Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P3

Sử dụng luân hồi (Karma) để bào chữa cho áp bức

Niềm tin trung tâm của chủ nghĩa Lạt ma là luân hồi số kiếp và nghiệp chướng (karma). Mỗi chúng sinh được cho là nơi cư ngụ của một linh hồn bất tử, được sinh ra và tái sinh nhiều lần. Sau mỗi cái chết, linh hồn được cho là đi vào một cơ thể mới.

Theo giáo lý luân hồi, mỗi linh hồn được cuộc sống nó xứng đáng: hành vi ngoan đạo dẫn đến luôn hồi tốt và khi nó đến kèm theo sự tăng tiến địa vị xã hội của kiếp sau. Hành vi vô đạo (tội lỗi) dẫn đến nghiệp kiếp xấu và cuộc sống tiếp theo có thể là một con côn trùng (hoặc phụ nữ).

Trong thực tế, không có cái gì giống như luân hồi. Người chết không trở lại trong cơ thể mới. Nhưng ở Tây Tạng, niềm tin vào thuyết luân hồi có hậu quả thực sự khủng khiếp. Dân chúng bị mê hoặc bởi thần bí Tây Tạng cần phải hiểu được chức năng xã hội phục vụ bởi những niềm tin Lạt ma bên trong Tây Tạng: Phật giáo Lạt ma đã được tạo ra, áp đặt và tồn tại để tiến hành áp bức phong kiến cực đoan lên người dân.

Lạt ma ngày nay kể lại câu chuyện của một vị vua Tây Tạng cổ đại, người muốn thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Nhà vua hỏi một vị học giả tôn giáo tại sao những nỗ lực của ông thất bại. "Nhà hiền triết được cho là đã giải thích với ông rằng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo không thể khép lại bằng vũ lực, vì các điều kiện của cuộc sống hiện tại luôn là hậu quả của các hành động trong cuộc sống kiếp trước, và do đó quá trình của mọi sự là không thể thay đổi theo ý muốn".

Grunfield viết: "Từ quan điểm hoàn toàn thế tục, thuyết này phải được xem là một trong những hình thức khéo léo và nguy hại nhất để kiểm soát xã hội từng được nghĩ ra. Để người Tây Tạng bình thường, chấp nhận thuyết này, cản trở khả năng có bao giờ thay đổi mình hoặc số phận của mình trong cuộc đời này. Nếu một người sinh ra là nô lệ, thì học thuyết luân hồi dạy, đó không phải là lỗi của chủ nô mà là bởi làm nô lệ do chính mình đã phạm phải một số lỗi lầm trong cuộc đời kiếp trước. Đến lượt mình, chỉ đơn giản là chủ nô được khen thưởng cho những việc làm tốt trong kiếp trước. Đối với các nô lệ cố gắng phá vỡ xiềng xích trói buộc mình, anh ta hoặc cô ta, sẽ tương tự như tự kết án vào kiếp tái sinh một cuộc sống tồi tệ hơn cuộc đời đang sống đã thực sự phải chịu đựng. Đây chắc chắn không phải là thứ mà một cuộc cách mạng được thực hiện".

Phong kiến Tây Tạng - trụ trì Lạt ma dạy người ta rằng Lạt ma đứng đầu của họ là một vị thần-vua- kẻ cai quản duy nhất và hệ thống chó-ăn- chó là yêu cầu của các hoạt động tự nhiên vũ trụ.Những hoang đường và mê tín dị đoan dạy rằng không thể có sự thay đổi xã hội, đau khổ là hợp lý, và để kết thúc đau khổ mỗi người phải kiên nhẫn chịu đựng đau khổ. Điều này gần như là chính xác những gì Giáo hội Công giáo thời trung cổ châu Âu dạy dân chúng - để bảo vệ hệ thống phong kiến tương tự.

Cũng như trong thời trung cổ châu Âu, phong kiến Tây Tạng đã chiến đấu để đàn áp bất cứ điều gì có thể làm suy yếu hệ thống "kín" này. Tất cả các nhà quan sát đồng ý rằng, trước cách mạng Mao, không có tạp chí, sách in, hay văn học phi tôn giáo của bất kỳ loại nào ở Tây Tạng. Tờ báo ngôn ngữ Tây Tạng duy nhất được xuất bản ở Kalimpong bởi một giáo sĩ Tây Tạng chuyển đạo sang Ki-tô. Nguồn tin tức về thế giới bên ngoài là khách du lịch và độ 2 chục đài radio sóng ngắn được sở hữu bởi các thành viên của giai cấp cầm quyền.

Quần chúng hình thành văn hóa dân gian, nhưng ngôn ngữ viết bị dành riêng cho các giáo lý tôn giáo và các tranh tụng. Số đông quần chúng và có lẽ hầu hết các nhà sư bị cấm đoán hoàn toàn mù chữ. Giáo dục, tin tức bên ngoài và thử nghiệm bị coi là đáng ngờ và có hại.

Giới biện hộ của Lạt ma hành xử như thể tôn giáo này là cốt lõi văn hóa (và thậm chí là cả sự tồn tại) của người dân Tây Tạng. Điều này không đúng. Giống như mọi thứ trong xã hội và tự nhiên, Phật giáo Lạt Ma đã có một khởi đầu và sẽ có một kết thúc. Có nền văn hóa và ý thức hệ ở Tây Tạng trước Lạt ma. Sau đó, thứ văn hóa phong kiến và tôn giáo này nảy sinh cùng với bóc lột phong kiến. Không thể tránh khỏi rằng văn hóa Lạt ma sẽ tiêu tan cùng với những mối quan hệ phong kiến.

Trong thực tế, khi cuộc cách mạng Mao đến năm 1950, hệ thống này đã được mục nát từ bên trong. Thậm chí Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận rằng dân số Tây Tạng đã bị suy giảm. Người ta ước tính có khoảng 10 triệu người Tây Tạng 1.000 năm trước, khi Phật giáo lần đầu tiên được đưa vào đây, khi cách mạng Mao chỉ có 2 hoặc 3 triệu người Tây Tạng. Có ước tính rằng sự sụt giảm đã tăng tốc: dân số đã bị giảm đi một nửa trong 150 năm qua.

Hệ thống Lạt ma chất gánh nặng lên dân chúng cùng với bóc lột thô bạo. Nó ép buộc gánh nặng đặc biệt để chống đỡ cho hệ thống giáo sĩ rất lớn, sống ký sinh, không tái tạo, bao gồm 200.000 ngàn giáo sĩ chiếm mất 20% hoặc hơn nam thanh niên trong vùng. Hệ thống này áp bức sự phát triển của lực lượng sản xuất: ngăn chặn sử dụng cày sắt, khai thác than hoặc nhiên liệu, thu hoạch cá, cấm các trò chơi, y tế và đổi mới/vệ sinh bất cứ hình thức nào. Đói, vô sinh do bệnh hoa liễu, và đa phu kìm chế tỷ lệ sinh thấp.

Huyền bí bao bọc quanh Lạt ma không thể che giấu rằng xã hội Tây Tạng cũ là một chế độ độc tài của chủ sở hữu nông nô đối với nông nô. Không có gì để lãng mạn hóa về xã hội này. Nông nô và nô lệ cần một cuộc cách mạng!


Tây Tạng gặp Cách mạng Mao


Qua các thập niên 1930 và 1940, chiến tranh nhân dân cách mạng đã dâng lên trong số các nông dân ở trung tâm Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Mao Trạch Đông, cuộc cách mạng giành được thắng lợi trên toàn quốc và những vùng đông dân ở phía đông Trung Hoa năm 1949. Khi đó, Mỹ bắt đầu mưu đồ ở biên giới phía Bắc Trung Quốc với Triều Tiên, và đế quốc Pháp đã tiến hành cuộc xâm lược thực dân vào Việt Nam dọc biên giới phía nam Trung Quốc. Rõ ràng, các nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mao đã háo hức để giải phóng người bị áp bức ở khắp mọi nơi ở Trung Quốc, và để lái các mưu đồ nước ngoài ra xa khỏi khu vực biên giới Trung Quốc.

Nhưng Tây Tạng đặt ra một vấn đề cụ thể: Năm 1950, khu vực rộng lớn này đã được gần như bị hoàn toàn bị cô lập với cơn lốc cách mạng, quét qua phần còn lại của Trung Quốc. Hầu như không có người cộng sản Tây Tạng. Không có cơ sở cộng sản trong số các nông nô Tây Tạng. Trên thực tế, các nông nô Tây Tạng không có ý tưởng một cuộc cách mạng đang diễn ra ở những nơi khác trên đất nước họ, hay thậm chí là những thứ như các "cuộc cách mạng" là có thể.


Sự kìm kẹp của hệ thống Lạt ma và tôn giáo của nó là vô cùng mạnh ở Tây Tạng. Không thể bị phá vỡ chỉ đơn giản bằng diễu hành của quân đội cách mạng phần lớn có gốc Hán và "tuyên bố" chế độ phong kiến Tây Tạng phải bị bãi bỏ! Mao loại bỏ cách tiếp cận “chỉ huy” "làm mọi việc mang danh quần chúng". Cuộc cách mạng của chủ nghĩa Mao dựa vào quần chúng.

Dân Tây Tạng trong trang phục truyền thống mang theo ảnh các lãnh đạo Trung Quốc: Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cùng với tác phẩm điêu khắc bơ - theo truyền thống được tạo ra trong các tu viện Tây Tạng như là một hành động của lòng sùng kính, thường được thực hiện cùng với bức tranh tôn giáo. Hình ảnh này hay xuất hiện trên các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...