Ngã ba đường và sự chọn lựa nghiệt ngã của nền Sinh học và Y học hiện đại

Vi trùng sinh bệnh hay bệnh sinh vi trùng? (*)

[...] Bây giờ chúng ta nói về cái bệnh tật một chút, khi cơ thể chúng ta không hoạt động bình thường, có trục trặc thì gọi là bệnh. Loài người chúng ta cũng như tất cả chúng sinh đều phải đối diện với cái bệnh từ hồi tạo thiên lập địa, đó là nói xa xưa. Còn nói với cá nhân mình thì từ hồi mình mới lọt lòng mẹ thì cũng đã phải có nhiều, chịu nhiều bệnh tật. Cho nên cha mẹ nuôi con cực là hồi nhỏ, con cái thường hay bệnh là cứ phải chăm sóc vất vả. Hiếm có đứa trẻ nào mà thủa nhỏ ít bệnh lắm, hiếm có, Phước đặc biệt lắm, chứ đa phần là hồi nhỏ chúng ta bị bệnh. 

Như chúng tôi vậy, cái ký ức mờ nhạt về tuổi thơ mình cũng nhớ mình bị bệnh rất là nhiều, quý phật tử có thấy vậy không? Khi mình nuôi con, con còn nhỏ bị bệnh tật phải bồng tới bác sĩ nhiều phải không? Nên chúng ta đối diện với bệnh tật từ hồi khai thiên lập địa, từ hồi mới lập ra trái đất này, cũng như trong kiếp này khi mà mình mới lọt lòng mẹ. Và do mà cứ phải đối phó với bệnh tật nên quốc gia nào cũng hình thành dần dần một hệ thống y học của mình, thì có ba hệ thống y học chính trên thế giới. 

Hệ thống y học lớn nhất là Tây y hiện nay, là các bệnh viện theo y học hiện đại với các máy móc, thiết bị, với các lý thuyết mà người ta mổ xẻ phân tích thực tế, là ngành y học hiện đại. Cái nền y học lớn thứ hai là nền y học Đông y mà thực ra là xuất phát từ Trung Quốc, tức là dựa vào hệ thống âm dương ngũ hành, hệ thống huyệt mạch kinh lạc trên cơ thể, và những thuốc lấy từ thiên nhiên, từ thảo mộc, và có một ít động vật. Và hệ thống y học thứ ba là hệ thống của các dân tộc ít người thiểu số của các bộ tộc rải rác trên khắp thế giới. 

Nghĩa là trên khắp thế giới này người ta có nhiều phương thuốc đặc biệt mà bây giờ Liên hiệp quốc cũng kêu gọi là phải đi tìm hiểu, bởi vì hiểu quả lạ lùng lắm. Ví dụ như là như ngày nay người ta đi tìm thuốc ngừa thai, nhưng người ta phát hiện là uống thuốc ngừa thai nhiều có thể sinh ung thư vú. Còn người dân tộc họ có thuốc gì từ cây đó, uống vào rồi là nghỉ, mà khi nào muốn tái sản xuất lại thì có một loại thuốc nào đó uống vào là tái sản xuất lại, hay như vậy. Hoặc là Việt Nam mình có đồng bào người Chơ ro, nghĩa là khi mà người phụ nữ muốn nghỉ sinh sản, họ lấy cây nhang họ đốt vài vị trí trên rốn, trên bụng là người phụ nữ nghỉ luôn, hay như vậy. 

Thì mấy cái đó họ giấu, họ không bao giờ cho người Kinh biết, nhưng đó cũng là cái văn minh của nhân loại. Vì họ giấu nghề cho nên không có phát triển được, chứ nếu mà tìm hiểu có khi chúng ta phát hiện ra một lý thuyết mới về y học. Giống như là bên Trung Hoa vậy, ngành Đông y mà Việt Nam mình cũng kế thừa suất sắc, và hệ thống lý thuyết về âm dương ngũ hành thì cũng lạ, hơi trừu tượng nhưng mà rất hiệu quả, rõ ràng là đã chữa được rất nhiều bệnh mà đôi khi Tây y bó tay.

Nên ở đây là chúng ta có ba hệ thống y học như vậy, và bây giờ chúng ta nói về những nguyên nhân bệnh để phòng và trị bệnh. Có mấy cái nguyên nhân thế này, dĩ nhiên là đạo Phật chúng ta nói nguyên nhân bệnh là do đâu, do cái gì? Do Nghiệp, hễ đạo Phật mình thì nói do Nghiệp. Nhưng bây giờ khoan nói tới Nghiệp vì phức tạp lắm, giờ mình nói theo Tây y chút xíu.

Theo y học hiện đại nguyên nhân của bệnh là do vi trùng trước, là một yếu tố. 

Là nếu mình bị viêm, bị lở bị loét, thì thế nào cũng tìm ra con vi trùng, ráng tìm ra con vi trùng để kết tội, để đổ thừa tại con vi trùng. Nhưng mà sự thật coi chừng con vi trùng nó tới sau khi mình bệnh, ở đây nó dễ có sự hiểu lầm lắm. Ví dụ như thấy người đó có bệnh lao, họ tìm trong phổi người đó thấy có con vi trùng, mình kết luận sao? Con vi trùng gây bệnh lao, kết luận hơi ngây thơ, nhiều khi tôi thấy cũng hơi đơn giản.

Có khi nào bệnh lao có rồi, con vi trùng nó mới đến không, nó mới có môi trường để sinh sản không, có khi nào mình nghĩ ngược lại không? Giống như vậy, giống như khi mà người ta bị loét bao tử, thì chữa mãi không được, bây giờ người ta sinh huyết mới phát hiện rằng trong ổ loét đó có con vi khuẩn. Họ mới kết luận rằng tại con vi khuẩn này nó mới tạo thành vết loét của bao tử, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề ngược lại: tại vì có vết loét nên con vi khuẩn đó đến sống được, phải không?

Cho nên nhiều khi chúng ta phải lật ngược vấn đề lại, cho nên ai nói gì thì phải khoan tin ngay, giống như Đức Phật dạy vậy, Đức Phật nhận định mọi chuyện trên đời này phải xét lại hết. Cũng giống như vậy là ông bà mình cứ thấy mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây và kết luận rằng mặt trời quay quanh trái đất. Mắt mình thấy rõ ràng, nhưng mà sau này các nhà khoa học họ thấy ngược là trái đất lại quay quanh mặt trời, nó ngược đời là như vậy. 

Cho nên có những cái không thực, như thấy mình bệnh, tìm thấy con vi trùng thì kết tội con vi trùng này gây bệnh. Nhưng coi chừng ngược lại, mình bệnh mới lây con vi trùng [...] 

(*) Trích đoạn, lược ghi từ bài giảng "Sức khoẻ và bệnh tật" (Thời điểm: 00:32:43) của Thượng Toạ Thích Chân Quang, viện chủ Thiền Tôn Phật Quang (núi Dinh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) và chùa Viên Quang (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc: https://youtu.be/hiBr8jh7u6I?t=32m43s.

Lời bàn: "Vi trùng sinh bệnh hay bệnh sinh vi trùng", cách đây gần hai thế kỷ và cho đến tận ngày hôm nay, các nhà khoa học đứng trước câu hỏi này, vẫn dạt ra làm hai phía: Một phía kết tội vi trùng là nguyên nhân của bệnh tật (1), là nguyên nhân của sự hoại tử (2), có những vi trùng khác nhau cho những bệnh khác nhau (3)...từ đó mở ra những ngành công nghiệp tiền tỉ như công nghiệp vắc-xin, công nghiệp hoá dược. Người dẫn đường của phía này từng đoạt giải Nobel Sinh lý và y học: Louis Pasteur. Phía còn lại thì cho rằng vi trùng không phải nguyên nhân của bệnh tật (1), không phải là nguyên nhân của sự hoại tử (2), tất cả những vi trùng mang tính bệnh đều cùng một loại (3) ...từ đó mở ra những liệu pháp điều trị thiên nhiên, tự nhiên, ít tốn kém, với niềm tin rằng "cơ thể là một tiểu vũ trụ có khả năng tự chữa lành" và "nhiệm vụ của thầy thuốc và người bệnh là vận hành khả năng tự chữa lành đó". Người dẫn đường phía thứ hai là nhà sinh vật học Pháp Pierre Jacques Antoine Béchamp. Những nhà khoa học đứng về phía thứ hai gồm có: Hippocrates, Florence Nightingale (một Phật tử, người tiên phong vĩ đại của ngành điều dưỡng), Cash Asher, bác sĩ - nhà vật lý học người Mỹ Royal Raymond Rife, bác sĩ Gaston Naessens, Gunther Enderlein (giáo sư động vật học và vi sinh học tại ĐH Berlin)... Tất cả những thí nghiệm, nghiên cứu khoa học và lập luận của phía thứ hai đều được tổng hợp đầy đủ, súc tích trong quyển sách Tiêm chủng: Sự thật đằng sau sự huyền bí, ở chương 5 "Vi trùng sinh bệnh hay bệnh sinh vi trùng": 


Sách "Tiêm chủng: Sự thật đằng sau Sự huyền bí": 

DÂN TỘC LỚN và THÁI ĐỘ VỚI VẤN ĐỀ NHỎ

Bài viết theo gợi ý của Bác Trần Chánh Nhân và dựa trên sự tổng hợp các ý kiến của huynh đệ. Phần gợi ý Bác có viết rằng:
“Dân tộc lớn
Một dân tộc sẽ trở nên vĩ đại nếu từng người dân biết không chấp nhận những điều sai nhỏ nhặt. Những điều sai nhỏ nhặt đó là gì?
- một mảnh rác rơi bên đường
- một sản phẩm soi kính hiển vi lên còn lỗi
- một chiếc ghế ngồi chưa được 5 phút đã khó chịu
- một câu nói chưa đẹp lòng nhau
- một cụ già muốn băng qua đường không ai dẫn giúp
- đồ cá nhân gia đình đặt lấn lề đường dành cho người đi bộ
- sau cơn mưa vẫn còn nước chảy từ cái ống trên mái nhà xối ướt người qua lại dưới đường
- một bài làm bị chấm điểm chưa chính xác
- một khúc bánh mì ăn dở bị vứt vào thùng rác
- rác nhựa bị dồn lẫn với rác phân hủy
- đứa bé đi đâu về chạy vội vào không chào khách
- bị chê trách chút là tự ái
Còn vô số những "điều nhỏ nhặt" trong cuộc sống mà từng người dân phải không chấp nhận nếu muốn xây dựng nên một dân tộc hùng cường.
Xin mời mọi người kể thêm cho phong phú vui vẻ ạ”.
Thưa Bác, thưa quý huynh đệ.

Một dân tộc lớn là dân tộc có nhiều người biết tin nhân quả, luôn sợ điều tội và thích làm phước, có nếp sống vị tha, có tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dân tộc đó có niềm tư trọng không chịu hèn kém luôn vươn tới chinh phục thế giới bằng những kỳ tích vẻ vang, có những đóng góp xứng đáng vào sự văn minh tiến bộ của loài người, cho hoà bình của thế giới. Để được những điều to lớn đó, dân tộc đó phải tự hoàn thiện nhiều mặt bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất. Mọi người sống luôn để ý đến những điều nhỏ nhặt, không muốn làm buồn, làm phiền nhau; Các chuẩn mực đạo đức ở đây được tôn vinh…Nó ngược với lối sống xô bồ coi thường đạo lý sống theo bản năng, lấy mạnh được yếu thua, lấy sự khôn ngoan lừa lọc làm niềm tự hào, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị con người. Chê bai phỉ báng người tốt…Như vậy dân tộc lớn hay nhỏ ở đây không hiểu theo nghĩa là dân tộc có đông người hay giàu có mà nhìn trên khía cạnh văn minh đạo đức, bản sắc văn hóa, những yếu tố sẽ dẫn dắt và quyết định tương lai của dân tộc đó.

Dân tộc việt Nam của chúng ta cũng đã từng có những giai đoạn phát triển vẻ vang nhờ đó mà đã ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông…Đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, sức mạnh to lớn ấy có được chỉ có thể là sức mạnh toàn dân muôn người như một và là kết tinh của những truyền thống văn hóa tốt đẹp của một dân tộc cần cù thông minh, sáng tạo không chịu khuất phục.. Tuy nhiên không biết có phải do chúng ta quá tự hào về những chiến công đó mà có những lúc chúng ta sao nhãng để đến nỗi bây giờ có nhiều mặt chúng ta bị tụt hậu…Khi đi tìm nguyên nhân của sự tụt hậu đó chúng ta có thể nhận thấy rằng bên cạnh sự nỗ lực của toàn dân thì chúng ta đã bị trì kéo bởi những thói quen có thể là do truyền thống hay sự tiêm nhiễm, tha hóa của một bộ phận người dân. Hay do toàn cầu hóa, do mở cửa mà những phong cách lối sống xa lạ đã tràn vào. Mặc dù ta có cảm giác chúng là nhỏ nhặt, nhưng chính chúng là những trở ngại làm triệt tiêu đi sức mạnh chung. Gợi ý của Bác chính là cơ hội để chúng ta cùng ngồi lại nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm nhìn nhận những lỗi này mà cùng nhau, giúp nhau sửa chữa để xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ, đạo đức để cả dân tộc ta cất cách bay lên thành một dân tộc lớn. Những lỗi kể ra đây không nhằm chỉ trích ai, nhưng ai trong chúng ta cũng có thể mắc phải. Xin liệt kê một số điều sai sót, lỗi nhỏ nhặt mà mọi người hay mắc phải là:

1. Tâm đố kỵ hẹp hòi, ghen ăn tức ở. Thay vì vui mừng với thành công của mọi người thì lại tỏ ra khó chịu khi có ai hơn mình, phủ nhận công lao của người khác. Điều này làm triệt tiêu các nỗ lực sáng tạo. Chỉ vì tâm lý này mà người ta ưa nói xấu nhau, thích rỉ tai làm mất uy tín lẫn nhau gây ra sự chia rẽ, mất đoàn kết. Thay vì thấy lỗi của mình để hoàn thiện bản thân thì nhiều người thích phê phán kêu ca phàn nàn chỉ trích đủ điều.

2. Tính tự ái, nhiều người hay lầm tư ái với tự trọng cho nên mỗi khi có ai phê bình góp ý cho dù rất chân thành thì họ cũng cho là bị chê trách, nói xấu bất công rồi nổi giận không chịu tiếp thu để sửa chữa vì vậy không thể tiến bộ được. Tệ hơn là họ quay ra bất mãn chống đối lại người đã góp ý cho mình. 

3. Thói quen lười biếng làm việc cầm chừng, tư tưởng của người làm thuê. Tâm lý tự mãn với những thành công nhỏ. Làm việc nặng về kinh nghiệm thói quen, dễ hài lòng với kết quả nào đó, không áp dụng được tư tưởng: “như thế vẫn chưa đủ” để đạt đến sự hoàn thiện. Kỷ luật lao động kém, hay đi muộn về sớm, không tuân thủ các quy tắc an toàn trong công việc vì vậy dễ xảy ra tai nạn lao động. ”. Những điều này làm cho năng suất lao động của chúng ta kém hàng hóa sản xuất ra chất lượng chưa cao. Còn có nhiều người coi thường lao động chân tay, chạy theo bằng cấp mà chưa chú ý đến kỹ năng làm việc và tính chuyên nghiệp.

4. Mê tín, cầu danh lợi cho nhiều mà không muốn bỏ công sức. Ta có thể thấy điều này qua những nơi thờ tự đền miếu, người ta tranh giành cướp ấn, chen nhau cầu xin vào các dịp lễ, đốt quá nhiều vàng mã để mong được tài lộc…

5. Ưa thích hưởng thụ: nhiều người ưa thích đi quán nhậu karaoke vũ trường, thích ăn thịt thú rừng như là cách thể hiện đẳng cấp…Là một nước nghèo mà số bia rượu tiêu thụ tính trên đầu người đứng đầu thế giới.

6. Tâm lý sính ngoại, dùng hàng ngoại bắt chước cả những thói quen, những điều không tốt của nước ngoài như: ăn mặc hở hang khêu gợi, truyền bá các văn hóa phẩm độc hại đồi trụy. 

7. Dễ vào hùa với cái xấu do tâm lý đám đông mà ít chịu suy xét thấu đáo. Không dám phê phán cái xấu, hay “dĩ hòa vi quý”, dễ người dễ ta, ai sao tôi vậy. 

8. Hay sĩ diện hão, thích phô trương hình thức phù phiếm, các đám ma, chay cưới xin nhiều nơi biến thành những hủ tục khiến cho ai cũng thấy nặng nề hình thức tốn kém mà vẫn phải theo. Tâm lý đua đòi thích làm nổi, thích khoe khoang đã làm cho một bộ phận giới trẻ đua nhau mua sắm xe, điện thoại đắt tiền như là cách thể hiện lối sống sành điệu. Khi ăn bỏ thừa thức ăn để chứng tỏ là "sang"?

9. Nhiều bậc cha mẹ nuông chiều con thái quá, không dạy cho con tính tự lập mà chỉ lo đáp ứng những đòi hỏi của con, thậm chí khi con học xong cũng lo chạy chọt tìm kiếm những công việc nhàn hạ lương cao. Tư tưởng “hy sinh đời bố củng cố đời con”, cha mẹ cho rằng đời mình khổ rồi bây giờ phải để cho con được sung sướng hơn mình ngày xưa, cho con hưởng thụ quá sớm là một tư tưởng sai lầm dẫn đến hình thành một lớp trẻ ích kỷ lười biếng thích hưởng thụ hơn cống hiến.

10. Trong buôn bán kinh doanh, lợi nhuận đôi khi bị xem là mục đích tối thượng, chữ tín và chất lượng còn bị xem nhẹ, làm ăn theo kiểu phi vụ mà chưa chú trong xây dựng thương hiệu giữ uy tín lâu dài. Tình trạng chặt chém, ép giá đối với khách du lịch làm xấu đi hình ảnh đât nước và làm cho ngành du lịch bị mất khách. Sản xuất kinh doanh các thực phẩm không an toàn, mất vệ sinh.

11. Không trân quý từng hạt cơm miếng bánh, sử dụng lãng phí điện nước và các tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ như chai nước uống mới hết nửa chai rồi bỏ lại không ai dám uống phải bỏ đi. Khi tắm rửa xối nước áo ào hặc rửa xe xịt nước rất lãng phí...

12. Tỷ lệ người hút thuốc ở nước ta thuộc hàng cao nhất thế giới, không chỉ tiêu tốn tiền bạc làm thất thoát ngoại tê của quốc gia (do nhập thuốc lậu) gây ảnh hưởng sức khỏe cho những người trực tiếp hút mà còn gây ảnh hưởng đến những người xung quanh.

13. Ý thức bảo vệ môi trường sống chưa cao, chưa thực hiện phân loại rác tại nguồn để tái chế. Chưa coi rác như một tài nguyên quý giá. Còn sử dụng nhiều xà bông gây ô nhiễm các dòng sông. Thật là xót xa khi nhìn những dòng sông đen hôi và đầy rác.

14. Ý thức bảo vệ các ông trình công cộng và tài sản công chưa cao. Nhiều khi vì tham lam cá nhân dẫn đế thiệt hại lớn cho nhà nước

15. Ý thức chấp hành luật pháp nhất là luật giao thông còn kém. Theo thống kê, nước ta cũng là quốc gia có tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông đứng hàng đầu của thế giới. Dưới đây là những biểu hiện cụ thể mà chúng ta thường hay gặp.
- Bóp còi xe inh ỏi khi không cần thiết, khi đi qua bệnh viện trường học, ở điểm dừng xe. Lạm dụng việc sử dụng xe, nhiều khi đi quãng đường ngắn mà vẫn dùng xe thay vì đi bộ. 
- Tổ chức đua xe. Chạy xe lạng lách đánh võng, vượt đèn đỏ, không tuân thủ các biển báo giao thông.
- Khi chạy xe ở những nơi đường hẹp hẻm nhỏ vào buổi tối vẫn bật đèn chiếu xa, trang bị đèn quá sáng làm lóa mắt người chạy chiều ngược lại, có thể gây tai nạn.
- Chạy xe qua mặt người khác khi trời mưa không để ý làm văng nước lên mặt người đi sau.
- Vừa chạy xe vừa nói chuyện điện thoại.
- Các xe chở hàng cồng kềnh quá tải quá khổ lưu thông gây nguy hiểm cho người đi đường và các phương tiện khác
- Người buôn bán bày hàng hóa lấn chiếm lòng lề đường gây trở ngại giao thông…

16. Các quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng chưa được quy định đầy đù và bị xem nhẹ, chưa có hình thức xử phạt hay xử quá nhẹ không có tính răn đe và kèm theo sự giáo dục bắt buộc. Ở nhà trường chưa đưa vào giáo trình những tiết học về cách ứng xử cho học sinh một cách đầy đủ có hệ thống, và nhất là thiếu các buổi thực hành. Ở gia đình, nhiều bậc cha mẹ chưa làm gương cho con cái trong các quan hệ giao tiếp và ứng xử có văn hóa, đôi khi chính họ lại tạo cho con nhiễm những thói xấu…
- Mở nhạc ồn ào gây ảnh hưởng cho mọi người xung quanh, nhất là vào giờ nghỉ. Khi tham gia hội họp, nghe giảng không tắt chuông điện thoại làm ảnh hưởng đến mọi người xung quanh.
- Chen lấn xô đẩy, không chịu xếp hàng nơi công cộng.
- Vào nhà không chịu dắt xe mà cố rồ máy chạy vào.
- Mở máy lạnh để quá lạnh rồi sau đó tắm nước nóng gây lãng phí điện.
- Đàn ông mặc quần đùi ở trần ra đường, phụ nữ ăn mặc hở hang khiêu gợi. Bây giờ không hiểu sao phụ nữ mặc quần đùi ra đường còn nhiều hơn đàn ông.
- Bẻ cành hái hoa nơi công cộng.
- Khi tham gia các tiệc bup - phê thường lấy thức ăn quá nhiều ăn không hết. Văn minh trong ăn uống chưa chú trọng, gây khó chịu cho người khác. 
- Hôi của cướp cạn khi có xe chở hàng bị tai nạn đổ hàng ra đường.
- Hễ có sự cố như tai nạn giao thông, đánh nhau, cãi nhau trên đường thì hình thành đám đông của những người hiếu kỳ vây quanh bình luận bàn tán gây khó khăn cho việc giải quyết gây ách tắc giao thông 
- Gặp người đi đường hỏi đường nhiều người thờ ơ trả lời không chu đáo, thậm chí còn cố tình chỉ sai.
- Hút thuốc, vứt tàn thuốc không đúng nơi quy định.
- Vứt rác bừa bãi, ném rác xuống kênh rạch, miệng hố ga.
- Chửi thề nói tục, hoặc nói lớn tiếng oang oang ở những nơi cần sự yên lặng hay nơi tôn nghiêm.
- Khi ngồi thu chân lên ghế hoặc gác chân lên bàn. Thật là xấu hổ khi nhớ đến lời cha ông ta dặn: "Ăn trông nồi, ngồi trong hướng"
- Tiêu tiểu, khạc nhổ bừa bãi ở nơi công cộng.
- Leo qua rào hay dải phân cách, băng qua đường không đúng nơi quy định.
- Mặc quần áo không trang nghiêm khi đi đến những nơi cần lịch sự (bảo tàng, nhà văn hóa) và nơi tôn nghiêm (chùa, lăng, đền miếu...).
- Các xe chuyên chở vật liệu, chất thải không che đậy để rơi vãi ra đường, và phớt lờ không dọn dẹp sau đó.
- Khi thi công trên đường không có đủ biển báo không che chắn, hố ga mở nắp không đậy gây tai nạn cho người đi đường.
- Nhiều gia đình có đám tang để quá lâu ban đêm kèn trống, tổ chức ăn nhậu gây ảnh hưởng cho khu phố.
- Đem xác thú vật mèo, chó, chuột lén bỏ ra đường, vứt xuống kênh thay vì phải đem chôn.
- Nuôi chó để chúng phóng uế ra đường mà không chịu dọn.
- Có những người hay nhóm thanh niên nào đó hay đi sơn hay vẽ lên tường những hình ảnh làm bẩn đường phố. Sơn các quảng cáo khoan cắt bê tông khắp nơi.
- Ở các chung cư ký túc xá, có nhiều người phơi treo quần áo làm mất mỹ quan đô thị.
- Khi có việc làm phiền đến người khác mà không báo trước không có biện pháp là giảm sự ảnh hưởng cho người bên cạnh (ví dụ một gia đình trong hẻm cần sửa nhà thì nên báo trước cho hàng xóm và bố trí thời gian công việc sao cho ít ảnh hưởng với mọi người).
- Không biết dùng lời xin lỗi và cám ơn đúng lúc để làm hài hòng người xung quanh.

Tóm lại, thật là đau lòng phải nêu ra đây những lỗi này, nó có thể làm cho nhiều người không hài lòng, nhưng tiếc rằng nó lại là sự thật. Chỉ mong rằng ai đọc bài này cũng chia xẻ được tâm nguyện mong muốn cho đất nước ta trở nên ngày càng văn minh tiến bộ. Lỗi nhỏ hay lớn thực ra cũng còn tùy thuộc vào quan niệm của từng người. Người ta thường cho rằng các lỗi nào mà không thể đưa ra tòa để xét tội không bị bỏ tù là nhỏ. Một người ở cạnh một cái quán suốt ngày mở nhạc ầm ĩ đến mức muốn điên cái đầu nhưng chủ quán hay những người khác, rồi tổ dân phố cũng thấy là bình thường, chuyện nhỏ, chỉ đến lúc người hàng xóm kia chịu hết xiết kiện ra tòa mới nên chuyện lớn. Đi muộn về sớm đối với doanh nghiệp được coi là lỗi lớn vì nó làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh, nhưng với người nhân viên hay công nhân lại cho là nhỏ, họ viện đủ lý do nào là kẹt đường phải đưa, đón con đi học…Có những người quan niệm rằng lịch sự chỉ cần thiết ở những nơi sang trọng, đối đãi với khách quan trọng còn bình thường thì cứ bình dân xề xòa vẫn thoái mái hơn; Đó là quan niệm sai lầm, đành rằng chúng ta không quá câu nệ vào hình thức rườm rà nhiều quá nhưng lịch sự đối đãi với nhau chính là biểu hiện của lòng vị tha, là biểu hiện đạo đức mà nếu ta bỏ đi sẽ làm cho cuộc sống trở nên thô thiển thiếu tình người. Có nhiều người thường hay chửi thề nói tục, những người xung quanh nghe riết rồi quen, rồi cũng nói theo, thậm chí có người biết là bậy nhưng lại lý luận rằng thích nói như vậy cho nó bình dân, hòa đồng! Cái nguy hiểm là vì người ta cho là nhỏ là vụn vặt rồi thì không cần sửa không cần góp ý cho nhau, để mặc nó trở thành những thói quen xấu cho các thế hệ sau bắt chước, đến nỗi nhiều khi hành động tốt, người tốt lại bị coi là lập dị bị chế diễu.

Sở dĩ người ta hay coi các lỗi như trên là nhỏ là do họ không hiểu biết nhân quả mà thôi. Đức Phật dạy: “Phải thấy sự nguy hiểm trong từng lỗi nhỏ nhặt”. Phải có trí tuệ của bậc Thánh mới thấy hết được sự nguy hiểm ấy. Phàm phu chúng ta có thể xê xoa bỏ qua cho nhau, nhưng nhân quả công bằng thì không bỏ qua, lỗi nhỏ cũng là lỗi vì nó xuất phát từ sự ích kỷ, vô tâm không thương yêu quý trọng con người cùng muôn loài và môi trường sống. Một người hay phạm lỗi nhỏ thì rất có thể sẽ phạm lỗi lớn. Một người phạm lỗi có thể là nhỏ, quá nhiều người cùng phạm thì lỗi đó bị nhân lên. Lỗi nhỏ lặp đi lặp lại sẽ tích lũy thành lớn thì quả báo cũng không lường. Ví dụ một người bán hàng cố tình bán hàng giả kém chất lượng thì người đó có khác nào một kẻ lừa đảo, ăn cướp, nhưng họ vẫn sống phây phây, chỉ khi nào bị bắt đưa ra tòa người đó mới bị coi là có tội, nhưng nhân quả thì không có hiền như thế tất cả đã được ghi và tính sổ vào một lúc nào đó! Một người bất cẩn trong lời nói làm cho một đứa bé học theo, đứa bé hư hỏng cả cuộc đời vậy thì quả báo của lời nói đó đâu có thể nhỏ! Một lái xe sử dụng điện thoại khi đang điều khiển xe gây tai nạn cho mình và có thể cho nhiều người khác, gây ra đau khổ cho bao người …Tệ hại hơn nữa là nhiều khi người có lỗi lại hay tìm cách lôi kéo người khác cũng làm như mình cho có đồng minh. Ví dụ câu nói: “Trai vô tửu như cờ vô phong”đã biến bao nhiêu người hiền lành thành bợm nhậu làm tan cửa nát nhà bao nhiêu gia đình. Ở nhiều nơi khi biết một người ăn chay là có bao nhiêu tiếng xì xào nào là đạo đức giả, là ăn chay để cầu cái gì đó? Đến nỗi nhiều người ăn chay đành phải nói ra là ăn kiêng…Khi một kẻ làm sai người khác phê bình thì họ nói đấy là quyền tự do cá nhân, nhưng khi công kích người không muốn nhậu, người ăn chay họ lại đổi giọng cho những người này là không hòa đồng, thích hơn người…Như vậy những cái lỗi mà chúng ta thường coi là nhỏ thực sự cũng không nhỏ theo cả nghĩa đen vì nó có đồng minh là các thế lực thích duy trì sự bảo thủ trì trệ, lạc hậu ngăn cản không cho xã hội tiến bộ.

Từ sự phân tích như trên chúng ta thấy rằng cần có sự thay đổi, loại bỏ những thói quen những lỗi nhỏ để hình thành các thói quen tốt, để làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn xã hội văn minh tiến bộ hơn. Để theo kịp thế giới về khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế chúng ta cần thời gian và tiền bạc công sức đầu tư nhưng việc chúng ta có thể làm và phải làm ngay là: Hãy nói không với cái xấu đã nêu và cố gắng làm các việc tốt để thể hiện sự yêu thương quý trọng con người. Mỗi chúng ta hãy tự sửa lỗi mình, không chịu sống đời tầm thường mà luôn hướng tới sự hoàn thiện; Làm những điều phước thiện thì cả xã hội ta sẽ trở nên tốt đẹp, dân tộc ta sẽ cất cánh bay lên thành dân tộc lớn, thành tấm gương cho cả thế giới ngay cả khi ta còn chưa mạnh, chưa giàu..

Tuy nhiên để sửa những lỗi nhỏ này tức là phải hình thành những thói quen tốt lại không phải là chuyện dễ dàng vì tất cả chúng đều có gốc rễ sâu xa từ nơi bản ngã của con người. Chúng ta tạm hình dung những lỗi lầm này như đám cỏ dại, cây gai đang đua nhau mọc lên chen lấn cạnh tranh hút hết màu mỡ của những cây trái mà ta đang vun trồng. Để diệt hoàn toàn cỏ dại, cây gai thì ta phải nhổ tận gốc, nhưng nhổ tận gốc thì rât khó, nhổ được cây này cây khác lại lên nhổ không kịp vậy thì không lẽ bó tay? Không, tạm thời ta phải chặt, cắt bỏ phần thân của chúng làm cho chúng suy yếu để cho cây trái ở trên phát triển cành lá sum xuê che không cho cỏ mọc rồi đến lúc chúng tự chết và chúng ta sẽ nhổ bỏ những gốc rễ của chúng. Trong xã hội của chúng ta cũng vậy để cho con người tự giác thì phải giáo dục đạo đức cho con người đó là sự nghiệp lâu dài. Còn các biện pháp mà nhà nước chính quyền có thể làm ngay là ban hành các quy tắc luật lệ cho rõ ràng để buộc mọi người thực hiện, xử phạt nặng những trường hợp vi phạm, các đoàn thể cùng vào cuộc, tổ chức những hoạt động thích hợp để tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức của người dân. Trong công cuộc này những người con Phật chúng ta phải đóng một vai trò tích cực, bởi vì trong qúa trình tu tập đi đến giác ngộ giải thoát thì người Phật tử cũng phải bỏ đi những lỗi lầm tự hoàn thiện mình trở nên thánh thiện đóng góp đem lại an vui hạnh phúc cho cuộc đời. Chính vì thế đạo Phật không cho phép Phật tử sống hời hợt dễ dãi, cẩu thả mà phải sống sâu sắc trong từng phút giây, phải thấy lỗi và sửa lỗi mỗi ngày đó chính là tu phải không ạ?

Người viết: Bác Nguyễn Công Ích – Nhật Thiện Tâm, thư ký tổng đạo tràng Phật Quang.

Con người thương yêu bằng trái tim hay thương yêu bằng não bộ? (*) - Cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc

Chúng ta nên nhớ điều này, trái tim là một chiếc đồng hồ đo cảm xúc. Khi nhịp tim chúng ta đập đều tức là tinh thần mình an ổn, sức khoẻ mình tốt. Còn khi bỗng nhiên tim đập tăng nhịp lên, báo hiệu tinh thần mình căng thẳng do sức khoẻ kém, tăng xông tăng, nội tiết tố tuyến giáp tăng hoặc do chúng ta gặp chuyện khiến mình vui mừng, sợ hãi. Ví dụ như mình gặp người nào đó, mình chợt thấy tim mình đập nhanh lên một chút là mình biết mình đang có cảm xúc, vì người đó nhìn giống người bạn xưa của mình. Đến khi nhìn kĩ lại thì mình mới biết người đó không phải người bạn xưa của mình, nên nhịp tim trở lại bình thường.Nhịp tim nhanh là một dấu hiệu của cảm xúc. Do tình thương yêu tạo ra cảm xúc, cảm xúc lại ghi dấu ở trái tim nên người ta có cảm giác thương bằng trái tim, thương ai thì tim mình quặng lên, khiến người ta thường hiểu lầm nên cho rằng thương bằng trái tim, chứ thật ra theo khoa học hiện đại thì con người thương yêu nhau bằng bộ não.

Tuy nhiên, có một lần Thầy ngồi thiền, vì đang nghiên cứu về Năm Ấm nên Thầy hướng tâm về cảm thọ (cảm xúc) và trái tim thì Thầy chợt có cảm giác TRÁI TIM CŨNG CÓ MỘT CÁI BIẾT CỦA NÓ, chứ không phải nó chỉ là một khối thịt vô tri. Hình như hôm đó Thầy có nói với Liễu Nghiêm lúc Liễu Nghiêm còn sống. Thầy nói với Liễu Nghiêm là trong trái tim có những tề bào thần kinh như não bộ, tức là NÓ BIẾT SUY LUẬN, NÓ CÓ CÁI BIẾT CỦA RIÊNG NÓ và CÁI BIẾT NÀY TƯƠNG ĐỐI ĐỘC LẬP VỚI NÃO BỘ. Có thể xem nó là một loại não bộ thứ hai. Mấy năm sau, Thầy có đọc trên một tạp chí khoa học, dường như là Kiến thức ngày nay hay Khoa học phổ thông, Thầy không nhớ rõ, có đoạn: "Các nhà khoa học đã phát hiện những tế bào thần kinh như của não bộ tại tim". Vậy là cái thấy của Thầy trong thiền định đã đúng. Cho nên việc người xưa nói thương nhau bằng trái tim, cũng có phần đúng chứ không phải là sai như trước giờ mình nghĩ, không phải con người chỉ thương yêu bằng những suy nghĩ của não bộ, tâm hồn. Sự thật là TRÁI TIM CÓ SUY NGHĨ, CÓ CÁI BIẾT, CÓ CÁI NHẬN ĐỊNH, CÓ CÁI THƯƠNG YÊU RIÊNG CỦA NÓ. Thôi, để lúc khác mình nói nhiều hơn...

(*) Trích đoạn, lược ghi từ bài giảng "Xuân bất tận" của Thượng Toạ Thích Chân Quang, viện chủ Thiền Tôn Phật Quang (núi Dinh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu), cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.

https://youtu.be/pRu1Y0K9dQg?t=44m57s (Thời điểm 00:44:57 - 00:48:58)

Lời người lược ghi: Cái thấy trong Thiền định của Thượng Toạ, nếu mở rộng hơn, tổng quát hơn thành cấp độ cơ thể, thì hoàn toàn trùng khớp với những khẳng định của bác sĩ Deepak Chopra "Chúng ta không chỉ nghĩ bằng cơ thể mà chúng ta có một cơ thể đang suy nghĩ", "Cái biết hay Trí thông minh có trong mỗi tế bào của cơ thể", "Hệ miễn dịch thực sự là hệ thần kinh tuần hoàn", "Tế bào miễn dịch là một tế bào có suy nghĩ, một thực thể nhỏ xíu có ý thức", "Trong thực tế, không có sự khác biệt giữa một tế bào miễn dịch và tế bào thần kinh" - Nguồn các trích dẫn lấy từ quyển sách "Tiêm chuẩn: Sự thật đằng sau sự huyền bí" của tác giả Walene James được dịch bởi anh Hoang Son Truong. Thật thú vị khi cái thấy của một người hoạt động trong lĩnh vực tâm linh lại đồng quan điểm với một người làm khoa học. Quả thật chân lý chỉ là một, thế kỷ nào đó ở tương lai, tâm linh và vật chất sẽ tìm lại nhau, để đưa loài người chắp cánh bay đến một nền văn minh mới - một nền văn minh tâm linh, sau những thế kỷ vô minh, tăm tối mà loài người đã lạc lòng đi theo chủ nghĩa vật chất (Materialism).

CHỦ NGHĨA TỰ DO LÀ LẦM LỖI, LÀ MÊ TÍN CỦA LOÀI NGƯỜI - Cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thượng Toạ Thích Chân Quang

CHỦ NGHĨA TỰ DO LÀ LẦM LỖI, LÀ MÊ TÍN CỦA LOÀI NGƯỜI - Cháu nội cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thượng Toạ Thích Chân Quang, trích từ bài giảng "Xuân bất tận", sau đây là phần trích lược nội dung: https://youtu.be/pRu1Y0K9dQg?t=52m15s (Thời điểm: 00:52:15).

[...] Những đứa trẻ hiếu động luôn thích đông đúc, náo nhiệt. Đó là lý do vì sao những đứa trẻ đều thích rủ rê, lôi kéo nhau chung vui. Và đó chính là mầm mống cho những lầm lỗi của tuổi trẻ mà thoát ngoài sự kiểm soát của cha mẹ, gia đình. Đối với trẻ, gia đình chỉ có cha và mẹ, vài người anh chị, nên không vui không đã bằng tụ tập một đám bè bạn năm bảy đứa, mưới mấy hai chục đứa chơi vui. Nên vì vậy, những đứa trẻ không được giáo dục kĩ, không biết tự kiềm chế, vẫn thích ra ngoài chơi với bạn bè hơn là ở nhà hưởng sự hạnh phúc êm đềm, ấm cúng của gia đình. Tâm lý này khiến trẻ dễ bị kích động, lôi kéo vào tội lỗi.

Đây là chỗ mà các nhà khoa học chưa đặt vấn đề dù nó rất quan trọng để nghiên cứu, lát nữa Thầy sẽ tiếp tục kết tội sự hạn chế của kiến thức khoa học ngày nay làm cho thế giới băng hoại, không biết ngày nào họ mới tỉnh ra điều này. 

[...] Sự hiếu động, hoạt động cần cho trẻ phát triển cơ thể. Cây mà không có gió thổi cây cũng sẽ chậm lớn. Gió thổi làm cây lung lay làm cây phát triển. Thiên nhiên tạo ra sự tương quan lẫn nhau giữa mọi sinh thể có mặt trong vũ trụ, hành tinh. Nếu cây đứng yên một chỗ thì cây sẽ chậm phát triển vì những vi mạch li ti dẫn nước và chất dinh dưỡng từ rễ lên không được hanh thông, dễ bị nghẹt. Khi gió thổi lung lay, vi mạch được thông, nước và dưỡng chất được đưa lên cành lá, cây sẽ phát triển tốt. [...] Khi trẻ đến tuổi dậy thì, chương trình của ADN quy định sự hiếu động thì ta phải đưa vào não trẻ sự giáo dục tự kiềm chế, để cân bằng lại tâm hồn cho trẻ. Nếu ta không làm được điều này, thì xu hướng hiếu động sẽ thắng thế, trẻ dễ rơi vào tội lỗi và bộ não của trẻ khi đến tuổi 40, 50 trở nên lú lẩn rất nhanh.

Cho nên việc giáo dục tính điềm đạm, tự kiềm chế, tính kỷ luật của trẻ khi trẻ vừa bước vào tuổi dậy thì là rất quan trọng nhưng mà các nhà giáo dục học, các nhà xã hội học, các nhà khoa học chưa thấy điều này. Thế giới chưa thấy điều này. Nên vẫn tiếp tục xô đẩy lớp trẻ đi vào những trò vui cuồng nhiệt và nguy hiểm.

[...] Những niềm vui đến từ đạo đức, lòng vị tha, việc làm từ thiện thì bình an và không làm phát sinh nhàm chán.Những niềm vui từ sự hiếu động khi kéo dài sẽ tạo nên cảm giác mệt mỏi, nhàm chán. Và người ta lại đi tìm cảm giác khác, mạnh hơn, vui hơn, chỗ tột cùng của cảm giác phấn khích đó là ma tuý và tính dục. [...] 

[...] Sở dĩ thế giới này bất an, đau khổ và loạn lạc vì loài người chủ trương tự do quá đáng, cho đó là chân lý. Loài người lật đổ chế độ quân chủ, đặt ra chế độ gọi là tự do, dân chủ. Trong chế độ mới đó con người được quyền tự do rộng rãi, muốn làm gì đó thì làm. ĐÂY LÀ SAI LẦM CỦA THẾ KỶ, CỦA THIÊN NIÊN KỶ. Cái quan niệm con người ta sống phải được tự do, muốn làm gì đó thì làm là MỘT TỘI LỖI LỚN CỦA NHÂN LOẠI. Mà sau này, có thể 5-6 thế kỷ sau, con cháu của chúng ta mới quay lại phê bình quan điểm mà ngày nay loài người đang tôn thờ. Ngày hôm nay ai đứng lên nói con người sống hãy đi tìm sự kỷ luật nề nếp, đừng đi tìm tự do, sẽ bị lên án kịch liệt. Nhưng chắc chắn sau này khi loài người ở nền văn minh cao hơn quay đầu nhìn lại sẽ thấy thế kỷ 19, 20, 21 với những quan niệm tự do chủ nghĩa này là những thế kỷ của lầm lỗi của sai lầm đi mãi từ sai lầm này đến sai lầm kia, con người ở thời đại thế kỷ 19, 20, 21 thật kém văn minh.

Vì sao vậy? VÌ TỰ DO CHỈ CÓ Ý NGHĨA, CHỈ CÓ GIÁ TRỊ, CHỈ ĐEM LẠI HẠNH PHÚC KHI MÀ CON NGƯỜI ĐỦ ĐẠO ĐỨC ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG CÁI TỰ DO ĐÓ. Còn khi con người CHƯA ĐỦ ĐẠO ĐỨC ĐỂ TỰ KIỀM CHẾ LẤY MÌNH, THÌ TỰ DO LÀ PHÁ HOẠI, LÀ ĐỔ VỠ, LÀ NGUY HIỂM. Vậy mà người ta khắp nơi vẫn kêu gào phải tự do, phải tự do!

Vì sao vậy? Vì các nhà khoa học, xã hội học chưa biết rõ hết về não bộ, về tinh thần, tâm hồn, tâm linh của con người. Nên không thấy hết sự nguy hiểm của chủ nghĩa tự do, của những trò vui cuồng nhiệt sẽ dẫn đến tội lỗi như thế nào. Không thấy được sự cần thiết của đời sống điềm đạm mang đến niềm an vui, hạnh phúc, và nó an toàn cho con người như thế nào.

Chính vì chưa biết hết về con người, về não bộ của con người, nên cứ đòi cho con người tự do. Chính các nhà khoa học cũng thú nhận họ chưa biết gì nhiều về não bộ. Chưa biết gì nhiều về não bộ tức là chưa biết gì nhiều về con người. Chưa biết gì nhiều về con người mà dám quyết định vội vã cho con người được tự do đầy đủ, quá trớn. Nên rõ ràng là họ đã có những kết luận, hành động dựa trên sự chưa biết rõ. Nói theo Đạo Phật, đó là vô minh. Còn nói cho đúng hơn thì đó là mê tín, mê tín là "tin theo và hành động theo một điều mà mình chưa biết rõ gì về nó hết". 

Sự công bằng của Luật nhân quả là tuyệt đối - Nhân quả công bằng (P4)


Ta thấy sự công bằng trong một trường hợp này: Có một tên cướp sau khi điều tra nghiên cứu gia đình đó thấy gia đình đó giấu một số của. Thế là hắn lợi dụng lúc nhà sơ hở đột nhập vào trói người trong nhà lại và dí dao vào cổ cắt xẻ từng miếng thịt, cắt chảy máu luôn. Sau khi thấy người nhà máu chảy quá nhiều đau đớn không chịu nổi thì nói ra chỗ chôn vàng đào lên thì thấy đúng sự thật rồi tên trộm cắt cổ người đó cho chết và trốn mất. Luật pháp không tìm thấy, thì khi công an điều tra thì anh ta bị tình nghi nhưng anh ta đã dùng một số tiền chặn đứng nhân viên điều tra, mua chuộc luôn thế là tình nghi của anh bị bẻ sang hướng khác và mất. 

Rồi vụ án đó cho đến ngày anh ta chết cũng không tìm ra thủ phạm, luật pháp thế gian không xử được. Nghĩa là sự công bằng của thế gian mà con người thiết lập lên không đủ sức để giải quyết hết để xử lý hết tất cả mọi điều thiện ác trên cuộc đời này.

Giáo dục Đạo đức Cộng sản cho Tuổi trẻ để tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội



Nguồn: Bài giảng Tuổi trẻ bước vào đời, đầy đủ:


Trở lại thiên đường - Phần 6: Ngôi nhà mới


Tiểu thuyết Trở lại thiên đường của tác giả Việt Quang - cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, chắt nội cụ đồ Hồ Sĩ Tạo.

Bằng câu chuyện tình yêu đầy minh triết, tác giả đã làm một cuộc cách mạng long trời lở đất về giáo lý đạo Ki-tô (Gia-tô), giúp chúng ta có được góc nhìn toàn diện về Ki-tô giáo, về Chúa Jesus, về khái niệm "Thượng Đế".

Sự phân chia và đặt tên các phần do Thời Thổ Tả, để tiện cho việc đăng tải và chia sẻ đến mọi người.

Phần 7 - Ngôi nhà mới.

Hạnh phúc là gì? - Cháu nội cụ Nguyễn Sinh Sắc, TT. Thích Chân Quang


Chúng ta sống là để đi tìm hạnh phúc. Vì sống mà không có hy vọng, không có hạnh phúc là một cuộc sống vô nghĩa. Nhưng hạnh phúc vốn rất mong manh và không dễ dàng tìm được. Chúng ta phải luôn luôn hy vọng rằng, mình sẽ tìm thấy hạnh phúc trên cuộc đời này. Hy vọng như vậy để chúng ta cố gắng sống, cố gắng vượt qua những khó khăn gian khổ, vượt qua những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Chừng nào con người không còn hy vọng, chừng đó họ sẽ bị cuộc đời làm cho ngã gục.

Khi còn nhỏ sống trong vòng tay cha mẹ, chúng ta hy vọng lớn lên sẽ thành đạt, có cuộc sống giàu sang, danh vọng….Càng lớn lên, con người càng hy vọng điều đó. Hôm nay còn khó khăn, người ta hy vọng vài năm nữa rồi cuộc sống sẽ khá hơn, sung sướng hơn. Đến khi gần đất xa trời, không còn hy vọng được nữa, họ lại hy vọng vào kiếp sau. Vì niềm hy vọng về cuộc sống hạnh phúc phía trước mà chúng ta vượt qua tất cả. Nghĩa là chúng ta sống để đi tìm hạnh phúc. Đó là mục đích, là khát vọng lớn lao, mãnh liệt của con người. Ngay cả những người bất hạnh, sống lang thang lê lết bên lề đường xin ăn, họ vẫn yêu vô cùng sự sống và hy vọng vào ngày mai tươi sáng vẫn không lụi tắt trong lòng họ. Nếu đã hoàn toàn tuyệt vọng, họ sẽ không kéo dài cuộc sống của mình trong khổ đau như vậy.

Là đệ tử Phật, chúng ta phải có một quan điểm rõ ràng về hạnh phúc. Chúng ta thừa nhận sống để đi tìm hạnh phúc. Nhưng với người tu hành, hạnh phúc là gì? Chúng ta sẽ đi tìm hạnh phúc cho chính mình, hay sẽ dành cuộc đời này đi tìm hạnh phúc cho người khác? Đặt lại câu hỏi đó một lần nữa, chúng ta suy nghĩ cho thấu đáo để sống một cuộc đời đúng nghĩa.

Rõ ràng, người đệ tử Phật phải sống cuộc sống vị tha, sống là để đi tìm hạnh phúc cho người khác chứ không phải cho bản thân mình. Có thể trước đây, cuộc sống của chúng ta còn nhiều đau khổ, còn những nỗi bất an và chúng ta cũng đã từng hy vọng một ngày nào đó, mình được sống một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng bây giờ, chúng ta không còn hy vọng điều đó nữa. Với người tu hành chúng ta, hạnh phúc lớn nhất là đem lại được hạnh phúc cho người khác.

Như vậy, điều quan trọng là để đem lại hạnh phúc cho người khác, chúng ta phải làm gì ? Trước hết, chúng ta phải hiểu điều này, hạnh phúc là do tâm vị tha chứ không phải do phước. Nói như vậy có vẻ hơi mâu thuẫn, nhưng nghĩ một cách sâu sắc, điều đó hoàn toàn đúng. Chẳng hạn, có những người trước kia hay bố thí, làm phước nên họ được nhiều phước và đời này họ có được cuộc sống giàu sang. Nhưng giàu sang không hẳn là hạnh phúc. Chúng ta đã đọc được điều này rất nhiều trong những cuốn sách viết về Nhân Quả. Có tiền nhiều và có hạnh phúc là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nhiều người sống trên đống vàng nhưng vô cùng đau khổ. Họ chỉ hơn những người nghèo là có cuộc sống vật chất thoải mái, còn hạnh phúc vẫn thuộc về lĩnh vực của tâm.

Một người nghèo về vật chất nhưng sống một đời vị tha vẫn an vui, hạnh phúc, và họ cũng tạo được phước cho đời sau. Như vậy, người có phước do tâm vị tha, đời này sẽ an vui. Còn người có phước do tâm cầu phước ở đời trước, đời này có thể giàu sang nhưng lại sống bất an. Vì tâm cầu phước là tâm vị kỷ. Chúng ta cần phân biệt được điều đó. Hạnh phúc thật sự vẫn là do tâm vị tha đem lại. Có thể chúng ta chưa làm được điều gì lớn lao, chỉ cần sống vị tha thôi, chúng ta đã thấy mình rất hạnh phúc vì đi đúng nguyên lý Tứ Diệu Đế của Phật.

Vì vậy, chúng ta đừng mất thì giờ tự ám thị mình là người hạnh phúc, luôn mang vẻ mặt an lạc, thoả mãn. Vì hạnh phúc không phải do ám thị mà có, hạnh phúc là do đời sống vị tha đem lại. Nhiều khi chúng ta được dạy, là đệ tử Phật, phải tự tại an vui, đi đứng đoan trang, lúc nào cũng nở nụ cười trên môi, gương mặt phải thanh thản…Thực ra, đó là lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ về mình. Chúng ta đừng bận tâm về điều đó, đừng tự ám thị mình là người hạnh phúc. Hãy bận tâm đăm chiêu đi tìm hạnh phúc cho phúc cho mọi người. Có thể lúc nào chúng ta cũng tất bật, vội vã nhưng vì tâm mãi lo cho người khác nên không bao giờ đau khổ đến được với tâm mình. Hai chữ tự tại có vẻ thanh thoát, nhưng nếu chỉ đi tìm cái đó cho mình, chúng ta vẫn bị vị kỷ chi phối. Mà vị kỷ có mặt thì sẽ kéo theo những đau khổ, bất an.

Với cuộc sống vị tha, hạnh phúc dần dần tràn ngập mà chúng ta không ngờ được. Suốt cuộc đời lo cho người khác, đến một lúc nào đó tự nhiên chúng ta thấy cuộc đời mình tràn ngập niềm vui. Nhưng đừng bao giờ dừng lại đó để hưởng thụ, hãy tiếp tục bận tâm lo cho mọi người. Nếu tự mãn với hạnh phúc mà mình đang có nghĩa là chúng ta bắt đầu lui bước. Nếu chỉ biết hưởng thụ hạnh phúc, niềm vui dù niềm vui đó do đời sống vị tha lúc trước tạo nên, là chúng ta bắt đầu rơi trở lại lối sống vị kỷ. Như vậy, chúng ta sẽ không đi tới được đời sống vị tha vô lượng, vô biên. Đây là điểm rất khó, rất tinh tế trong tâm mà chúng ta phải tỉnh táo để thoát ra. Sở dĩ một vị Phật thành được Phật quả là do các công hạnh của Ngài vô hạn, vô biên. Ngài làm phước mãi, sống vị tha mãi, không bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui .

Người tu theo hạnh Bồ Tát Ba La Mật vô lượng vô biên không bao giờ biết dừng lại để hưởng thụ. Chúng ta cũng vậy, nếu sống đời sống vị tha thì tâm mình tự nhiên xuất hiện niềm vui nhưng đừng bao giờ dừng lại để hưởng niềm vui trong tâm đó, hãy cứ tiếp tục bận tâm để lo cho người khác.

Nguồn


Phim: Ý nghĩa tự do là gì? - TT. Thích Chân Quang và Thiền Tôn Phật Quang


10x câm điếc người Việt gửi Vlog đến tổng thống Mỹ Barack Obama

10x câm điếc người Việt và thông điệp gửi đến ông Obama [Video tiếng Anh]




Ông có biết tên của bài hát đó là gì không ? Đó là The land of Vietnamese, MẢNH ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM. Đó là ca khúc phản chiến nổi tiếng trong giai đoạn xảy ra cuộc chiến ở Việt Nam. Là nhạc phim của bộ phim The death Coordinates đạo diễn bởi Samvel Gasparov do ca sĩ Kate Francis ôm đàn cất lên tiếng hát.

Chào Obama ! Chào đón ông đã đến với MẢNH ĐẤT CỦA NGƯỜI VIỆT NAM.

Tôi là một người Việt Nam. Tôi có vài điều muốn chia sẻ cùng ông. Tôi xin lỗi vì đã không thể làm một video với gương mặt của tôi vì tôi là một người câm điếc. Tôi không thể nói hay nghe. Tôi là một nạn nhân của chất độc màu da cam.

Ông đã đọc quyển Kill anything that moves: The real AMERICAN WAR in Vietnam (Diệt bất cứ thứ gì động đậy: Sự thật về CUỘC CHIẾN CỦA HOA KỲ ờ Việt Nam) của Nick Turse chưa, ông Obama ? (bản tiếng Việt có tên là Mệnh lệnh lưỡi lê).

Nếu ông đã đọc, ông sẽ biết phụ nữ Việt Nam, thiếu nữ Việt Nam, trẻ em Việt Nam đã bị lính Mỹ hãm hiếp, làm nhục như thế nào. Ông có cần một ví dụ ?

[ ... ]

Tôi nghĩ ông nên ngậm miệng lại, chớ tiếp tục nói về Nhân Quyền. Tổng thống Hoa Kỳ không có tư cách nói chuyện về Nhân Quyền với người Việt Nam hay với Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi khuyên ông nên ghi nhớ điều đó.

À mà thôi. Đó là câu chuyện buồn của quá khứ. Chúng tôi - NGƯỜI Việt Nam, KHÔNG - BAO - GIỜ - LÃNG - QUÊN. Tuy nhiên, chúng tôi tha thứ. Việt Nam tha thứ cho Hoa Kỳ.

Hôm nay, nếu ông đến Việt Nam để tìm kiếm một nền hoà bình thật sự thì tôi và ông là bạn. Nếu ông đến để thông qua TPP hay mang theo GMO của Monsanto thì xin lỗi, tôi ...ghét ông lắm. Chúng ta sẽ là bạn chứ, ông Obama ?

Vài lời khép lại, tôi xin cầu nguyện cho nền hoà bình thật sự của Việt Nam, của Hoa Kỳ, của toàn nhân loại. Và bước đầu tiên để có được nền hoà bình đó, tôi nghĩ ông biết, là hãy kết liễu TPP đi

[Bản dịch tạm thời].

Do you know the name of the song ? 
It is THE LAND OF VIETNAMESE.
The land of Vietnamese is an anti-war song, circulated in the Western world in the years of the Vietnam War.
This song has appeared once in the movie "The death Coordinates" directed by Samvel Gasparov veteran - as the singer Kate Francis sings with the guitar.
Hello Obama, welcome to Vietnam ! Welcome to THE LAND OF VIETNAMESE.
I am a Vietnamese. I have something to share with you.
I am sorry. I can not take a Vlog with my face because I am a deaf mute. 
I can not speak or listen. Because of Agent Orange.
Did you read Kill anything that moves: The Real American War in Vietnam ?
If you read, you would know how Vietnamese woman, Vietnamese girls, Vietnamese kids were raped by American soliders. 
Do you need an example ?
I think you should stop talking about the Human Rights in Vietnam. The President of the United States do not have the right to talk about Human rights in Vietnam to Vietnamese or The Communist Party of Vietnam. You should remember that.
However. This is a bad story of our relationship, in the past. We – Vietnameses, never forget. But, we forgive. 
Vietnam forgive the USA.
Today. If you come to Vietnam to find the Peace, we are friends.
If you come to Vietnam with TPP and GMO of Monsanto, I …hate you.
Will you be friend with me, Sir ?
Finally, I pray for the True Peace of Vietnam, of the USA, of the World. 
And a First step of finding a True Peace, I think you know, is stopping the TPP.

Tình yêu nước của Jesus Nazareth (Phần 1): Ôn cố tri tân






Sự công bằng là nét đẹp tuyệt vời của Luật Nhân Quả - Nhân quả công bằng (P3)

Trong Luật Nhân Quả có một tính nổi bật là sự công bằng, Nhân Quả tức là công bằng, nét đẹp tuyệt vời của Nhân Quả chính là sự công bằng. Có người đầu tiên nghe nói về Nhân Quả thì vẫn dè dặt nói rằng: Thầy nói Nhân gì có Quả nấy thì không biết là làm sao chứng minh bởi vì khoa học chưa biết, làm sao thấy được là thực sự là ai ở hiền sẽ gặp lành, ai ở ác sẽ gặp dữ. 

Bởi vì trong cuộc đời của chúng con là con thấy nhiều người dữ mà vẫn giàu, có người hiền đấy mà vẫn nghèo. Mặc dù là tin lời Phật dạy là ở hiền ắt sẽ gặp lành, ở ác ắt sẽ gặp dữ nhưng chúng con dè dặt hoài nghi nhưng mà rất muốn tin. Vì sao lại muốn tin như vậy? 

Bởi vì Luật Nhân Quả là công bằng nên con yêu thích.

Tiết lộ công lao thầm lặng mà vĩ đại của Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc

LGT: TT.Thích Huệ Thông, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Bình Dương trình bày đề tài "Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo", khẳng định ngài Phó bảng - thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh là một phật tử, đã được quy y

Như chúng ta đã biết, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Phật giáo lại một lần nữa chung sức đồng lòng tham gia kháng chiến, tích cực dấn thân vào sự nghiệp giải phóng của toàn dân tộc, điển hình là cuộc khởi nghĩa của cư sĩ Võ Trứ (đệ tử của Thiền sư Đá Bạc) tại Phù Cát và Phù Mỹ tỉnh Bình Định vào năm 1898. 

Thiền sư Đá Bạc đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này khiến cho người Pháp gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc thầy chùa”. Kế đến là cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính nổ ra ở phía Bắc, từ Nghệ An ra tới Bắc Ninh quy tụ hàng vạn nghĩa quân là Phật tử. Những cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính và phật tử Võ Trứ đã để lại ấn tượng sâu sắc là Phật giáo luôn hướng về sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong mọi hoàn cảnh. Các chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong thời kỳ này như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Trần Cao Vân… cũng đều phải dựa vào Phật giáo và trong đó có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Hồ Chủ tịch, một tấm lòng yêu nước nồng nàn, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Phật giáo. Đặc biệt, cụ Sắc nhìn thấy rất rõ vai trò và ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo đối với sự tồn vong của dân tộc nên trong suốt hành trình tham gia các hoạt động cứu quốc, cụ đã tích cực tham gia vào các hoạt động chấn hưng Phật giáo. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã rất tích cực tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo, xem đây là phương tiện tối ưu để khơi dậy lòng yêu nước, lấy đạo Phật làm trung tâm để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong bài tham luận “Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo”, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ phần nào chủ đích chấn hưng Phật giáo của cụ Nguyễn Sinh Sắc, chính là để tăng cường sức mạnh vệ quốc của dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Đây là điều rất phù hợp với quan điểm và truyền thống yêu nước của Phật giáo. 

Giảng tại Nghệ An: Quê hương nghĩa nặng tình sâu - TT. Thích Chân Quang



Giảng ở trại cai nghiện ma tuý: Tương lai trong tay ta - Cháu ruột Bác Hồ, TT. Thích Chân Quang



Trở lại thiên đường - Phần 5: Lời mẹ dạy


Tiểu thuyết Trở lại thiên đường của tác giả Việt Quang - cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, chắt nội cụ đồ Hồ Sĩ Tạo.

Bằng câu chuyện tình yêu đầy minh triết, tác giả đã làm một cuộc cách mạng long trời lở đất về giáo lý đạo Ki-tô (Gia-tô), giúp chúng ta có được góc nhìn toàn diện về Ki-tô giáo, về Chúa Jesus, về khái niệm "Thượng Đế".

Sự phân chia và đặt tên các phần do Thời Thổ Tả, để tiện cho việc đăng tải và chia sẻ đến mọi người.

Phần 5 - Lời mẹ dạy có lẽ là một trong những phần hay nhất của Trở lại thiên đường. Không phải tất cả Ki-tô hữu đều là những người cuồng tín, mê muội, hung hăn như sự miêu tả của một số nhà duy vật vô thần phiến diện. Bên cạnh niềm tin vào một Thượng Đế thần quyền (tạm thời ta chưa xét tính đúng sai), họ cũng còn có những giá trị văn hoá, đạo đức, tinh thần trong cuộc sống. Và, những điều đó từ nơi họ, rất đáng để lưu giữ, bảo tồn, phát triển và được ngợi ca.

NGHỊ ĐỊNH 4. CHỦ NGHĨA DUY VẬT THAY THẾ TÔN GIÁO

Nghị định thư của những trưởng lão Do Thái (*) - bản dịch tiếng Việt: 

http://3t333.blogspot.com/search/label/Nghị%20định%20thư%20của%20những%20trưởng%20lão%20Do%20Thái



Người dịch: Một người bạn của Tân Sinh, bạn đọc của Thời Thổ Tả.

Nghị định thư của những trưởng lão Do Thái là một tài liệu mật báo do một điệp viên của Đế quốc Nga chuyển về cho Sa hoàng - Phật tử, Ngài Nikolai II. Trước khi những người Bolsheviks Do Thái nắm quyền, vào đầu thế kỷ XX, tài liệu này là phổ biến ở Nga cũng như Âu Châu, gây được tiếng vang lớn. Tuy nhiên, sau đó, những người Bolsheviks Do Thái lên nắm quyền đã bắn bỏ gia đình Sa hoàng Nikolai II và tất cả những ai lưu trữ, lan truyền Nghị định thư này. Hiện nay, dưới sự bảo vệ của Tổng thống Nga Putin và lực lượng lành mạnh, tài liệu này được nhà nước Nga xem là hợp pháp và lưu hành tự do trong nước Nga.

NGHỊ ĐỊNH 4. CHỦ NGHĨA DUY VẬT THAY THẾ TÔN GIÁO

1_Mọi nhà nước cộng hòa đều trải qua một số giai đoạn. Trước tiên là sự hỗn loạn điên cuồng gây ra bởi quần chúng, sau đó là chính sách mị dân, thứ là nguồn gốc của sự vô chính phủ, từ đó tất yếu dẫn tới chế độ độc tài-không còn được công khai và hợp pháp, vì vậy nó trở nên đáng tin cậy, một chế độ độc tài ẩn mình và bí mật nhưng vô cùng khôn ngoan, nằm trong tay những tổ chức bí mật hoặc những kẻ có phong cách hành động vô liêm sỉ bởi vì đó là cách mà bộ máy hoạt động đằng sau lớp vỏ ngoài, đằng sau tất cả mọi mạng lưới gián điệp, ở đây quá trình thay đổi nhân sự không những không làm hệ thống bị tổn thương mà còn giúp nó duy trì sự bí mật nhờ việc, thông qua thay đổi liên tục, loại bỏ những đòi hỏi phải mở rộng nguồn lực để trả công cho những sự phục vụ lâu dài.

2_Ai và cái gì sẽ đứng ở vị trí lật đổ quyền lực vô hình? Đây chính xác là mục đích của lực lượng chúng ta, những nam tước GOYIM đóng vai gương mặt đại diện, phục vụ một cách mù quáng cho mục tiêu của ta, nhưng mục tiêu đó là gì, sẽ luôn là bí mật tuyệt đối đối với chúng.

CHÚNG TA SẼ TIÊU DIỆT THÁNH THẦN

3_Nhưng tự do cũng sẽ có lúc vô hại và có thể tồn tại trong nền kinh tế mà không làm tổn hại đến sự thịnh vượng của người dân nếu nó có nền tảng là đức tin vào thần thánh, là tình đoàn kết nhân loại, xa rời khái niệm bình đẳng, thứ đã bị phủ nhận bởi quy luật tự nhiên nằm trên tất cả. Với đức tin như vậy, người dân có thể được cai trị bởi sự bảo trợ của các giáo khu, sẽ bằng lòng và nhún nhường bước đi dưới sự chỉ đạo của các mục sư tâm linh truyền bá sự sắp đặt của đấng toàn năng trên thế gian. Đây là lí do chúng ta bằng mọi cách phải làm xói mòn mọi đức tin, làm biến mất khỏi tâm trí người GOYIM những giáo lí tâm linh, đặt vào đó sự tính toán và nhu cầu vật chất.

4_ Để người GOYIM bị cuốn vào vòng xoáy này, chúng ta phải hướng sự tập trung của chúng vào công nghiệp và thương mại. Mọi quốc gia sẽ rơi vào vòng xoáy tranh giành lợi ích, ganh đua lẫn nhau mà không còn để tâm tới kẻ thù chung. Nhưng cần phải nhắc lại là, để tự do biến mất mãi mãi, chúng ta phải đặt ngành công nghiệp trên một lý thuyết cơ bản mà ở đó tài nguyên từ các vùng đất được công nghiệp khai thác sẽ, thông qua đầu cơ, được chuyển giao cho tầng lớp của chúng ta.

5_Sự cạnh tranh khốc liệt để giành vị thế và những cú shock mà nền kinh tế phải gánh chịu sẽ, mà không, đã tạo ra những cộng đồng thực dụng, lạnh lùng và vô cảm. Những kẻ này sẽ ấp ủ một ác cảm mạnh mẽ đối với thể chế chính trị và với tôn giáo. Đức tin duy nhất của chúng là mưu lợi, là vàng, thứ sẽ phát triển thành sự tôn thờ thực sự, tôn thờ sự thỏa mãn vật chất. Và khi thời khắc quan trọng đến, chẳng phải để tìm kiếm lợi ích , thậm chí chẳng vì vật chất, mà chỉ đơn thuần là sự thù hận giới quý tộc, tầng lớp hạ lưu GOYIM sẽ tuân lệnh chúng ta để chống lại địch thủ tranh giành quyền lực với ta, giới trí thức GOYIM.

_*_

Chủ đề về Chủ nghĩa duy vật: Buổi nói chuyện "Tinh thần và Vật chất" của Thượng Toạ Thích Chân Quang, cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, cháu ruột Hồ Chủ Tịch.

https://www.youtube.com/watch?v=5_8SUX_Co2I



Tái bút: Sẽ có nhiều người cười vào mặt Tân Sinh, người dịch, Thời Thổ Tả và nói rằng: "Tài liệu này chỉ là một thuyết âm mưu".

Tân Sinh xin nói nhỏ với những người đó điều này: 

Thuyết âm mưu là một danh từ rỗng, vô nghĩa, được những kẻ bề trên nhào nặn ra như một cái mũ với tính tiêu cực, chụp lên những người lăm le đi tìm sự thật về chúng, suy nghĩ và hoạt động của chúng. "Thuyết âm mưu" là gì? Là sự thật hay là sai sự thật? Nếu nó là sự thật hãy nói nó là sự thật. Nếu nó không phải sự thật, hãy nói nó không phải là sự thật, là sự dối trá. Còn không biết nó sự thật hay không phải sự thật, thì hãy kiểm chứng, hãy xét lại, hãy suy xét như một con người có tinh thần phản biện, khoa học. 

Bình đẳng (chân chính) là gì? - Cháu ruột Bác Hồ, TT. Thích Chân Quang

Bình đẳng khác với san bằng quyền lợi:

San bằng quyền lợi là buộc mọi người chỉ nhận được một số quyền lợi giống nhau, dù họ có phước khác nhau, dù họ bỏ ra công sức khác nhau, dù họ đem lại hiệu quả khác nhau.

Chữ Lục hòa trong cách sống của chư Tăng nhiều khi cũng được hiểu là san bằng quyền lợi như vậy, mọi người đều có quyền lợi như nhau, không ai nhiều quyền lợi hơn ai. Trong cộng đồng người tu, điều này có thể chấp nhận được vì người tu không đòi hỏi quyền lợi dù công sức bỏ ra rất nhiều. Nhưng sẽ là rất khó nếu điều này được áp dụng trên toàn xã hội.

Hầu hết ai cũng có vị kỷ tiềm ẩn, ai cũng muốn được công bằng. Người làm nhiều phải được hưởng nhiều. Công bằng cũng là tính chất của luật Nhân Quả. Nghĩa là người nào có phước nhiều, họ phải được hưởng sung sướng nhiều hơn.

Trong xã hội, người nào đóng góp công sức nhiều, người đó phải được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Đó là tính công bằng của xã hội. Cho nên, xã hội không thể buộc mọi người phải hưởng quyền lợi giống nhau, trong khi khả năng của họ khác nhau. Người thông minh hơn, tài năng hơn, làm việc hiệu quả hơn, không thể hưởng mức lương như người không có tài năng, không có trí tuệ. Nếu buộc mọi người hưởng quyền lợi giống nhau dù họ đem lại hiệu quả khác nhau sẽ phá vỡ sự phấn đấu cá nhân, vì thực tế là ai cũng còn tâm lý vị kỷ, và đòi hỏi sự công bằng.

Do đó, san bằng quyền lợi, buộc mọi người hưởng quyền lợi giống nhau là một điều không thể thực hiện được. Đó là việc làm phá vỡ luật công bằng và làm nhiều người nảy sinh tâm lý chán nản.

Chỉ trong môi trường của người tu theo đạo Phật, điều này mới có thể thực hiện được ở một chừng mực nào đó. Trong đạo Phật, trong một đại chúng, có người làm được nhiều việc, có người làm được ít việc. Nhưng người làm được nhiều việc thường không chấp, họ buông xả được tính vị kỷ của mình, chấp nhận đời sống san bằng quyền lợi. Tất nhiên, việc san bằng quyền lợi, chỉ áp dụng được trong chùa một phần thôi, có khi không được hoàn toàn. Đó là khi trong chúng có những người phước bổng vượt lên. Họ là người tu tập được nhiều, đóng góp được nhiều cho đại chúng. Dù không mong nhiều quyền lợi, vẫn muốn chia đều quyền lợi nhưng phước đến không kéo lại được nữa. Họ bắt đầu được nhiều Phật tử mến mộ. Do phước tự nhiên, trí tuệ họ được mở mang, họ có thể thuyết pháp, giảng kinh, làm được nhiều việc nổi bật hơn. Thế là, những vị Trụ trì, những Thầy bậc trên ưu ái, dành cho họ những đặc quyền đặc lợi. Dù không muốn nhưng họ cũng bắt đầu được hưởng. Rồi chúng khác cũng không lấy làm khó chịu vì phước của họ xứng đáng được hưởng như thế.

Như vậy, buộc mọi người phải sống bằng nhau trong quyền lợi là điều rất khó thực hiện. Trên tâm nguyện, người tu theo đạo Phật có học pháp Lục hòa nên dễ dàng chấp nhận hưởng quyền lợi bằng Huynh đệ cho dù họ đóng góp nhiều hơn. Nhưng có những trường hợp, chùa cũng không làm được điều đó vì phước của mỗi người có sự sai biệt.

Ngoài xã hội, điều này tuyệt nhiên không thể thực hiện được. Những người có tài năng, có trí tuệ phải được hưởng quyền lợi nhiều hơn. Như vậy, bình đẳng không phải là san bằng quyền lợi.

Bình đẳng là thái độ Đạo đức trong giao tiếp với mọi người:

Nếu san bằng quyền lợi là cơ chế của tổ chức, ở trong chùa hay ngoài thế gian, thì bình đẳng là thái độ của Đạo đức khi đối xử với mọi người.

Hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau.

Trong đối xử, bình đẳng ngược với sự thiên vị. Người xuất gia, đối với Phật tử phải có sự bình đẳng. Phật tử đến chùa, có người nghèo, người giàu. Trước hai hạng người như vậy, nếu giữ được sự bình đẳng, chúng ta sẽ không có sự phân biệt đối xử với họ. Như vậy, chúng ta là người có Đạo đức bình đẳng. Nhưng giữ được thái độ này là điều hoàn toàn không đơn giản, không phải ai cũng có thể làm được.

Người ngoài thế gian cũng như người trong Đạo thường có nhiều lý do để đối xử thiên vị.

- Thứ nhất, chúng ta thường đối xử thiên vị người có duyên với mình từ những kiếp trước,( duyên ở đây có nghĩa là duyên lành).Trong những kiếp trước, có thể họ đã ưu ái, đã giúp đỡ mình. Kiếp này gặp lại, dù không cố ý nhưng tự nhiên chúng ta vẫn thiên vị họ, vẫn đối xử tốt với họ hơn những người khác.

Chẳng hạn, do duyên kiếp trước chi phối nên có người đến xin xuất gia, Thầy trụ trì nhận ngay, có người lại bị từ chối. Trong đối xử, nếu không có sự bình đẳng cũng do duyên đời xưa. Mặc dù trong lòng không có sự phân biệt, không thương ai nhiều hay ghét ai nhiều hơn, nhưng duyên đời xưa chi phối rất mạnh nên chúng ta có sự thiên vị, không bình đẳng trong đối xử. Chỉ vì đây là điều thuộc về Nhân quả nên chúng ta rất khó vượt qua.

Ngay cả trong gia đình, cha mẹ đối với con cái cũng không đồng đều, vẫn có sự thiên vị. Thực ra, con nào cũng do mình sinh ra nên không có lý do gì để cha mẹ ghét bỏ, đối xử phân biệt. Nhưng do duyên chi phối nên nhiều khi cha mẹ lại thương những đứa con quậy phá tày trời mà những đứa ngoan hiền lại không để ý đến. Có những tình cảm kì lạ như thế.

Những sự thiên vị đó, chúng ta chỉ có thể giải thích được bằng nguyên nhân thuộc về duyên đời trước mà thôi.

- Thứ hai, chúng ta thường đối xử thiên vị với những người có nhiều ưu điểm. Điều này cũng đã được nhắc đến trong bài Tâm từ. Người có ưu điểm là người có nhan sắc, có vẻ đẹp nổi trội hoặc sang trọng hơn so với người khác. Mặc dù người ta không có duyên với mình lắm, nhưng vì những điểm nổi trội đó mà chúng ta hay để ý đến họ, thiên vị họ. Sự thiên vị nhiều khi cũng ẩn chứa một sự cầu cạnh, mong rằng người ta sẽ đoái hoài tới mình, giúp đỡ mình. Dù khác nhau về mức độ nhưng nó vẫn là biểu hiện của sự vị kỷ.

Thiên vị không phải là Đạo đức, và đó là điều mà tất cả chúng ta, người xuất gia hay cư sĩ, cũng đều dễ phạm phải. Nếu tu tập không vững chắc, đạo lực không mạnh, chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng đối xử thiên vị.

Hiện nay, tình trạng người xuất gia đối xử phân biệt với cư sĩ đến chùa, phân biệt giữa người giàu và người nghèo là một trình trạng rất phổ biến và bị than phiền khắp nơi. Nếu quý Phật tử nào chưa rơi vào trường hợp ấy là người có phước, đã gặp được những vị tu hành chân chính. Không ít người tỏ ra rất bất mãn khi thấy có nơi, các Thầy chỉ ân cần, vồn vã với những Phật tử giàu có và tỏ ra lơ là với những người nghèo khổ.

Để lý giải điều này với Phật tử, chúng ta chỉ có thể nói rằng vì đời trước những người ấy đã tạo phước, biết quan tâm đến người khác. Phước sẽ hiện ra trên gương mặt rạng rỡ, ánh mắt khả ái, tiền bạc nhiều, tướng người sang trọng….nên họ có một lực thu hút sự chú ý của người khác, đi đâu cũng được người ta trân trọng. Khi đến chùa, họ cũng thu hút sự chú ý của người xuất gia. Người nghèo thường là người ít phước, họ không được sự chú ý của người khác. Đó là luật công bằng, công bằng đến nghiệt ngã mà chúng ta phải chấp nhận.

Nhưng về phía người xuất gia, nếu biết tu tâm, biết giữ tâm mình thanh tịnh, đứng trước mọi người, mọi cảnh, tâm vẫn không chạy theo. Họ luôn luôn kiểm soát tâm mình. Đứng trước hai đối tượng ấy, có thể phước của người giàu thu hút tâm họ, nhưng vì sức định trong lòng họ vững chắc nên tâm họ không bị hút về đó. Họ vẫn ở lại với tâm mình. Bởi vậy, dù người kia có giàu sang, gương mặt rạng rỡ, nhưng họ vẫn ở lại với tâm, không bị chi phối.

Dù là niệm Phật hay tu Thiền, người biết tu tập thường không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Có khi đang niệm Phật, tuy nói chuyện với người khác nhưng họ vẫn ở lại với câu niệm Phật trong tâm mình, tâm không hướng ra ngoại cảnh. Người tu Thiền lúc nào cũng kiểm soát tâm mình, xem tâm tịnh hay động. Mặc dù nói chuyện với người khác hoặc làm việc gì đó nhưng lúc nào họ cũng ở lại với tâm, kiểm soát tâm. Sức định càng sâu, họ càng ít bị ngoại cảnh chi phối.

Đây là vấn đề tế nhị của tâm và cũng là vấn đề khó hiểu. Người không tu tập vững chắc, thừơng bị ngoại cảnh lôi cuốn tâm ra bên ngoài. Còn người có công phu tu tập vững chắc, họ sẽ ở lại với tâm của mình. Vì vậy, giữa hai người giàu và nghèo, không ai có thể cuốn hút họ được. Điều này biểu hiện ra ở cách ứng xử bên ngoài. Đó là lòng từ bi, lòng bình đẳng.

Người giữ được tâm mình trong định là người có trí tuệ. Vì là người có trí tuệ nên họ thường chú ý đến người nghèo khổ nhiều hơn. Sở dĩ như vậy là do họ biết người nghèo khổ dễ bị mặc cảm, mặc cảm về thân phận nghèo hèn của mình. Khi đến chùa, những người ấy thường không dám gặp thầy Trụ trì. Họ loanh quanh làm lụng việc gì đó hoặc khi nghe Thầy nói chuyện, họ cũng chọn một chỗ ngồi kín đáo, không dám lộ mặt ra.

Nếu có công phu tu hành vững chắc, tâm ổn định, người xuất gia sẽ nhận ra được thái độ mặc cảm, buồn tủi của người nghèo, nhất là người tật nguyền, để tỏ lòng thương và quan tâm đến họ nhiều hơn. Chính tình yêu thương và sự quan tâm đúng mực của chúng ta sẽ giúp họ vơi đi những mặc cảm vốn tồn tại cố hữu trong lòng họ. Đó là Đạo đức bình đẳng. Thực ra, trong trường hợp này, đối với những người có trí tuệ, sự bình đẳng lại mang một ý nghĩa khác, linh hoạt hơn. Bình đẳng nhưng lại thiên vị đối với người nghèo. Những người giàu có thường sinh tâm kiêu ngạo về sự giàu sang của mình. Nếu được ân cần vồn vã, họ càng dễ kiêu ngạo hơn. Với những người như vậy, chúng ta không thiên vị cũng không sao, vì chùa này không quan tâm sẽ có chùa khác quan tâm.

Có những Phật tử cậy chỗ giàu sang, khi cúng dường công quả thường yêu cầu chùa phải làm theo ý mình. Gặp những trường hợp ấy, chúng ta phải dứt khoát, không bao giờ nghe theo. Chúng ta không đồng ý là để diệt cái ngã của họ, diệt tâm kiêu mạn về sự giàu có của họ. Tất nhiên, sự lạnh lùng nghiêm khắc của chúng ta có khi không đem lại hiệu quả vì người ấy có thể đến chùa khác và sẽ được ân cần đón tiếp. Hoặc kết quả có thể xảy ra ngược lại, người ấy không bao giờ đến chùa nữa. Nhưng chúng ta vẫn phải kiên quyết để cho họ một bài học. Có thể họ được đón tiếp ân cần ở chùa khác, nhưng dù sao họ cũng hiểu rằng, có ít nhất một nơi không có chỗ cho tâm kiêu mạn của họ ngự trị.

Những người nghèo thường lui tới chùa là những người mến chùa, cần tình yêu thương. Nếu chúng ta không tiếp, họ sẽ cảm thấy lạc lõng, mặc cảm cho thân phận mình. Vì vậy, chúng ta phải thương yêu những người nghèo khổ, bù đắp cho họ những thiếu thốn trong đời sống tinh thần. Đối với những người tật nguyền, chúng ta càng phải quan tâm hơn nữa để xoá dần trong họ những nỗi mặc cảm, giúp họ tự tin hoà nhập với cuộc đời.

Nếu là người quản chúng, chúng ta phải tạo cơ hội đồng đều cho chúng tu học và công quả, không phân biệt dòng dõi, tài năng. Như vậy là chúng ta đã giữ được Đạo đức bình đẳng.

Người tu hành thường có ba việc: tu, học và làm việc.

Tu bao gồm nhiều việc ngồi Thiền, lễ Phật, tụng Kinh. Học có thể hiểu một cách rộng rãi: học trên lớp, tự học ở nhà, học với Thầy….Người quản chúng phải đào tạo điều kiện cho chúng thực hiện hai điều này. Phải tạo điều kiện cho họ nhưng không được thiên vị. Người có điều kiện học, chúng ta phải giúp cho họ được học, giúp cho họ có thì giờ để tu. Đối với người xuất gia, tu là việc quan trọng nhất. Vì vậy, lười biếng, không tu tập là điều không thể chấp nhận được. Người tu hành có thể học ít, nhưng tu là phải luôn luôn tinh tấn, không tinh tấn tu hành thì không xứng đáng làm một người xuất gia.

Vấn đề ở đây là không thiên vị. Người Trụ trì, Giáo thọ, Tri sự hay quản chúng phải tạo điều kiện đồng đều cho họ học hành, tu tập. Có khi có duyên với người này nhiều, với người kia ít, nhưng chúng ta phải quan tâm đến tất cả mọi người, quan tâm đến từng người, từng căn cơ một. Nếu để cho người nào đó lôi cuốn bởi cái phước của họ, chú ý nâng đỡ họ thì chúng ta là người không có đạo lực. Trong từng lúc, từng nơi, chúng ta phải cẩn thận, đừng để thiên vị bởi phước của người khác. Vì thiên vị với người có phước sẽ làm cho chúng ta mất đi Đạo đức bình đẳng.

Nếu là người có trách nhiệm, chúng ta nên chú ý nhiều đến những người trí tuệ kém cỏi, căn cơ còn kém, tánh tình chưa được đàng hoàng. Vì dù sao họ cũng đã có chí nguyện xuất gia. Những người có phước, tự mình có thể đi được, có thể đứng vững trên đôi chân của mình được. Người không có phước, chúng ta phải kèm cặp, quan tâm nhắc nhở nhiều hơn. Đó chính là Đạo đức của người quản chúng.

Việc công quả với người tu hành cũng rất quan trọng. Vì thế, chúng ta phải lưu ý tạo điều kiện cho họ công quả. Nếu không công quả, người xuất gia không thể nào tiến Đạo.

Người Trụ trì thường mắc phải sai lầm ở chỗ hay phạt những người có tánh xấu, thường phạm lỗi bằng cách bắt họ làm những việc nặng nhọc. Đó là điều nguy hiểm cho đại chúng về sau. Vì sai họ làm như vậy, chúng ta cứ tưởng là phạt họ nhưng thực chất là tạo điều kiện cho họ công quả. Sau này họ sẽ có phước, sẽ là người lãnh đạo trong chùa. Một khi người có tánh tình xấu làm lãnh đạo trong chùa, điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn chùa không còn là nơi tu hành nghiêm túc nữa. Những người tu tốt sẽ không chịu đựng được, cuối cùng sẽ bỏ đi .

Sẽ có người thắc mắc tại sao người không tốt lại được làm lãnh đạo? Đây cũng là điều hợp lý, hợp lý theo luật Nhân Quả. Vì trước kia, họ bị người lớn ghét, bắt công quả nhiều, bây giờ họ được hưởng phước, được làm người lãnh đạo.

Bởi vậy, theo luật Nhân Quả, chúng ta cần lưu ý: những người có Đạo đức, muốn đào tạo để thành người lãnh đạo tốt sau này, chúng ta phải bắt công quả nhiều hơn. Người lãnh đạo chúng có Đạo đức sẽ rất tốt cho chùa. Những chùa có người lãnh đạo như vậy sẽ là nơi tu học nghiêm túc, là nơi Phật tử có thể chọn làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình. Những chùa tốt sẽ góp phần làm cho Phật pháp ngày càng hưng thịnh.

Về căn bản, chúng ta tạo cơ hội cho đại chúng công quả đồng đều, để họ có phước, tu hành được tinh tấn. Nhưng chỉ công quả trong chùa chưa đủ, người xuất gia phải biết làm công quả ở ngoài chùa. Vì nếu công quả giới hạn trong phạm vi chùa, mỗi người lo làm việc tốt cho nhau thì người tu chỉ tiến được Đạo đức chứ không tiến được phước. Người Trụ trì phải tạo điều kiện cho chúng công quả ngoài chùa, thường xuyên làm việc từ thiện để tạo phước về sau.

Có những ngôi chùa làm được những việc rất đáng tán thán, ngợi ca. Có một ngôi chùa, khi cần thiết, có đến 42 người trong chúng hiến máu. Phải thấy rằng, không có phước gì lớn bằng phước hiến máu cứu người. Người ta có thể cho tiền bạc, nhưng hiến máu không phải ai cũng làm được. Người ta gọi đó là bố thí nội tài.

Chúng ta cần lưu ý, không thiên vị, nhưng cũng không san bằng quyền lợi. Vì như đã nói ở trên, san bằng quyền lợi là phá vỡ Nhân Quả. Trong chúng, khi đối xử với mọi người, chúng ta phải luôn luôn tạo cơ hội đồng đều cho họ. Tuy nhiên, làm được hay không còn tùy thuộc vào họ. Có người, đến giờ tu, rất tinh tấn nhiếp tâm. Có người vẫn ngồi đó nhưng tâm không ở với họ mà đi lang thang. Có người lễ Phật với lòng tôn kính thiết tha. Nhưng cũng có người lễ Phật một cách hời hợt. Như vậy, Nhân Quả lúc này là tự họ gieo chứ không phải chúng ta nữa. Trách nhiệm của chúng ta là tạo điều kiện đồng đều cho tất cả mọi người. Còn dụng tâm, nỗ lực đến đâu là tuỳ họ. Càng về sau, phước của mỗi người sẽ tách ra dần dần. Người tốt sẽ đi theo con đường tốt. Người chưa tốt tự nhiên sẽ dừng lại, sẽ bị rơi lại đằng sau. Đó là lẽ đương nhiên, chúng ta không thể cưỡng lại được, mặc dù lòng mình vẫn bình đẳng thương yêu. Đừng bao giờ nghĩ rằng, bình đẳng là điều gì cũng phải bằng nhau. Nghĩa là, mọi người chưa đạt được điều này thì người khác cũng không thể đạt được điều kia. Hiểu như vậy là sai lầm, là kìm hãm sự phát triển, sự tu hành tinh tấn của mỗi cá nhân.

Chẳng hạn, khi có người tu tốt, trí tuệ mở ra, được nhiều Phật tử quý mến, duyên giáo hóa của họ cũng đã đến, chúng ta không nên cản lại. Chúng ta đừng vì lý do bao nhiêu người khác chưa ra giáo hóa, giảng dạy mà ngăn cản việc giảng pháp của họ. Làm như vậy là chúng ta bắt đầu rơi vào bệnh san bằng quyền lợi. Khi phước của họ đã khác, duyên của họ đã đến, chúng ta phải tùy duyên mà tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng, làm những việc Phật sự lớn hơn. Đó không phải là sự thiên vị. Đó là một hành xử đúng với luật Nhân Quả.

Trong đối xử, chúng ta cần phải giữ sự trung đạo. Nghĩa là lòng chúng ta vẫn thương yêu đồng đều, không thiên vị, vẫn muốn cho mọi người đều tốt. Nhưng khi ứng xử hành động, chúng ta phải tùy duyên, tùy phước, tùy nhân quả của mỗi người, không nên áp đặt và không san bằng quyền lợi. Hay nói cách khác, giữa bình đẳng và san bằng quyền lợi có sự khác nhau, chúng ta phải phân biệt cho rõ để áp dụng cho đúng, tránh phạm phải những sai lầm. Đây là điều khó mà những bậc Trụ trì cần lưu ý. Nếu không cẩn thận, không giữ được tâm, chúng ta sẽ thiên vị trong đối xử.

Nếu một lúc nào đó, chúng ta rơi vào cực đoan, không thấy được Nhân Quả nên san bằng quyền lợi, trong khi phước của mỗi người bắt đầu có sự sai biệt là chúng ta đã cưỡng lại Nhân Quả. Như vậy, chúng ta đã phạm sai lầm. Đây là chỗ người tu phải cẩn thận. Bởi vậy, nói đến Đạo đức bình đẳng là nói đến việc phán xét bên ngoài nhiều hơn, mặc dù có sự kiểm soát tâm mình.

Bình đẳng biểu lộ đạo đức

Người có phước luôn luôn tạo sự thu đối với mọi người. Ngược lại, người có tội, người nghèo khổ thường tạo ra sự thờ ơ ghẻ lạnh. Nếu tu tâm từ bi ít, không thương người nghèo khổ, chúng ta sẽ bị phước của người giàu sang thu hút, trở nên thiên vị. Lúc ấy, chúng ta sẽ thành một người cục bộ, thiên vị cá nhân. Như vậy, làm sao chúng ta xứng đáng là tàng cây che mát cho mọi người?

Bởi vậy, đối với chúng ta, tu tập tâm từ bi là yêu cầu căn bản, là điều kiện tiên quyết để hiểu sâu sắc những vấn đề về Đạo đức và áp dụng có hiệu quả những vấn đề ấy trong cuộc sống. Tâm từ bi không chỉ tu ngày một, ngày hai mà phải tu tập cả một đời. Mỗi ngày, khi lễ Phật, khi ngồi Thiền, chúng ta phải quán từ bi, thương yêu mọi người. Chừng nào khi tiếp xúc, những người nghèo làm cho chúng ta thương yêu nhiều hơn là lúc ấy chúng ta đã đi đúng con đường của kẻ tu hành. Trong đối xử, chắc chắn chúng ta sẽ biểu lộ được Đạo đức bình đẳng.

Người có đạo lực là người không bị sự sai biệt của ngoại cảnh chi phối, không bị kẻ có phước kéo tâm mình chạy về phía họ. Bởi vậy, trong giao tiếp, chúng ta cần giữ được tâm từ bi đồng đều với mọi người dù đó là người phước nhiều hay kẻ phước ít. Tăng Ni hiện đang bị phê phán rất nhiều về thái độ vồn vã với người giàu và thờ ơ với người nghèo.

Chúng ta nên nhớ rằng, đối với những người giàu sang, chúng ta có đối xử ân cần hay không, điều ấy không quan trọng. Đi đâu họ cũng được đối xử ân cần. Họ đến chùa nào cũng được như vậy và đến với bạn bè, họ cũng được điều đó. Có những người giàu rất thán phục khi thấy chúng ta đối xử tốt với người nghèo. Còn ân cần vồn vã với họ, có khi chúng ta lại bị coi thường. Có một số Phật tử giàu sang tỏ ra khinh thường khi thấy người tu chúng ta đến thăm. Họ nghĩ rằng, chúng ta đến cầu sự cúng dường của họ. Bên ngoài nhiều khi không biểu hiện, nhưng trong tâm họ đã xuất hiện tâm lý coi thường. Người tu chúng ta phải cẩn thận, dè dặt khi tiếp xúc với những người giàu có. Tất nhiên, chúng ta không “vơ đũa cả nắm”, nhưng phải thừa nhận rằng, người giàu thường kiêu ngạo và dễ nghĩ xấu cho người tu. Bởi vậy, chúng ta cần phải giữ thái độ bình thản khi giao tiếp với họ. Tuyệt đối không được đối xử lạnh nhạt, thờ ơ với người nghèo mà ân cần vồn vã với người giàu. Phải cho họ thấy được sự khác biệt giữa chúng ta với người đời.

Để thực hiện được điều đó, người tu phải có một bản lĩnh, bản lĩnh vượt lên trên cái thường tình, có thể thờ ơ bất cần với người giàu, nhưng lại ưu ái với người nghèo

Nói như vậy, không phải ai đến chùa chúng ta cũng xem xét vấn đề giàu nghèo. Sở dĩ chúng ta thương người nghèo, vì họ dễ bị mặc cảm, dễ tủi thân. Còn cái chúng ta quan tâm, chú ý thật sự đối với những Phật tử khi đến chùa là cái tâm. Tâm ở đây nghĩa là tâm Đạo, là mức độ hiểu Đạo, mức độ ham thích tu tập của họ. Vì vậy, xét về mặt này, chúng ta không nên phân biệt giàu nghèo. Có trường hợp đến với chùa là những người giàu sang nhưng có tâm Đạo. Chúng ta nên quý trọng họ. Một khi hiểu Đạo, những người ấy sẽ không nghĩ xấu, nghĩ lệch lạc khi được chúng ta đối xử tốt.


Tóm lại, trong cách cư xử, nếu là người “sáng mắt”(hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), chúng ta sẽ nhận ra ở người giàu tâm Đạo của họ đến mức nào và sẽ có thái độ thích hợp. Nếu là người kiêu ngạo, chúng ta giữ thái độ thờ ơ, lạnh lùng để cho họ một bài học Đạo đức trong cách sống. Nếu là người có tâm Đạo, chúng ta phải đối xử tối với họ như bao người khác.

Nguồn


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...