Người
ta thường kết tội kẻ châm ngòi đám cháy, nhưng bỏ quên kẻ tha rác rưởi gầy sẵn trạng
thái bốc lửa của một đám cháy.
Thật
đáng ngạc nhiên là thơ Heinrich Heine được dịch khá nhiều ra tiếng Việt, nhiều
cô cậu trẻ và các đấng râu ria trầm trồ. Người ta bảo Heinrich Heine là thơ
Đức? Nhưng tại sao lại chỉ nói ông là người Đức? Và không ai biết tình trạng rác
rưởi sẵn sàng cho một đám cháy đang được tha vào xã hội Việt Nam!
Heinrich
Heine là người Do Thái ở Đức, cùng trường phái CNTD - XHDS với John Lock ở Anh. Cũng không ngạc nhiên, phổ biến
Heinrich Heine vào ta vẫn là CNTD.
Một trăm năm trước khi Adolf Hitler nắm
quyền lực, có một sự kiện xảy ra ở Đức, một điềm báo tồi tệ đến trong mối quan hệ
giữa người Đức và người Do Thái. Đó là phản ứng của phong trào “thanh niên Đức”
do một số Do Thái trẻ cầm đầu mà mục đích là để giới thiệu một số cải cách xã hội
tự do, bao gồm cả các cơ hội lớn hơn cho người Do Thái trong tất cả các khía cạnh
của đời sống xã hội Đức. Trong quá trình chiến dịch của họ, những người tham gia
đã nói và đã làm những điều mà chính quyền Đức và các phân khúc lớn dân chúng
cảm thấy bị xúc phạm và bị công kích. Tại trung tâm của phong trào và được để ý
bởi nhiều sự hiện thân của bản tính và tâm lý Do Thái là nhà thơ Do Thái nổi tiếng
thế giới Heinrich Heine.
Heine là một người mang xung khắc dữ
dội. Khi còn trẻ, Heine nhanh chóng được công nhận là nhà thơ lãng mạn lớn nhất
Đức sau Goethe. Bởi vì vẻ đẹp và nội dung chủ đề của thơ ông, ông được cho là một
người yêu quê hương của mình, đặc biệt là vùng Rheinland, nhưng đến tuổi trung niên,
Heine đã biến thành một kẻ cay đắng, chỉ trích châm biếm, thù địch với hầu như tất
cả mọi thứ và tất cả mọi người mà ông đã từng yêu quý ngưỡng mộ. Trong khi
thiếu vắng bất kỳ nguyên nhân rõ ràng nào khác, cuộc sống và nhân cách của ông,
ngay cả sức khỏe của ông, dường như đã bị tan vỡ bởi một cuộc đụng độ tâm lý giữa
bản năng di truyền của ông, đặc biệt là về bản tính cốt lõi Do Thái và văn hóa của
thế giới mà trong đó ông sống. Trong tác phẩm “Faust”, Goethe có dòng thích hợp
để mô tả tình trạng này: "hai linh hồn ngự trong tôi, than ôi, mãi mãi chiến
tranh với nhau."
Sinh năm 1797 với cha mẹ là dân Do Thái,
họ sống sung túc nhưng khiêm tốn ở Duesseldorf, cậu trẻ Harry Heine, được đặt tên
như vậy, vào đời trong một thành phố cơ bản là công giáo La Mã có cư dân Do Thái,
nhưng chỉ là một thiểu số của đa số người Đức, cậu đã hoan nghênh những cuộc cải
cách tự do được giới thiệu bởi Napoleon. Cha mẹ Harry đưa cậu vào lớp mẫu giáo Đức
lúc 4 tuổi trong khi đồng thời dẫn dắt con theo truyền thống Do Thái ở nhà và làm
các hướng dẫn bổ sung có thể về tôn giáo Do Thái trong một trường học tư nhân. Harry
đã tham dự lớp học Lyceum địa phương trong tu viện của các linh mục công giáo,
thường là Dòng Tên dạy học. Kỷ luật là nghiêm ngặt - được thiết kế để cung cấp các
chủ đề hữu ích về Napoleon.
Trong Lyceum, Harry trở thành thông thạo
tiếng Pháp, không phải là một ngôn ngữ thứ hai mà gần như ngang hàng với tiếng Đức
mẹ đẻ của mình. Có một tương lai may mắn cho cậu bé Do Thái khi hiệu trưởng trường
Schallmayer, một thầy tu Dòng Tên là người chia sẻ tình yêu của mình với học sinh
bằng tất cả mọi thứ tiếng Pháp, đã trở thành một người bạn đặc biệt và cố vấn
cho cậu. Schallmayer thậm chí đã cố gắng để thuyết phục Harry làm linh mục. Mặc
dù khía cạnh thơ của công giáo lôi cuốn rất mạnh mẽ đối với cậu trẻ Harry, nhưng
cậu đã chọn cuộc sống thế tục. Về cuối đời, Heine đã bất tử hóa các linh mục và
đặc thù của họ trong “Buch Le Grand” (1827) và “Memoiren” của mình (posthumous 1884).
Nhưng như gợi ý, thậm chí là bắt buộc, bởi một bản năng bẩm sinh, ông cũng đã viết
các đoạn chế nhạo, thậm chí báng bổ trong “Reisebilder” (1826) và những bài thơ
khác về những trải nghiệm ban đầu và trường học của mình.
Bởi đức tính cá nhân, khuynh hướng chính
trị, và tài năng văn học, Harry Heine trở thành một uy quyền quan trọng trong giai
đoạn phản động mà người Đức gọi là “Vormärz” – có nghĩa là trước bạo loạn, hay
trước năm 1815, năm thất bại chấm hết của Napoleon và cái chết của cải cách tự do
của ông ta, cho đến cuộc cách mạng tháng ba năm 1848 và sự trỗi dậy của chủ nghĩa
tự do.
Bức tranh mô tả bạo loạn phong trào Thanh niên Đức - Jungen Deutschland
thời Vormärz chẳng khác gì nhiều quang cảnh quảng trường Tự Do – Kiev ngày nay.
Cả chủ nhân làm giàu bằng bạo loạn cách mạng cũng vẫn như cũ. Cả trăm năm
Gentile vẫn ngu đần y như cũ.
Trước cải cách Napoleon, người Do Thái
ở Đức đã phải chịu một số hạn chế về tham vọng và hoạt động của họ. Trong các ngành
nghề chỉ có y khoa là được mở cho họ. Nhưng trong bầu khí hậu tự do mới, người Do
Thái, bao gồm cả Do Thái trước đây đã từng là "mua quan" đối với các hoàng
thân khác nhau và truyền thống cho vay trong lĩnh vực kinh doanh, sớm vận dụng kỹ
năng của họ vào hoạt động nhà băng hiện đại. Thành công rõ rệt nhất của nhà
băng Do Thái đầu tiên là Rothschild, người sáng lập Meyer Amschel Rothschild, kiếm
tài sản của mình trong cuộc chiến tranh của đồng minh với Napoleon sau cách mạng
Pháp 1789. Khi làm ăn với đồng minh của tầng lớp cầm quyền, các nhà băng Do Thái
thường bị tư bản hóa, mặc dù vẫn còn bị từ chối quyền công dân. Harry có một
tương lai tốt đẹp, khi ông chú Solomon đã nhanh chóng thăng tiến trong xã hội để
trở thành một chủ ngân hàng thành công như vậy ở Hamburg. Ông đã tình nguyện trả
tất các chi phí để Harry theo học ĐH, với điều kiện chỉ là trở thành luật sư.
Vì vậy, Harry Heine vào trường đại học
với một nền tảng dựa trên Torah, thánh ca, tiếng Do Thái và văn học dân gian Đức,
cổ điển Pháp, sự hăng hái của Napoleon, những ma quái trong câu chuyện Roman, hiệu
trưởng Schallmayer theo chủ nghĩa duy lý, và sự châm biếm tàn bạo của Jonathan Swift.
Những ảnh hưởng này sẽ lưu lại ở cậu ta qua suốt cả cuộc đời mình.
Tại ĐH Bonn, Heine thích thú chú ý đặc
biệt đến August Wilhelm von Schlegel, một nhà phê bình và thông dịch viên văn
học nước ngoài, cũng như đến Ernst Moritz Arndt, người phản đối trung thành cuộc
“xâm lược” Napoleon. Heine đã cùng với học
sinh đồng hương của mình giả vờ chào đón Đức giải phóng từ Napoleon. Khi vẫn còn
ở Bonn, Heine đã viết một bài thơ ngắn khen ngợi những ngày của mình tại trường
đại học, nhưng những năm sau này ở “Romantische Schule” (1836) trong một đoạn văn
hèn hạ, ông đã từ chối bằng sự bội bạc chua cay với tình cảm mình đã từng bày
tỏ trước kia.
Nó là thông thường trong những ngày đó
khi học sinh chuyển từ đại học này đến đại học kia để tìm chương trình giảng dạy
và giáo sư họ cảm thấy thoải mái nhất, tuy nhiên Heine đã chọn Göttingen ở vùng
Hanover, nơi ông thấy dân cư của vùng cũng như các sinh viên tại trường đại học
khá kiêu ngạo và xa lánh người Do Thái. Các thành viên giới quý tộc, ví dụ, có ghế
riêng trong các lớp học và bữa ăn của mình tại một bàn dành riêng trong Mensa. Ở
Bonn và Göttingen, Heine chọn chủ yếu là các khóa văn học và lịch sử, hoàn toàn
bỏ qua ước muốn của ông chú mình là nghiên cứu pháp luật.
Đối với trường tiếp theo và cuối cùng,
Harry Heine chọn Berlin. Nó là một thành công. Ở đây, Harry đã có thể liên lạc với
những người quan trọng nhất trong những ngày ấy. Cuộc sống về đêm opera, nhà hát,
nhà hàng, quán rượu, và cơ hội để giao tiếp với các tên tuổi trong giới văn học
của phụ nữ Do Thái giàu có. Heine trở thành quen thuộc ở Frau Rahel nơi mình làm
được quen với các nhân vật tôn kính của ngày ấy như Baronin Elisavon Hohenhausen,
dịch giả của Byron, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới FranzBopp, cũng như E.T
A. Hoffmann, nhà trang sức Fouqué, nhà thơ người Đức và nhà thực vật học Chamisso,
cùng nhiều người khác.
Tháng 8 năm 1822, Heine tham gia “Verein
für Kultur und Wissenschaft für Juden”, một XHDS được lập để đưa người Do Thái vào
sự hòa hợp với văn hóa châu Âu. Không chỉ có nhiều người Đức coi Heine và người
Do Thái nhìn chung là kẻ ngoài, mà một số giáo sĩ cũng thế, vì sợ có thể đánh mất
ảnh hưởng và quyền lực của họ trong trường hợp người Do Thái bị đồng hóa, họ khuyến
khích tất cả người Do Thái bảo toàn với dân tộc của họ. Mặc dù Heine từ chối tất
cả giáo lý tôn giáo, nhưng bản năng gốc, thiên hướng chủng tộc của mình, như nó
đã có, buộc Heine phải ủng hộ Verein. Tình bạn với Verein và các đồng hương Do Thái
đã kéo dài đến cuối cuộc đời. Ngay cả khi ông thú nhận với bạn bè rằng mình đã mất
niềm tin vào giáo lý Judaism và tất cả các tôn giáo giáo điều, ông tuy nhiên vẫn
tiếp tục ủng hộ Verein và tất cả các tổ chức được lập để hỗ trợ người Do Thái.
Tại đại học, Heine đã quan tâm ngay lập
tức đến triết học Hegel, tham dự nhiều bài giảng của Hegel. Sau này ông đã thú nhận
với Ferdinand Lassalle, một nhà XHCN Do Thái Đức và là 1 kẻ kích động chính trị,
rằng ông không bao giờ thực sự hiểu Hegel nhưng bị lóa mắt bởi sự phấn khích của
nó. Heine đã từng sử dụng thuật ngữ Hegel sau này trong “Buch Le Grand” chỉ đơn
thuần là để đùa vui với nó. Với nhà ngôn ngữ học Franz Bopp ông học tiếng Phạn và
thần thoại Hindu, mà với nó von Schlegel đã từng giới thiệu ở Bonn. Ông cũng nghiên
cứu các thuyết lãng mạn tôn giáo với thầy Schleiermacher và học Homer với Friedrich
August Wolff. Cả thời trẻ Harry Heine đã bỏ mặc học luật như ông chú mong mỏi.
Sau khi tốt nghiệp tại Berlin, ý định
của Heine là đến thăm Paris, nhưng đã không tính đến ông chú Solomon, người muốn
đến ngày cuối cùng có tấm bằng luật. Solomon cảm thấy nếu thơ không làm cho
cháu trai kiếm được thu nhập đáng giá, cậu sẽ phải quay lại lớp học luật. Harry
do đó quay trở lại Göttingen, nơi Heine theo nghiên cứu của Corpus Juris. Tháng
6 năm 1824, để chuẩn bị bước vào thế giới thực, Harry Heine quyết định rửa tội tại
nhà thờ Lutheran, nơi Heine được đặt tên Christian Johann Heinrich Heine, cái tên
được biết đến từ đó trở về sau. Heine giải thích với bạn bè người Do Thái của mình,
"nó là vé vào cửa văn hóa châu Âu". Về việc cải đạo Thiên Chúa giáo, Heine
đã rất tiếc cho đến hết phần còn lại của đời mình, Heine như nói, "đó là vô
cùng khó khăn cho một người Do Thái để cải đạo, vì làm thế nào để anh ta có thể
đưa mình vào tín ngưỡng thần học của người Do Thái khác?
Vào tháng 7 năm 1824 Heine bảo vệ thành
công đề tài bằng tiếng Latin và được trao thưởng Doctor Juris. Heine được tâng bốc
khi giáo sư Hugo, trưởng khoa luật, chúc mừng và so sánh với mình, khi kết hợp thơ
với luật gia, với Goethe.
Heine tiếp tục xuất bản những vần
thơ ngọt ngào và các bài văn cay đắng. “Book of Songs” (1827), lấy cảm hứng từ tình
yêu của mình với cô con gái của ông chú Amalie, là bộ sưu tập nổi tiếng nhất các
bài thơ trữ tình, một số trong đó như là “Lorelei” (1822) được biết đến trên cả
thế giới; những cái khác làm lời cho một số nhà soạn nhạc làm bài hát Đức (Schubert,
Schumann, Mendelsohn). Tuyển tập “Romanzero” (1853) được coi là các bài có độ
chín nghệ thuật nhất. Văn xuôi của Heine gồm các tác phẩm lớn “Die Harzreise” (1826), “The
Romantic School, Atta Troll” (1847), “Germany: A Winter’s Fairy Tale” (1844)) là
kiệt tác trí tuệ, châm biếm, mỉa mai, hoài nghi, và chế nhạo. Về lời bài hát của
Heine, Nietzsche viết:
“Những quan niệm cao nhất của lời thơ đã được trao cho tôi bởi
Heinrich Heine. Tôi đã tìm vô ích trong toàn cõi thiên niên kỷ thứ âm nhạc say
đắm ngọt ngào. Nó sôi nổi đến mức thiếu thần thánh tôi không thể hình dung sự hoàn
hảo... và làm thế nào mà ông ấy sử dụngtiếng Đức! Sẽ có một ngày được kể rằng Heine
và tôi còn hơn là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.”
Năm 1841, sau lần thứ 2 tình yêu không
được đền đáp, Heine kết hôn với cô gái mù chữ 19 tuổi bán hàng người Paris và ông
đặt tên lóng là "Mathilde". Mathilde không biết tiếng Đức và không quan
tâm đến vấn đề văn hóa hay trí tuệ. Mặc dù họ sống với nhau nhiều năm, nhưng không
hạnh phúc. Về hôn nhân của Heine có thể nói là "âm nhạc chơi tại một đám cưới
luôn luôn nhắc nhở tôi về âm nhạc chơi cho các chiến binh trước khi họ đi vào cuộc
chiến".
Trong giai đoạn 1830-1850, Heine với
Ludwig Börne (một Do Thái kích động trẻ khác) trở thành thủ lĩnh trí tuệ của phong
trào "thanh niên Đức", thực ra là một đám văn chương, đã cố gắng để xúc
tiến các nghệ sĩ và nhà văn Đức, thuyết phục họ rằng đó là nhiệm vụ của họ là giúp
mang lại thay đổi chính trị và xã hội, bao gồm đặc biệt là bình đẳng đầy đủ trong
xã hội Đức cho tất cả người Do Thái. Các nhà văn không chấp nhận tiền đề này đã
bị coi là thẩm mỹ nghèo nàn hay phản động chống xã hội. Để đạt được mục đích này,
họ sử dụng thứ vũ khí trí não phát triển cao của họ, mỉa mai, châm biếm để hạ
bệ các lý lẽ được sử dụng chống lại họ và phỉ báng những ai bị cho là ngăn cản con
đường của họ. Tuy nhiên, rất nhiều nhà phê bình văn học và chính trị đã từ chối
thứ chủ nghĩa duy lý lạnh, chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa lãng mạn sầu muộn vờ
vịt của "chủ nghĩa Byron".
Heinrich von Treitschke (1834-1903),
là nhà sử học Đức xuất chúng và rất có ảnh hưởng, chỉ trích sự kiêu ngạo, luận
điệu phi lý và tham vọng không kìm chế của những kẻ ủng hộ phong trào này. Treitschke
mô tả các tác động tiêu cực của dân Do Thái đến xã hội Đức trong nỗ lực để tạo ra
một quốc gia lai ghép Đức - Do Thái. Trong cuốn sách nhỏ gọi là “Lời về DT của
chúng ta - A Word about Our Jews”, ông viết, "năm này qua năm khác, chui ra
khỏi cái ổ Ba Lan vô tận cả dòng này tràn qua biên giới phía đông của chúng tôi
một đám những thanh niên, chen lấn xô đẩy, bán dạo quần áo, mà trẻ em và trẻ em
của trẻ em họ sẽ một ngày nào đó làm chủ thị trường chứng khoán và báo chí Đức".
Treitschke cũng cho phổ biến rộng rãi thành ngữ “Do Thái là bất hạnh của chúng tôi”,
nó được lấy và mang ngay đi suốt thời kỳ chủ nghĩa xã hội quốc gia.
Quan điểm của Von Treitschke về Do
Thái Đức là trái với Theodor Mommsen (1817-1903), một sử gia người Đức cũng nổi
tiếng khác, Mommsen công bố: Bản tuyên bố của 75 danh nhân chống Anti-Semitism,
trong đó ông phản bác lập luận của Treitschke:
“Trong điệu bộ không ngờ và xấu hổ sâu sắc, thù hận chủng tộc
và chủ nghĩa cuồng tín thời Trung cổ được nhen nhóm ở nhiều nơi và hướng đến chống
lại công dân Do Thái của chúng ta. Cái gì bị lãng quên ở đây là nhiều trong số họ
(DT) được tổ quốc ban cho lợi ích và tôn vinh qua ngành công nghiệp của họ và tài
năng trong buôn bán và thương mại, nghệ thuật và khoa học.”
Cuộc đấu tạm thời một lần nữa cân bằng
giữa một bên chỉ thấy tồi tệ trong sự hiện diện của Do Thái và một bên thấy tốt
đáng kể. Heinrich Heine là để chứng minh cho sự phong phú của cả hai phẩm chất -
tốt và xấu - trong cuộc đời của ông. Tuy nhiên, ngày càng nhiều, châm biếm cay
đắng và luận chiến dần dần đã chiếm vị trí ưu tiên trong thơ của Heine. Mặc dù Heine
vẫn tiếp tục cho ra các tác phẩm thơ như loại ban đầu, ông cũng dần dần đánh mất
sự gần gũi với thơ dân gian và văn hóa dân gian Đức, thứ mà ông đã biểu lộ trong những năm trước kia. Về mặt chính
trị, tác phẩm của Heine đôi khi được gọi là tự do cấp tiến và vào thời điểm khác
là la lối cách mạng. Ông đã gặp và duy trì quan hệ thân thiện với Karl Marx và Friedrich
Engels. Harry Heine, nhà thơ trữ tình Đức, cuối cùng đã trở thành chủ nghĩa
quốc tế Heinrich Heine, thơ chính trị và phê bình văn học. Như về Heine được trích
dẫn rằng:
"Tôi có một lần tổ quốc đẹp;
Cây sồi mọc cao như vậy đó;
Hoa tím gật đầu rất nhẹ nhàng.
Điều đó như là một giấc mơ".
Nhưng thay đổi đã hoàn thành. Heine đã
bỏ rơi Thiên thần Tân Ước thời trẻ để thừa kế Quỉ dữ Cựu Ước. Baudelaire là
người thấy cái gì đó ở Heine, ca ngợi ông như một nhà văn, người "sẽ là một
thiên tài nếu chỉ cần ông quay mình thường xuyên đến với Chúa." Đôi khi, Heine
thậm chí chơi ngông chỉ trích đồng hương mình vì chủ nghĩa thương mại hóa và các
đặc điểm khó ưa khác. Ông sau đó sẽ xin lỗi và tái khẳng định lòng trung thành với
nguồn gốc Do Thái của mình.
Năm 1830 cuộc cách mạng ở Paris quét
vị vua Bourbon cuối cùng ra khỏi ngai vàng và biến nước Pháp thành chế độ quân chủ
lập hiến, Heine quyết định định cư ở đó, trải qua 25 năm cuối đời ở Paris. Năm 1848,
Heine đột nhiên mắc chứng tê liệt và bị hạn chế trên giường cho đến khi ông qua
đời vào năm 1856. Trước khi chết, ông tuyên bố mình là nhà thần luận và không phải
là vô thần, nhưng từ chối tất cả các tôn giáo. Đối với mọi điều ác và tội lỗi
mà ông có thể đã phạm phải, có thể trích dẫn về Heine: "Dĩ nhiên Chúa sẽ tha
thứ cho tôi; đó là việc của người".
Hầu hết các nhà phê bình coi Heinrich
Heine là một nhà thơ tuyệt vời, nhà văn châm biếm và nhà tranh luận không cần
bàn cãi. Viết vào năm 1933, giáo sư Robert Herndon Fife của đại học Columbia đã
đưa ra một vai trò tích cực: "truyền tinh thần biện chứng sắc bén vào niềm
đam mê của chủ nghĩa lãng mạn; "và hòa trộn Do Thái phương Đông với đặc
điểm Đức dẫn đến nhuần nhuyễn cái mới trong lịch sử văn học."
Nhưng chính cái hòa trộn phương Đông
và đặc điểm phương Tây làm cho những người khác thấy khó chịu. Adolph Bartels (1862-1945),
ví dụ, một nhà thơ người Đức quan trọng và nhà báo theo lý lẽ của mình nói Heine
là "Không có sáng tạo thiên tài, chỉ đơn giản là một tài năng kiến trúc, chỉ
đơn thuần là người có trình độ cao." Bartels là người khởi xướng mạnh mẽ
sáng tác Völkisch từ lâu trước khi xã hội quốc gia xuất hiện trên sân khấu. Khi
họ đã làm, Heine nhanh chóng trở thành persona
non grata và trường thơ văn của Bartels trở thành gần như biểu tượng chính
thức. Chính Hitler trao cho Bartels huy chương danh dự Adlerschild, cao nhất của
phát xít Đức vào năm 1937.
Heine, do đó, là một nhân cách xung
đột theo nghĩa bản chất cốt lõi của mình, di sản Do Thái của ông, thường xung đột
với môi trường Đức và Kitô giáo. Heine được ưu đãi bởi cha mẹ và di sản mang một
số thuộc tính Do Thái có lợi nào đó như mối quan hệ tự nhiên với đồng hương của
mình (đoàn kết sắc tộc), sự khéo léo bằng lời nói, tính hung hăng, tính cá biệt,
sắc sảo trong trí tuệ và hiểu biết, sự bất mãn thánh thần (hay ma quỷ) với những
thứ như ở họ, cũng như cảm giác sống ưu việt trong thế giới xa lạ và thù địch cần
khai sáng. Môi trường của ông nuôi dưỡng và hình thành bản năng thứ hai của ông
như nó có được, cung cấp cho ông khả năng giáo dục tốt nhất có thể, công nhận và
báo đáp cho tài năng của ông, thay đổi và tranh cãi của bầu khí hậu chính trị trong
đó Heine sử dụng món quà bản năng của mình đến chỗ đầy đủ. Heine, nhà thơ trữ
tình, đã và vẫn được đặc biệt yêu quý, ngưỡng mộ ở Đức và thế giới, cũng giống như
Heine, các nhà văn châm biếm, được đánh giá đặc biệt trong cộng đồng Do Thái.
Đối với hầu hết mọi người, sẽ là dễ dàng
hơn để nghĩ về Heine như là một nhà thơ Do Thái, người trở thành một virtuoso
trong thơ trữ tình Đức cũng như Heifetz, Stern và những người khác đã trở thành
virtuosi trong âm nhạc Đức, hơn là nghĩ về ông như một nhà thơ Đức tha thiết mong
muốn và đã chiến đấu cho nước Đức tự do hơn.
Vì ông nhận xét châm biếm, không thật,
và hết sức xúc phạm cá nhân, tổ chức, và những nơi đã nuôi dưỡng và giáo dục
ông thời tuổi trẻ, Heinrich Heine – là kẻ kích động chính trị - kẻ giận dữ có
thể hiểu được đối với người Đức, họ nhìn ông rõ ràng như kẻ vô ơn bạc nghĩa và kẻ
phản bội vì bôi nhọ văn hóa và các giá trị Đức, kẻ đã cố để thay họ bằng đồng
hương của mình. Trong thực tế, ông đã vi phạm một quy tắc cơ bản của tư cách
đạo đức văn minh, mà theo đó ông đã từng học được ở đâu đó trong suốt cuộc đời
không yên của mình, cụ thể là, như câu tục ngữ Do Thái, "đừng ném bùn xuống giếng mà mình đã uống".
Quan trọng hơn, tuy nhiên, cũng có một
thực tế là những cá tính đặc thù này, tốt và xấu, mà Heine thừa hưởng từ tổ tiên
của mình và giúp ông rất đắc lực cũng hiện diện ở mức độ ít hơn hay nhiều hơn trong
số đồng hương của mình khi họ tiến đến quyền lực lớn hơn bao giờ hết trong xã hội
Đức. Người Do Thái chủ nghĩa vị tộc, thái độ chống đối của họ với Đức kết hợp với
sự dẫn dắt tàn nhẫn đến với quyền lực trở thành rất hiển nhiên khi họ đi đến thống
trị ngành pháp lý và y khoa ở Đức, các nhà băng, và các phương tiện truyền thông.
Đồng thời, họ cũng trở thành thống trị trong các phong trào cách mạng chính trị,
đặc biệt là CNCS. Oán hận tích lũy của người Đức chống lại sự tham gia của rất
nhiều thành viên trong cộng đồng Do Thái vào hoạt động CNCS có tính bạo loạn
lật đổ và Weimar có tính suy đồi thối nát cuối cùng đã lên tới đỉnh điểm với sự
nổi lên của chủ nghĩa xã hội quốc gia - Nazi.
ND: Như người ta nói, người Do Thái
không phát minh sáng tạo gì, họ chỉ chiếm lấy cái có sẵn vào đưa nó đến chỗ hư
hỏng, đồi bại, thối nát. Bất cứ cái gì người Do Thái nhúng tay, đều như vậy.
Nhưng ngày nay, thậm chí không ai có ý định gột rửa, rũ bỏ điều này để tìm về
cội nguồn nguyên bản thuần khiết.
Tài liệu tham khảo
1) Kurt F. Reinhardt (1896-1983).
Germany: 2000 Years. Frederick Ungar Publishing Co., New York, Vols. 1 and 2,
1950. Reinhardt was Professor of Germanic Languages, Stanford University
2) Robert Herndon Fife (1871-1958).
Die Harzreise. Henry Holt and Company, New York, 1933, Introduction pp.
ix-lxxxv. Fife was Professor of German at Columbia University
3) Wikipedia items dealing with
aspects of his life, a listing of his works, quotations attributed to him, etc.
Bài viết của Dan Michaels;
Bài viết của Dan Michaels;
Xem
thêm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét