Dân chủ hóa, NGO và các cuộc cách mạng màu - P.5

Trồng hoa tulip ở Kyrgyzstan


Trung Á từ lâu đã trong tầm ngắm của trò chơi cạnh tranh quyền lực. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, George Bush và chính quyền Clinton xác định một tập hợp các mục tiêu địa chiến lược cho khu vực có rất nhiều sự can thiệp nặng nề này: "Để đảm bảo nguồn năng lượng thay thế, giúp Trung Á đạt được quyền tự chủ khỏi bá quyền Nga, ngăn chặn ảnh hưởng Iran, và thúc đẩy tự do kinh tế chính trị."

Từ 1993, mục tiêu đa dạng hóa dự trữ năng lượng dài hạn (tìm kiếm giải pháp thay thế cho các nguồn Vịnh Ba Tư) và áp lực từ khu vực dầu khí tư nhân "bắt đầu chiếm lĩnh sân khấu trung tâm" trong chính sách của Washington đối với Kazakhstan và Turkmenistan. Lầu Năm Góc gây sức ép để gia tăng sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực và đã thành công trong việc đảm bảo an ninh cho 4 trong số 5 quốc gia Trung Á, bao gồm Kyrgyzstan, “Đối tác NATO vì Hòa bình” năm 1994 (Nato’s Partnership for Peace).

Thường xuyên diễn tập quân sự chung và đào tạo "khả năng tương tác" trong những năm Clinton được trông đợi ​​sẽ có các căn cứ quân sự Mỹ trong khu vực để từ đó chống lại tham vọng bá quyền Nga và Trung Quốc. Với trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên hạn chế, nền kinh tế yếu của Kyrgyzstan phụ thuộc nhiều vào Nga, mối nguy hiểm mà chính quyền Clinton muốn chống lại bằng cách làm sâu sắc hơn lợi ích quốc phòng Mỹ và thúc giục IMF cùng WB cho vay tiền ồ ạt để tăng cường hỗ trợ chính phủ tương đối dân chủ của Askar Akayev.

Hỗ trợ kỹ thuật của IMF là quan trọng đối với Kyrgyzstan để trở thành nước đầu tiên trong vùng rời khỏi khu vực đồng rúp Nga. Mặc dù năm 1999, việc mở rộng Hiệp ước an ninh tập thể CIS đã thúc đẩy đòn bẩy quân sự Nga tại Kyrgyzstan, thì phong trào Hồi giáo Uzbekistan (IMU) vẫn bắt cóc người và xâm nhập dễ dàng vào lãnh thổ Kyrgyzstan, làm lộ ra kẽ hở trong bộ máy an ninh Akayev. Khi Kyrgyzstan bị lôi kéo vào tình trạng hỗn độn trong trung tâm Hồi giáo châu Á về địa lý, xung đột biên giới và buôn bán ma tuý, cuộc đua ngầm Mỹ-Nga để lập căn cứ quân sự ở đây trở thành công khai, mở đường cho cuộc cách mạng hoa tulip.

Sau 11-9-2001, Lầu Năm Góc đã mạo hiểm trong một cuộc phiêu lưu mới: "Triển khai căn cứ quân sự của Mỹ ở nước ngoài lớn nhất kể từ WW-II đến “vòng cung bất ổn” chạy qua vùng biển Caribbean, Châu Phi, Trung Đông, vùng Caucasus, Trung Á và Nam Á."

Mắc bẫy tiền, Akayev mở căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ trong khu vực tại Manas, bên ngoài thủ đô Bishkek, một sự cài cắm không hề bị xem nhẹ ở Moscow. Trung Quốc, nước có chung biên giới với Kyrgyzstan cũng đã báo động tương tự như Nga, họ cùng Nga lái Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO - Shanghai Cooperation Organisation) hướng về phía chống đối và tìm cách kết liễu căn cứ quân sự Mỹ ở Trung Á. Với kỳ vọng căn cứ Manas sẽ làm "giảm sự phụ thuộc vào Nga của Kyrgyzstan", ngoài việc là một trung tâm hậu cần cho cuộc chiến ở Afghanistan, thì ngược lại vào năm 2003 TT Putin đàm phán với Akayev để mở một căn cứ không quân của Nga tại Kant – cách 30 cây số đến căn cứ Mỹ.

Trung Quốc cũng bị nói đã tham gia vào đàm phán bí mật để có căn cứ của riêng mình tại Kyrgyzstan và điều chỉnh biên giới, những điều đó dấy lên một cơn bão chính trị chống lại Akayev vào tháng 3 năm 2002. Bộ nội vụ Nga, "người bạn mới của Akayev", đã giúp xoa dịu các cuộc biểu tình. Akayev hướng Kyrgyzstan đến với Trung Quốc thông qua "con đường ngoại giao tơ lụa" và đàn áp quân du kích người Duy Ngô Nhĩ – như giải thích chủ yếu là do nhu cầu tuyệt vọng của ông để có nguồn tài chính chèo chống nền kinh tế trong nước đang trong vòng xoáy sụp đổ - điều đó làm cho Washington rất thất vọng, nhìn Bắc Kinh như một cái gai trong chiến lược mở rộng vùng ảnh hưởng.

Quan điểm của Mỹ về sự phát triển nguy hiểm này là như sau: "Căn cứ vào 1.100 km biên giới giữa Kyrgyzstan và Trung Quốc - và chỗ đứng đã thực sự đáng kể của Washington ở gần Uzbekistan và Tajikistan – thì sự sụp đổ của chính phủ thân Trung Quốc của TT bị ruồng bỏ Askar Akayev sẽ không hẳn là chiến thắng nhỏ đối với ‘chính sách ngăn chặn’".

Trước sự phản công Trung-Nga, người ta thấy rằng tại Bishkek, xu hướng dần dần độc đoán của Akayev đã không mấy làm Washington động lòng. Cuộc bầu cử TT gian lận của ông ta năm 2000 đã đi vào quên lãng, bởi chính phủ Mỹ, mặc dù các quan sát viên NDI gọi là nó không công bằng và đầy thiên vị bất hợp pháp của bộ máy nhà nước. Trong thực tế, nghiên cứu của Eric Mcglinchey về nguyên do Akayev rơi vào chính sách phản dân chủ đã đổ lỗi thẳng vào trách nhiệm xúi giục của IMF và Mỹ, đã cho phép ông ta "cưỡng chế tranh luận chính trị và xây dựng lại chế độ độc tài."

Đã o bế Akayev trong hơn một thập kỷ, giờ chính quyền Bush quay ngược lại và trước cuộc cách mạng hoa tulip cũng không phải là tính toán 1 đêm về việc làm thế nào mà ông ta đã trở thành chuyên chế, cũng như bài toán khó nhọc rằng lợi ích sống còn của mình đã không còn được ông ta phục vụ. Những hậu quả của việc Washington không hài lòng có thể nhìn thấy ở "tin tức từ Kant" (khai trương căn cứ Nga) được ghi nhận như sau: "Văn phòng IMF tại Bishkek đã trở thành cứng rắn hơn đối với Kyrgyzstan và Bộ Ngoại giao đã mở nhà in độc lập của riêng mình - đó có nghĩa là các tờ báo đối lập sẽ trở lại với đầy đủ sức mạnh." (P. Escobar)

Ảnh: Askar Akayev và ông Bush tại Nhà Trắng năm 2002

Các nguồn tin ngoại giao bắt đầu hồ sơ ngay sau thỏa thuận Kant có kết quả, Akayev bị đưa vào "danh sách theo dõi của Mỹ" và "Mỹ đã bắt đầu hỗ trợ mọi yếu tố có thể thấy được để dàn trận chống lại ông ta."

Dân chủ hóa Kyrgyzstan, một chú thích trong chính sách của Mỹ, đột nhiên được gấp rút quàng cho một vầng hào quang. Cũng nên thêm rằng có một lý do chiến lược chung được tranh luận trong chính quyền Bush về dân chủ ở Trung Á sau vụ 911. Kể từ khi cảm xúc chống Mỹ phổ biến trong khu vực Trung Á nhưng không cao như ở các bộ phận Hồi giáo khác trên thế giới, "nguy cơ dân chủ trong khu vực tương đối nhỏ." Chiến thắng trái tim và khối óc của người Hồi giáo Trung Á thông qua dân chủ hóa" sẽ không chỉ tạo thuận lợi cho quá trình tự do hóa nền kinh tế, mà còn, như một sản phẩm, tăng cường sự ủng hộ cho Mỹ."

Vụ 911 mở ra một hiện thực kinh điển "cửa sổ cho cơ hội mà qua đó một ‘vòng cung ổn định' có thể được thiết lập trong các khu vực chiến lược quan trọng giữa biển Caspian và biên giới phía tây bắc Trung Quốc." Có sự mâu thuẫn lẫn lộn trong triển khai, quan điểm cho rằng thúc đẩy dân chủ có thể làm mềm thách thức Hồi giáo thích hợp cho Kỷ nguyên Mỹ (Pax Americana) trong khi sự bất mãn với tính hữu dụng của AkayevWashington đang gia tăng. Kyrgyzstan, với dân số chỉ 5 triệu (thấp thứ 4 trong khu vực) đã nhận được tổng cộng $26,5 triệu cho "cải cách dân chủ" từ cơ quan ngoại giao trong 2003-2004, chỉ đứng sau Uzbekistan đông dân hơn. Còn như với Ukraine, con số chính thức đã là cả 1 gia tài.

Từ 2003, NED, các NGO đã vào cuộc hành động để đảm bảo thay đổi chế độ tại cuộc bầu cử quốc hội tiếp theo quay lại chống Akayev, người ban đầu đã cho phép NGO tiếp cận với đất nước, trong thời kỳ hoàng kim của IMF và USAID cho vay có điều kiện. Thậm chí nhiều hơn ở Ukraine, sự thống trị của Mỹ trong lĩnh vực NGO địa phương đã hoàn tất tại Kyrgyzstan. P. Escobar mô tả sự độc quyền của xã hội dân sự địa phương như sau: "Trên thực tế, tất cả mọi thứ đem đến cho xã hội dân sự tại Kyrgyzstan được tài trợ bởi Quỹ của Mỹ, hoặc do USAID. Ít nhất 170 tổ chức NGO chịu trách nhiệm phát triển hay. phổ biến dân chủ đã được tạo ra hay bảo trợ bởi người Mỹ."

Sự kiểm soát tuyệt đối xã hội dân sự Kyrgyzstan bởi NED và NGO là phức tạp bởi tính chất tài trợ theo định hướng "xây dựng xã hội dân sự" thực hiện trong khu vực. Nghiên cứu thực địa của Fiona Adamson về dân chủ hóa tại Kyrgyzstan phát hiện ra rằng: "Các tổ chức NGO địa phương nhận được gần như 100% quỹ của họ từ các diễn viên quốc tế và có thể dễ dàng trở thành gần như nhà tài trợ bị dẫn dắt 100%. Các nhà bảo trợ quốc tế ngầm hay công khai mong đợi các NGO địa phương quản lý các chương trình mà không nhất thiết là phù hợp với nhu cầu địa phương."

Trong số các chiến lược được thông qua bởi các NGO nhân danh dân chủ là giành chiến thắng trước giới bề trên địa phương về những lý tưởng và các mô hình phương Tây, chiến thuật tâm lý chiến chiến tranh lạnh. IREX tổ chức hội nghị, hội thảo, "hỗ trợ kỹ thuật" và chương trình trao đổi với giới tinh hoa Kyrgyzstan, tin rằng sự thay đổi chính trị trong nước xuất phát từ việc tiếp xúc với những ý tưởng phương Tây.

Thi hành chiến thuật này là hiển nhiên bởi xu hướng các tầng lớp kinh doanh và chính trị Kyrgyzstan tán thành mối quan hệ an ninh và kinh tế chặt chẽ hơn với Mỹ. Kurmanbek Bakiyev của Phong trào Quốc gia Kyrgyzstan, người thay thế Akayev làm thủ tướng sau cuộc cách mạng tulip, từng được gửi đến Mỹ qua một chương trình trao đổi. Felix Kulov, lãnh đạo mới về an ninh, và Omurbek Tekebayev, chủ tịch mới của quốc hội sau cuộc cách mạng tulip, cũng là kẻ hưởng lợi từ chương trình đỡ đầu thăm viếng ngoại giao-nhà nước.

Tekebayev tiết lộ những gì ông ta học được một các thẳng thắn khi đi chơi Washington: "Tôi thấy rằng người Mỹ biết làm thế nào để lựa chọn con người, biết làm thế nào để đánh giá chính xác về những gì đang xảy ra và báo trước tương lai phát triển, thay đổi chính trị."

Các lãnh đạo đối lập hàng đầu trong bầu cử quốc hội năm 2005 như Roza Otunbayeva đã có danh tiếng là "yêu thích của Washington", mặc dù không “vượt biên” như ở Ukraine. Họ đã nhanh chóng nhìn thấy tiềm năng trong kho vũ khí của NED để thay đổi chế độ và lợi dụng các dự án NGO tài trợ để xuất bản các tờ báo chống chính phủ, để đào tạo lớp thanh niên "nhiễm" virus dân chủ qua các chuyến đi chơi Mỹ tài trợ đến Kiev để tham khảo cuộc cách mạng cam, và để huy động đám đông khá lớn ở Bishkek xông vào dinh tổng thống Akayev và các thị trấn miền nam Osh và Jalalabad.

USAID "đầu tư ít nhất $2 triệu trước cuộc bầu cử" cho các nhà hoạt động địa phương để theo dõi hành vi sai trái của chính phủ nhưng đã không làm bất cứ điều gì để ngăn cấm các "quan sát viên độc lập" thực sự làm việc cho các ứng cử viên đối lập. Liên minh Dân chủ và xã hội dân sự (CDCS) và Xã hội Dân sự chống tham nhũng (CSAC), các đối tác NGO địa phương quan trọng của NED, làm việc song song với các bên chống Akayev mà không cần giả vờ vô tư.

Đại sứ quán Mỹ tại Bishkek, tiếp tục truyền thống hành vi can thiệp mờ ám vào cuộc khủng hoảng, làm việc chặt chẽ với NGO như Freedom House và Soros Foundation - cung cấp máy phát điện, in ấn báo chí và tiền bạc để giữ cho các cuộc biểu tình sôi lên cho đến khi Akayev chạy trốn. Tin tức về nơi nào người biểu tình cần tụ tập và những gì họ cần mang theo được phát qua TV và radio được tài trợ, đặc biệt là ở khu vực phía nam Osh.

Lãnh đạo đảng CDCS, Edil Baisolov, thừa nhận rằng cuộc nổi dậy sẽ là "hoàn toàn không thể" nếu thiếu những nỗ lực điều phối của Mỹ. Trong tiến trình của NED, NGO đến việc thực hiện toàn bộ cuộc cách mạng tulip, Philip Shishkin lưu ý: "Để tránh khiêu khích Nga và vi phạm tiêu chuẩn ngoại giao, Mỹ có thể không trực tiếp chống lưng các đảng chính trị đối lập. Nhưng nó bảo trợ một mạng lưới các tổ chức NGO có ảnh hưởng."

Điều quan trọng cần lưu ý là cấu trúc gia tộc của xã hội Kyrgyzstan, căng thẳng sắc tộc với người Uzbek, và phôi thai Hồi giáo ở thung lũng Ferghana xen vào giữa nền tảng để thay đổi kịch bản mạng được vẽ ra ở Washington. Nga đã quá học được bài học từ Ukraina và đã cài cắm được một số nhân vật đối lập chính, làm cho Mỹ không thể có được độc quyền phe đối lập như là trường hợp trong hai cuộc cách mạng màu trước (Ukraina và Gruzia).

Yếu tố bất ngờ, là các phương tiện truyền thông đã nhanh nhẹn phát sóng các tiến triển dân chủ không ngừng, các thủ đô phương Tây hợp lý hóa nó với tốc độ chớp nhoáng - tất cả đã trở thành như dự đoán vào thời điểm đoàn quân dân chủ tiến đến thủ đô Bishkek. Thái độ nước đôi của trật tự mới ở Kyrgyzstan – cuối cùng lại trái ngược rõ rệt với chính sách thân phương Tây như ở Georgia và Ukraine – chứa đựng rất nhiều sự thay đổi không giống như 2 trường hợp cách mạng màu trước.

Có thể nói cách mạng hoa tulip Mỹ bảo trợ và thực hiện, nhưng đã bị Nga đảo cờ ngoạn mục.



Dân chủ hóa, NGO và các cuộc cách mạng màu - P.4

Hoạt động cam ở Ukraine

Ukraina là hình ảnh thu nhỏ quen thuộc Mỹ của "công cụ hóa các chính sách dựa trên giá trị", do đó "gói ghém mục tiêu an ninh trong ngôn ngữ thúc đẩy dân chủ và sau đó làm nhầm lẫn thúc đẩy dân chủ với việc tìm kiếm các hậu quả chính trị cụ thể đề cao các mục tiêu an ninh."

Được xác định bởi chính quyền Clinton là một quốc gia ưu tiên cho dân chủ và một gói các chính sách đối ngoại hậu Xô Viết, tầm quan trọng của Ukraine trong việc NATO mở rộng về phía đông không quốc gia nào sánh được. Cố vấn đặc biệt của bà Clinton về Liên Xô cũ, Richard Morningstar, khẳng định năm 1997 liên quan đến hiệp ước Ukraine-NATO rằng "an ninh của Ukraine là một yếu tố quan trọng trong chính sách an ninh của Mỹ." Đối với Zbigniew Brzezinski, một diều hâu liberal ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của đảng Dân chủ:

"Ukraine, một không gian mới và quan trọng trên bàn cờ Á-Âu, là một trụ cột địa chính trị bởi vì sự tồn tại của nó như là một quốc gia độc lập giúp thay đổi Nga. Nếu không có Ukraine, Nga không còn là một đế chế Á-Âu... nếu Moscow lấy lại quyền kiểm soát Ukraina, với 52 triệu dân và nguồn lực lớn, cũng như tiến đến Biển Đen, Nga sẽ  tự động một lần nữa lấy lại đủ nguồn lực để trở thành đế quốc mạnh mẽ. "

Với sự gia nhập của Séc, Hungary và Ba Lan vào NATO năm 1999, Ukraine còn lại là biên giới cuối cùng, bộ đệm lớn nhất trên "biên giới" Nga-NATO. Cuộc cách mạng màu cam phải được xem xét trong bối cảnh một nước Nga phòng thủ đang cố gắng để giữ cho tầm ảnh hưởng của nó trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và xâm lăng Euro-Atlantic ở phía đông đang được thúc đẩy bởi EU và NATO.

Việc sắp đặt sự đỡ đầu của nước ngoài cho hai ứng cử viên tổng thống vào đêm trước của cuộc cách mạng này làm sáng tỏ những mơ hồ của cuộc chiến lôi kéo ngầm. Viktor Yanukovych, ứng cử viên tổng thống kế nhiệm Leonid Kuchma, nhận được hỗ trợ bằng lời nói và tài chính mạnh mẽ từ điện Kremlin trước, trong và sau cuộc bầu cử gây tranh cãi năm 2004. Trong một cuộc họp riêng với TT Nga, Vladimir Putin, ngay trước cuộc bầu cử, ông Yanukovych hứa rằng ông “sẽ chấm dứt chính sách Ukraine tìm kiếm thành viên trong NATO." Viktor Yushchenko, đối thủ ủng hộ thị trường tự do được hưởng lợi từ chính sách ngoại giao Mỹ, tình báo và sự hỗ trợ của NGO cho cuộc cách mạng cam, đặt trứng của mình hoàn toàn trong giỏ EU và NATO.

Chính sách năng lượng cũng định hình toan tính thay đổi chế độ của Washington đối với Ukraine. Tháng 7 năm 2004, chính quyền Bush và Brussels đã rất sửng sốt khi chính phủ Kuchma đảo ngược một quyết định trước đó, mở rộng đường ống Odessa-Brody đến Gdansk Ba Lan. Việc mở rộng đã xảy ra, nó đã có thể vận chuyển một lượng dầu rất lớn từ biển Caspian vào thị trường EU, độc lập với Nga, và làm suy yếu sự phụ thuộc quá lớn của Ukraine vào Nga về nhu cầu năng lượng.

Vứt bỏ một dự án mà nó có thể củng cố quỹ đạo hướng tây của Kiev, Kuchma đã quyết định mở một tuyến đường ống không sử dụng để vận chuyển dầu từ Urals của Nga đến Odessa. Việc này àm rơi rụng lợi ích Mỹ không phải là không đáng kể, như W. Engdahl cho biết: "chính sách của Washington là nhằm mục đích kiểm soát trực tiếp dầu và khí chảy từ biển Caspian, bao gồm Turkmenistan, và để chống lại ảnh hưởng của Nga trong khu vực từ Georgia đến Ukraina đến Azerbaijan và Iran. Vấn đề mấu chốt mà Washington ngầm công nhận là sự cạn kiệt của các nguồn nhiên liệu lớn giá rẻ chất lượng cao trên thế giới đang lờ mờ hiện ra, vấn đề cạn kiệt dầu mỏ toàn cầu."

Đại sứ Mỹ tại Ukraina, Carlos Pascual, liên tục cầu khẩn Kuchma bãi bỏ quyết định đảo ngược, thuyết phục rằng kế hoạch của Ba Lan sẽ hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư và có lợi nhuận nhiều hơn cho Ukraine trong thời gian dài, đặc biệt là làm suy giảm độc quyền kiểm soát của Nga và đa dạng hóa nguồn năng lượng của Ukraine. Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ Yushchenko, sau cuộc cách mạng cam, đã khôi phục hiện trạng đánh cược vào đường ống Odessa-Brody, thông báo "cuộc đàm phán tích cực với Chevron, công ty cũ của Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice, cho dự án này."

Các hoạt động cài cắm Yushchenko ở Ukraine có một số cấu thành. Quan trọng như mua chuộc giới quyền lực quân đội Ukraina, Bộ Nội vụ, các cơ quan an ninh và các quan chức tình báo cao cấp đã làm việc để chống lại mệnh lệnh đàn áp của Kuchma và chuyển các thông tin quan trọng về trại của Yushchenko.

Mặc dù các bảo vệ này tuyên bố đã không tuân lệnh các chỉ huy là bởi lòng khoan dung, có một thái độ nghiêng về thân Mỹ trong nhiều cơ quan nhà nước quan trọng. Qua kênh thông tin liên lạc của họ với phụ tá của Yushchenko, là Yevyen Marchuk, một kẻ hâm mộ NATO và là cựu bộ trưởng quốc phòng đã thảo luận về cuộc bầu cử sắp tới với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Donald Rumsfeld, tháng 8 năm 2004, cho thấy một kế hoạch đảo chính. Vợ của Yushchenko, Kateryna Chumachenko, là một cựu quan chức trong chính quyền Reagan và George Bush, là kẻ di cư Ukraina có thế lực, bị cho là đã đóng một vai quan trọng làm cửa hậu.

Không có gì trong số các mưu đồ kể trên là quan trọng mà không có kết quả bầu cử bị tranh cãi, tích lũy quyền lực quần chúng trên đường phố và các kỹ thuật dân chủ qua sự chống đối dân sự. Ở đây là NED và họ hàng NGO đóng vai trò cần thiết nhất.

Đã thâm nhập vào Ukraina từ năm 1990 theo lệnh của chính quyền George Bush với sự đồng ý của kẻ thân Mỹ Leonid Kravchuk, 1 lãnh đạo sáng giá của nền cộng hòa, các NGO này có sức mạnh tài chính và lập ra các NGO địa phương từ con số 0, chúng kiểm soát và chỉ đạo chương trình nghị sự của họ.

Tổ chức thanh niên tân tự do Pora, ví dụ, là một nhánh của "Liên minh Tự do lựa chọn" đã được lập ra năm 1999 và bảo trợ bởi Đại sứ quán Mỹ, WB, NED và Soros Foundation. Vào đêm trước của cuộc cách mạng cam, NED và NGO thuê cơ quan thăm dò dư luận Mỹ và các chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp để khai thác dữ liệu phân tích bầu cử và đoàn kết phe đối lập dưới liên minh bầu cử TT Yushchenko, tháng trước cuộc bỏ phiếu; đã huấn luyên hàng ngàn nhân viên giám sát bầu cử địa phương và quốc tế cho đảng phái Yushchenko, tổ chức thăm dò kết quả bầu cử phối hợp với các đại sứ quán phương Tây để tiên đoán rằng chiến thắng thuộc về Yushchenko, cũng như nhập khẩu các "tư vấn" đã có kinh nghiệm trong việc lật đổ Milosevic của Serbia và cách mạng hoa hồng Gruzia.

Các quần chúng vận động bầu cử tại Kiev đã được lựa chọn cẩn thận từ thành lũy phía tây của Yushchenko và không phản ánh được tình cảm trên toàn quốc. "Một vài chục nghìn ở trung tâm Kiev đã được tuyên bố là 'quần chúng', bất chấp thực tế là nhiều kẻ biểu tình ấp ủ quan điểm bạo lực và phản dân chủ", John Laughland viết. Các viên giám sát bầu cử NGO hợp sức với phương tiện truyền thông phương Tây, cố tình phóng đại gian lận bầu cử liên quan đến phía đảng Yanukovych, bỏ qua vi phạm nghiêm trọng của phe Yushchenko.

Chi tiêu của chính phủ Mỹ vào cuộc cách mạng màu cam đã được đưa ra khoảng $14 triệu, trong khi ngân sách xúc tiến xã hội dân sự nói chung do Washington cung cấp cho Ukraine (2003-2004) là $57,8-$65 triệu. Các quỹ Soros và Freedom House bơm vào một dòng vốn ổn định qua các NGO và các tổ chức địa phương cho các "dự án liên quan đến bầu cử."

Đám đông quần chúng của Yushchenko ở quảng trường Độc lập Kiev là một hoạt động tỉ mỉ được lập "kế hoạch cẩn thận, bí mật bởi giới thân cận của Yuschenko trong một khoảng thời gian vài năm" các viên giám sát được phân phối hàng ngàn máy ảnh, các đội được hỗ trợ bác sĩ và tâm lý học, giao thông vận chuyển, máy sưởi, túi ngủ, bình gas nhỏ, nhà vệ sinh, nhà bếp, lều trại, TV và radio, tất cả đều cần "một khoản lớn tiền mặt, trong trường hợp này, phần lớn là của người Mỹ." (Daniel Wolf)

Các đầu sỏ chính trị địa phương và các doanh nhân Ukraina lưu vong ở Mỹ cũng đóng góp khá lớn cho neo-liberal Yuschchenko. Các mối quan hệ trong bóng tối và ràng buộc nhau giữa chính phủ Mỹ và NGO dân chủ ít bị nghi ngờ rằng sau này lại là nhà cung cấp một số tiền lớn ở Ukraine và sẽ không xuất hiện trong các cuộc kiểm toán, các báo cáo hàng năm. Nhận biết của công chúng về chi tiêu bị giảm bớt na ná con số thương vong chính thức được đưa ra bởi các chính phủ trong cuộc chiến chống khủng bố.

Theo nghị sĩ Ron Paul, Mỹ đã phân bổ $60 triệu để tài trợ cho cuộc cách mạng cam "qua một loạt các NGO được chuẩn bị trước cả Mỹ và Ukraina – để bảo trợ cho Yushchenko". Con số này ngẫu nhiên chỉ là "đỉnh của tảng băng". Có tuyên bố rằng "Nga đã giúp Yanukovych nhiều tiền hơn so với Mỹ (đã cung cấp cho Yushchenko)" phần còn của câu chuyện huyền thoại mà chính phủ Mỹ đã tài trợ thông qua các họ hàng NED "là công khai và minh bạch."

Vai trò của họ hàng NED lần đầu tiên theo sau chính quyền Bush, dẫn đầu và xức nước thánh vào phe Yushchenko như là biểu hiện vững chắc của "xã hội dân sự" (với chi phí không tân tự do, chống độc tài) và sau đó liên tục được củng cố bằng quỹ và chuyên môn lật đổ chế độ hoàn toàn làm lu mờ ranh giới giữa thúc đẩy dân chủ công bằng xã hội và can thiệp váo tiến trình chính trị của Ukraine.

Nó vụng về với kích thước cơ bản của Robert Dahl về dân chủ - tranh luận, tức là sân chơi cạnh tranh chính trị và sức mạnh tương đối của các đối thủ. Nhiều thứ được thực hiện bởi NGO nhân danh dân chủ ở Ukraine là hoàn toàn thiên vị, bao gồm cả dạy bảo cử tri, trong khi phải thông tin trung lập để công dân thực hiện lựa chọn tự do chứ không phải là chiến dịch cho một ứng cử viên đặc biệt: "Yushchenko đã nhận được cái gật đầu của phương Tây, và lũ tiền đổ ngập vào các nhóm ủng hộ ông ta, từ tổ chức thanh niên Pora, cho đến các trang web đối lập khác nhau." (Jonathan Steele)

Các tuyến đường quanh co được tiền phương Tây chiếm lấy có thể được minh họa bằng một ví dụ. Sáng kiến hợp tác Ba Lan-Mỹ-Ukraine (Pauci), là 1 bảo trợ đáng chú ý của USAID và Freedom House, các NGO được cấp tiền hoạt động trong các cuộc cách mạng cam như Trung tâm nghiên cứu chính sách Quốc tế (International Centre for Policy Studies), trong đó có Yushchenko trong ban giám sát. Về bản chất, các NGO Mỹ đã làm thui chột không gian chính trị Ukraina bởi hàng đàn hăm hở sống chết vì lợi ích của ứng cử viên tân tự do mới trước cuộc bầu cử 2004, và can dự vào hoạt động thay đổi chế độ thay đổi dưới sự điều phối của Washington.


Dân chủ hóa, NGO và các cuộc cách mạng màu - P.3

NGO dân chủ hóa

Bước ngoặt đưa các NGO lên hàng đầu trong việc thúc đẩy dân chủ-toàn cầu hóa là quyết định của chính quyền Reagan thành lập “Quỹ bảo trợ dân chủ Quốc gia” (NED - National Endowment for Democracy) vào năm 1983 để đảo ngược ảnh hưởng của Liên Xô. Với tuyên bố để "tăng cường thể chế dân chủ trên toàn thế giới thông qua những nỗ lực phi chính phủ", NED được xây dựng như một nền tảng bán chính phủ, được tài trợ bởi chính phủ Mỹ qua các NGO khác như Viện Dân chủ Quốc gia về các vấn đề quốc tế (NDI), Viện Cộng hòa Quốc tế (IRI), Quỹ Quốc tế về hệ thống bầu cử (IFES), Viện nghiên cứu và trao đổi Hội đồng quản trị Quốc tế (IREX), và Freedom House.

Các NGO này lần lượt "nhắm mục tiêu" vào các nước độc tài qua một loạt các chương trình hoạt động. Chủ tịch đầu tiên của NED, Allen Weinstein, thừa nhận công khai rằng "rất nhiều những gì chúng ta làm ngày nay đã được thực hiện bí mật 25 năm trước đây bởi CIA." Tổ chức là một cỗ máy tốt trước vụ bê bối Điều tra của Quốc hội Mỹ vào “khia cạnh mềm” hoạt động của CIA gây mất ổn định và lật đổ các chế độ không thân thiện đã làm xấu mặt chính phủ Mỹ vào cuối thập kỷ 1970.

William Blum viết: "NGO giúp duy trì một độ tin cậy nhất định ở nước ngoài, mà cơ quan chính phủ Mỹ có thể không làm được." 97% kinh phí của NED đến từ Bộ Ngoại giao Mỹ (thông qua USAID mà trước năm 1999 là Usia), phần còn lại được phân bổ bởi các nhà tài trợ cánh hữu Quỹ Bradley, Whitehead và Olin. Từ quan niệm của nó và mặc dù có cấu trúc của cả hai đảng, "giới tân bảo thủ đã tổ chức kiểm soát chặt chẽ chương trình nghị sự của NED và cơ cấu tổ chức của nó."

Một nhân vật cấp cao trong chính quyền George W Bush, kẻ ký kết dự án “Thế kỷ Mỹ mới” (PNAC - Project for a New American Century), mang chính sách can thiệp nước ngoài hung hãn của Mỹ, đã ra nhiệm vụ cho NED. Mặc dù tuyên bố NED "độc lập" và "phi chính phủ", Bộ Ngoại giao Mỹ và các cơ quan điều hành khác thường xuyên bổ nhiệm nhân viên vào các chương trình của NED. Một trong những "dự án dân chủ" (tên mã cho NED trong vụ bê bối Iran-Contra) tố cáo điều đó: "Các cơ quan "tư nhân" thực sự chỉ là bình phong cho các tổ chức mà họ phục vụ, tổ chức có thể chuẩn bị một báo cáo hoặc một dự án nghiên cứu, nó sau đó đưa nó lại cho công ty tư nhân để đính kèm đầu đề của nó, như thể nó thực sự là một hoạt động hoặc khởi xướng tư nhân."

Một cuộc khảo sát các NGO đối tác của NED cho thấy một mô hình tương tự trong những ưu tiên công khai được các tổ chức tư nhân thúc đẩy. Freedom House, một trung tâm tân bảo thủ chống lưng các cuộc cách mạng màu, có một lịch sử được đứng đầu và điều hành bởi các cựu quan chức CIA cấp cao.

NDI bị chi phối bởi "diều hâu tự do" hay cánh hữu đảng Dân chủ, những kẻ tìm thấy lối đi của mình qua kẽ hở chính sách đối ngoại chính khi đảng nắm quyền. IRI bao gồm một đàn chính trị gia cực hữu đảng Cộng hòa và các đại diện lớn tài chính, dầu mỏ, và các tập đoàn quốc phòng. IFES có đầu cánh thuộc về hàng ngũ bảo thủ đảng Cộng hòa, CIA hay tình báo quân đội. IREX là trường đào tạo cho những kẻ đóng vai chính trong các cuộc cách mạng màu, là nơi cư ngụ của các chuyên gia chiến tranh chính trị, ngoại giao quần chúng và tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, cơ quan đối ngoại và quân đội Mỹ.

Sẽ là thú vị để chú ý rằng, các NGO nhân đạo và phát triển lại thường có mục tiêu thúc đẩy chính sách đối ngoại Mỹ, các NGO dân chủ và nhân quyền khoe khoang  mình ưu thế hơn các hoạt động tình báo và cơ quan chính phủ Mỹ. Có được điều đó là thực tế dân chủ hóa như bãi mìn chính trị nhạy cảm trực tiếp nhằm vào quan hệ quốc tế. Nó là quá quan trọng để chủ đề chính sách đối ngoại của chính phủ Mỹ giao lại dây cương cho tổ chức tự nguyện.

Vũ trang bởi cả một biển ngôn từ dân chủ xa hoa, NGO như William DeMars nói: "Chính phủ Mỹ có năng lực lớn hơn bất cứ diễn viên đơn lẻ nào khác trên thế giới để theo dõi chúng, hướng chúng, ngăn chặn chúng, hoặc lái chúng vào một hướng đã lựa chọn."

USAID thừa nhận rằng dân chủ có thể được quảng bá trên khắp thế giới mà không cần phải "là chính trị", điều đó là hư cấu hoàn toàn, bởi vì nhiệm vụ của NED và họ hàng của nó là làm thay đổi cán cân lực lượng chính trị ở quốc gia mục tiêu với cái cớ "hỗ trợ xã hội dân sự."

Bác bỏ sự chính trị hóa trắng trợn của các NGO dân chủ, Elizabeth Cohn khuyến cáo: "Sự tham vấn thân cận giữa chính phủ Mỹ và các nhóm NGO sẽ phải chấm dứt. NGO phải tự mình đặt ra mục tiêu riêng của họ và không được làm đầy tớ cho lợi ích quốc gia của Mỹ, như NED là theo sự uỷ quyền của Quốc hội.".

Từ bỏ như vậy có vẻ là dại dột đối với chủ nghĩa hiện thực trong chính phủ Mỹ, không cần phải nói, vì nó là tương tự như giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng. Những kẻ ủng hộ cho nó, là họ hàng NED, đã có nhiều thành công để chứng tỏ. “Can thiệp để bảo vệ sự toàn vẹn cuộc bầu cử ở Philippines, Pakistan, Đài Loan, Chile, Nicaragua, Namibia, Đông Âu và các nơi khác".

Đánh giá trung lập sẽ liệt điều đó vào loại thao túng bầu cử. Bỏ qua điều trên và tính đếm đến các cuộc lật đổ thắng lợi các chính phủ dân bầu ở Bulgaria (1990), Albania (1992) và Haiti (cuối 1990), bất ổn ở Panama, Cuba và Venezuela. Phần tiếp theo sẽ chứng tỏ rằng những lông lá mới nhất của NED là những cuộc cách mạng màu.



Dân chủ hóa, NGO và các cuộc cách mạng màu - P.2

NGO như phương tiện thâm nhập chiến lược

Chủ nghĩa hiện thực khẳng định rằng các diễn viên xuyên quốc gia có thể mạnh trên cả trọng lượng của chúng và có tác động không cân xứng vào các vấn đề thế giới chỉ khi chúng vận động hành lang và thay đổi các ưu tiên, thực tiễn và chính sách của các cường quốc gia. Mạng lưới nhân quyền Helsinki ở châu Âu theo trò chơi gây ảnh hưởng rất lớn bởi thắng lợi hơn chính phủ Mỹ ở góc độ đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản.

Các nhà lý thuyết xã hội định hướng đã sai khi không thừa nhận rằng các siêu cường có chủ tâm và bộ máy của riêng mình, và chỉ gây "áp lực" xuyên quốc gia để phục vụ các mục đích địa chiến lược lớn hơn. Hiếm khi Mỹ thúc đẩy nhân quyền và dân chủ trong một khu vực khi chúng không phù hợp với các mục tiêu chính sách đối ngoại lớn hơn của Mỹ.

Thomas Carothers, lãnh đạo một cơ quan hàng đầu về thúc đẩy dân chủ của Mỹ, đã chê bai công cụ tư tưởng dân chủ hóa của chính quyền Mỹ gần đây: "Hoa Kỳ có quan hệ gần gũi, thậm chí thân mật với nhiều chế độ phi dân chủ vì lợi ích an ninh và kinh tế Mỹ... và cuộc đấu tranh rất không hoàn hảo để cân xứng lý tưởng với các nhiệm vụ cấp bách thực tế phải đối mặt. "

Mặt trái của hiện thực này là một thực tế khi các chế độ phi dân chủ chứng tỏ là cái gai trong mắt, Mỹ sẽ thấy đáng để nhổ bỏ bằng một loạt các phương pháp khác nhau. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, chọn lựa thúc đẩy dân chủ đã được phản ánh tốt nhất bởi cách phân biệt của Jeane Kirkpatrick giữa "chuyên chế" và chế độ "độc tài", chế độ độc tài có thể được ủng hộ trong lược đồ lợi ích lớn hơn của Mỹ.

Khi đi sâu vào nghiên cứu trường hợp các cuộc cách mạng màu, cùng một "bạo chúa tốt-bạo chúa xấu" loang lổ thái độ siêu cường về dân chủ hóa trong thế giới hậu cộng sản sẽ lại nổi lên như thế trong bối cảnh mới của "cuộc chiến chống khủng bố".

Geoffrey Pridham chia tác động địa chiến lược trong việc thay đổi chế độ vào hai chiều không gian và thời gian. Địa Trung Hải đã biến thành khu vực cạnh tranh dữ dội của siêu cường trong giữa những năm 1970 do gia tăng sự hiện diện hải quân Xô Viết và sự bất ổn định ở Trung Đông. Quá trình chuyển đổi chế độ ở điểm nóng, do đó, làm trầm trọng thêm lợi ích của Mỹ và phương Tây như một hậu quả.

Như một hệ quả tất yếu, ở những thời điểm nhạy cảm của lịch sử thế giới, khuynh hướng Mỹ can thiệp vào chế độ chính trị các nước đã tăng lên. Bất ổn kinh tế đầu Chiến tranh lạnh ở Ý và Hy Lạp trong những năm 1970 là một cơ hội mà hậu quả làm cho Washington thấy cần thiết phải đóng vai trò can thiệp tích cực. Ba mươi năm trôi qua, không gian Ukraine và Kyrgyzstan mang tầm quan trọng đã đến lúc chín muồi cho các cuộc cách mạng màu được sắp đặt từ bên ngoài.

Laurence Whitehead đã làm sâu sắc thêm sự hiểu biết về dân chủ như một chiến lược địa chính trị đó là phân phối lại quyền lực toàn cầu và kiểm soát với phép ẩn dụ về vắc xin, không phải lây lan hay virus. Quân đội Mỹ và các kiểu can thiệp gây bất ổn ở Trung Mỹ có nghĩa là để tiêm chủng chống lây nhiễm bởi chủ nghĩa Castro-Cuba và cuộc điều trị này đã được dán nhãn "dân chủ". "Hai phần ba các nền dân chủ hiện tại vào thời 1990 có nguồn gốc từ các hành động lừa bịp có tính toán hoặc can thiệp từ bên ngoài... Đó không phải là sự liên tưởng mà là chính sách của một thế lực thứ ba để biện giải cho sự phát tán dân chủ từ nước này sang nước khác." Các cuộc cách mạng màu là không thể tách rời với truyền thống sức mạnh chính trị lấn át các quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Quan điểm hiện thực chủ nghĩa về các diễn viên xuyên quốc gia là công cụ của các quốc gia đầy sức mạnh bắt đầu từ những tranh luận về các tập đoàn đa quốc gia (MNC - multinational corporations) và sự lúng túng của họ với quyền bá chủ của Mỹ. Robert Gilpin là người đầu tiên giải thích sự gia tăng của MNC như một chức năng để củng cố quyền bá chủ, nghĩa là sự cầm đầu của diễn viên thuộc quốc gia chính trị hùng mạnh là điều cần thiết cho việc tạo ra và duy trì nền kinh tế thế giới tự do trong đó MNC phát triển mạnh.

Robert Keohane và Joseph Nye cũng cảnh báo năm 1970 rằng "các mối quan hệ xuyên quốc gia có thể phân phối lại quyền kiểm soát từ quốc gia sang các quốc gia khác và lợi ích của các chính phủ ở trung tâm mạng lưới xuyên quốc gia này cho đến bất lợi của những quốc gia ở ngoại vi." NGO đã không bùng nổ trong sự chú ý toàn cầu vào lúc có các đánh giá ban đầu về chủ nghĩa xuyên quốc gia. Tuy nhiên, việc sử dụng các NGO làm công cụ chính sách đối ngoại đã không được biết đến ngay từ đầu của cuộc chiến tranh lạnh.

NGO nhân đạo như Ủy ban cứu trợ quốc tế (thành lập năm 1933 để hỗ trợ các đối thủ chống Đức Quốc xã) và NGO dân chủ hóa như Freedom House (thành lập năm 1941; một thành phần quan trọng của Kế hoạch Marshall để ngăn chặn cộng sản tiếp quản Tây Âu) là 2 trường hợp đại diện cho lợi ích của chính phủ Mỹ trong khi vẫn duy trì tình trạng pháp lý của NGO.

Xúi bẩy đào ngũ và tị nạn từ phía sau "bức màn sắt", ngoại giao quần chúng, tuyên truyền và cấp kinh phí cho các ứng cử viên bầu cử ở nước ngoài bởi tổ các chức từ thiện và các NGO đã tồn tại từ rất lâu trước khi phân khúc tình nguyện đạt được địa vị công khai quan trọng trong lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ. Gần đây hơn, các NGO nhân đạo (không phải nhân quyền) phụ thuộc nhiều vào tài chính Mỹ đã bị phát hiện là cố ý hay vô tình mở rộng lợi ích của chính phủ Mỹ. Như Julie Mertus viết: "Đó không phải là các tổ chức NGO dẫn dắt chương trình nghị sự của chính phủ, đó là chính phủ Mỹ dẫn dắt chương trình nghị sự NGO."

Phát triển giáo lý trong chính sách đối ngoại theo kịp tiềm năng phát triển của NGO như tài sản có giá trị để thúc đẩy lợi ích quốc gia Mỹ. Lý thuyết "Thâm nhập không chính thức" của Andrew Scott (1965) gắn viện trợ nước ngoài của Mỹ, hỗ trợ kỹ thuật và các tổ chức quốc tế với nhau như một bộ công cụ, thứ có thể được sử dụng để tăng độ rỗng và sự thẩm thấu vào các quốc gia đối thủ.

Tính thẩm thấu qua biên giới quốc gia vừa là một điều kiện tiên quyết để các tổ chức xuyên quốc gia xuất hiện như MNC, NGO và các tổ chức quốc tế, và cũng là kết quả cuối cùng của việc tăng cường chủ nghĩa xuyên quốc gia với Mỹ như Trung tâm đế chế (Metropole). Richard Cottam đưa ra giả thuyết rằng sự phân cách (Zeitgeist) của nền chính trị thế giới đã thay đổi cơ bản về nguồn gốc từ "chiến tranh bắn giết" sang chiến tranh chính trị, kinh tế và tâm lý. Các đấu trường mà tại đó các trận đấu quốc tế quan trọng ngày càng diễn nhiều là chính sách đối nội của các quốc gia bị nhắm đến, yếu ớt, dễ bị tổn thương trước ảnh hưởng và can thiệp nước ngoài.

Cottam đã thất vọng với bản chất không thích đáng này của chính sách đối ngoại Mỹ và bỏ qua những kế hoạch chiến lược dài hạn dựa trên "sự can thiệp chiến thuật". Bản thiết kế đương thời cho đồng diễn viên xuyên quốc gia như một cánh tích cực của chính sách đối ngoại đã được sắp đặt bởi tư tưởng “quyền lực mềm” của liberal Joseph Nye, nó kêu gọi khai thác nguồn dự trữ tài nguyên vô hình to lớn của Mỹ như văn hóa, tư tưởng và tổ chức để duy trì sự thống trị thế giới của Mỹ.

"Quyền lực mềm" ở cuối chiến tranh lạnh là ít tốn kém và hiệu quả hơn đối với Nye vì sự tinh tế và chất quyến rũ của nó. Các giá của các hành động quân sự trực tiếp trong thời hiện đại đảm bảo rằng "các công cụ khác như thông tin liên lạc, kỹ năng tổ chức và thể chế, vận dụng sự phụ thuộc lẫn nhau đã trở thành công cụ quan trọng của quyền lực." Để quản trị những thách thức "phụ thuộc lẫn nhau xuyên quốc gia", Nye kêu gọi Mỹ đầu tư nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và các thể chế trong các vấn đề, lĩnh vực mà có thể làm cho sự lãnh đạo Mỹ trong quyền lực toàn cầu trở thành vĩnh viễn.


Nhấn mạnh vai trò của các diên viên tư nhân hoạt động quốc tế xuyên biên giới là một phạm trù quan trọng phải được quản trị bởi nhà nước bá quyền là trung tâm của cuộc thảo luận về NGO dân chủ hóa như những con tốt. Trong số những kẻ tham gia có cả các nhà ngoại giao Mỹ, ích lợi của quyền lực mềm trong việc thúc đẩy hơn nữa mục đích chiến lược đã được hun nóng sau khi kết thúc chiến tranh lạnh. Warren Christopher, thư ký đứng đầu của TT Clinton, đề xuất một cách tiếp cận chiến lược dựa trên "chủ nghĩa hiện thực mới" để thúc đẩy dân chủ: "Bằng cách thu nạp các tổ chức quốc tế và địa phương vào làm việc, Mỹ có thể tận dụng nguồn lực hạn chế của mình và bác bỏ diện mạo cố gắng để thống trị kẻ khác."

Dân chủ hóa, NGO và các cuộc cách mạng màu - P.1

"... Quyền lực làm công việc của nó một cách lén lút, và quyền lực hùng mạnh sau đó có thể phủ nhận đã sử dụng sức mạnh của nó với tất cả." Salman Rushdie, Shalimar the Clown (2005)

Samuel Huntington tóm tắt sự pha trộn những nguyên nhân chính gây ra "làn sóng thứ ba" dân chủ hóa bắt đầu vào năm 1974, kể ra một yếu tố mới nhưng không có nghĩa là chưa từng có trong 2 làn sóng trước: "Những thay đổi trong chính sách của các diễn viên ngoại... một thay đổi lớn trong chính sách của Mỹ đối với việc thúc đẩy nhân quyền và dân chủ ở các nước khác..." Các tổ chức phi chính phủ quốc tế của Mỹ (American international non-governmental organization, sau đây gọi tắt là NGO) là cơ chế nổi bật mà qua đó mối liên hệ nhân quả giữa lợi ích của chính sách đối ngoại siêu cường và thay đổi chế độ đã làm thay đổi rất nhiều các chế độ độc tài trong "làn sóng thứ ba" kéo dài hơn 2 chục năm qua.

Bài viết này cố gắng mở rộng phân tích vào NGO, một công cụ hữu hiệu và dân chủ hóa đối với cơn bão địa chính trị lan truyền là các cuộc cách mạng "màu" hay "hoa", quét khắp thế giới hậu cộng sản từ năm 1999. Đặt ra nó để đánh giá sức mạnh tác động của các diễn viên xuyên quốc gia trong các sự kiện chính trị quốc tế có hậu quả rất lớn gần đây, và khám phá mối quan hệ giữa ký sinh giữa NGO và một nhà nước bá quyền.

Mục đích của NGO là để đưa nhà nước bá quyền này trở lại vị thế thống trị bởi có những biểu hiện khiếm khuyết của các hoạt động xuyên quốc gia. Lập luận chính là ở chỗ: nguyên nhân chính và trực tiếp của các cuộc cách mạng màu là lợi ích chính sách đối ngoại Mỹ (chiến lược bành trướng, an ninh năng lượng và cuộc chiến chống khủng bố) cũng được phụng sự bởi các NGO. Nếu không có sự can thiệp của các NGO Mỹ bảo trợ, cảnh quan chính trị ở các nước như Georgia, Ukraine và Kyrgyzstan đã không bị tô vẽ trong sắc màu mới.

Ba cuộc cách mạng màu - "cách mạng hoa hồng" ở Georgia (11-2003 đến 1-2004), "cách mạng cam" ở Ukraina (1-2005) và "cách mạng hoa tulip" ở Kyrgyzstan (4-2005) - mỗi cuộc đều theo một quỹ đạo gần như giống hệt nhau, tất cả đều được dẫn đầu bởi các NGO dân chủ hóa Mỹ, làm việc theo chỉ đạo của cơ quan chính sách đối ngoại Mỹ.

Nhưng sẽ có lập luận rằng các cơn co giật chính trị có thể thấy được ở Uzbekistan (5-2005) và Azerbaijan (11-2005) đã không phải là trải nghiệm "cách mạng màu" do sự thay đổi của các biến số độc lập, ưu tiên chính sách đối ngoại của Mỹ.


Bối cảnh dân chủ

Hầu hết các nghiên cứu về dân chủ hóa đều nhận ra bối cảnh quốc tế mà trong đó thay đổi chế độ xảy ra, nhưng các nghiên cứu như vậy không bao giờ đi đến chỗ đánh giá nguyên nhân bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhất. Có sự đồng thuận là các yếu tố ngoại sinh "rất khó để áp dụng một cách bền vững trong dài hạn." Trong trường hợp của khối cựu cộng sản, một số học giả coi các tổ chức quốc tế, viện trợ kinh tế phương Tây và Giáo hội Công giáo là "chất xúc tác của dân chủ hóa", những người khác cho rằng tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế gây ra những thay đổi chính trị cơ bản dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. 

Các diễn viên xuyên quốc gia, bao gồm các NGO trong trung tâm của mạng lưới vận động, được xem như là lợi dụng cấu trúc cơ hội - được đề xướng bởi "chủ nghĩa toàn cầu", đóng vai trò làm "vật trung gian hình thành quan điểm ảnh hưởng", và duy trì chỉ trích thường xuyên các "quốc gia mục tiêu" dễ bị tổn thương mà bị cho là có bản chất đàn áp. Chân dung của mạng lưới vận động là các tổ chức tự quản-không có chủ thể chịu trách nhiệm, khôn khéo lèo lái các quốc gia và tổ chức quốc tế để đạt được mục đích mang tính nguyên tắc của chúng, cho rằng dân chủ hóa "vừa là nguyên nhân góp phần vừa là hiệu ứng mở rộng vai trò cho xã hội dân sự xuyên quốc gia."

Về câu hỏi làm thế nào để các diễn viên xuyên quốc gia "thâm nhập" vào quốc gia mục tiêu, thứ lợi ích phôi thai để tìm kiếm các cuộc cách mạng màu, lý thuyết kiến tạo đàn hạc ở cách thức chui vào bên trong. Tuy nhiên, NGO thâm nhập vào Ukraine và Kyrgyzstan có lẽ không hẳn theo cách này.

Một cách để thâm nhập được trình bày bởi "mô hình boomerang", trong đó quan hệ quốc tế "khuếch đại nhu cầu của các nhóm trong nước, tạo ra không gian mở cho các vấn đề mới và sau đó dội lại những yêu cầu này vào đấu trường trong nước." Mặc dù chiến lược và chiến thuật gây áp lực của NGO thực hiện gần đúng với những gì đã xảy trước khi có các cuộc cách mạng màu ở Ukraine và Kyrgyzstan, nguồn gốc NGO can dự vào các nước này không đơn giản như lời mời từ xã hội dân sự bản địa đối với xã hội dân sự toàn cầu.

Các nước cựu cộng sản đặc trưng bởi xã hội dân sự bản địa yếu và các tổ chức trung gian bản địa còn phôi thai. Cũng không phải là sự năng động của NGO can thiệp vào các nước này đơn giản như mối bất bình trong nước được giải quyết bằng cách liên minh với các mạng lưới bên ngoài theo nguyên tắc "thúc đẩy bởi các giá trị chứ không phải bởi vật chất hoặc xã hội chuyên nghiệp." Đối với khuôn khổ lý thuyết phù hợp nhất cho câu chuyện của NGO cách mạng màu, chúng ta phải rời khỏi lý thuyết kiến tạo và chuyển sang ứng dụng xoay vòng của chủ nghĩa hiện thực trong nền chính trị thế giới.


Dân Trí hay là Dâm chí?

Bài báo mới ra của "Dân Trí" có tên: Liên Hợp Quốc: “Ông Kim Jong-un chi tiêu xa xỉ hơn cả cha”

và đoạn như sau:

(Dân trí) - Một bản báo cáo của của Liên hợp quốc vừa công bố cho thấy, lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã chi cho hàng xa xỉ nhiều hơn cả cha mình. Năm 2012, tổng cộng có tới 645,8 triệu USD được chính quyền nước dùng mua sắm hàng xa xỉ, gấp đôi trước đây.

http://dantri.com.vn/su-kien/lien-hop-quoc-ong-kim-ongun-chi-tieu-xa-xi-hon-ca-cha-840735.htm

Báo cáo nào của LHQ nói về điều này?

Nguồn của bài báo này, như anh pv Thanh Tùng cho biết là từ Telegraph.

Vậy con số này từ đâu ra? phải tìm đâu đó mấy nguồn lá cải phương Tây. Ví dụ ở đây:
http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/asia/northkorea/10377154/North-Koreas-Kim-Jong-un-

"According to a report submitted to the South Korean parliament today, imports of luxury goods amounted to $645.8 million in 2012, a sharp increase from the average of around $300 million a year under his father, Kim Jong-il."

Như vậy, đó là "hàng hóa xa xỉ nhập khẩu của Triều Tiên", không có nghĩa là Kim Jong-un chi tiêu cá nhân dư Dâm trí tưởng tượng. Hay theo báo cáo của chế độ thù nghịch với Triều Tiên là Hàn Quốc "645,8 triệu USD được chính quyền nước này dùng mua sắm hàng xa xỉ". Làm thể nào để chế độ Hàn Quốc biết về chi tiêu xa xỉ Triều Tiên trong tình trạng phong tỏa, cấm vận và thù địch và 2 bên không hề có trao đổi gì? Tin tình báo trong phòng máy lạnh!

Báo cáo nhân quyền của LHQ, một chủ đề nhạy cảm, và các quan chức nhân quyền viết báo cáo này trong phòng máy lạnh, không hề đến Triều Tiên điều tra. Căn cứ của họ là báo chí phương Tây và 1 số kẻ tỵ nạn người Triều Tiên.

Có thể đọc báo cáo đó ở đây, trong đó có đoạn như sau:

http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/HRC/CoIDPRK/Pages/ReportoftheCommissionofInquiryDPRK.aspx

(f) Purchase of luxury goods

1.              The DPRK continues allocating a significant amount of the state’s resources for the purchase and importation of luxury goods, as confirmed by the reports of the United Nations Panel of Experts established pursuant to Security Council Resolution 1874 (2009), which inter alia monitors the implementation of the Security Council sanctions prohibiting the import of luxury goods. In one report, the Panel of Experts described the confiscation, by Italy, of luxury items such as high quality cognac and whiskey worth 12,000 euros (USD 17,290) and equipment for a 1,000-person cinema valued at Euro 130,000 (USD 187,310). The report further revealed that the DPRK has attempted to purchase and import a dozen Mercedes-Benz vehicles, high-end musical recording equipment, more than three dozen pianos and cosmetics.

2.              Luxury goods expenditure by the DPRK rose to USD 645.8 million (470 million euros) in 2012. Reportedly, this was a sharp increase from the average of USD 300 million a year under Kim Jong-il in October 2013.
--------------------------
Như vậy, không tính đến sự đúng sai của báo cáo, con số này có vẻ là họ lấy từ báo cáo của Hàn Quốc, và là chi tiêu của chế độ Triều Tiên, dẫn đến cách hiểu chi tiêu cá nhân Kim Joung-un, như Dâm chí viết láo. 

Thực ra, tin này không hề mới, vnexpress đã viết: Triều Tiên nhập hơn nửa tỷ USD hàng xa xỉ

Vậy nước ta chi tiêu xa xỉ bao nhiêu? Nói người hãy nghĩ đến thân;

Kinh tế khó khăn, hàng xa xỉ nhập khẩu tăng vọt

Ô tô nguyên chiếc, điện thoại di động, đá quý... là những mặt hàng có mức tăng vọt kim ngạch nhập khẩu thời gian qua.

Số liệu cập nhật từ Bộ Công thương tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 8/2013 cho thấy, kim ngạch nhập khẩu tháng 7/2013 ước đạt 11 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2012.


Nhập khẩu hàng xa xỉ vẫn tăng cao
(VnMedia) – Theo số liệu Bộ Công Thương vừa công bố, trong 11 tháng vừa qua, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ đã tăng 15,6%, điện thoại di động cũng tăng thêm 36,8%.














IMF đỡ đầu “dân chủ” ở Ukraine

Đây là một nỗ lực liên tục và cố ý bởi cường quốc nước ngoài để chĩa mũi nhọn vào sự bất ổn Ukraine gồm cả cấu trúc nhà nước.

Có một lịch sử lâu dài các cuộc cách mạng màu ở Ukraine từ những năm 1990.

Phong trào biểu tình ở Kiev mang một sự tương đồng đáng kể với "Cách mạng Cam - Orange Revolution" năm 2004, nó được nuôi nấng 1 cách bí mật bởi Washington. "Cách mạng Cam" năm 2004 đã dẫn đến việc lật đổ Viktor Yanukovich được Nga ủng hộ, chính phủ bình phong đại diện cho quyền lực phương Tây của TT Viktor Yushchenko Ttg Julia Tymoshenko lên nắm quyền.

Một lần nữa TT Viktor Yanukovych lại là mục tiêu của "phong trào biểu tình ủng hộ EU" được sắp đặt cẩn thận. Sau đó được triển khai khi TT Yanukovych quyết định để hủy bỏ "thỏa thuận liên kết" với EU.

Các cơ chế can thiệp có một số khác biệt so với những gì xảy ra năm 2004. Các cuộc biểu tình được chống lưng trực tiếp từ Brussels và Berlin (với các quan chức EU tham gia tích cực) hơn là từ Washington:

"Các phe phái cánh hữu đứng đầu các cuộc biểu tình phối hợp với các quan chức EU và các chính khách kêu gọi một "triệu người diễu hành". Cuối cùng, một số lượng 250 đến 300 người đã tụ tập trên quảng trường Maidan (Độc lập). Đây là cuộc biểu tình lớn nhất ở Kiev kể từ "cuộc cách mạng màu" năm 2004 của đế quốc Mỹ và EU - cái gọi là cuộc Cách mạng Cam lật đổ Yanukovich thân Nga và đưa bộ đôi thân phương Tây TT Viktor Yushchenko và Ttg Julia Tymoshenko lên nắm quyền.”

Julia Tymoshenko là con gái của cựu Ttg và ông trùm tỷ phú khí đốt tự nhiên Evgenia Tymoshenko, là người đã bị Yanukovich bỏ tù, hãy xem một tin nhắn từ bà mẹ Julia kêu gọi lật đổ "ngay lập tức" TT Yanukovich. (Xem Alex Lantier, 08 Tháng 12 2013);
http://www.globalresearch.ca/mass-protests-in-ukraine-led-by-right-wing-parties-in-coordination-with-eu-officials/5360900

Bài viết sau đây công bố tháng 11 năm 2004, tập trung vào "Cách mạng Cam" nhằm chống lại Viktor Yanukovich, cung cấp thông tin chi tiết về vai trò xảo quyệt của IMF và WB trong việc áp đặt chương trình nghị sự chính sách kinh tế tân tự do đại diện cho "Đồng thuận Washington - Washington Consensus".
http://www.economicshelp.org/blog/7387/economics/washington-consensus-definition-and-criticism/

Ứng cử viên Viktor Yushchenko trong cuộc bầu cử tổng thống Ukraina 2004 được hỗ trợ mạnh mẽ bởi Đồng thuận Washington.


Ông ta không những được hỗ trợ bởi IMF và cộng đồng tài chính quốc tế, mà còn có sự ủng hộ của Quĩ bảo trợ dân chủ quốc gia (NED - National Endowment for Democracy), Freedom House và Viện xã hội Mở, những tổ chức đóng vai trò năm trước trong việc giúp đỡ "lật đổ TT Eduard Shevardnadze bằng cách đặt sức mạnh tài chính và tổ chức sắt đằng sau đối thủ của ông."

NED có bốn viện liên kết: Viện quốc tế của đảng Cộng hòa (IRI), Viện Dân chủ Quốc gia về các vấn đề quốc tế (NDI), Trung tâm Doanh nghiệp Tư nhân Quốc tế (CIPE), và Trung tâm Mỹ vì Công đoàn lao động quốc tế (AFL-CIO). Các tổ chức này được cho là "có điều kiện vô song để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nhà dân chủ đang nổi dậy khắp thế giới." http://www.iri.org/history.asp

Ở Ukraine, NED và các tổ chức cấu thành của nó cấp tiền cho đảng Nasha Ukraina của Yushchenko (Ukraine của chúng tôi), nó cũng bỏ vốn vào Câu lạc bộ báo chí Kiev (Kiev Press Club). Đến lượt mình, Freedom House, IRI can dự vào đánh giá "sự công bằng của cuộc bầu cử và kết quả của họ". IRI nhân viên hiện diện trong các cuộc "theo dõi bầu cử” ở 9 vùng và các nhân viên địa phương trong tất cả 25 vùng:

"Có các giám sát viên bầu cử chuyên nghiệp nước ngoài từ các cơ quan như Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, bầu cử Ukraina, như trước đó, cũng có hàng ngàn giám sát viên bầu cử người địa phương được đào tạo và được trả tiền bởi các nhóm phương Tây… Họ cũng tổ chức các cuộc thăm dò kết quả. Vào đêm chủ nhật các cuộc thăm dò này cho Yushchenko dẫn trước 11 điểm và thiết lập chương trình nghị sự cho phần lớn những gì đã theo đuổi." Ian Traynor 26 November 2004, the Guardian, http://globalresearch.ca/articles/TRA411A.html)

Không cần phải nói về những nền tảng khác nhau đã được cam kết về "Tự do báo chí". Hoạt động của họ bao gồm không chỉ việc tổ chức các cuộc thăm dò kết quả, thông tin đánh lạc hướng được nhồi vào chuỗi tin tức phương Tây, họ còn tham gia vào việc thiết lập và tài trợ các nhóm sinh viên "thân Tây", "ủng hộ cải cách", có khả năng tổ chức phô bày bất mãn dân chúng. ( Để biết chi tiết, xem Traynor, op cit) ở Ukraine, phong trào thanh niên Pora (http://pora.org.ua/en/) được Viện Xã hội Mở Soros cấp tiền là một phần của quá trình biểu tình với hơn 10 ngàn nhà hoạt động. Pora được hỗ trợ của NGO: Liên minh Tự do lựa chọn của Ukraina (http://coalition.org.ua/en/), và là mô hình hóa dựa trên Otpor Serbia và Kmara Gruzia.

Tổ chức “Tự do chọn liên minh - Freedom of Choice Coalition” đóng vai trò bình phong (cái ô). Nó được hỗ trợ trực tiếp từ các đại sứ quán Mỹ và Anh ở Kiev cũng như Đức, qua Friedrich Ebert Stiftung (một quỹ liên quan đến đảng Dân chủ Xã hội cầm quyền). Trong số các "đối tác" chính (nhà tài trợ) của nó, có USAID, Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA), Freedom House, WB và Quỹ Charles Stewart Mott.
(Danh mục đầy đủ tại http://coalition.org.ua/en/index.php?option=content&task=view&id=29&Itemid=51)

Đến lượt mình, “Tự do chọn liên minh” trực tiếp bỏ tiền và thu thập đóng góp cho Pora (http://pora.org.ua/en/content/view/83/95/)

National Endowment for Democracy - NED

Quĩ bảo trợ dân chủ quốc gia nằm trong nhiều các quỹ phương Tây, mặc dù về mặt chính thức, NED không thuộc CIA, nhưng nó thực hiện chức năng tình báo quan trọng trong việc định hình hoạt động chính trị của các đảng phái bên trong Liên Xô cũ, Đông Âu và trên toàn thế giới.

NED được lập năm 1983, khi CIA bị buộc tội bí mật hối lộ các chính trị gia và thiết lập các tổ chức dân sự giả mạo mặt tiền. Theo Allen Weinstein, kẻ chịu trách nhiệm thành lập NED trong thời kỳ Reagan: "Rất nhiều những gì NED làm ngày hôm nay đã được CIA thực hiện bí mật 25 năm qua." (Washington Post, Sept. 21, 1991);

Ở Liên Xô cũ trong đó có Ukraine, NED là, có thể nói, "cánh tay dân sự” của CIA. Sự can thiệp của CIA-NED đặc trưng bởi mô hình tương ứng. Ở Venezuela, NED cũng đứng đằng sau cuộc đảo chính thất bại của CIA chống lại TT Hugo Chavez,còn ở Haiti nó tài trợ cho các đảng phái và các tổ chức đối lập, cuộc đảo chính do Mỹ đỡ đầu đã trục xuất của TT dân bầu Aristide vào tháng 2 năm 2004. (xem Michel Chossudovsky, 29 Feb 2004, http://www.globalresearch.ca/articles/CHO402D.html )

Ở Nam Tư cũ, CIA chuyển sự hỗ trợ cho Quân giải phóng Kosovo (KLA) từ năm 1995 , đó là nhóm bán vũ trang tham gia các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào cảnh sát và quân đội Nam Tư. Trong khi đó, NED thông qua CIPE đã chống lưng cho phe liên minh đối lập DOS ở Serbia và Montenegro. Cụ thể hơn, NED đã tài trợ cho G-17, một nhóm chống đối của các nhà kinh tế có trách nhiệm xây dựng (trong quan hệ với IMF) "thị trường tự do" nền tảng cải cách của liên minh DOS trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, dẫn đến sự sụp đổ của Slobodan Milosevic.

Liệu có Copy và Paste? CIPE (Trung tâm Doanh nghiệp Tư nhân Quốc tế) có nhiệm vụ tương tự ở Ukraine, nơi nó trực tiếp tài trợ cho nghiên cứu về "cải cách thị trường tự do" trong một vài nhóm "cố vấn độc lập" quan trọng và các viện nghiên cứu chính sách. Trung tâm nghiên chứ chính sách Quốc tế có trụ sở ở Kiev (ICPS - International Center for Policy Studies) được cấp vốn bởi CIPE. Nó có chức năng tương tự như của G-17 ở Serbia và Montenegro: Một nhóm các nhà kinh tế bản địa được thuê bởi ICPS và được giao trách nhiệm soạn thảo, với sự hỗ trợ của WB, một kế hoạch cải cách chi tiết toàn diện kinh tế vĩ hậu bầu cử.

Viktor Yushchenko là ai? Ứng cử viên được IMF bảo trợ

Năm 1993, Viktor Yushchenko được bổ nhiệm làm lãnh đạo Ngân hàng Quốc gia Ukraina mới thành lập. Được ca ngợi như một "nhà cải cách táo bạo", ông ta là một trong những kiến trúc sư chính của liều thuốc kinh tế học chết người IMF, nhằm làm bần cùng hóa và phá hủy nền kinh tế Ukraine.

Sau khi được bổ nhiệm lãnh đạo ngân hàng, Ukraine đạt được thỏa thuận lịch sử với IMF. Yushchenko đóng một vai trò quan trọng trong việc đàm phán các thỏa thuận năm 1994 cũng như tạo ra một loại tiền tệ Ukraina mới, dẫn đến sự sụt giảm đáng kể tiền lương thực tế.

Gói thỏa thuận IMF 1994 đã được ký kết sau những cánh cửa đóng kín tại Hội nghị thượng đỉnh Madrid kỷ niệm 50 năm thể chế Bretton Woods. Nó đòi hỏi chính quyền Ukraina từ bỏ kiểm soát nhà nước về tỷ giá dẫn đến sự sụp đổ tiền tệ vô cùng sâu sắc.

Yushchenko là giám độc Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm bãi bỏ kiểm soát tiền tệ quốc gia theo "liệu pháp sốc" tháng 10 năm 1994.

§ Giá bánh mì tăng qua đêm 300%;

§ giá điện tăng 600%;

§ giao thông vận tải công cộng tăng 900%;

§ mức sống sụp đổ;

Theo Ủy ban Thống kê Nhà nước Ucraina, trích dẫn bởi IMF, tiền lương thực tế trong năm 1998 đã giảm hơn 75% so với mức năm 1991. (http://www.imf.org/external/pubs/ft/scr/ 2003/cr03174.pdf )

Trớ trêu thay, chương trình đỡ đầu của IMF lại được dự định để làm giảm bớt áp lực lạm phát: nó bao gồm ấn định giá được "đô la hóa" vào số đông dân chúng bị bần cùng hóa với thu nhập dưới 10 đô la một tháng.

Kết hợp với việc tăng đột ngột giá nhiên liệu và năng lượng, dỡ bỏ trợ cấp và đóng băng tín dụng đã góp phần phá hủy ngành công nghiệp (cả nhà nước và tư nhân) và phá hủy dạ dày của nền kinh tế Ukraine.

Tháng 11 năm 1994, các nhà đàm phán WB đã được cử đến để nghiên cứu đại tu nông nghiệp Ukraine. Với tự do hóa thương mại (là một phần của gói kinh tế), sự dư thừa bột mỳ Mỹ và "viện trợ lương thực" bán phá giá vào thị trường trong nước, góp phần làm mất ổn định một trong những nền kinh tế lúa mì lớn nhất và hiệu quả nhất thế giới, (ví dụ như so sánh với của Mỹ).

Vào năm 1998, bãi bỏ quy định của thị trường ngũ cốc đã dẫn đến sự suy giảm sản xuất ngũ cốc 45% so với mức 1986-1990. Sụp đổ trong sản xuất chăn nuôi, gia cầm và các sản phẩm sữa thậm chí còn kinh khủng hơn. (Xem http://www.imf.org/external/pubs/ft/scr/2003/cr03174.pdf )

Suy giảm tích lũy GDP từ việc cải cách IMF bảo trợ đã vượt quá 60% ( 1992-1995 ).

Tuyên truyền nuôi dưỡng "thị trường tự do"

Trong hoàn cảnh này, tại sao Yushchenko, kẻ có liên quan chặt chẽ với quá trình hủy hoại nền kinh tế và bần cùng hóa Ukraina lại rất nổi tiếng? Tại sao hình ảnh hắn ta trước công chúng và uy tín chính trị của một kẻ được IMF bảo trợ, con rối phá hoại Yushchenko lại không hề bị tổn hại?

Những gì chương trình nghị sự tân-tự do (neo-liberal) thực hiện là xây dựng một sự đồng thuận trong "cải cách thị trường tự do". "Chịu cơn đau ngắn hạn vì lợi ích lâu dài", như WB nói. "Liều thuốc đắng kinh tế" là giải pháp duy nhất, phải cùng một cách như tòa án Tây Ban Nha là sự đồng thuận nằm dưới thời trật tự xã hội phong kiến ​​.

Trong một thứ logic hoàn toàn bị bóp méo, nghèo đói được trình bày như một điều kiện tiên quyết để xây dựng một xã hội thịnh vượng. Sự đồng thuận này phô ra một thế giới của nông dân không có đất, nhà máy đóng cửa, công nhân thất nghiệp và các chương trình xã hội bị rút ruột như các biện pháp để đạt được tiến bộ kinh tế và xã hội.

Để duy trì sự đồng thuận và thuyết phục dư luận quần chúng, cần phải và đảm bảo "biến thế giới thành lộn ngược", gây chia rẽ trong xã hội, xuyên tạc sự thật, qua một chiến dịch tuyên truyền khổng lồ, mà không có một thay thế chính trị khả thi nào khác để "thị trường tự do" được phép xuất hiện.

Tại sao Yushchenko quá nổi tiếng? Cùng một lý do như George W. Bush, có một hồ sơ tội ác chiến tranh của mình nhưng vẫn là nổi tiếng.

Và bởi vì đối thủ của ông ta, Yanukovich không những đại diện cho một sự thay thế chính trị thật sự cho Ukraine, mà còn mạnh mẽ thách thức các tổ chức tài chính quốc tế và các lợi ích tư bản phương Tây, thứ phá hủy và vắt kiệt toàn bộ một quốc gia.

Cuộc bầu cử năm 2004 tại Ukraine được xây dựng trên một chiến dịch tuyên truyền và tiếp thị quần chúng khổng lồ dưới sự hỗ trợ của Mỹ, với tiền được Washington chi trả cho các đảng chính trị và các tổ chức cam kết vì kinh tế và lợi ích chiến lược phương Tây. Tình báo Mỹ, làm việc tay trong với các tổ chức khác nhau bao gồm cả NED, đã liên tục chống lưng cho quá trình thao túng xã hội dân sự này. Mục tiêu không phải là dân chủ, mà là phá vỡ và thuộc địa hóa địa bàn Liên Xô cũ.

IMF và "Quản trị tốt"

Ở Ukraine, IMF không chỉ can thiệp vào việc thực hiện chương trình nghị sự kinh tế vĩ mô, nó còn xâm nhập trực tiếp vào lĩnh vực chính trị nội bộ đất nước. Cũng như ở Nga năm 1993, quốc hội Ukraina được xem là một trở ngại cho việc thực hiện "cải cách thị trường tự do". Năm 1999, dưới áp lực từ Washington và IMF, Yushchenko được bổ nhiệm làm Ttg chính phủ:

Ứng cử viên Yushchenko đã được đề xuất bởi 10 nhóm phe phái trong quốc hội, và TT Kuchma đồng ý với sự lựa chọn của họ...

Đối số nặng ký nhất có thể mong muốn của IMF để thấy Yushchenko làm thủ tướng Ukraine, bởi sự sẵn sàng của nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ này với các cơ sở tài chính mở rộng phụ thuộc vào đó.

Một số thành viên quốc hội tin rằng IMF đã sẵn sàng để mở rộng khoản vay trị giá $300 triệu cho Ukraina vào tháng 1, trong trường hợp Yushchenko trở thành thủ tướng. (Hãng tin ITAR-TASS, Moscow, 17-12-1999)

Sau khi được bổ nhiệm, Yushchenko ngay lập tức khởi động chương trình phá sản do IMF đứng đầu bảo trợ nhằm chống lại ngành công nghiệp Ukraina, trong đó chủ yếu bao gồm cho đóng cửa một phần cơ sở sản xuất của đất nước. Ông ta cũng đã cố gắng làm suy yếu thương mại song phương dầu khí tự nhiên giữa Nga và Ukraina, thay mặt cho IMF đòi hỏi mua bán phải được giao dịch bằng đô la Mỹ chứ không phải là trao đổi hàng hóa.

Họ đã sa thải thủ tướng "của chúng ta"!

Yushchenko đã bị cáo buộc bởi đối thủ của ông ta là đã đặt lợi ích IMF lên trên lợi ích của đất nước. Năm 2001, Ttf Yushchenko đã bị sa thải sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Quốc hội:

"Viktor Yushchenko đã hoàn thành nghĩa vụ đối với IMF tốt hơn và chính xác hơn so với trách nhiệm của mình đối với các công dân của đất nước của chúng tôi, Olena Markosyan, một nhà phân tích ở Kharkiv, đã phát biểu trên tờ tạp chí Ukraina có quan điểm ôn hòa Den." (BBC Monitoring, 16-11-2004)

"Chính chính phủ này (Yushchenko) công khai nói họ thực hiện tất cả các khuyến nghị của IMF. Mặc dù chính phủ tuyên bố chính sách định hướng xã hội của họ, thực sự họ tiến hành chính sách chống xã hội, chống quốc gia", lãnh đạo Đảng CS Heorhiy Kruchkov cho biết. (trích trong Financial Times, 17-5-2001)

Cộng đồng tài chính quốc tế đã hành động ngay lập tức, đưa Ukraine đã trở lại trong danh sách đen của các chủ nợ.

"Phương Tây gần đây đã công khai đặt phần cược của mình vào Yushchenko, dường như không muốn bị chặn tay. Không thiếu các công cụ để gây áp lực với Kiev. Có lẽ vấn đề lớn nhất là khoản tín dụng của IMF, WB và EBRD cho Ukraine sẽ bị câu lưu bởi chúng liên quan đến việc Yushchenko còn ngồi trên quyền lực… Hội đàm với Câu lạc bộ Paris về tái cơ cấu món nợ $1,2 tỷ của Ukraine có thể gặp khó khăn... Không ngạc nhiên, TT Leonid Kuchma vội vã cách ly mình với những gì đang xảy ra và chỉ trích quyết định của Quốc hội. (Vremya Novostei, 01-5-2001)

Giám đốc điều hành IMF Horst Kohler vẫn cứng rắn. "Yushchenko đã đạt được rất nhiều tín nhiệm bên ngoài Ukraine, và tôi nghĩ ông ấy cũng xứng đáng được ủng hộ bên trong Ukraine." (Trích dẫn trên tờ Financial Times, 27-4-2001). Lãnh đạo IMF nói toạc móng heo:

"Ông ấy (Kohler) nói thêm rằng IMF tôn trọng quyền của Ukraine lựa chọn các nhà lãnh đạo của họ, nhưng cho rằng sự chỉ đạo cải cách phải được bảo lưu. Ông đặt câu hỏi về sự khôn ngoan của QH phung phí thời gian vào việc vận động cho một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, trong khi cải cách cần phải được thực hiện."

Sao chép Nam Tư. Chia rẽ Ukraine?

Một vài tháng sau khi bị sa thải vào năm 2001, Yushchenko ở Washington để hội đàm với các thành viên cao cấp của chính quyền Bush. Ông ta trở lại Washington vào đầu năm 2003 dưới sự bảo trợ của Viện quốc tế Cộng Hòa - IRI. Trong chuyến thăm này, ông ta đã gặp phó TT Dick Cheney và thứ trưởng Ngoại giao Richard Armitage.

Các tân bảo thủ đã cẩn thận "đặt sân khấu " cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 10-12 năm 2004.

Nam Tư là một diễn tập cho các rạn nứt trong các nước cộng hòa còn lại của Liên Xô cũ. Như diễn biến gần đây cho thấy, sự tan rã của đất nước, cụ thể là các phân vùng của Ukraine, mô phỏng theo kinh nghiệm của Nam Tư cũ là có thể, không có nghi ngờ gì, một trong nhiều quá trình chuyển đổi "kịch bản" được dự kiến bởi chính quyền Bush.

Gây chia rẽ giữa Ukraine, Nga, Tatar ở Crimea và các dân tộc khác, giữa Chính thống Nga. Chính thống giáo Ukraina và Công giáo Ukraina, vv… là một phần của chương trình nghị sự kín của Washington.

Tái định hướng quân sự trong sự hỗ trợ của thị trường tự do

Quân sự hóa củng cố thị trường tự do và ngược lại. CIA giám sát NED. Cộng đồng các nhà tài trợ bao gồm cả Washington dựa trên các thể chế Bretton Woods hợp tác với Liên minh châu Âu, NATO và Bộ Ngoại giao Mỹ.

Chiến tranh và toàn cầu hóa song hành. Trong khi Yushchenko được coi là một bảo trợ của cộng đồng tài chính quốc tế, thì ông bạn đồng nghiệp của ông ta, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Yevyen Marchuk là một người ủng hộ không gì lay chuyển đối với sự hiện diện quân sự của Mỹ và NATO trong khu vực. Phần lớn các sáng kiến ​​của Yevyen Marchuk khi làm bộ trưởng QP như gửi quân Ukraina đến Iraq, bị phản đối bởi đa số dân số Ukraina.

Tháng 8-2004, Marchuk gặp BT QP Mỹ Donald Rumsfeld tại khu nghỉ mát bên bờ biển Crimea Yalta.

Trong chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán tháng 8: Ukraine tham gia vào sân khấu chiến tranh Iraq cũng như cuộc bầu cử sắp tới của Ukraine. Marchuk công bố sau các cuộc họp này rằng Kiev sẽ tiếp tục tham gia "liên minh sẵn sàng" và sẽ duy trì quân ở Iraq.

Marchuk bị sa thải vào tháng 9, chỉ một tháng trước vòng đầu tiên của cuộc bầu cử tổng thống.

Nỗ lực đảo chính - Coup d’Etat?

Trong một tuyên bố trên TV ngày 25-11, Marchuk gửi một thông điệp cho quân đội, cảnh sát và lực lượng an ninh không tuân lệnh chính quyền dân sự, cụ thể là chính phủ của Leonid Kuchma.

"Cựu bộ trưởng quốc phòng Ukraine và người đứng đầu Hội đồng An ninh Quốc gia và Quốc phòng đã tuyên bố rằng ông ta tin chắc rằng lãnh đạo đối lập Viktor Yushchenko có quyền được công nhận là tổng thống của Ukraine.”

“Ông ta, Marchuk kêu gọi TT Leonid Kuchma và Ttg Viktor Yanukovych thực hành ý thức khôn ngoan và nhấn mạnh rằng không nên có đổ máu ở Ukraine. Marchuk kêu gọi nhân viên an ninh nhà nước không thực hiện mệnh lệnh bất hợp pháp và phải nhớ danh dự sĩ quan và nhân phẩm của họ.

Ông ta nhấn mạnh rằng gian lận bầu cử TT ngày 21-10-2004, mà theo đó chính phủ công bố Ttg Yanukovych giành chiến thắng, là trên qui mô lớn, và chỉ có một cách thoát ra khỏi sa lầy chính trị căng thẳng mà đã nhấn chìm Ukraine : cuộc đàm phán ngang bằng.

Marchuk cũng kêu gọi đại sứ Nga tại Ukraina Viktor Chernomyrdin để vượt qua cùng với TT Vladimir Putin chỉ thông tin khách quan. Ông ta nhắc nhở các sĩ quan của hạm đội Biển Đen Nga đóng tại Sevastopol rằng họ đang ở trên lãnh thổ của một chính phủ nước ngoài, và rằng họ nên vẫn còn lưu tâm đến điều đó, kêu gọi bộ trưởng quốc phòng Liên bang Nga tuân thủ luật pháp." (See Kiev Post, 26 Nov 2004 and Kanal 5 transcripts, BBC Monitoringm 26 Nov 2004)

Tuyên bố của Marchuk, kêu gọi các lực lượng vũ trang và cảnh sát chống lại chính phủ, về cơ bản đặt ra 1 vũ đài để Mỹ-NATO bảo trọ cho 1 cuộc đảo chính Coup d' Etat.

Cuộc đấu quyền lực: Dầu và hành lang đường ống

Đằng sau cuộc bầu cử tổng thống, có một cuộc đấu tranh quyền lực giữa phe thân Mỹ - NATO và phe thân Nga trong hành ngũ đứng đầu chính trị và quân đội. Đó là nguyên tắc không chỉ duy trì các chương trình nghị sự kinh tế vĩ mô IMF bảo trợ mà còn là lợi ích quân sự chiến lược Mỹ- NATO trong khu vực.

Mục tiêu của chính quyền Bush là cài cắm một chính phủ Ukraina phù hợp một cách vững chắc với Washington, với mục tiêu cuối cùng là di dời quân đội Nga ra khỏi Biển Đen.

Về vấn đề này, Ukraine đã ký kết một số thỏa thuận quân sự với NATO và Washington dưới thời chính phủ Leonid Kuchma. Ukraine là thành viên của GUUAM, một liên minh quân sự giữa 5 nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ (Georgia, Ukraine, Uzbekistan, Azerbaijan và Moldova ). Liên minh quân sự này đã được thiết kế ban đầu trong năm 1997 bởi Cơ quan an ninh quốc gia Ukraina (NSBU) phối hợp chặt chẽ với Washington. Mục tiêu của nó là để làm suy yếu liên minh giữa Nga và Belarus ký kết giữa Moscow và Minsk vào năm 1996.

Ukraine cũng đã ký thỏa thuận với Ba Lan và các nước Baltic, liên quan đến sự kiểm soát hành lang giao thông và các tuyến đường ống.

GUUAM nằm trong chiến lược của trung tâm sự giàu có dầu khí Caspian, "với Moldava và Ukraine tạo ra con đường ống dẫn xuất khẩu sang phương Tây." Mục tiêu của GUUAM là để đẩy Nga ra khỏi biển Đen, bảo vệ đường ống dẫn Anh-Mỹ trước các tuyến đường Trung Á và biển Caspian và về cơ bản cắt Nga ra không chỉ khỏi các lưu vực dầu biển Caspian mà còn từ biển Đen.

Trùng với lễ kỷ niệm 50 năm của NATO cùng với sự khởi đầu chiến tranh Nam Tư năm 1999, lãnh đạo 5 nước GUUAM đã có mặt bao gồm cả TT Leonid Kuchma của Ukraine. Họ được mời tham gia ba ngày lễ kỷ niệm của NATO tại Washington và ký thỏa thuận GUUAM dưới sự bảo trợ của Mỹ và NATO.

Georgia, Azerbaijan và Uzbekistan ngay lập tức thông báo rằng họ sẽ rời khỏi Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS), một liên minh an ninh, trong đó xác định khuôn khổ hợp tác quân sự giữa các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, cũng như liên kết họ đến Moscow:

"Sự hình thành của GUUAM (dưới cái ô NATO và được tài trợ bởi viện trợ quân sự phương Tây) là ý định tiếp tục bẻ gãy CIS. Chiến tranh Lạnh, mặc dù chính thức đã qua, nhưng vẫn chưa đạt đến đỉnh cao của nó: các thành viên của nhóm chính trị pro-NATO mới này không chỉ ủng hộ ném bom Nam Tư năm 1999, họ cũng đã đồng ý ‘hợp tác quân sự cấp thấp với NATO trong khi nhấn mạnh đó là nhóm không phải là một liên minh quân sự chống lại bất kỳ bên thứ ba nào, cụ thể là Moscow.' Bị chi phối bởi lợi ích dầu mỏ Anh-Mỹ, sự hình thành GUUAM cuối cùng ngụ ý loại trừ Nga ra khỏi các mỏ dầu và khí đốt trong khu vực Caspian cũng như cô lập Moscow về mặt chính trị." (Michel Chossudovsky, War and Globalization, the Truth behind September 11, Global Research, Montreal, 2002, Chapter V)

Michel Chossudovsky, December 2013
http://www.globalresearch.ca/imf-sponsored-democracy-in-the-ukraine-2/5360920

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...