LỜI THÚ TỘI CỦA LY SỮA THƠM 

- Kỳ 2: MỘT SỐ TÁC HẠI CỦA SỮA ĐÃ ĐƯỢC CẢNH BÁO (tiếp theo Kỳ 1)

Nguồn: Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế Việt Nam - Báo Sức khỏe & Đời sống, số 88 ngày 30/5/2016, trang 13, tác giả Lưu Thị Kim Oanh.



Vấn đề về loãng xương: Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc tiêu thụ sữa với lượng lactose thấp có thể cải thiện hàm lượng chất khoáng trong xương. Tuy nhiên, một số nghiên cứu quy mô lớn đã chỉ ra điều ngược lại. Công trình nghiên cứu sức khỏe trên các y tá của Đại học Harvard theo dõi hơn 75.000 phụ nữ trong suốt 12 năm cho thấy việc tăng tiêu thụ sữ không có hiệu quả bảo vệ đối với nguy cơ gẫy xương. Trên thực tế, việc tăng nạp các sản phẩm sữa liên quan đến nguy cơ loãng xương và gẫy xương cao hơn. Một công trình nghiên cứu khác của tác giả Cumming và Klineberg (Khoa Y tế công cộng, ĐH Sydney, Úc) đã chỉ ra việc tiêu thụ các sản phẩm sữa, đặc biệt ở tuổi 20, có liên quan đến tăng nguy cơ gẫy xương hông ở người già.

Ngoài ra một nghiên cứu đăng trên tạp chí BMJ mới đây của Cơ quan Lương thực Thụy Điển gây chú ý mạnh mẽ với giới khoa học. Nghiên cứu cho biết, sau khi theo dõi hơn 100.000 người Thụy Điển cả nam và nữ suốt 23 năm, các tác giả nghiên cứu không tìm thấy 1 mối liên hệ nào giữa việc dùng sữa và giảm nguy cơ rạn xương, mà lại thấy điều ngược lại, những người uống nhiều sữa có nhiều khả năng chết sớm hơn những người uống ít hay không uống sữa. Ngoài ra, nghiêu cứu chỉ ra những phụ nữ uống ít nhất 3 ly sữa mỗi ngày có nguy cơ rạn xương hông cao hơn 60% so với những phụ nữ không uống sữa hoặc uống 1 ly sữa/ngày.

Như vậy, tác dụng của sữa đối với sức khỏe xương có nhiều kết quả trái chiều, nhưng sữa không chắc chắn tốt cho xương như bấy lâu nay ta vẫn nghĩ.

Tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư: Một số loại ung thư như ung thư buồng trứng,và ung thư tuyến tiền liệt được cho là có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Một phân tích gộp cơ sở dữ liệu từ 12 bài báo khoa học chỉ ra tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm sữa và canxi ở nam giới có thể tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, mặc dù sự gia tăng dường như là nhỏ. Một phân tích gộp khác dựa trên tổng hợp các nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ NHANES (Khảo sát nghiên cứu về sức khỏe và dinh dưỡng Quốc gia Hoa Kỳ) đã chỉ ra sữa có liên quan đến việc xuất hiện kinh nguyệt sớm ở bé gái vị thành niên.

Liên quan đến hoại tử đường ruột ở trẻ: Từ lâu, các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng trẻ sinh non ăn sữa bột công thức có nguy cơ bị hoại tử đường ruột cao hơn trẻ được bú sữa mẹ, nhưng về cơ chế dẫn đến việc bị hoại tử đường ruột như thế nào thì chưa được hiểu rõ. Theo một nghiên cứu gần đây của Penn và Cộng sự (năm 2012), axit béo tự do sinh ra trong quá trình tiêu hóa sữa bột công thức đã gây chết các tế bào – điều có thể đã gây ra hoại tử đường ruột ở trẻ. Kết quả nghiên cứu rất rõ rệt, sữa bột công thức sau khi được tiêu hóa, trong vòng chỉ 5 phút đã giết chết các tế bào khỏe mạnh, trong khi đó sữa mẹ không hề có hiện tượng này. Trái lại, 2 chất trong sữa mẹ đã được tìm ra là có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư trong ống nghiệm. Chất tiêu diệt tế bào khối u Human Alpha-lactalbumin Made Lethal to Tumor cells (HAMLET) là một loại phức hợp chất béo-đạm có trong sữa mẹ có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư.

Nhiều tác hại khác cũng được phát hiện: Nguy cơ bệnh tim mạch (nếu sử dụng sữa chưa tách béo), bệnh tiểu đường, chứng không dung nạp đường lactose, ngộ độc vitamin D, nhiễm hóa chất, và những lo ngại về sức khỏe đối với trẻ sơ sinh và trẻ em (dị ứng, thiếu sắt, đau bụng, táo bón).

Ngoài ra, các nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn khi trong sữa có chứa các hormone tăng trưởng (hormone tăng trưởng được trộn vào thức ăn hoặc được tiêm trực tiếp cho bò sữa nhằm làm tăng năng suất sữa), chất kháng sinh (những con bò thường xuyên bị viêm vú nên thường xuyên phải điều trị bằng kháng sinh), tế bào máu và máu trắng (mủ sữa bò), các mầm bệnh của bò…

Trong các tài liệu được xem xét, sữa có mặt lợi và mặt hại. Vậy chúng ta hãy cùng so sánh và cân nhắc. Các mặt lợi của sữa được chỉ ra về sức khỏe của xương thì nhiều nghiên cứu khác chỉ ra điều ngược lại. Vậy mặt lợi này có thể coi là chưa rõ ràng. Còn mặt lợi về giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, chúng ta giảm được nguy cơ ung thư loại này thì lại gặp nguy cơ ung thư loại khác (buồng trứng, tiền liệt tuyến). Vậy nên mọi người hãy cân nhắc về lợi hại, được mất, nặng nhẹ, để đưa ra quyết định của riêng mình về việc sử dụng sữa.

LỜI THÚ TỘI CỦA LY SỮA THƠM – Kỳ 1: NHỮNG LỢI ÍCH ÍT ỎI CỦA SỮA

Bạn Nghé học trường quốc tế về kể với mẹ Quỳnh, "trường con chẳng biết cái gọi là Trần Lan Hương đâu mẹ ạ" (cảm ơn Nghé mỗi khi ăn lại nhớ đến coach :)), và "khi con nói uống sữa không tốt đâu thì cả trường phản đối ầm ầm, bảo con "thiếu hiểu biết"". Ở trường ngày nào cũng bắt học sinh uống sữa, con không uống cũng khó! Mẹ Quỳnh đem tâm sự của Nghé hỏi coach.

May quá, vừa rồi coach có dịp gặp 2 chuyên gia đầu ngành Dinh dưỡng VN là Tiến sĩ Từ Ngữ - Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Dinh dưỡng VN (đọc bài "Chuyên gia dinh dưỡng cả đời tránh uống sữa"), và Tiến sĩ Lê Danh Tuyên - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng VN. Chú Tuyên đưa tận tay coach 2 bài báo đăng trên báo Sức khỏe & Đời sống, cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế, tháng 5/2016 mới đây. Coach chụp lại bài báo và kỳ cạch gõ lại nội dung cho dễ đọc. Biết rằng, thời nay báo giấy không lại được với quảng cáo nã pháo tivi mỗi ngày nên mong cả nhà phát huy tối đa vũ khí facebook, ai có phây thì share, mới mong "xóa mù về sữa" được cho các bạn của Nghé. Cảm ơn cả nhà nhiều.



LỜI THÚ TỘI CỦA LY SỮA THƠM 

– Kỳ 1: NHỮNG LỢI ÍCH ÍT ỎI CỦA SỮA

Nguồn: Cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế Việt Nam - Báo Sức khỏe & Đời sống, số 87 ngày 30/5/2016, trang 13, tác giả Lưu Thị Kim Oanh.

Sữa bò hay sữa một số loài động vật khác từ lâu đã trở thành thứ thực phẩm không thể thiếu của con người. Hiếm có một thứ thực phẩm nào được con người coi là hoàn hảo đến vậy. Sữa được sử dụng ở mọi lứa tuổi, mọi đối tượng từ trẻ sơ sinh, trẻ em, phụ nữ, đàn ông, người già…và sử dụng mọi lúc, mọi nơi, từ lúc khỏe mạnh cho đến khi bệnh tật, từ lúc đang đói cũng như lúc còn no… Vậy sữa có thực sự hoàn hảo? Bài viết cung cấp thông tin từ nhiều góc nhìn về sữa dựa trên các nghiên cứu khoa học trên thế giới, giúp mọi người có được những thông tin giá trị, đáng tin cậy, từ đó quyết định có thể tiếp tục uống sữa hoặc uống sữa ở mức độ nào để gìn giữ sức khỏe tốt nhất.

Có hàng nghìn nghiên cứu về sữa từ năm 1988 cho đến nay, trong đó có những nghiên cứu rất lớn, theo dõi dài trong rất nhiều năm, đã chỉ ra mặt lợi, mặt hại của sữa, cũng có một số kết quả không thống nhất giữa các nghiên cứu. Ngoài ra, một số nghiên cứu có độ tin cậy không cao khi nguồn tài trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu là các hãng sữa (dường như các kết quả nghiên cứu như vậy sẽ có lợi cho các hãng sữa).

Nghiên cứu về mặt lợi của sữa

Đối với xương và chiều cao: Có một số nghiên cứu chỉ ra rằng, người tiêu dùng sữa ít có khả năng tăng nguy cơ gẫy xương. Các thử nghiệm ngẫu nhiên ở trẻ em (7 nghiên cứu) và phụ nữ trưởng thành (2 nghiên cứu) chỉ ra rằng việc tiêu thụ sữa với lượng lactose thấp có thể cải thiện hàm lượng chất khoáng trong xương. Tuy nhiên, trong nghiên cứu tổng quan hệ thống đánh giá rằng, các nghiên cứu này có bằng chứng ở mức độ thấp. Họ cũng nhận thấy trong đó có một số nghiên cứu được tài trợ bởi ngành công nghiệp sữa nên chưa đủ độ tin cậy. Một số nghiên cứu chứng minh vai trò tích cực của sữa trong việc tăng chiều cao và phát triển tầm vóc ở trẻ.

Đối với phát triển trí thông minh và thị lực ở trẻ: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống đã chỉ ra một số thử nghiệm lâm sàng bổ sung DHA và ARA vào sữa công thức đã không cho thấy một sự cải thiện trong phát triển trí tuệ và vận động ở trẻ. Thị lực có thể được cải thiện, nhưng hiệu quả của điều này trên toàn cầu chưa được xác định. Hiện chưa có nghiên cứu nào kết luận trẻ ăn sữa công thức (có chứa DHA và ARA nhân tạo) có não phát triển tốt hơn và thông minh hơn trẻ bú mẹ (sữa mẹ vốn dĩ dồi dào DHA và ARA ở dạng tự nhiên và dễ sử dụng nhất). Các kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ bú mẹ hoàn toàn có não phát triển tối ưu vượt trội.

Đối với giảm nguy cơ ung thư: Một phân tích gộp các dữ liệu từ 10 nghiên cứu thuần tập ở 5 quốc gia cho thấy tiêu thụ một lượng sữa lớn có liên quan tới giảm nguy cơ ung thư đại tràng.

Ngoài ra sữa bổ sung một số chất dinh dưỡng cho cơ thể. Tuy nhiên, con người hoàn toàn có thể có được các chất dinh dưỡng này từ các thực phẩm tự nhiên.

Việc sử dụng sữa công thức ở Nhật Bản

Ở Nhật, sữa bột không được quảng cáo trên tivi, được bày bán rất khiêm tốn ở siêu thị và hiệu thuốc. Những chiêu quảng cáo uống sữa cho trẻ con cao lớn, thông minh như ở Việt Nam sẽ không thấy ở Nhật.

Phổ biến ở Nhật là khi trẻ bước sang 1 tuổi, cha mẹ chú trọng xây dựng cho trẻ tập thói quen lấy dinh dưỡng từ bữa ăn, từ đa dạng thực phẩm thiên nhiên khác, thay vì phụ thuộc vào sữa bột.

Nhà trẻ Nhật không cho trẻ uống sữa bột sau 1 tuổi, ngay cả khi phụ huynh muốn được đem đến để nhờ cô giáo cho con mình uống cũng bị từ chối. Vì điều ấy đi ngược lại với phương châm của nhà trẻ.
Cha mẹ Nhật hầu như không bao giờ so sánh cân nặng hay chiều cao của con mình với con hàng xóm. Họ luôn coi trọng việc con khỏe mạnh, hoạt bát, rắn rỏi và ăn theo nhu cầu hơn là việc con nặng bao nhiêu, con có mũm mĩm hay không. Chính thói quen suy nghĩ như thế sẽ giúp các bà mẹ cởi bỏ đi rất nhiều áp lực về cân nặng, chiều cao của con, từ đó tỉnh táo hơn trong việc cho con uống sữa.

THƯ TỪ TRUNG QUỐC HOẠT ĐỘNG CỦA BỌN TROTSKYIST TRUNG QUỐC

Các bạn thân mến,

Trước khi trả lời câu hỏi của các bạn về hoạt động của bọn Trotskyist Trung Quốc, trước hết cho phép tôi giới thiệu với các bạn nửa tá những tên đầu sỏ, quá ư phản bội đã từng làm rạng danh "quốc tế thứ tư". Đó là: Trần Độc Tú, Bành Thuật Chi, La Hán, Diệp Thanh, Trương Mộ Đào, Hoàng Công Lược.

Theo thứ tự thời gian, sau đây là những việc chúng đã làm:

Tháng 9-1931, trong khi quân đội Nhật xâm chiếm Mãn Châu, Sở mật thám Nhật ở Thượng Hải đã bắt liên lạc với ba tên trước. Hai bên đã ký kết với nhau một hiệp định: Nhóm Trotskyist cam kết không tiến hành một cuộc tuyên truyền nào chống lại cuộc xâm lược của Nhật. Sở mật thám Nhật thì cam kết sẽ trả cho nhóm Trotskyist mỗi tháng 300 đôla, cùng những khoản tiền trả thêm cho cân xứng với những "công việc đã làm được có kết quả".

Thế là Trần Độc Tú và đồng bọn bắt tay ngay vào công việc. Với tiền bạc của Nhật, chúng cho xuất bản những tạp chí và những tập trào phúng để truyền bá những tư tưởng như là: "Chiếm Mãn Châu, người Nhật chỉ mong giải quyết nhanh chóng những vấn đề còn đang tranh cãi, chứ họ không hề có chút ý đồ nào xâm lược Trung Quốc".

Những mục trên các tờ báo Trotskyist vừa rao thì đến lượt Thượng Hải bị bọn Nhật tấn công, vào tháng 1-1932.

Lúc đó, bọn Trotskyist nói như thế nào? Chúng có thừa nhận là chúng phạm sai lầm không? Chúng có thôi làm việc cho kẻ xâm lược không? Hoàn toàn không? Trong khi binh sĩ của Lộ quân thứ 19 hy sinh xương máu của mình để bảo vệ đất nước thì bọn Trotskyist, trên lời nói cũng như trong hành động, đã phạm hết tội phản bội này đến tội phản bội khác. Một mặt chúng viết:

"Cuộc chiến tranh ở Thượng Hải không có quan hệ đến nhân dân. Đó không phải là một cuộc chiến tranh dân tộc cách mạng. Đó là một cuộc chiến tranh giữa bọn đế quốc với nhau". Và mặt khác, chúng phao tin đồn nhảm, đưa ra những khẩu hiệu có tính chất thất bại chủ nghĩa, làm lộ những kế hoạch phòng thủ, v.v..

Không phải chỉ có thế đâu. Những tên Trotskyist khác như Hoa Văn Khôi và Cung Tân Thư đã chui vào trong cuộc bãi công của công nhân Thượng Hải, chúng bí mật liên lạc với Sở cảnh sát và bọn chủ Nhật, và làm đủ mọi cách để phá hoại phong trào. Thậm chí, chúng còn mưu toan bắt đi cả những người cầm đầu giỏi nhất của cuộc bãi công.

Năm 1933, nguyên soái Phùng Ngọc Tường và tướng Cát Hồng Xương, một đảng viên cộng sản đã tổ chức một đội quân chống Nhật ở Kalgan. Trong thời kỳ này, Đảng Cộng sản đang còn hoạt động bí mật, việc liên lạc giữa miền Trung và miền Bắc đang khó khăn. Lợi dụng tình hình đó, tên Trotskyist Trương Mộ Đào tự xưng là "đại diện Đảng Cộng sản" và tìm cách biến sự nghiệp chống Nhật thành một cuộc nội chiến, bằng cách đưa ra khẩu hiệu: "Đi với Nhật, chống lại Tưởng Giới Thạch". Hắn bị tướng Cát lột mặt nạ và tống cổ đi. ít lâu sau đó, tướng Cát nhân có công việc phải đi đến Thiên Tân, Trương Mộ Đào liền cho người ám sát ông.

Trong thư sau, tôi sẽ kể để các bạn rõ về việc bọn Trotskyist Trung Quốc tiếp tục phản bội Tổ quốc của chúng như thế nào.

Chào thân ái

P.C.LIN
Báo Notre Voix,

ngày 7-7-1939.

THƯ TỪ TRUNG QUỐC VỀ CHỦ NGHĨA TROTSKY

Quế Lâm, ngày 10-5-1939

Các bạn thân mến,

Trước kia, chủ nghĩa Trotsky đối với tôi cũng như đối với nhiều người khác, hình như là một vấn đề tranh cãi trong nội bộ giữa các phe phái khác nhau của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bởi vậy, chúng tôi không lưu ý đến nó. Nhưng ít lâu trước khi xảy ra chiến tranh - nói đúng hơn là hồi cuối năm 1936, và nhất là trong thời gian chiến tranh, những sự cổ động đầy tội lỗi của bọn Trotskyist đã làm cho chúng tôi sáng mắt ra. Thế là chúng tôi bắt đầu nghiên cứu vấn đề. Và việc nghiên cứu đó đã chứng minh cho chúng tôi thấy như sau:

1. Vấn đề chủ nghĩa Trotsky không phải là sự tranh cãi trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì giữa những người cộng sản và bọn Trotskyist không có quan hệ, hoàn toàn không có quan hệ gì với nhau cả. Nhưng đây là một vấn đề liên quan đến toàn quốc, toàn dân: một vấn đề chống lại Tổ quốc.

2. Bọn phát xít Nhật và bọn phát xít nước ngoài đều biết rõ điều đó, bởi vậy chúng cố ý gây mối bất hoà để lừa gạt thiên hạ và làm mất uy tín của những người cộng sản, chúng làm cho người ta tưởng rằng những người cộng sản và bọn Trotskyist là cùng một cánh với nhau.

3. Bọn Trotskyist Trung Quốc (cũng như bọn Trotskyist nước ngoài) không lập thành nhóm, càng không lập thành chính đảng. Chúng chỉ là những bè lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật (và chủ nghĩa phát xít quốc tế).

4. Trong tất cả các nước, bọn Trotskyist đều dùng những tên gọi hoa mỹ để che giấu những công việc kẻ cướp bẩn thỉu của chúng. Chẳng hạn: ở Tây Ban Nha, chúng gọi là "Đảng công nhân thống nhất mác xít" hoặc "POUM". Chắc các bạn cũng biết rằng chính bọn chúng đã tổ chức tất cả những tổ do thám ở Mađrít, ở Bácxơlon và ở các nơi khác để phục vụ cho Phrăngcô. Chính chúng đã tổ chức cái "đội quân thứ 5" nổi tiếng để giúp làm nội ứng cho các quân đội phát xít ý - Đức. ở Nhật Bản, chúng gọi là "MEL" (Đồng minh Mác, Ăngghen, Lênin). Bọn Trotskyist Nhật dụ dỗ thanh niên vào trong đồng minh, rồi tiếp đó chúng đi tố cáo họ với sở cảnh sát. Chúng còn mưu toan chui vào Đảng Cộng sản Nhật Bản cốt để phá hoại nó. Tôi cho rằng bọn Trotskyist Pháp hiện giờ cũng đang tập hợp chung quanh nhóm "Cách mạng vô sản" và nhiệm vụ của chúng là phá hoại Mặt trận nhân dân. Về việc này, chắc các bạn biết rõ hơn tôi. ở nước Trung Hoa chúng tôi, bọn Trotskyist liên kết với nhau chung quanh nhóm "Tranh đấu", nhóm "Chiến tranh chống Nhật và văn hoá" và nhóm "Cờ đỏ".

5. Bọn Trotskyist không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất.

Chắc các bạn đã đọc bản án xử bọn Trotskyist ở Liên Xô. Nếu các bạn chưa đọc thì tôi khuyên các bạn nên đọc và làm cho bạn bè mình cũng đọc nó. Đọc bản án này rất bổ ích. Nó sẽ giúp các bạn thấy rõ bộ mặt thật đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trotsky và bọn Trotskyist. ở đây, tôi xin phép các bạn chỉ trích dẫn vài đoạn trong bản án có liên quan trực tiếp đến Trung Quốc thôi.

Trước toà án, tên Trotskyist Racốpxki khai như sau: Năm 1934, khi hắn còn ở Tôkiô (với tư cách là đại diện Hội chữ thập đỏ Liên Xô), một nhân vật cao cấp trong Chính phủ Nhật đã nói với hắn:

"Chúng tôi có quyền mong đợi ở những người Trotskyist một sự thay đổi về sách lược. Tôi không cần đi sâu vào chi tiết. Chỉ cần nói rằng chúng tôi mong đợi ở họ những hành động thuận lợi cho sự can thiệp của chúng tôi vào công việc của Trung Quốc".

Racốpxki trả lời với tên Nhật: "Tôi sẽ viết thư cho Trotsky về vấn đề này". Đến tháng 12-1935, Trotsky ra chỉ thị cho những tên Trung Quốc đồng bọn của hắn, và nhắc đi nhắc lại rằng: "Đừng gây trở ngại cho cuộc xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc".

Như vậy là bọn Trotskyist Nga muốn bán cho đế quốc Nhật không chỉ những phần đất của Tổ quốc mình - Xibêri và những tỉnh ven biển - mà chúng còn muốn bán cho đế quốc Nhật cả Tổ quốc chúng tôi - nước Trung Hoa nữa!

- Thế thì bọn Trotskyist Trung Quốc đã hành động như thế nào? Rõ ràng các bạn sẽ nôn nóng, hỏi tôi như vậy.

- Nhưng, thưa các bạn thân mến, chỉ trong bức thư sau, tôi mới có thể trả lời các bạn được. Các bạn há chẳng đã dặn tôi viết những bài ngắn đó sao?

Mong sớm được gặp lại các bạn.

P.C.LIN
Báo Notre Voix, 
ngày 23-6-1939.

Putin: Marxism-Leninism là chuyện cổ tích đẹp nhưng nguy hiểm!


Putin đã nói điều này năm 1991. 11 năm sau vẫn nói như vậy. Nhưng chuyển bức tượng có lẽ là 1 thủ thuật gợi ý!

Để chế Nga rộng lớn không thể quay lại vì ai? Không phải vì Napoleon hay Ottoman, hay Đức Hitler. Nó không thể quay lại vì Lenin và CMT10. Những cái mảnh chư hầu chống Nga điên cuồng, Ukraine, 3 nước Bantic, Ba Lan, thậm chí là Phần Lan tấn công Nga ngay trước WW-2.... ra đời từ Lenin.

Một câu hỏi đơn giản, không có câu trả lời: Lenin đã làm gì có ích cho nước Nga, cho người Nga?









CUỘC CÁCH MẠNG GIỚI TÍNH VÔ SẢN VĨ ĐẠI! 18...88+

(Không dành cho trẻ em và người lớn mẫn cảm!)

Ngay sau CMT10, nhà Mác Xít vĩ đại của “giai cấp vô sản” thực hiện ngay cuộc cách mạng tình dục vĩ đại, bất chấp nội chiến.

Khẩu hiệu: Mỗi nữ đoàn viên Komsomol phải hiến dâng cho 1 nam đoàn viên Komsomol!

Nhiều ghi nhận, các buổi “sinh hoạt tập thể” đoàn viên biến thành cuộc hiếp dâm nữ đoàn viên. Ở Mát-cơ-va và Petrograd trong các năm, không những tỷ lệ nạo phá thai tăng khủng khiếp mà số lượng các vụ vứt con ngay khi đẻ cũng đáng báo động. Một ghi nhận cho thấy, ở Mát-cơ-va, trước 1917 gần như là Zero thì năm 1926 có 547 vụ hãm hiếp, năm 1927 – 726, năm 1928 – 849. Ở Novosibiks mùa thu năm 1926, người ta gần như nhặt được 1-2 đứa trẻ mới đẻ bị vứt bỏ mỗi ngày.

Phong trào CỞI TRUỒNG (Долой стыд!») hay còn gọi là “rũ bỏ xấu hổ” được phát động ở Mát năm 1924-1925, từng đoàn phụ nữ ăn mặc hở hàng cầm cờ quạt, khẩu hiệu, lôi kéo cả trẻ em diễu hành trên Quảng trường Đỏ hô vang các khẩu hiệu: Vứt bỏ xấu hổ! Vứt bỏ trinh tiết!, Vứt bỏ hôn nhân! Vứt bỏ gia đình! Người dân Mát kinh ngạc khi thấy cả đám quái thai trần truồng trèo lên xe điện hay những ”nghệ sĩ điên" tồng ngồng trên phố.

Đó là ngày 19-12-1917, sau Sắc lệnh về hòa bình và Sắc lệnh về đất đai, Nhà lãnh đạo Bolseviks ra Sắc lệnh về "Hủy bỏ hôn nhân" và "Về hôn nhân dân sự, trẻ em và áp dụng luật đăng ký tình trạng công dân", bên cạnh đó còn có Sắc lệnh "BÃI BỎ TRỪNG PHẠT ĐỒNG TÍNH" (trước nước Mỹ hơn nửa thế kỷ).

Năm 1911, Trotsky viết thư cho Lenin: "Không nghi ngờ gì, cấm đoán tình dục là phương thức chính để nô dịch con người. Cho đến khi nào vẫn còn cấm đoán như vậy, thì vẫn còn chưa có quyền tự do thực sự. Gia đình là tổ chức của bọn tư sản, đã hoàn toàn nhạo báng chính nó. Điều này cần thiết phải nói chi tiết hơn về nó cho giai cấp công nhân...”

Lenin trả lời Trotsky: "… Và không chỉ gia đình. Tất cả cấm đoán về bản năng giới tính cần phải được phá bỏ… Đó là điều chúng ta đã học được từ nữ quyền: ngay cả cấm đoán đồng giới cũng cần phải dỡ bỏ."

Nhà Mác xít Bela Kun ở Hungary áp dụng lý luận Mác xít của Antonio Gramsci in và Georg Lukac ban bố tình dục đồng tính toàn đất nước và buộc học sinh phổ thông học các kiểu làm tình qua các tranh vẽ, đồng thời với đả kích nền nếp gia đình “cổ hủ” của cha mẹ chúng.

Cuộc cách mạng tình dục bước vào cao trào với "Cởi bỏ xấu hổ!" trong sự cổ vũ cuồng nhiệt của đồng chí Trotsky, còn ông bạn thân Mác xít Karl Radek thì đích thân dẫn đầu đoàn diễu hành tồng ngồng. Người ta kể, cứ ở nhà là Karl Radek hoàn toàn trần truồng, mặc kệ con hắn và bà chị ruột sống chung 1 nhà.

Ở Simferopol có vinh hạnh được đón đồng chí nhà thơ Mác xít Mayakovsky đến “giáo dục”, chắc là hắn truyền đạt kinh nghiệm làm tình tập thể! Hắn thường xuyên mặc bộ quần áo trắng trong suốt nhìn thấu bên trong không hề có đồ lót, dải băng đỏ vắt chéo qua vai như cô hoa hậu mang dòng chữ “Cởi bỏ xấu hổ”!

https://web.facebook.com/photo.php?fbid=203379453352707&set=a.117058685318118.1073741828.100010419607107&type=3

Ở Krasnodar còn táo tợn hơn, thành phố này hoàn toàn cởi truồng. Các diễn giả trần như nhộng gào lên trước đám đông: Cởi bỏ ý nghĩ hẹp hòi đi! Vứt bỏ bọn tư sản nhỏ mọn đi! Chúng ta là Công xã viên, chúng ta không cần quần áo che vẻ đẹp cơ thể! Chúng ta là con của mặt trời và không khí!

Theo lệnh riêng của Dzerzhinsky, hàng nghìn trẻ em (trong đó có 300 em nữ) không cha mẹ trong các trại trẻ tuổi từ 12-18 bắt đầu được “giáo dục giới tính mới”, các buổi thực hành là “tham gia trải nghiệm giới tính”, trẻ nam và nữ sống chúng nhau trong 1 nhà.

Nhưng Stalin đã chặn đứng cuộc cách mạng quái thai này. Hành vi phóng đãng chính thức bị buộc tội. Một lần nữa, "gia đình là tế bào của xã hội quay trở lại", trật tự được thiết lập.

Ông nói với những người thân cận: "Kẻ nào đã trốn thoát khỏi chúng ta thì hãy chạy đi, chúng ta tạo ra tầng lớp tri thức mới của mình, và loại bỏ bọn ăn bám ra khỏi văn hóa vô sản mới.”

Năm 1934, nạo phá thai bị cấm, sex đồng giới bị trừng phạt. Cho đến Hiến pháp mới 1936, Stalin đã hoàn toàn khôi phục lại tình hình, ác mộng tồi tệ nhất trong lịch sử nước Nga kết thúc.

Nhưng xã hội Nga đã vĩnh viễn thay đổi. Gái Nga thuộc loại dễ dãi nhất thế giới, tỷ lệ ly hôn cao nhất thế giới, đại hội nude thế giới lúc nào cũng đông Nga lợn nhất.




Rõ ràng, “giải phóng phụ nữ”, “tự do hôn nhân” chỉ là bình phong. Tự do tình dục là công cụ làm suy yếu chế độ hôn nhân dựa trên luân lý tính dục, làm tăng mạnh số lượng phá thai, đẩy các cô gái làm điếm và các căn bệnh tình dục. Nó hoàn toàn không giải phóng phụ nữ mà biến họ thành nô lệ.

Điển hình 1 vụ xét đoàn viên Komsomol phạm tội hiếp dâm, người ta choáng váng khi nghe hắn nói (báo Komsomolskaya Pravda ngày 18 tháng 12 1926): “Phụ nữ không phải đàn ông, chỉ là giống cái. Mọi phụ nữ đều là giống cái, họ có thể làm điều họ thích. Cuộc đời họ chỉ giá trị không hơn là tiếp nhận giao hợp.”

Cách mạng tình dục “vô sản” của Lê Nin đã làm băng hoại đạo đức xã hội Nga, tiêu diệt hôn nhân và gia đình truyền thống - nền tảng truyền thống văn hóa lâu đời trong xã hội Nga.

Cùng 1 cách như thế, các nhà lãnh đạo Mác xít Antonio Gramsci, Georg Lukac và thuyết phụ nữ tự do đã rất thành công ở Đức và cuộc cách mạng tự do tình dục ở phương tây thập kỷ 60 với xuất phát từ cái gọi là Cultural Marxism hay trường Frankfurt từ thập kỷ 1920. Hay phòng trào nữ cởi truồng FEMINIST hiện nay ở Ukraine – là cùng 1 chủ!

Những điều này chẳng có gì mới, nó đã được đưa lên nhiều kênh TV Nga. Chỉ có điều khối kẻ sợ hãi coi như không hề có.

Xem: Suy đồi tình dục ở Cộng hòa Weimar – Đức 18+ 

NÓI CHUYỆN VỚI SINH VIÊN VÀ CÁN BỘ VIỆT NAM ĐANG HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC Ở MÁTXCƠVA

Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô là một Đại hội có ý nghĩa vĩ đại: Đại hội của những người xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đại hội có ý nghĩa to lớn không những đối với Liên Xô mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phe xã hội chủ nghĩa, đối với nhân dân lao động thế giới. Các cô, các chú, các cháu đã theo dõi công việc của Đại hội, Bác không cần nói nhiều, Bác chỉ nói một điều là trong cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô có một đoạn nói đại ý rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa cộng sản phải có những con người cộng sản chủ nghĩa, nghĩa là phải có những người có đạo đức cộng sản. Nước ta cũng áp dụng đúng tinh thần như thế: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đạo đức xã hội chủ nghĩa không phải ở đâu cũng biểu hiện giống nhau. Ở nước ta, đạo đức xã hội chủ nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà. Mọi người thi đua học tập theo cách xã hội chủ nghĩa, lao động theo xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa. Các cô, các chú, các cháu ở đây thì thi đua học tập để về nước phục vụ việc xây dựng nước nhà.

Nói ngày 29-10-1961.
Theo tường thuật của
báo Nhân dân, số 2781,
ngày 2-11-1961.

Ai là kẻ thù hung bạo nhất của người Nga?

Đây là thống kê từ tư liệu lưu trữ Nga; Nó quá khủng khiếp, thậm chí là trong lịch sử nhân loại toàn cầu.

Tội lỗi Stalin?

1937, Stalin thực sự nắm quyền; 
1922 - 1936 thư ký cho các vương quyền Zionist; 
1917 - 1922, vai trò mờ nhạt;

1917 - 1921, các nạn nhân của làn sóng khủng bố đỏ lần 1 (còn gọi là đại thanh trừng, cộng sản thời chiến, bắn và tịch thu…), chỉ tính ở thành phố vì nông thôn không thống kê được từ 1917-21 (nhưng là nhiều triệu), các nạn nhân bao gồm:
- Trí thức, giáo sư, nhà văn, giới nghệ thuật: 460 000 người; 
- Giáo viên, sinh viên: 470 000 người; 
- Cảnh sát, mật vụ Sa hoàng: 440 000 người; 
- Quan chức, kỹ sư, nhà buôn, quí tộc, chủ nhà máy: 480 000 người; 
- Giáo sĩ Chính thống giáo (không giáo sĩ Do Thái nào chết): 390 000 người; 
- Công nhân, tầng lớp khác: 1.5 tr người; 

1921 - 1930, các nạn nhân khủng bố đỏ thứ 2: 

Thành phố: 2 tr người; 
Nông thôn: 16 tr người (1921-22, chủ yếu là bị chết đói chết bệnh vì tịch thu nông sản);
Nông thôn: 11.75 tr người, trong các năm 1925-33, vì bị tổ chức tước quyền sở hữu ruộng đất;
Nông thôn: 17 tr người chủ yếu trong các năm 1930-33 vì bị tịch thu phương tiện sản xuất, tội “phá hoại nông trang tập thể”, (4,5 tr chống đối bị đi đày Gulag).

1933 - 1937, khủng bố đỏ thứ 3:
Nông thôn: phá hủy làng mạc, làng quê vì chống đối và dịch tả: 2,6 tr người;
Nạn đói 1932-33 ảnh hưởng 30% dân số.

Ai là kẻ thù hung bạo nhất của người Nga? Là Hitler làm 25 triệu dân Nga chết trong WW-2! 

Không, là Lenin và băng đảng Mác xít!


Chính sách giáo dục của các nhà Mác xít tại Frankfurt School

Chính sách giáo dục của các nhà Mác xít tại Frankfurt School gồm 12 điểm, cậu T. L đối chiếu nó với những gì đang xảy ra ở phương tây và thậm chí ở Việt Nam để thấy nhé! Ngày nay, Frankfurt School không còn là 1 trường học thí nghiệm, nó là chiến lược chia để trị, ngu và bần cùng hóa để cai trị.

1. Tạo ra sự xúc phạm chủng tộc và ghét bỏ luật lệ.

2. Liên tục thay đổi (VD: cải cách giáo dục) để tạo ra rối loạn.

3. Tuyên truyền thủ dâm trong trường học (VD: giáo dục giới tính ngày nay), kết hợp với đồng tính trẻ em và làm suy đồi bằng cách đưa khiêu dâm vào lớp học.

4. Hạ thấp một cách hệ thống quyền dạy trẻ em của cha mẹ và giáo viên.

5. Nhập cư ồ ạt để phá hoại đặc trưng dân tộc và kích hoạt chiến tranh sắc tộc trong tương lai.

6. Quảng bá dược chất và đồ uống gây nghiện.

7. Cổ xúy một cách hệ thống lệch lạc tình dục trong xã hội.

8. Làm mất uy tín của hệ thống luật pháp bằng cách thiên vị cho tội phạm (VD: biện hộ cho tội phạm như đám “luật sư” và lều báo VN hiện nay).

9. Chất gánh nặng vào phúc lợi xã hội.

10. Kiểm soát và ngu hóa truyền thông.

11. Khuyến khích ly hôn, phá vỡ gia đình.

12. Tấn công đồng loạt vào Ki-tô giáo (VD: tố cáo giáo sĩ ấu dâm…)

“DÂN CHÚNG, KHÔNG CÓ Ý THỨC DÂN TỘC, LÀ CÁI CHUỒNG PHÂN, NƠI NẢY NÒI RA THỨ DÂN KHÁC” - P. A. STOLYPIN

“DÂN CHÚNG, KHÔNG CÓ Ý THỨC DÂN TỘC, LÀ CÁI CHUỒNG PHÂN, NƠI NẢY NÒI RA THỨ DÂN KHÁC” - P. A. STOLYPIN

Pyotr Stolypin chủ tịch HĐ bộ trưởng Nga-Sa Hoàng (thủ tướng) là người rất thông minh và tiến bộ, ông trao ruộng đất cho 3 triệu nông dân Nga, nhiều hơn Lê nin hay bất cứ Bolsheviks nào khác 1 cách tuyệt đối – Lê Nin mặc dù liên tục hứa hẹn, đã không trao bất cứ 1 tấc đất nào cho nông dân.

Ông bị ám sát đúng vào 1-9-1911 hay còn gọi là vụ đánh bom WTC 911 theo ngôn ngữ thời nay! Tuy nhiên, vụ ám sát trong nhà hát này giống vụ sát hại Lincoln hơn.

Kẻ ám sát Stolypin không ai khác là mấy tên Do Thái do gã Bogrov cầm đầu, cũng như ám sát Sa Hoàng do anh trai Lenin và đồng bọn tổ chức, ám sát Lenin do cô ả Do Thái Fanya Kaplan... toàn 1 sắc tộc này nhưng xưng là đảng "dân chủ-xã hội” – tiền thân Bolseviks. Con gái ông, bị Bolshevik bắt sau CMT10, chúng giam cầm, tra tấn và hãm hiếp đến chết chỉ vì là con gái Stolypin.

“Dân chúng, không có ý thức dân tộc, là cái chuồng phân, nơi nảy nòi ra thứ dân khác” - P. A. Stolypin

Vấn đề là ở chỗ Stolypin nói câu nổi tiếng này, tự nhiên đúng với Bolsheviks không những chưa bao giờ coi nước Nga là tổ quốc mà còn khiếm khuyết nặng nề về đạo đức.

Nói thế để thấy chính ông HCM mới là người sáng suốt như thế nào: Lý tưởng CS + tinh thần dân tộc. Thiếu 1 trong hai tất bại!

ĐỌC “TRÁI TIM CHÓ” CỦA MIKHAIL BULGAKOV



"Trái tim chó" - cuốn tiểu thuyết viết năm 1925 của Mikhail Bulgakov. Nó là tác phẩm hiện thực phê phán mang dáng vẻ giả tưởng. Mượn chuyện giả tưởng để châm biếm và phế phán sâu cay xã hội lộn sòng thời Lenin cầm quyền sau 1917, với những kẻ khoác áo CS nhưng mang trái tim của loài cầm thú.

Dĩ nhiên, sách của Bulgakov bị cấm xuất bản cho đến mãi sau này, khi ông đã chết.

Nội dung câu chuyện kể về 1 ông bác sĩ nổi tiếng, GS Philip Philipovich Preobrazhensky đã thành công trong phẫu thuật, một thí nghiệm chưa từng có, cấy ghép và biến 1 con chó hoang tên là Sharik thành người. Kết quả vượt quá sự mong đợi – nó dần dần bắt đầu có hình dạng con người và mang cái tên người Sarikov, chỉ duy nhất còn trái tim là của loài chó!

Sharikov vẫn nhớ thời nó phải làm 1 con chó, lang thang kiếm ăn và bị người ta đánh đập. Giờ nó muốn đòi lại sự “công bằng”, trả món nợ áp bức bất công trước đây. Nó bắt đầu chống lại loài người với tất cả những gì xấu xa nhất, đểu giả nhất và vô lương nhất trong tim 1 con chó. Từ săn đuổi 1 con mèo, gây gổ với nhà bên, nhậu nhẹt, gẹo gái, trộm cắp, dối trá và lừa đảo cho đến giết người.

Chó-người Saricov có thể gọi chính xác là 1 hình mẫu giai cấp vô sản lưu manh. Khi luồn lách để được làm “Trưởng ban làm sạch thành phố”, nó lặp đi lặp lại những quan điểm chính trị giai cấp vô sản ấu trĩ như 1 con vẹt và hành xử như một tên du côn. Với quyền lực trong tay, Saricov quay ra trừng trị đồng loại của nó và của cả kẻ đã cho nó làm người, khi nhận ra khả năng kiếm được những lợi cho mình từ sự phản bội và phá hoại.

Hối hận vì đã biến 1 con chó thành người, vị giáo sư đáng kính Preobrazhensky muốn sửa chữa sai lầm… nhưng đã muộn.

Mikhail Afanasyevich Bulgacov sinh năm 1891 và mất năm 1940, là một nhà văn lớn nhất của nền văn học Nga thế kỷ 20. Ông cũng thuộc vào số ít các nhà văn Nga được đưa vào bách khoa toàn thư. Đoàn Tử Huyến – dịch giả giới thiệu “Trái tim chó” đến Việt Nam và ba bộ tiểu thuyết lớn của ông – gọi Bulgacov là “nhà văn lớn nhất và ly kỳ nhất nước Nga”.

Karl Marx và Friedrich Engels có phủ nhận Đạo đức hay không?

"Коммунисты вообще не проповедуют никакой морали... Они не предъявляют людям морального требования: любите друг друга, не будь­те эгоистами и т. д.; они, наоборот, отлично знают, что как эгоизм, так и самоотверженность есть при определенных обстоятельствах необ­ходимая форма самоутверждения индивидов."

К.Маркс и Ф.Энгельс

Nguồn: Sách của Angel viết về Mác có tên là "Mác thần thánh"
và Mác toàn tập (có thể đã bị lược bỏ trong bản tiếng Anh, tiếng Việt) nhưng còn trong toàn tập tiếng Nga, tập 3, trang 236.

"Мораль - это "бессилие в действии". Всякий раз, как только она вступает в борьбу с каким-либо пороком, она терпит поражение."

К.Маркс

Nguồn: Có ở nhiều nguồn, một nguồn trong số đố là sách sưu tầm các châm ngôn của các vĩ nhân, tác giả Eremishin xuất bản năm 2006.

Thời Thổ Tả tạm dịch:

"Những người Cộng sản nhìn chung không cổ xúy bất cứ đạo đức nào... Họ không đòi hỏi mọi người phải có những đạo đức như: yêu thương lẫn nhau, không được làm kẻ ích kỷ và tương tự; họ, trái lại biết rõ, cả tính ích kỷ, cũng như tính hy sinh trong những hoàn cảnh nhất định là hình thức cá nhân tự khẳng định cần thiết".

K. Marx and F. Engels

"Đạo đức - là sự “yếu đuối trong hành động”. Mỗi khi, ngay lúc nó (đạo đức) can dự vào cuộc đấu tranh với thói hư tật xấu nào đó, nó chờ đợi thất bại".

K. Marx

Câu trả lời, xin nhường lại cho bạn đọc.

NƠI VŨ TRỤ BẮT ĐẦU - TT. THÍCH CHÂN QUANG

NƠI VŨ TRỤ BẮT ĐẦU - TT. THÍCH CHÂN QUANG


Vũ trụ bắt đầu từ đâu?

Các nhà khoa học cho rằng vũ trụ đã bắt đầu từ một vụ nổ. Tại sao có khẳng định này? Bởi vì mắt các vị đã thấy như vậy. Những nhà thiên văn đã quan sát thấy các thiên hà rời xa nhau dần dần và họ kết luận: Như vậy ngày xưa nó đã ở gần nhau tại một điểm. Hay, phải có một vụ nổ nào đó làm cho các thiên hà, những vật chất trong vũ trụ vốn dĩ gần nhau bỗng nhiên rời nhau, xa dần.

Tuy nhiên, mắt thấy sao thì kết luận vậy - đó là sự kết luận khá vội vã và không có sức thuyết phục, không phải là cái nhìn của khoa học. Như thuở xưa, khi thấy mặt trời mọc hướng đông, lặn hướng tây, con người ta liền cho rằng mặt trời quay quanh trái đất. Thế nhưng ngày nay khoa học đã chứng minh được trái đất tự quay quanh chính mình. Vậy, nếu tin vào điều mà mắt mình trông thấy, chưa chắc chúng ta đã có một kết luận chính xác. Việc thấy các thiên hà rời ra xa nhau rồi bèn suy ngược là ngày xưa tất cả chúng đều ở cùng một chỗ rồi nổ tung ra, đó là cái nhìn nông cạn.

Năm 2011, ba nhà Khoa học đoạt giải Nobel Vật lý là Saul Perlmutter, Brian P. Schmidt và Adam G. Riess đã có một phát hiện đáng kinh ngạc: Vũ trụ đang giãn nở, nhưng với tốc độ ngày càng nhanh. Nhân đó, chúng tôi đã viết một bài báo về sự hình thành của vũ trụ. Chúng tôi nói rằng: Các thiên thể, thiên hà rời xa nhau càng lúc càng nhanh nghĩa là trước đây nó rời nhau với tốc độ chậm hơn. Nếu ta quay ngược lại 100 năm trước thì vận tốc đó chậm hơn bây giờ. Và nếu lui lại 1 triệu năm trước thì vận tốc chậm hơn nữa. 1 tỷ năm trước thì sao? Rất chậm. Và nếu 14 tỷ năm trước thì sao? Có khi tất cả đang đứng yên. Sau đó, chúng mới khởi động một cuộc rời xa nhau. 

Như vậy vũ trụ này có bắt đầu bằng một vụ nổ Big Bang được không? Chắc chắn không. Bởi nếu có vụ nổ như thế thì các thiên thể, thiên hà phải chuyển động với vận tốc cực kì nhanh ngay từ lúc bắt đầu vụ nổ. Trong khi đó, nghiên cứu đoạt giải Nobel Vật lý 2011 đã chứng minh được rằng các thiên thể, thiên hà đang rời xa nhau - nhưng với tốc độ dần nhanh lên. Vậy ngày xưa chúng đã phải di chuyển rất chậm rồi từ từ mới tăng tốc độ lên để rời nhau nhanh dần như thế.

Như vậy, khởi đầu, 14 tỷ năm trước – không có vụ nổ nào xảy ra, điều này chứng minh rằng Vũ trụ đã không bắt đầu bằng vụ nổ Big Bang

Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là VŨ TRỤ ĐÃ XUẤT HIỆN NHƯ THẾ NÀO?

Vũ trụ xuất hiện bằng cách hoàn toàn khác hẳn, đó là cái cách mà ngày hôm nay ta nói với nhau. Hôm nay chúng ta sẽ nói về lý thuyết: Tại sao có sự xuất hiện của vũ trụ.

Vũ trụ đã bắt đầu từ sự hư vô.

Trong vũ trụ này có những vùng trống không. Không trọng lượng, không lực hấp dẫn,... không có gì hết - tuy nhiên, thật sự không bao giờ là “không có gì hết”. Nơi vùng mà chúng gọi là trống không đó có vô số Trường: Trường ánh sáng, trường điện từ, trường hấp dẫn đi xuyên qua; những lực kéo, lực đẩy của các thiên hà đánh vào, hay chỗ mà ta tưởng là hư vô không có gì - sự thật có đầy các dạng năng lượng ngấm ngầm tại đấy.

Hãy ví dụ về khoảng không xung quanh chúng ta ngay bây giờ. Đó có phải là “không” hoàn toàn không? Ai cũng biết rằng, vẫn đang có không khí, đang có lực hấp dẫn, lực kéo trái đất, lực hút lên của mặt trăng, lực hút lên của mặt trời; vô số sóng vô tuyến, vô số những bức xạ vô hình của vũ trụ qua lại. Do đó cái mà ta đang nghĩ là “không có gì”, sự thật nó vẫn đang “có” rất nhiều thứ, rất nhiều dạng nặng lượng của những loại trường khác nhau. 

Và trong số những trường đó, Khoa học ngày nay vẫn chưa đặt chân đến một trường bí mật: Nghiệp của chúng sinh trong vũ trụ. Hãy nhớ rằng, LUẬT NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO vẫn là một loại trường tác động vào vũ trụ này.

Luật nhân quả là gì? Khi nghĩ đến Nhân quả, chúng ta vẫn thường chú ý đến các tác động, ảnh hưởng của nó vào số phận của mỗi cá thể. Tuy nhiên, luật nhân quả chi li, rộng lớn và tuyệt đối hơn thế rất nhiều. Đó là một trường có sự chi phối vào tâm hồn, vào môi trường tâm lý con người, các hiện tượng xã hội, chi phối ngay cả môi trường vật chất bao quanh con người.

Thế nên trong khoảng hư vô của vũ trụ đó luôn có nhiều loại trường đan xen và quyện với nhau. Đến khi nhân duyên đã phù hợp và hội tụ đủ, những dạng năng lượng đó sẽ va chạm rồi xoắn lại với nhau, thành các hạt cơ bản đầu tiên. 

Trong số các hạt này, có hai hạt thường trực là proton và electron. Nếu chỉ có 1 proton được thành lập, nó sẽ bay đi mất, trôi dạt vào vũ trụ. Nhưng nếu bên cạnh sự va chạm của các trường còn có sự tác động của Nghiệp lực chúng sinh thì nó quấn lại, quấn lại - chúng tôi dùng chữ “quấn lại” để chỉ trạng thái khi nặng lượng xoắn lại thành sóng, thành một hạt. Do đó, “hạt” này không thật sự là hạt mà chỉ là sóng mà thôi. Sóng tan ra thì thành năng lượng, sóng xoắn lại thì thành hạt. 

Để dễ hình dung, ta hãy nghĩ đến một cơn lốc xoáy. Lốc xoáy chỉ là một luồng không khí xoáy tròn, xoắn lại với nhau. Khi luồng không khí tan ra thì chúng ta không thấy gì về sự hiện diện của lốc xoáy, nhưng nếu nó xoắn lại thì lốc xoáy đã tồn tại, có hiện diện; đi đến đâu nó làm cây cối, nhà cửa nghiêng ngả, bay mất đến đó. 

Cũng vậy, những năng lượng vô hình đang tràn ngập trong vũ trụ giống như không có gì, nhưng nếu chúng va chạm rồi xoắn lại với nhau thì những hạt cực nhỏ mà mắt ta không nhìn thấy bắt đầu được hình thành. 

Những hạt đầu tiên là proton và electron; nhưng tại sao nó xoắn lại thành proton và xoắn lại thành electron? Đó là những phương trình toán học cực kì cao cấp mà hôm nay ta nói không đến nổi, ta chỉ đề cập đến ngang đoạn này thôi.  

Tiếp đến, khi các trường xoắn lại thành một hạt proton và một hạt electron thì ta có nguyên tử, nguyên tố gì? Hydro. Như vậy Hydro là nguyên tố đầu tiên xuất hiện trong vũ trụ này. Từ hư vô không có gì, bởi sự va đập, sự xoắn lại của các trường, trong đó có một trường là Nghiệp của vô số chúng sinh, ta đã được nguyên tử đơn giản đầu tiên là Hydro. 

Trong một giây, khắp vũ trụ này, ở những khoảng không (dường như tuyệt đối không) - xuất hiện tỷ tỷ hạt nguyên tử Hydro đầu tiên. Và chúng kết lại thành những đám mây Hydro trôi bồng bềnh trong vũ trụ mà các nhà thiên văn quan sát được. Những đám mây Hydro này dần dần được bổ sung thêm những nguyên tử Hydro mới và kích cỡ của chúng trở nên lớn khủng khiếp, đến nỗi có những đám mây mà ánh sáng phải mất khoảng 3 triệu năm mới xuyên qua được từ đầu đến cuối.

Những đám mây Hydro này đã có những lúc bất ngờ bị va đập bởi một tinh cầu. Sức hút của tinh cầu, cộng với trọng lượng quá lớn của đám mây đã làm cho lực hấp dẫn dồn ép các nguyên tử khí lại với nhau. Chính các nguyên tử khí bị dồn ép này đã thúc đẩy phản ứng nhiệt hạch xảy ra, tạo thành những quả cầu lửa bừng cháy trong vũ trụ mà ta gọi là những ngôi sao. Cho nên ngôi sao ban đầu chỉ là Hydro, các nguyên tử Hydro tự ép lại với nhau mà bừng cháy. 

Các nguyên tử Hydro tác động với nhau tạo ra khí Heli, sản xuất ra năng lượng của ngôi sao. Tuy nhiên trọng lượng của khí Heli nặng hơn so với Hydro nên nó nằm ở giữa, vị trí trung tâm của ngôi sao. Khi phản ứng nhiệt hạch với nhau, chúng tạo ra nhiều năng lượng hơn và hình thành một nguyên tố mới: Carbon, một nguyên tố cơ bản cho bất kì sự sống nào. Quá trình này lặp lại hết lần này đến lần khác. Ngôi sao được tạo thành từ các lớp giống như một củ hành, càng vào sâu bên trong càng có các nguyên tố nặng như Neon, Oxi... và cuối cùng là kim loại.

Kim loại không tạo ra năng lượng khi bị nóng chảy. Do vậy lửa bắt đầu tắt. Ngày càng nhiều kim loại tích tụ lại trong lõi của ngôi sao cho đến khi tất cả những nguồn nhiên liệu còn lại cháy hết. 

Như vậy, khi bùng cháy với áp lực dồn nén khủng khiếp, nhiều proton đã bị ép lại với nhau và ngẫu nhiên tạo thành những nguyên tố nặng hơn. Cho nên trái đất của chúng ta thuở xa xưa chính là một ngôi sao đã nguội. Khi cháy hết, ngôi sao đã để lại các nguyên tố nặng: Đất đá, kim loại, kim cương... 

Hôm nay ta đề cập đến một lý thuyết mới về vũ trụ. Lý thuyết này có thể không được công nhận vào thời đại ngày nay, nhưng hậu thế 100 năm sau, 300 năm sau sẽ thấy lý thuyết này là đúng Cái “không có gì hết” - sự thật, đó là nơi vũ trụ đã bắt đầu.

Trở lại thiên đường - Phần 2: Duy vật và vô thần


Tiểu thuyết Trở lại thiên đường của tác giả Việt Quang - cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, chắt nội cụ đồ Hồ Sĩ Tạo.

Bằng câu chuyện tình yêu đầy minh triết, tác giả đã làm một cuộc cách mạng long trời lở đất về giáo lý đạo Ki-tô (Gia-tô), giúp chúng ta có được góc nhìn toàn diện về Ki-tô giáo, về Chúa Jesus, về khái niệm "Thượng Đế".

Sự phân chia và đặt tên các phần do Thời Thổ Tả, để tiện cho việc đăng tải và chia sẻ đến mọi người.

Phần 2 - Duy vật và vô thần thể hiện sự bất mãn và căm phẫn của một thanh niên duy vật và vô thần đối với tín điều "Thượng Đế tạo ra tất cả".

Phải chăng Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng là "Bảo Giang thiên tử xuất" trong Sấm Trạng Trình?


Theo nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì  4 câu gần cuối của Sấm Ký Trạng Trình ứng với năm 2011 là câu này:
  
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
   
1) Lý giải sự kiện quan trọng
  
Sự kiện quan trọng có liên quan đến vận mệnh đất nước sẽ xảy ra vào thời gian ở câu đầu:

- Phân  phân tùng bách khởi 

"Phân phân"  phân có nghĩa là chia (phân số phân chia phân phối..). phân phân là chia ra giữa chia nhiều ra từng phần ở giữa 

"Tùng bách khởi". Năm 1010 là năm Canh dần năm 2011 là năm Tân Mão ngũ hành nạp âm của hai năm này đều là Tùng Bách Mộc là loại Mộc của cây tùng cây bách chính vượng ở phương Đông (Dần- Mão). "Phân phân tùng bách.." có nghĩa là giai đoạn xảy ra chính giữa hai năm mang ngũ hành nạp âm Tùng Bách Mộc. Như vậy ý của cả câu là sự việc quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước xảy ra (khởi) vào giai đoạn giữa hai năm 2010 và 1011. Sự kiện này chính là Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ 11.
  
- Nhiễu nhiễu xuất đông chinh

Nhiễu nhiễu là sự rắc rối loạn xạ vạch ra ngang dọc trái phải lung tung (nhiễu loạn quấy nhiễu...)
  
Đông là phương Đông tượng mặt trời mọc tượng của thiên Hỏa

"Nhiễu nhiễu xuất đông" Thiên Hỏa nhiễu loạn vạch ra ngang dọc loạn xạ đó chính là ảnh tượng của lửa  sấm sét. Lửa sấm sét còn gọi là Tích Lịch Hỏa. 

Toàn câu "nhiễu nhiễu xuất đông chinh" có nghĩa là là Tích Lịch Hỏa xuất chinh tranh đấu nghênh chiến. 

Ý nói các "anh tài hào kiệt" có dính dáng đến Tích Lịch Hỏa là những người có ảnh hưởng quyền lực trong bộ máy chính quyền sẽ ra tranh cử vị trí  lãnh đạo cao nhất để lèo lái vận mệnh quốc gia.

Cũng có nghĩa là rất nhiều người có mạng Tích Lịch Hỏa sẽ ra tranh cử một cách rất rầm rộ. Đó chính là những người sinh nhằm vào 2 năm 1948 và 1949.

Giao thời giữa hai năm Mộc (Tùng Bách Mộc = 2019-2011) chính là thời của những người có mạng Hỏa. Vì theo qui luật tương sinh thì Mộc sinh cho Hỏa vì vậy Hỏa được thế Vượng Phát và Phò trợ (Vượng-Tướng trong "vượng tướng hưu tù tuyệt" ). Cũng chính vì vậy mà những người sinh năm 1948 và 1949 rất đắc cách và kể cả những người có mạng hỏa vào sinh nhằm năm 1956- 1957 (Sơn Hạ Hỏa). 

Xét trong mấy trăm vị  Ủy Viên Trung Ương Đảng khoá 11 thì có hết hơn 1/3 gần 1/2 là người mạng Hỏa trong đó Ủy Viên Bộ Chính Trị có gần 2/3 là người mạng Hỏa. Kinh thật!!!!
  
Đặc biệt những Ứng Cử nặng ký nhất chức vụ Tổng Bí Thư đều là mạng Tích Lịch Hỏa và đều sinh năm 1949 hết. Ví dụ:
   
Đ/C Trương Tấn Sang sinh tháng 1 năm 1949
Đ/C Nguyễn Tấn Dũng  sinh tháng 11 năm 1949
Đ/C Phùng Quang Thanh sinh năm 1949
Đ/C Lê Hồng Anh sinh năm 1949
Đ/C Lê Thanh Hải sinh đầu năm 1950 nhưng vẫn còn tuổi Kỷ Sửu
Đ/C Phạm Quang Nghị sinh năm 1949

Những Đồng chí trên đều ứng với câu sấm Tích Lịch Hỏa xuất chinh của năm 2011 là "Nhiễu nhiễu xuất đông chinh".

 (Như vậy Thủ tuớng chính phủ Thường trực ban bí thư - Chủ tịch nước tương lai Bộ trưởng bộ Quốc phòng Bộ trưởng bộ Công an Bí thư thành ủy Hà nội Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh...là những chức vị hàng đầu có ảnh hưởng đến vận mệnh Quốc gia đều sinh năm 1949 và có mạng là Tích Lịch Hỏa. Không tin vào vận số không thể được..hì hì...)

Công bố bài báo ca ngợi chúa Jesus của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trên báo Nhân Dân

MỪNG NGÀY CHÚA GIÁNG SINH (1953) 

– C. B. (bút danh của Bác Hồ)


Cách đây 1953 năm, một người bình dân ra đời, tên là Giê-su.

Xét theo Kinh Thánh, thì mẹ Người là một cố nông, bị địa chủ bóc lột, ức hiếp… Bà phải ở cữ trong một cái chuồng bò, lạnh lùng, hiu quạnh.

Từ bé đến lớn, Người không có tiền của, ruộng nương, chỉ lao động mà sống.

Suốt đời, Người ra sức chống bọn phong kiến, địa chủ, tư sản mại bản.

Suốt đời, Người ra sức bênh vực dân nghèo, đứng hẳn về phía giai cấp lao động.

Suốt đời, Người ra sức tuyên truyền: yêu Tổ Quốc, yêu chính nghĩa, yêu loài người.

Không may, trong 12 cán bộ tin cậy của Người đã lọt vào tên Giu-đa. Hắn đã tham mấy đồng xu mà bán Người cho bọn phản động; cũng như bọn Giu-đa ngày nay, đội lốt tôn giáo mà phản Chúa, phản quốc, làm tay sai cho đế quốc thực dân.

Chúa Giê-su đã hy sinh, bị đóng đinh trên giá chữ thập. Song những lời Người dạy về yêu nước, bình đẳng, bác ái… thì soi sáng muôn đời. Còn loài Giu-đa cũ và mới, thì đều bị nhân dân nguyền rửa, bêu xấu muôn đời.

Đồng bào ta, lương cũng như giáo, đoàn kết kháng chiến, ủng hộ chính sách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, tức là làm đúng lời dạy của Chúa Giê-su, tức là thật thà tôn kính Chúa Giê-su. Nhân ngày kỷ niệm Chúa giáng sinh, chúng ta hoan hô đạo đức ái quốc, bình đẳng, bác ái của Chúa; và thành tâm chúc đồng bào Công Giáo nhiều phúc lành.

C. B.

Báo Nhân dân, số 155, từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 12 năm 1953.

Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 8, xuất bản lần thứ ba, trang 375.

Buổi nói chuyện: Biển Đông dậy sóng - Thượng Toạ Thích Chân Quang




Vừa qua, ngày 01/07/2011, tại khoá tu Thiền của chùa Từ Tân, TT.Thích Chân Quang – Trụ trì Thiền Tôn Phật Quang đã có bài Pháp thoại mang tính thời sự với chủ đề BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG với sự tham dự của gần 2000 Phật tử. Tinh thần bài Pháp nhằm un đúc tinh thần yêu nước đồng thời nhắc nhở, chia sẽ, gợi ý cho mọi người, không ai được chủ quan lơ là trong việc chuẩn bị tư tưởng và năng lực để đối phó với những hành động bành trướng bá quyền đang diễn ra như hiện nay của Trung Quốc.  
  
Tuy rằng, TT.Thích Chân Quang là một nhà Sư Phật giáo, nhưng những kiến giải Phật pháp đem đạo vào đời từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội thì lại vô cùng sâu sắc, tạo được sự đồng cảm đối với những ai đã vài lần nghe qua những bài Pháp thoại mà Thượng toạ đã thuyết. Điều này cho thấy, các nhà tu hành chẳng những không bi quan yếm thế hay trốn đời mà họ rất yêu thương cuộc đời bằng những hành động dấn thân, hy sinh với tinh thần hướng thượng. Người đã đưa ý thức sống vượt lên tầm cao thời đại, xây dựng một nền tảng văn hóa tâm linh cho dân tộc, khẳng định tinh thần giải thoát, vị tha và nhập thế của đạo Phật trước mọi dòng thời gian.

Thật vậy, liên tiếp trong thời gian qua, chúng ta nghe nhiều tin không vui là người Trung Quốc anh em với ta, bỗng nhiên tuyên bố rằng toàn bộ biển Đông này là của họ, rồi thường xuyên xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để đánh bắt cá. Chẳng những vậy họ còn bắt giữ ngư dân, phá tàu của Việt Nam, tịch thu hải sản và đòi tiền chuộc đối với ngư dân trên vùng biển đánh bắt của họ (quần đảo Hoàng Sa). Trước hành động ngang ngược của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam phải lên tiếng phản đối và nhiều người dân Việt Nam, nhất là thanh niên đã đổ ra đường biểu tình. Còn dư luận quốc tế thì ủng hộ Việt Nam.

Trước tình hình đó, Thượng toạ đặt vấn đề “Chúng ta đứng trên quan điểm của đạo Phật, ta vừa là một công dân Việt Nam, vừa là một người Phật tử thì nên hiểu vấn đề này như thế nào? nên có thái độ ra sao”? thì hôm nay với đề tài BIỂN ĐÔNG DẬY SỐNG sẽ gợi mở cho chúng ta nhiều khái niệm dựa trên quan điểm của đạo Phật.

Mở đầu bài Pháp thoại, đi ngược lại lịch sử bốn nghìn năm trước, Thượng toạ dẫn chứng câu chuyện Vua Đế Minh (vua Đế Minh là vua của Trung Hoa), cho thấy Trung Quốc và Việt Nam có mối quan hệ anh em không chối cãi được. Lúc đó vua Đế Minh có nhiều người con. Con trưởng của ông là Đế nghi và người con thứ là Kinh Dương Vương hay còn gọi là Lập Tục. Theo truyền thống, Đế Nghi đương nhiên sẽ là Vua nước Trung Hoa, nhưng ông ngạc nhiên khi thấy người con thứ mới vĩ đại hơn.

Người con thứ này cực kỳ đạo đức, cực kỳ thông minh, đức độ siêu việt, ai nhìn cũng thương và ông nghĩ rằng người con thứ hai này mới thực sự là Vua chứ không phải người con trưởng. Thế là ông quyết định bỏ người con trưởng không lập thái tử nữa mà đưa Kinh Dương Vương lên làm Vua nước Trung Hoa.

Tuy nhiên, với bản chất hiền lành, nhân hậu, Kinh Dương Vương biết rằng quyết định của Vua cha sẽ làm anh mình buồn và lòng ông cũng không tham vọng uy quyền, cho nên một mực khước từ “Xin Vua cha cứ để anh con làm Vua như cũ, còn con phận làm em, con cũng hỗ trợ anh mình hết lòng, không có gì trở ngại”. Trước lời nói quá khẩn khoản tha thiết của Kinh Dương Vương thì Vua Đế Minh quyết định cắt đôi đất nước Trung Hoa, phân nửa phương Bắc từ hồ Động Đình giao cho người anh là Đế Nghi, còn hồ Động Đình xuống về phương nam cho tới Việt Nam hiện nay là giao cho Kinh Dương Vương. Mặc dù kính trọng anh nhưng không dám cãi lời cha, Kinh Dương Vương đành chấp nhận làm Vua phân nửa nước Trung Hoa từ hồ Động Đình xuống về biên giới ải Nam Quan. Tuy nhiên thái độ của Kinh Dương Vương lúc nào cũng nhường nhịn, cũng xem mình là phần em, xem mình như một Chư hầu, mặc dù trong tâm của Vua cha, thực sự coi trọng Kinh Dương Vương hơn cả Đế Nghi.

Đến khi Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân thì người con này cũng nhiễm tinh thần nhường nhịn đó của cha nên không coi trọng vương quốc giang sang và uy quyền. Thế là Lạc Long Quân nhân lúc đất nước được thanh bình nhàn hạ, ông vượt khỏi Trung Quốc về Việt Nam. Ông phiêu bạt lần lần về vùng Bắc Ninh thì gặp một người nữ chúa, đó là Âu Cơ. Không ngờ khi đến đây, phải duyên chồng vợ, họ kết thành phu thê và theo truyền thống mẫu hệ của nhà vợ, Lạc Long Quân phải ở rễ. Lúc đó, ở phía Bắc họ thấy phương Nam trống, quyền lực không ai cai quản, nên họ chiếm lần lần lấy hết giang sang.

Người anh lấy hoài mà mấy nghìn năm qua vẫn chưa thỏa mãn, cứ thòm thèm, vì sao vậy? Xét về mặt tâm thức của Tổ tiên truyền đời thì tâm thức của Kinh Dương Vương là nhường nhịn, truyền tới người Việt Nam ta đến bây giờ. Còn tâm thức của vua Đế Nghi thì ông buồn bực còn truyền mãi đến nay. Nói về nguồn gốc thì đúng là anh em. Trung Quốc là anh, Việt Nam là em. Mà theo đạo lý của Á đông “Em phải kính trọng anh”. Từ xưa đến nay (cả mấy ngàn năm qua), người Việt Nam luôn có thái độ kính trọng người Trung Quốc đàng hoàng, không bao giờ mất cái lễ này, không bao giờ mất cái đạo lý của người em, tức là về phần người em mình đã làm đầy đủ bổn phận là luôn kính trọng người anh. Chỉ có một lần mà Lý Thường Kiệt hơi hỗn, sau khi nghe tin ông anh sắp đánh mình, ông đem quân đánh trước, diệt hết tất cả những hậu cứ làm bàn đạp đánh sang Việt Nam như thành Châu U, Châu Ly, Châu Âm. Còn lại thì đa số ta đều bày tỏ lòng kính trọng với Trung Quốc.

Tuy nhiên, theo đạo lý Á đông, anh đối với em thì sao? Phải yêu thương đùm bọc chứ không có chuyện ỷ làm anh mà ăn hiếp em. Nhưng mà ông anh Trung Quốc đã mấy nghìn năm qua, luôn làm sai bổn phận của người anh. Hôm nay ta chính thức nhắc ông anh “Anh đã làm sai bổn phận quá nhiều trong đạo lý của Á Đông, em lúc nào cũng kính trọng anh nhưng mà anh toàn ăn hiếp em mãi”. Nên nói về đạo lý, ta không hổ thẹn vì ta đã làm đầy đủ bổn phận mình, nhưng mà ông anh Trung Quốc yêu cầu xem lại, coi chừng sống trái với di huấn của tổ tiên từ đời vua Đế Minh.

Đây là giữa Việt Nam với Trung Quốc thôi mới có chuyện anh em, còn nếu theo Luật pháp Quốc tế thì các quốc gia đều bình đẳng với nhau hết. Cho dù anh chỉ là một đảo quốc nhỏ như Singapore hoặc anh to như hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Còn trong thương mại và trong trao đổi gì đó, có sự thương lượng đôi bên đều có lợi thì đó là một chuyện khác.

Tuy nhiên, nói vậy chứ trong cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vừa qua để dành độc lập thống nhất thì Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Điều này ta không phủ nhận, thậm chí ta sẽ không có cuộc chiến Điện Biên Phủ oai hùng nếu không có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Lúc đó các khí tài (lương thực, quần áo, vũ khí, đạn dược) đều là của Trung Quốc, thậm chí Trung Quốc còn đưa qua nhiều cố vấn về quân sự. Giúp thì giúp nhưng cái máu buồn bực từ đời vua Đế Nghi truyền xuống chưa hết. Cho nên Tổng bí thư Lê Duẩn đã báo cáo với Bộ Chính Trị trong một lần ông sang Trung Quốc, ông gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông lúc đó ngồi bên cạnh Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông mới nói với Tổng bí thư Lê Duẩn rằng “Đất nước của tôi có năm trăm triệu dân mà không đủ đất để sống, tôi sẽ mang đại quân xuống chiếm hết Đông Nam Á”. Đặng Tiểu Bình ngồi một bên gật đầu nói “Đúng như vậy vì người Trung Quốc không đủ đất sống”.

Tổng bí thư Lê Duẩn cười cười, không nói gì. Sau đó Mao Trạch Đông mới hỏi tiếp “Nước anh đời nhà Tống, anh đã đánh tôi phải không?” - “Dạ có”. Rồi “Đời nhà Minh có đánh không?” - “Có”, “Đời nhà Thanh cũng đánh luôn phải không?” - “Có”. Vậy “Bây giờ các anh có đánh chúng tôi không?”. Tổng bí thư Lê Duẩn nói “Cũng đánh luôn nếu cần”.

Và sự thực ở biên giới phía Bắc ta đã đánh nhau nhiều lần. Sau này giữa Việt Nam với Lào, có những cái hiệp ước hợp tác cho nên Lào với Việt Nam như là một khối với nhau không tách rời được. Thực ra Việt – Miên – Lào không thể tách rời, bất cứ ba nước này mà tách ra là ta bị nước khác ăn hiếp liền. Đặc biệt nước Lào thì cũng lại là anh em với ta, cùng nguồn gốc của mẹ Âu Cơ, nên người Lào rất giống người Việt Nam. Trung Quốc cũng hỏi Bí thư Lê Duẩn “Đất nước Lào có bao nhiêu dân”? Lê Duẩn trả lời “Khoảng hai triệu dân”. Mao Trạch Đông nói “Nước rộng quá mà có bao nhiêu đó, chúng tôi sẽ xuống đó ở”. Thế là rất nhiều lần người Trung quốc đã đưa người và đưa quân về Lào nhưng vì Lào trong hiệp ước hợp tác yêu cầu Việt Nam bảo vệ, nên ta đánh bật hết tất cả những lần Trung Quốc xâm nhập vào Lào. Đó là nói chuyện ân nghĩa đời xưa (đạo lý), trong thời cận đại, Trung Quốc đã giúp ta rất nhiều.

Bây giờ nói về chính trị. Nếu mà định nghĩa theo chữ nghĩa thì chính trị là gì đó như chính sách, chính quyền, chính phủ, v.v… nhưng mà nói về bản chất của chính trị thì thủ đoạn, hơn thua, giành giật lừa gạt, mưu mô, thậm chí làm điều bỉ ổi nhất nếu cần, miễn dành được quyền lợi cho mình, hoặc cho đất nước, bất chấp tất cả là vậy. Tuy nhiên nhân quả là nhân quả, đạo lý là đạo lý. Luật nhân quả lúc nào cũng dành cho những anh hùng quân tử, cho sự công bằng chính đáng. Thượng toạ minh chứng về cuộc đời và sự nghiệp của các vị vua đời nhà Trần, đặc biệt là Trần Hưng Đạo. Một con người không đi theo con đường chính trị thủ đoạn mà đi theo con đường nhân nghĩa, quân tử, anh hùng. Chính vì vậy đất nước ta đời đời tôn thờ bậc Thánh Trần Hưng Đạo. Cho nên nói luật nhân quả vẫn công bằng, vẫn dành vị trí xứng đáng đó cho người tốt là vậy. Đến nỗi trong đạo Phật, chúng ta có Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã đắc đạo vậy mà trong dân tộc, ta vẫn xếp hai người đó dưới Trần Hưng Đạo vì cái nhân nghĩa, cái quân tử, cái anh hùng này.

Phải chăng, chính những người nắm quyền lực cao nhất phải là người giữ giềng mối đạo đức, đạo lý cho dân tộc, cho loài người. Đừng dại khờ khi ta nắm quyền lực cao nhất lại là một người thủ đoạn thì sau này sẽ bị trả giá, lịch sử sẽ phán xét công tội đâu đó rõ ràng. Mà quan trọng là người dân thờ một vị lãnh tụ của họ, anh hùng của họ trên hai phương diện là công lao với Tổ quốc và phẩm chất đạo đức của cá nhân người đó. Vì vậy, những người làm chính trị, quyền lực càng cao thì phải cư xử như một bậc Thánh, đó là yêu cầu. Yêu cầu của đạo lý không thể nào là khác hơn được. Dù chính trị là thủ đoạn nhưng mà tình nghĩa vẫn là ngọn hải đăng soi rọi cuộc sống này, làm cho mọi người ấm lòng, tin cậy và làm cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ví dụ bây giờ, khi người dân họ nhìn lên những người lãnh đạo cao cấp nhất như Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Thủ tướng, v.v… thì họ mong mỏi gì ở những người đó? Họ mong rằng những người đó là thật lòng vì dân vì nước, có tài có công lo cho nước mà phẩm chất đạo đức cá nhân là sáng ngời. Mà chính cái phẩm chất đạo đức cá nhân sáng ngời đó mới làm cho lòng người yên, dân tin và một lòng theo Nhà nước. Người lính có thể đổ xương đổ máu, người dân đứng lên có thể sẵn sàng chiến đấu chết vì màu cờ Tổ quốc, hy sinh cho đất nước này, bởi vì người ta tin được Lãnh tụ của mình là những người tài đức. Dù yêu nước cách mấy nhưng nếu họ nghi ngờ tư cách của người Lãnh tụ thì không dám hy sinh, vì sợ sự hy sinh của họ là vô nghĩa.

Mặc dù mọi người vẫn phê bình chính trị là thủ đoạn, là ác nhưng trên bình diện của Luật Nhân Quả, trong đạo lý thì cái đạo đức, cái tình nghĩa luôn luôn là chỗ nương tựa của mọi người. Thì bây giờ cũng vậy, trong cái tình nghĩa đối với người Trung Quốc, người Việt Nam ta đã chọn lối sống là tình nghĩa đạo đức chứ ta không chọn lối sống thủ đoạn, mà ta đã bày tỏ sự kính trọng đối với người anh của mình đúng mức trong nhiều nghìn năm qua, thậm chí ta còn nhường luôn cả một nửa đất nước Trung Hoa đó cho người anh của mình, nếu nói về lễ, ta không còn gì phải phân vân.

Hiện nay, mỗi khi báo chỉ đăng tin là bên Trung Quốc bị sập hầm mõ làm bao nhiêu người công nhân phải chết, ta nghe vẫn đau lòng giống như người dân Việt Nam mình gặp nạn, rồi ta nghe bão tố lụt lội gây khốn đốn khổ sở cho người Trung Quốc thì người Việt Nam ta vẫn bày tỏ một sự cảm thông chia sẻ như là đứt một khúc ruột của mình, v.v… Đó là cái tình cảm chia sẻ, đồng thời ta cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với văn hóa của Trung Quốc.

Thật sự trên thế giới này, cái nền văn minh văn hóa Trung Quốc hết sức là vĩ đại, đến nỗi bây giờ các bộ phim Hollywood đều ghi lại “dấu ấn của Trung Hoa”, nội cái võ thuật thôi là cả thế giới bắt đầu học theo. Rồi đạo Nho, là đạo của Khổng Tử truyền dạy thì nhiều nghìn năm nay, người Việt Nam cũng xem đó là khuôn vàng thước ngọc. Thế là cả một thời gian rất dài, người Việt Nam chấp nhận cái văn hóa của Trung Quốc là đúng và học một cách hết sức trân trọng. Người xưa mà thấy có tờ giấy viết chữ Nho là không dám quăng bậy, phải dùng đi nếu không thì đốt, vì họ chắc chắn rằng trên đó viết những lời của Thánh hiền.

Mà những lời Thánh hiền cũng là Trung Quốc, cho nên văn hóa văn minh của Trung Quốc so với Việt Nam lớn hơn rất nhiều và đôi khi ta nói Trung Quốc như là thầy của Việt Nam. Những bộ kinh của Khổng Tử để lại vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho đến ngày hôm nay, nhiều khi người ta chê Khổng Tử phong kiến, nhưng bây giờ xem lại thì những đạo lý đó không ai có thể bắt bẻ được. Rồi những nhà Nho của Việt Nam tuân thủ những đạo lý của Khổng Tử thành xương thành máu của mình nên ta đối với người anh Trung Quốc hết sức là kính trọng, kính trọng cả văn hóa của họ.

Còn nói đến những công trình kiến trúc thì họ cũng lớn gấp trăm gấp ngàn lần Việt Nam. Ví dụ như Vạn Lý Trường Thành, Cung điện của Vua, Lăng tẩm, những đền những chùa, nhiều thắng cảnh nguy nga tráng lệ, v.v… Và trong đạo Phật có nói sáu vị Tổ của Thiền Tông, Lục Tổ cuối cùng là Lục Tổ Huệ Năng được người Trung Quốc tôn thờ, trong khi Ngài chính là người Việt Nam. Đây là thái độ cởi mở của họ.

Ngoài ra Thượng toạ còn nêu lên sự vĩ đại của Vua Càn Long trong cách đối nhân xử thế. Nếu ta có một anh hùng áo vải Quang Trung cực kỳ vĩ đại thì lúc đó bên Trung Hoa cũng có một ông Vua Càn Long rất tuyệt vời (Ông uyên bác cả về Phật học, cái học của ông cũng rất là giỏi). Ta nghĩ đời đời thế hệ lãnh đạo người Trung Quốc phải học, đó là tinh thần hào hiệp của một người anh yêu thương bảo bọc người em, đúng với đạo lý của Á Đông.

Ngoài một vài vị Vua như vậy, còn đa phần các vị Vua Trung Quốc lại có khuynh hướng tiềm tàng là cứ thích xâm chiếm mở rộng bờ cõi của mình, như khi năm 49 là chiếm mất Tây Tạng. Vừa rồi Trung Quốc dùng tiền để mua chính quyền, mua quốc hội, mua luôn cả một lãnh thổ mấy trăm ngàn cây số vuông của Pakistan giáp với Trung Quốc, Đài Loan thì nằm trong tầm ngắm, nhưng mà vẽ một bản đồ chiếm hết Biển Đông của các nước Đông Nam Á.

Đây là cái bệnh của Trung Quốc, bệnh này cần chữa trị, nếu không nó tổn hại cho người Trung Quốc rất nhiều, vì khi anh xô láng giềng ra xa tức là anh kéo kẻ thù lại gần. Bởi vậy dân gian có câu “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Nếu Trung Quốc gây hấn với láng giềng, ăn hiếp một vài nước Đông Nam Á thì buộc họ phải kiên kết với các nước khác để về chặn đứng Trung Quốc. Anh Trung Quốc hiểu điều này nên tìm cách vuốt ve Mỹ, yêu cầu Mỹ đừng xen vào Biển Đông nhưng có được không? Do Đó, khi ta đối xử tệ với láng giềng thì tự nhiên tạo thành vòng vây của kẻ thù chung quanh mình, điều này bất lợi cho Trung Quốc, vì gây mất uy tín trên cộng đồng thế giới.

Sau này người Trung Quốc đi đến đâu sẽ bị nghi kỵ, tự nhiên sẽ mất rất nhiều hợp đồng kinh tế khác đối với thế giới vì không ai tin nữa.

Chúng ta thấy, cả một vũ trụ mênh mông này chưa ai khám phá, mà muốn thám hiểm được vũ trụ thì cả loài người phải chung sức chứ một hai quốc gia làm không nổi. Nếu cả loài người không đoàn kết chung sức mà lo đánh nhau thì nó làm hao tổn tài nguyên của nhân loại, bởi vì lấy tài nguyên đó để làm vũ khí. Ví dụ, ta đem tất cả vũ khí của các nước trên thế giới như Nga, Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Canada, Anh, Pháp tính ra hết thì ứng với số tiền đó ta đủ để xây dựng cả trái đất này thành thiên đường, cực lạc, tuyệt đối không còn người đói nghèo, đất nước nào cũng đủ ăn đủ mặc, con người ta sống thịnh vượng, ấm no hạnh phúc.

Vì vậy người nào gây hấn tạo thành chiến tranh thì đó là người kích động những sự hao tổn tài nguyên của nhân loại, quả báo nước đó sẽ rơi vào nghèo khổ, sẽ bị những cơn khủng hoảng làm cho kinh tế suy sụp hẳn. Nhưng mà chưa đợi sau này, ngay bây giờ mưa lũ đang kéo đến tàn phá Trung Quốc liên tiếp trong thời gian gần đây. Cái đập Tam Điệp là niềm tự hào của Trung Quốc bây giờ trở thành cơn ác mộng, nó là hiểm hoạ đối với con người và môi trường. Rồi việc sập hầm mỏ cũng không ngừng xãy ra, đồng thời sự kiện hàng loạt dưa hấu nổ làm người dân rơi vào cảnh “Dở khóc, dở cười”, v.v...
.
Thế giới đã tới lúc chung tay góp sức lại, làm những điều tốt đẹp cho văn minh loài người, chứ không phải là gây hấn đánh nhau để làm hao tổn tài nguyên của nhân loại. Cho nên việc ta cư xử theo đạo lý, đạo đức, trước mắt thấy thì không có lợi nhưng phần thưởng về sau sẽ rất lớn. Nếu Trung Quốc đối xử với tấm lòng như Vua Càn Long ngày xưa thì không cần phải xâm chiếm nước nào, tự động người ta xin qui đồng với mình vì người ta biết về với Trung Quốc người ta được hạnh phúc, ngược lại, nếu anh hành xử côn đồ thì chung quanh anh đầy kẻ thù và người ta sẵn sàng chiến đấu liền.

Vì vậy người Trung Quốc phải xem lại, muốn cộng đồng thế giới kính trọng hay khinh ghét mình? nếu muốn cộng đồng thế giới kính trọng thì người Trung Quốc phải chữa cái bệnh “Khoái giật đất thiên hạ”. Trung Quốc tự nhiên vẽ bản đồ, vạch đường lưỡi bò lấy hết toàn bộ Biển Đông các nước Đông Nam Á. Hành động này không phải là anh đang sử dụng luật quốc tế mà là luật của cướp biển. Không gì tốt đẹp hơn, anh hãy thực hiện đạo lý mà chính mình đã dạy cho thế giới là sống như một người quân tử, tức là nhường nhịn, yêu thương, độ lượng, nhân nghĩa. Vì cái đạo lý đẹp đó lại từ Trung Quốc mà ra.

Lâu nay, Việt Nam ta có ba vùng chiến công:

1/  Trên bộ: biết bao nhiêu nghìn năm qua đánh nhau với giặc ở trên bộ ta đều thắng.

2/  Trên sông: sông Bạch Đằng chôn vùi không biết bao nhiêu quân thù.

3/ Trên không: ta đánh rơi tất cả những máy bay của kẻ thù.

 Nhưng ta chưa có chiến công trên biển. Ta xin báo với Trung Quốc và Thế giới, lần này Việt Nam sẵn sàng lập chiến công trên biển dù đeo đuổi cuộc chiến này hai mươi năm. Bây giờ người Trung Quốc đã nói rằng họ sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự trên Biển Đông, khi mà họ tuyên bố như vậy thì Việt Nam ta cũng phải sẵn sàng, vì ông anh ông ép mình mà.

Để bắt đầu bước vào chiến tranh, sẵn sàng chiến đấu thì ta phải làm sao? Thượng toạ chỉ ra công thức chiến tranh, kỹ thuật quân sự theo nhãn quan của đạo Phật:

- Trước hết, tất cả người Việt Nam ta phải củng cố lòng yêu nước, chẳng tiếc hy sinh vì Tổ quốc mình, phải xác định lập trường này trước trong từng con người của ta ở mọi lứa tuổi. Có 3 khẩu hiệu mà chùa Phật Quang đã dạy cho các em thanh thiếu niên tham gia khóa sinh hoạt hè (2011) phải hô to sau mỗi lần tập luyện thể lực. Khi người huynh trưởng dõng dạc hỏi:  “Tu nghĩa là gì?”, mấy em hô lên “Diệt trừ  bản ngã”. Câu hỏi thứ hai “sống nghĩa là gì”, các em trả lời “Phụng sự mọi người”. Câu hỏi thứ ba “Khi Tổ quốc bị xâm phạm thì sao”, các em đồng trả lời “Cả nước đứng lên”. Đây là những câu trả lời rất đúng với Phật pháp và rất chuẩn. Nhưng đó không phải là chuyện chỉ riêng của các em, tất cả chúng ta cũng đều phải biết và nằm lòng ba khẩu hiệu này.

- Bước thứ hai là cố gắng làm phước. Trong một cuộc chiến tranh nước nào có phước nước đó thắng chưa nói đến chính nghĩa hoặc phi nghĩa. Cái chính nghĩa bắt đầu làm cho người ta tăng cái phước lên rồi mới thắng sau, nhớ như vậy. Tất cả mọi người phải lo nỗ lực làm phước gấp năm gấp mười lần trước đây. Khi cái phước của mọi người lớn lên rồi cũng chính là phước chung của toàn dân tộc. Đừng xem thường việc này, coi chừng đó chính là yếu tố quyết định cho việc thắng thua trong cuộc chiến.

- Bước thứ ba, từng người phải rèn luyện cơ thể, rèn luyện thể lực hết sức vất vả, vì có những lúc khó khăn thì người nào đã rèn luyện người đó mới vượt qua được. Ví dụ trong một cuộc chiến bom nổ đạn bay, không có lương thực để sống trong vài ngày, với người không có rèn luyện thể lực sẽ không chịu nổi nhưng người có tập luyện họ chịu đựng được 3 ngày đói khát, chờ tiếp tế để sống và chiến đấu tiếp.

- Bước thứ tư, chúng ta phải biết làm giàu hơn nữa, tức là đẩy mạnh kinh tế kỹ thuật Việt Nam lên một bước cao hơn nữa. Bằng cách làm hết trách nhiệm của mình, để làm sao từng người giàu lên thì cả nước mới giàu và như thế mới đánh nhau được.

- Bước thứ năm, là học sinh phải học giỏi hơn nữa, nhất là giỏi những kỹ thuật số về vi tính (phải biết lập trình, phải biết chống lại Hacker, v.v…), vì trong những trận chiến sắp tới, cái phương tiện khí tài nó lệ thuộc vào các thiết bị kỹ thuật số rất nhiều.

- Bước thứ sáu, khi chiến tranh xãy ra, mỗi người chúng ta sẽ đứng đằng sau để ủng hộ chiến sĩ chiến đấu bằng những gì mình có được (tài vật, rèn luyện thể lực, làm phước, làm giàu, học tập). Cả nước phải vào trận thì ta mới chiến thắng chứ không phải là chỉ ỷ vào quân đội. Trong lịch sử của ta, chỉ có một lần ỷ vào quân đội ta chiến thắng, đó là Vua Quang Trung đánh quân Thanh, không cần tới dân, tức là Ngài tuyển quân xong, luyện quân trong hai ngày, dắt ra Bắc đánh thắng liền, trên thế giới chưa có người thứ hai anh hùng vĩ đại như vậy. Còn hầu hết như đời quân Nguyên đánh nhà Trần thì cả nước phải vào trận.

Và trong cuộc chiến tranh lần này cũng vậy, CẢ NƯỚC PHẢI VÀO TRẬN nhưng không phải cả nước ai cũng cầm súng đi đánh, ai đánh thì đánh nhưng người không đánh thì đứng đằng sau ủng hộ, tiếp sức kế thừa, nuôi quân thăm hỏi, động viên an ủi mọi thứ để cho những người chiến sĩ của ta yên lòng mà chiến đấu, dù cuộc chiến sẽ kéo dài tới đâu. Mặc dù ở hậu phương nhưng tình thần ta lúc nào cũng như một người chiến sĩ ngoài trận tuyến.

- Bước thứ bảy là ta đứng sau lưng Nhà nước đoàn kết một lòng trên dưới. Không thể có chiến thắng nếu người dân không tuân phục, không ủng hộ Nhà nước. Thượng tọa đặt câu hỏi “Lịch sử thế giới từ xưa đến nay có một nhà nước nào, có một chính quyền nào hoàn hảo tuyệt đối 100% không? Nhưng để gọi là một Nhà nước chính nghĩa nếu nhà nước đó trên 60% là tốt, chứ còn nói đúng hoàn toàn thì tuyệt đối không bao giờ có từ xưa tới nay. Nhà nước nói tốt có những nhà nước tốt 10% còn 90% là bóc lột.  Còn nói tốt lắm thì được 70% tốt, 30% tham nhũng. Tất cả các nước trên thế giới kể cả nước văn minh nhất đều như vậy.

Việt Nam ta thì sao? Cũng bị tham nhũng và tham nhũng khá nhiều, làm mất tiềm lực quốc gia, đôi khi làm mất niềm tin của quần chúng nữa. Tuy nhiên, Nhà nước này vẫn là Nhà nước chính nghĩa đại diện cho dân tộc Việt Nam, không có Nhà nước nào khác. Vì sao vậy, vì ta điểm lại trong thời gian gần đây nhất, bất cứ Nhà nước nào cũng phải làm tay sai cho một nước khác, chịu sự chỉ đạo của một nước khác, chỉ có Nhà nước Việt Nam đứng độc lập một mình không sợ ai, dám đánh với bất cứ ai ăn hiếp mình, dù có nhận viện trợ, đây là một điều rất lạ.

Khi các Nhà Sử Học thế giới nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, họ thấy trong chiến tranh, ông Hồ Chí Minh cũng nhận viện trợ của Liên Xô nhưng mà không lệ thuộc Liên Xô, ông nhận viện trợ Trung Quốc nhưng không hề lệ thuộc Trung Quốc, sẵn sàng đánh nhau với Trung Quốc. Nên đây là một Nhà nước độc lập nhất từ xưa tới giờ. Việt Nam làm bạn với các nước, giúp đỡ các nước, nhận sự giúp đỡ các nước nhưng luôn luôn độc lập. Và nếu họ độc lập, họ không chịu sự chỉ đạo của ai thì họ dành quyền lợi cho dân của mình, mặc dù có thể cấp dưới có vi phạm, có tham nhũng. Điều đó làm ta buồn, ta đau lòng khi có những con người biến chất đó (lòng tư riêng quá lớn mà vơ vét, tham nhũng, hối lộ). Hôm nay ta lên án những Cán bộ tham nhũng đã làm mất tiềm lực quốc gia, mất niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.

Ta mong rằng, hễ ai làm Cán bộ quan chức phải sống cho thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Vì đó là chủ trương của Nhà nước, Nhà nước nào cũng muốn Cán bộ lo cho dân cho nước, chứ không ai muốn Cán bộ mình tham nhũng.

Thử hỏi, khi chiến tranh xãy ra, anh còn sống, anh còn tham nhũng được không? Nước mất thì nhà tan, tài sản anh gom góp được sẽ không còn. Vì vậy đừng tham nhũng mà làm mất đi tiềm lực quốc gia, trái lại phải chung tay góp sức để cùng nhau đánh thắng giặc. Đó là lời mà ta nói với những người quan chức tham nhũng, chứ còn trên tổng quát theo đa số Nhà nước ta hiện nay vẫn là chính nghĩa, thật lòng lo cho dân lo cho nước, giữ được độc lập Quốc gia không bị lệ thuộc nước nào, thậm chí còn vươn tay ra giúp đỡ hai nước láng giềng là Lào và Campuchia. Vì ba nước này là một khối, không thể nào tách ra được. Nước nào tách ra là bị ăn hiếp liền.

Và Việt Nam là đàn anh nhưng Việt Nam cư xử rất quân tử, không bao giờ Việt Nam ăn hiếp Lào và Campuchia, mặc dù phải hết sức thuyết phục hai nước đó hợp tác với Việt Nam vì lợi ích chung của ba nước. Cho nên Việt Nam rất có thái độ quân tử từ xưa nay. Nếu có người hỏi quân tử gì mà diệt luôn nước Chiêm Thành chiếm mất của người ta thì chúng ta trả lời rằng, Việt Nam phải chiếm Chiêm Thành, đó là trách nhiệm không thể làm khác được, vì sao? Vì Chiêm Thành có một tục lệ man rợ, Vua chết thì chôn theo hết những vợ hoặc cung tần.

Rồi mấy ông quan, mấy ông nhà giàu cũng bắt chước theo. Đó là tục lệ giết người, đất nước đó không thể tồn tại được. Giống như Maya ở Nam Mỹ, đất nước này cũng rất văn minh nhưng lại có tục lệ rất là man rợ, mỗi khi mất mùa người ta thường nói là do thần linh giận, cho nên họ bắt người đem về, đưa lên đài tế lễ, cắt cổ lấy máu tưới xuống đất. Như vậy họ nói là làm vừa lòng thần linh để thần linh cho mùa màng được tươi tốt. Chính vì tục lệ man rợ đó mà dân tộc Maya diệt chủng luôn.

Ta nhớ là khi có những cái tục lệ man rợ liên quan đến hành động giết người thì đất nước đó phải biến mất, đó là nhân quả. Cho nên, việc mà cha ông ta đã chiếm hết Chiêm Thành, đó là sự công bằng của Luật Nhân Quả, không thể để một quốc gia có tục lệ man rợ đó tồn tại trên trái đất này. Vì vậy cha ông ta chiếm Chiêm Thành là một công lao chứ không phải là tội lỗi. Ngày hôm nay, khi ta dạy con cháu, ta phải nhắc điều này, đó là một chiến công và cùng là một công lao. Cũng giống như năm 1979, ta đem quân qua giải phóng Campuchia, đánh tan Polpot thì đó cũng là một công lao, công đức lớn của dân tộc ta. Nếu ta không đem quân qua kịp, Polpot giết sạch Campuchia không còn sót người nào.

Ta đã giúp họ giữ gìn được chủng tộc của Campuchia, đó là công đức rất lớn của dân tộc ta, cho nên chính những công lao đó mà Nhà nước Việt Nam hôm nay, thực sự là một Nhà nước chính nghĩa của Việt Nam.

Tiếp theo, Thượng tọa kể câu chuyện Bác Hồ thành lập ngày 27/07 (Ngày thương binh liệt sĩ) tại cái Đền mà ngày nay có tên là Đền 27/07 ở Thái Nguyên. Bên cạnh ngôi đền có nhà thờ Phật rất nghiêm trang, mà nhà thờ Phật này có trước cả trăm năm.

Như vậy ý Bác Hồ muốn là phải đưa hương linh các anh hùng liệt sĩ về nương tựa với Phật. Khi giải mã được thâm ý Bác Hồ, Thượng tọa mạnh dạn kiến nghị lên TW Nhà nước “Từ đây bất cứ nơi nào có nghĩa trang liệt sĩ, Nhà nước phải xây thêm nhà thờ Phật để cho anh em liệt sĩ được về nương tựa với tâm linh của đạo Phật”.

Rõ ràng Bác Hồ là người cực kỳ yêu quý đạo Phật vì bố Bác Hồ (Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc) là người có công chấn hưng đạo Phật Việt Nam. Vì vậy Nhà nước ta tuy nói là Nhà nước Cộng sản nhưng thật sự có nguồn gốc tâm linh của đạo Phật. Do đó, ta không còn có con đường nào để chọn lựa, ta chỉ có một đất nước này để yêu thương, một Nhà nước này để ủng hộ và một Phật Pháp này để phát triển.

Vì sao nói Đạo Pháp đồng hành cùng Dân tộc? Vì trong thẩm sâu tâm linh Nhà nước này theo đạo Phật, ủng hộ đạo Phật. Vì vậy trong cuộc chiến tranh sắp tới, ta ủng hộ chiến sĩ cũng phải ủng hộ Nhà nước, tức là làm cho Nhà nước tốt hơn nữa. Chính dân đã đưa những người con ưu tú ra làm Cán bộ -Quan chức lãnh đạo Nhà nước thì khi họ hư dân phải dạy. Tuy nhiên lâu nay thấy Cán bộ tham nhũng dân chì biết chê chứ không mạnh dạn dạy.

Dạy cán bộ cho tốt hơn đó là nhiệm vụ của dân. Chính sự góp ý của dân làm cho chính quyền tốt lên từng ngày. Mà chính quyền tốt lên từng ngày, nhân dân tin tưởng, ta mới đoàn kết trên dưới một lòng chuẩn bị đi vào chiến tranh. Nếu trên dưới không một lòng ta sẽ thua trong trận chiến sắp tới.

Tóm lại, nhà nước phải thật lòng lo cho dân, kiểm điểm những cán bộ sai của mình và người dân phải giúp cho nhà nước tốt lên từng ngày. Đó là sự tương quan giữa nhà nước và dân là như vậy.

Sau nữa, ta phải tu tập vô ngã. Đạo lý vô ngã của nhà Phật rất quan trọng trong chiến tranh. Khi ứng dụng vô ngã trong tu tập thì ta đi đến giải thoát. Còn khi ứng dụng tu tập vô ngã trong đời sống thì ta tạo thành vô số công đức. Và khi ứng dụng vô ngã trong chiến tranh ta sẽ chiến thắng được kẻ thù, vì người vô ngã là người dám quên mình, có thể yêu thương được cả thế giới này, chứ không còn trong phạm vi đất nước của mình nữa, đồng thời phải yêu thương kẻ thù dù ta đánh tan họ. Đó là thái độ của người chính nhân quân tử.

Thái độ này là Trung Hoa dạy ta và ta ứng dụng thái độ đó để đối xử lại với họ. Ta sẽ chiến thắng họ, sẽ đánh tan họ nhưng vẫn yêu thương họ. Đây là đạo lý vô ngã. Vì vậy từng người phải tu tập lại đạo lý vô ngã cho thật kỷ để dám hy sinh, dám quên mình và dám yêu thương kể cả kẻ thù của mình. Mỗi ngày ta phải quỳ trước Phật nguyện diệt trừ bản ngã.

Ta nhớ lời Bác Hồ “Khi trong hòa bình thì lúc nào cũng sẵn sàng như trong chiến tranh nhưng khi bước vào chiến tranh thì ung dung như đang trong hòa bình”, đây là bản lĩnh mà Bác Hồ dạy lính của mình. Cũng vậy, hiện tại chiến tranh chưa xảy ra, nhưng ta chuẫn bị sẵn sàng như đang chiến tranh nhưng nếu ngày nào chiến tranh xãy ra thì ta không sợ hãi, rất bình tĩnh để đối phó.

Mặc khác ông bà dạy ta “Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”, tức là cả nước đều vào trận nếu phải đánh.

Hiện nay hàng Trung Quốc tràn ngập ở Việt Nam vì giá rẻ. Bình thường ta mua hàng Trung Quốc không có vấn đề gì, ta mua hàng của họ cũng là ủng hộ anh em mình thôi nhưng bây giờ khi cầm hàng Trung Quốc ta phải suy nghĩ “Hôm nay Trung Quốc đã gây hấn ta tới đâu rồi, nếu mua một món này là ta giúp cho anh em Trung Quốc có thêm một viên đạn, một khẩu súng để bắn vào nhân dân ta. Vậy sao không mua hàng của Việt Nam để chiến sĩ ta có thêm một viên đạn, một khẩu súng. Điều này cho thấy, chưa cần chiến đấu chỉ mua hàng thôi là ta chuẩn bị chiến tranh được rồi".

Ta quở trách những ai ăn chơi lêu lỏng, phí phạm. Bây giờ phải chuẩn bị mọi thứ để cả nước bước vào cuộc chiến. Hễ bước vào chiến tranh rồi thì cả nước là cha là mẹ của nhau. Lúc này ai mà phí phạm một đồng, một hạt gạo, một giọt nước là ta được quyền nhắc nhở, phê bình. Cả nước phải đồng lòng tập trung sức mạnh để chiến đấu, bằng cách sống có kỷ cương như quân đội. Và ta dồn sức để rèn luyện, lao động, học tập, tu hành cùng cả nước chiến đấu.

Đặc biệt là yếu tố tu hành. Ta đánh giặc không phải chỉ có vũ khí mà Thần Thánh cùng đánh với ta. Khi đất nước ta có một nền tâm linh mạnh mẽ thì Thần Thánh cùng vào trận với ta. Vì vậy ta phải xây dựng cho dân tộc mình một nền tâm linh mạnh mẽ.  Đó là, trong cả nước mỗi người đều biết tu hành (lễ Phật, ngồi thiền, làm phước) thì ta chiêu cảm được sự gia hộ của Thần Thánh, để khi vào trận không chỉ có những chiến sĩ mà Thần Thánh cùng ta đánh giặc. 

Bây giờ nên xây dựng tình đoàn kết cả nước lại để chuẩn bị chiến đấu, vì vậy ta nghiêm khắc quở trách bất cứ những ai làm mất đoàn kết trong đất nước này. Một lời nói chê bai, chỉ trích, gây hiềm khích đều tiếp tay cho giặc. Khi đất nước đang vào cuộc chiến mà ta làm lạc lòng người, làm mọi người lung lay, không còn sức mạnh để chiến đấu là có tội lớn với Tổ quốc.

Lúc này ta chỉ được nói những lời yêu thương, đem đến sự hòa thuận. Tránh trường hợp con người nói xấu nhau, đạo này chê đạo kia, dân tộc này chê dân tộc kia, nhất là chê Nhà nước. Tinh thần này mọi người phải nghiêm khắc thực hành, ai nói những lời gây chia rẽ, ta phải quở trách và nói rằng anh vừa tiếp tay cho giặc ngoại xâm.

Cuối cùng ta nói với thế giới rằng người Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng sẵn sàng chiến tranh. Người Việt Nam ta kính trọng Trung Quốc nhưng sẵn sàng đối phó và Việt Nam không bao giờ ăn hiếp nước nhỏ hơn mình. Ta sống xử sự với tư cách của một người anh, người quân tử.

Đồng hành với dân tộc Việt Nam này là Phật giáo, thăng trầm theo từng bước khổ, vui của dân tộc. Cho nên ta tinh tấn tu hành, cầu nguyện và giáo dục lẫn nhau, để mọi người nâng cao nhân cách, tinh thần mình lên mà xây dựng, bảo vệ đất nước. Ta gửi một thông điệp đến tất cả Tôn giáo bạn cũng phải giống như đạo Phật vậy. Hãy quên đi nguồn gốc từ đâu đến mà nhớ rằng dù đạo nào anh cũng là người Việt Nam, cùng cái khổ, cái vui với dân tộc này. Nên đặt tình yêu dân tộc cao hơn tình cảm tôn giáo của ta. Khi đất nước bị ngoại xâm, nếu ai không đủ lòng yêu nước, không đủ lòng hy sinh thì người đó có tội lớn. Và cái tội đó nó không phân biệt anh thuộc tôn giáo nào.

Thời Pháp thoại kết thúc bằng những tiếng vỗ tay vang rền, biểu hiện sự đồng cảm của thính chúng trước những lập luận rõ ràng, mạnh mẽ, dứt khoát của một nhà sư có tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền lửa tinh thần này cho mọi người, nhất là lớp trẻ thanh thiếu niên.

Tâm Trụ.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...