật đặc biệt trong số những người bỏ James tại thời điểm quyết định là John Churchill, công tước đầu tiên xứ Marlborough. Sẽ là thú vị khi đọc trong Bách khoa toàn thư của Do Thái (Jewish Encyclopedia) rằng vị công tước này trong nhiều năm đã nhận không ít hơn 6.000 bảng Anh một năm từ một gã Do Thái Hà Lan tên là Solomon Medina.

Mục tiêu thực sự của "Cách mạng Vinh quang" đã đạt được sau một vài năm vào 1694, khi có sự đồng ý của Hoàng gia để thành lập "Ngân hàng Anh - Bank of England" và là tổ chức nắm giữ nợ của quốc gia. Ngân hàng này tồn tại đến tận ngày nay.

Điều lệ này giao đặc quyền đúc tiền của hoàng gia cho một ủy ban vô danh, chuyển đổi cơ sở sang vàng, và cho phép những kẻ cho vay quốc tế bảo hiểm tiền vay của chúng bằng thuế của đất nước, thay vì những cam kết không chắc chắn của một số nhà chức trách hay cầm quyền, là tất cả bảo hiểm mà chúng có thể có được trước đó.

Từ thời điểm cố máy kinh tế đã được thiết lập để vận hành, mọi giàu có thịnh vượng rốt cục rơi vào khái niệm vàng hư ảo do Do Thái kiểm soát, chúng bòn rút dần nguồn sống của đất đai, thứ của cải thực sự được thừa kế của người dân Anh.

XIỀNG XÍCH SCOTLAND

Liên minh chính trị và kinh tế của Anh và Scotland ngay sau đó đã bị xói mòn và bất chấp các cuộc biểu tình chính thức từ mọi nơi.

Mục tiêu chính của Liên minh là để ngăn chặn Hoàng gia tại Scotland đúc tiền và buộc họ cũng phải chịu trách nhiệm về "nợ quốc gia". Sự kìm kẹp của bọn cho vay tiền bây giờ đã hoàn toàn trải rộng khắp nước Anh. Sự nguy hiểm là các thành viên của Quốc hội chung mới sẽ sớm hay muộn, theo tinh thần của tổ tiên của họ, thách thức nhà nước về vấn đề này.

Để chống lại điều này, do đó, hệ thống đảng phái giờ đây được đưa ra, làm nản lòng những phản ứng mang tính quốc gia thực sự và tạo điều kiện cho nhân vật lừng danh phân chia và cai trị, sử dụng sức mạnh tài chính mới được lập của chúng để đảm bảo rằng những người của chúng và các chính sách của chúng được đảm bảo trên sân khấu chính trị, và được hỗ trợ đầy đủ từ báo chí, tờ rơi của chúng, và cũng như từ các tài khoản ngân hàng hàng ngày.

Vàng sớm trở thành cơ sở để cho vay, tiền cho vay có qui mô 10 lần lớn hơn số tiền gửi, con số mà cánh nhà băng hiện nay có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra nổi.

Nói cách khác, 100 bảng tiền vàng sẽ được bảo đảm pháp lý cho 1.000 bảng cho vay, 3% của 100 bảng có thể kiếm được 30 bảng lãi hàng năm mà kẻ cho vay không phải lo lắng gì ngoài việc giữ gìn sổ sách.

Chủ sở hữu đất có giá trị 100 bảng, tuy nhiên, vẫn phải làm việc hàng ngày để kiếm được có lẽ không quá 4%. Sự kết thúc của quá trình này chỉ là vấn đề thời gian. Những kẻ cho vay nặng lãi phải trở thành triệu phú, những người sở hữu và làm việc dựa vào đất đai, người Anh và người Scotland, phải bị hủy hoại.

Quá trình này vẫn tiếp tục không thể lay chuyển được cho đến tận ngày nay, khi nó đã gần hoàn thành, nó được ngụy trang một cách đạo đức giả bởi tuyên truyền một cách khôn khéo rằng nó đã giúp đỡ người nghèo bằng cách khấu trừ người giàu. Chẳng có gì thực sự như thế. Nó chính là phá hoại các tầng lớp sống dựa vào đất đai một cách có chủ ý, các tầng lớp đó là người Anh không DT, vai trò của họ dần bị thay thế bởi các tổ chức tài chính Do Thái, những kẻ ăn bám vào họ.

Lịch sử hiện đại nước Anh và nữ hoàng là như thế, cho dù phương Tây có không nói ra.




Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...