Tài
liệu ngoại giao mật của Mỹ ngày 19 tháng 1 năm 1974, rõ rỉ từ Wikileaks phần
nào giải thích thái độ Mỹ và tại sao họ không cứu VNCH, không can thiệp vào xung
đột TQ đánh chiếm Hoàng Sa 1974.
1.
Các xung đột quân sự ở Hoàng Sa có hậu quả rõ ràng ở một số lượng thương vong
phía GVN (GVN - VNCH), với các báo cáo của VNCH 2 tàu chiến có thể bị chìm bởi
các tên lửa Styx của PRC (TQ). CQ VNCH đã đề nghị chúng ta giúp đỡ tìm kiếm và
cứu nạn. Tình hình là phức tạp bởi báo cáo về sự có mặt trên đảo Hoàng Sa (VNCH
chiếm giữ) của nhân viên dân sự Mỹ thuộc Cơ quan tùy viên quốc phòng (DefenseAttache
Offices) ở Đà nẵng. Chúng tôi không biết tại sao anh ta lại ở đó.
2.
Chúng tôi đã yêu cầu DoD (Bộ QP) chỉ thị cho Hải quân Mỹ đứng ngoài khu vực.
Hai ngày trước (17 tháng 1), chúng tôi đã thảo luận tình hình với Đại sứ Martin
qua điện thoại và nhấn mạnh lợi ích của chúng ta trong tình hình yên ổn. Chúng
tôi đang cố để có nhiều thông tin hơn, kể cả bí mật.
3.
Tuyên bố báo chí ở đây sẽ theo các đường lối sau:
-
Chính phủ Mỹ (USG) không có vai trò trong các tuyên bố trái ngược đối với Hoàng
Sa, nhưng rất mong muốn một giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp.
-
Chúng tôi hiểu rằng cả TQ và VNCH đã chiếm giữ các đảo khác nhau trong nhóm đảo
Hoàng Sa một số năm. Chúng tôi không rõ hoàn cảnh mà trong đó xung đột hiện tại
đã nổ ra.
-
Lực lượng quân sự Mỹ không can thiệp.
4.
Chúng tôi đang nói Đại sứ quán Sài Gòn khuyên VNCH làm các bước tối thiểu để bảo
vệ mình và giải cứu các công dân của họ (và viên chức Mỹ của chúng ta), nhưng
hãy làm những điều cần phải làm để tránh các xung đột trực tiếp xa hơn với các lực
lượng TQ. Điều cuối cùng VNCH hay chúng ta cần vào lúc này là đối đầu TQ/VNCH
trên quần đảo dẫn đến vai trò ít có lý lẽ hơn của TQ trong xung đột VN.
Liên Xô sụp đổ dễ dàng bởi nắm quyền lực là
những kẻ cũng như Mỹ - Chúng dường như là đối thủ chính chống lại chính Liên Xô.
Vấn đề là ở chỗ, khi những gã con buôn nắm quyền, thì đất nước chỉ còn đơn giản
là bị mua và thâu tóm bằng 1 số tiền qui định. Liên Xô đã bị mua bởi chóp
bu Do Thái Mỹ ở chóp bu Liên đoàn Do Thái.
Chúng đã
bán Liên Xô như thế nào?
Một
trong những đầu trò vụ bán chác này là gã Gorbachev – không ngạc nhiên khi hắn
được bầu là “danh tiếng thứ 30” của thế kỷ XX, được gắn mề đay Nobel, được ném
cho rất nhiều tiền.
Có sự kỳ lạ ở Ủy ban khẩn cấp tháng 8 (Государственныйкомитет по чрезвычайному положению - gọi tắt là UBKC). Ngày này, chúng ta là nhân chứng với những gì đang xảy ra ở Kiev, khi quyền lực bị chuyển vào tay đám chiến binh Maidan, thì rõ ràng, không chỉ những quan chức Ukr tham nhũng trơ tráo, mà trước tiên, là sự yếu đuối của quyền lực, đã kích thích các chiến binh đến chỗ vô luật lệ. Các sự kiện ở Kiev năm 2014, một lần nữa làm người ta nhớ sự kiện Moskva tháng 8 1991. Thái độ chần chừ và thiếu dứt khoát của giới quan chức an ninh đứng đầu là lãnh đạo KGB Vladimir Kryuchkov làmUBKCthấtbại. Thậm chí là khi đó họ có thể dựa vào hầu hết quần chúng, cần phải nhắc là tháng 3 1991, 70%dân chúng vẫn ủng hộ nhà nước liên bang.
Ảnh: Chỉ huy
dù Pavel Grachyov và soái không quân Evgeny Shaposhnikov
đóng vai trò không
phải là cuối cùng trong việc UBKC thất bại và các sự kiện sau đó.
Bắt Yeltsin – nhưng đợi "chỉ
đạo"
Như người ta
biết, đặc nhiệm "Nhóm A" của KGB do anh hùng Xô Viết V. F. Karpukhin chỉ huy vào
tối 18 rạng sáng 19 tháng 8 1991 đang ở Arkhangelsk. Nhưng mệnh lệnh cô lập Yeltsin,
bất chấp có nhiều cuộc điện đàm của "Nhóm A" về Sở chỉ huy, đã không
được thi hành. Về điều này có thể dẫn lời người trực tiếp tham gia vào sự kiện,
là chủ tịch Hội cựu chiến binh quốc tế của sư đoàn chống khủng bố "Alpha",
đại biểu Hội đồng nhân dân Moskva, ông Sergey Goncharov:
"Karpukhin báo
cáo về Sở chỉ huy rằng chúng tôi đang ở vào vị trí và sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh.
Mệnh lệnh cuối cùng mà tôi nghe rõ ràng: "Đợi chỉ đạo!". Trời bắt đầu
sáng. Tôi nói với Karpukhin: "Fyodorych! đ/c hãy báo cáo về Sở chỉ huy – sắp
bình minh rồi". Một lần nữa có lệnh: "Đợi! Sẽ liên lạc sau". Chỉ
huy của chúng tôi phản ứng: "Thế đợi cái gì!", và chúng tôi tái bố trí
đến 1 ngôi làng gần Arkhangelsk. Những người hái nấm đến… Họ thấy binh lính trong
trang phục bất thường – ngụy trang và súng trong tay, đã sợ hãi và đứng sững lại
khi chúng tôi né sang bên, họ đi về nhà.
Như tôi hiểu, thông
tin đã đến với Korzhakov. Tôi nói: "Fyodorych, hãy gọi lại đi! Tất cả hiểu,
chúng tôi đã được ra ám hiệu!" Karpukhin tìm chỉ dẫn. Người ta đưa ra cho
ông mệnh lệnh mới: "Chuyển sang vị trí của phương án No. 2". Đó là
lúc tiến công đánh chiếm. Chúng tôi đưa quân ra, lên xe và tiến lên trước độ 2 km,
chúng tôi bắt đầu đeo trùm đầu. Nhưng có thể làm điều đó như thế nào với 1 lượng
quân như thế này? Dân nông thôn nhìn chúng tôi rất dè dặt, họ không dám cả đi ra ngoài lấy nước…
Ảnh: Anh
hùng Xô Viết Victor Fyodorovich Karpukhin (1947-2003).
Chính ông là chỉ huy
“Nhóm A” của KGB khi đợi lệnh bắt Boris Yeltsin.
Nhưng đã không nhận được cái
lệnh ấy.
Được thôi. Đã
nghiên cứu chiến dịch, làm thế nào để chặn đoàn xe, Karpukhin báo cáo đã
sẵn sàng. Lúc 6 h, trời sáng, tất cả đã nhìn rõ, đoàn tàu hỏa đang đi về Moskva.
Từ Sở chỉ huy lại 1 lần nữa: "Đợi chỉ đạo, sẽ có lệnh!"
7 h, có 1 đoàn xe
công tác cùng bảo vệ bắt đầu kéo nhau đến Arkhangelsk. Chúng tôi thấy có một số
nhân vật cỡ bự. Dĩ nhiên, đã cử người đi điều tra. Có vẻ là Khasbulatov,
Poltoranin và 1 số kẻ khác đến. Chúng tôi báo cáo. Lại có lệnh: "Chờ chỉ
đạo!" Tất cả! Chúng tôi không hiểu họ có muốn và tiến hành chiến dịch như
thế nào!
Đến khoảng 8 h sáng,
trinh sát cho biết: "Đoàn xe – 2 chiếc ZIL bọc thép, 2 Volga với bảo vệ của
Yeltsin và những kẻ đã đến đang đi trên đường. Chuẩn bị hành động!"
Karpukhin gọi về Sở chỉ huy 1 lần nữa và nghe: "Đợi mệnh lệnh!" –
"Đợi cái gì, đoàn xe sẽ đi qua trong vòng 5 phút!" – "Đợi mệnh
lệnh!" Khi chúng tôi nhìn thấy bọn chúng, Fyodorych 1 lần nữa nhấc ống
nghe: "Đợi mệnh lệnh!"
Mệnh lệnh
đã không đến. Tại sao? Các nhân vật ở UBKC, gồm cả Kryuchkov, đã không
có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này cũng như đã không ra lệnh. Rõ ràng,
không ai trong các nhà tổ chức của ông ta muốn rủi ro chịu trách nhiệm. Cũng
chẳng có ai trong nội các (đảo chính) của Valentin Ivanovich Varennikov, nhưng
điều như thế đã có ở Kiev mà không thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của sự kiện.
Hoặc là, có lẽ,đã xảy ra một
số phức tạp kép và trò chơi tay ba. Tôi không rõ, rất khó cho tôi để phán
xét… Chủ tịch Hội đồng tối cao cuối cùng của Liên Xô, Anatoly Lukyanov trong cuộc
phỏng vấn với báo Nga nói rằng, UBKC được
thành lập tại cuộc họp với Gorbachev ngày 28 tháng 3 1991.
Còn Gennady Yanayev thì nói, tài liệu của UBKC được soạn theo yêu cầu cũng tất cả
từ Gorbachev.
Sau đó, đoàn xe hộ
tống của Yeltsin đã phóng rất nhanh vượt qua chúng tôi, Karpukhin nhấc điện thoại:
"Làm gì bây giờ?" – "Chờ, chúng tôi sẽ gọi lại!" Đúng 5
phút sau: "Giữ bộ phận các sĩ quan của anh bảo vệ Arkhangelsk". –
"Để làm gì?!" – "Thực hiện điều đã ra lệnh cho anh! Những chuyện
khác – thuộc đơn vị khác!".
Vào lúc mà UBKC
có thể thắng, thì đã bỏ lỡ nó 1 cách vụng về. Yeltsin đã có được thì giờ quí
báu để huy động lực lượng phe cánh mình và bắt tay vào các hành động chủ động.
Vào 10 hay 11 h, chúng tôi trở lại hẻm N-sky, nơi đóng quân tạm thời. Còn trên
kênh TV chính, thay vì phát đi Bản tuyên bố đảo chính thì đã chiếu vở "Hồ Thiên Nga".
Tấn bi kịch quốc gia biến thành trò hề".
… Tiếp theo, tất
cả tình hình sụp xuống như ngôi nhà bằng giấy. Yeltsin đã trèo lên xe tăng
trước Nhà Trắng (tòa nhà CP) và tuyên bố các hành động của UBKC là vi hiến. Vào buổi
chiều, trên TV phát đi các bản tin đặt dấu chấm hết cho UBKC. Đóng vai trò cũng
là bởi cuộc họp báo thất bại của nhóm UBKC. Nói đúng hơn, không chỉ riêng UBKC,
mà là tất cả lũ tâm thần. Thực tế diễn ra là lặp lại tình hình ở Vilnius tháng 1 1991.
Trong khi biết rằng, KGB luôn luôn chuẩn bị cho hoạt động của mình 1 cách kỹ
lưỡng. Những pha đầu trong việc đưa quân đội vào Czech và Afghan luôn luôn là
trách nhiệm của họ. Tất cả được tính toán kỹ đến từng phút.
Tuy nhiên, sau
đó đã có nhiều thứ trở nên rõ ràng hơn, khi nó rõ hơn thì “2 kẻ thù không đội trời chung” – Gorbachev và Yeltsin đã thực sự
làm việc cùng nhau trong 1 “đường dây”.Cựu bộ
trưởng Thông tin và báo chí Nga, Mikhail Poltoranin đã công khai điều này trên
tờ "Komsomolskaya Pravda" (số ra ngày 18 tháng 8 2011). Chắc chắn, lãnh
đạo KGB đã biết hay đoán ra đường dây này, khi xác định tính 2 mặt lạ lùng của
nó. CònV.
Kryuchkov, xét theo cuộc nói chuyện của ông ta với lãnh đạo PGU (điều
tra) của KGB là Leonid Vladimirovich Shebarshin, vào tháng 6 1990 đã quyết định
đứng cùng Yeltsin.
Vì thế, Vladimir Aleksandrovich cũng không thể tránh khỏi cảm giác có trách
nhiệm cá nhân trước Gorbachev. Kết quả, cách sử xự của ông là 1 ví dụ rõ rệt
của việc theo đuổi nguyên tắc "tôi và anh". Nhưng trong chính trị,
quan điểm nước đôi như thế, theo qui luật, là bị trừng phạt. Điều này đã xảy
ra.
Chứng thực của Shcherbatov
Boris Yeltsin, kẻ
đóng vai dưới trong “đường dây”, hiểu rằng đảo chính cho ông ta cơ hội hiếm có
để kết liễu Gorbachev. Thật không may, tìm cách lật đổ Gorbachev là 1 ván bài chính
trị lớn của Yeltsin, đồng thời vì nó, ông ta chẳng tiếc gì từ bỏ Liên Xô. Đồng thời,
cũng cần phải nhớ hành vi phản bội của Gorbachev trước tình cảnh bộ 3 lãnh đạo Nga-Belarus-Ukraina,
Yeltsin-Shushkevich-Kravchuk họp riêng với nhau ở Viskulyakh và tuyên bố Liên Xô chấm dứt
hoạt động như một chủ thể quốc tế. Hành động này là vi hiến và hoàn toàn là tuyên
bố đơn phương của bộ 3. Khi đó, bộ 3 mưu gian này hiểu rõ đó là phạm tội và đã gặp
nhau trong cánh rừng Bialowieza, để nếu có biến còn chạy bộ sang Ba Lan lánh nạn.
Sau Viskulyakh, Yeltsin
không dám quay về điện Kremlin vì sợ Gorbachev. Ông ta chắc rằng sẽ có lệnh bắt
giữ mình, thế nhưng Gorbachev đã chọn cách bỏ mặc việc này. Ông ta chấp nhận tình
trạng Liên Xô sụp đổ, như thể trong tình
hình này, khả năng để ông ta bị đem ra công lý vì những tội lỗi đã biến mất.
Ảnh: 2 “tử thù”
Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin chung vai diễn kết liễu Liên Xô.
Trước đây, tôi cũng
đã viết rằng trong thời kỳ này, suy nghĩ của Gorbachev không phải là làm thế nào
để giữ gìn Liên Xô mà là làm sao để bảo đảm tương lai cho mình không thiếu thốn:
hàng hóa, rượu và nhà. Không phải là tình cờ mà sĩ quan an ninh lâu năm của ông
ta là tướng KGB Vladimir Timofeyevich Medvedev nhấn mạnh 1 cách chuẩn xác: tư tưởng chính của Gorbachev là giữ cho mình
sống còn.
Thật tệ hại, nhiều
quan chức Liên Xô và giới tướng lĩnh cao cấp chỉ cố để lo tương lai vật chất cho
mình. Cần phải nói rằng, cho đến 1991, người Mỹ đã mua sạch tận gốc giới bề trên
Liên Xô, giúp Yeltsin tiến đến quyền lực. Tôi cung cấp chứng thực của hoàng tử Alexey
Pavlovich Shcherbatov (1910-2003) từ dòng họ Ryurik, chủ tịch Hội quí tộc Nga bắc
và nam Mỹ.
Trong ngày "đảo
chính”, Shcherbatov đến Moskva từ Mỹ để tham dự Hội nghị đồng hương. Ông bày tỏ
ấn tượng của mình về chuyến đi trong hồi ký “Lịch sử hoàn toàn không xa. Chuyến đi về Nga đầu tiên".
Như thể số phận Shcherbatov xuất hiện trong các dày đặc sự kiện tháng 8 1991. Ông,
như 1 công dân Mỹ có ảnh hưởng, đã gặp gỡ trực tiếp đại sứ Mỹ tại Liên Xô Robert
Strauss, 1 người rất thông thạo. Bởi vẫn mang tinh thần Nga yêu nước, Shcherbatov
đã phải chịu đựng sự sắc nhọn của các sự kiện tháng 8 1991. Bởi vậy ông đã quan
tâm đến mọi thứ liên quan.
Trong tư liệu xuất
bản trên tờ báo Chính thống giáo "Vera"
– "Esk" (No. 520), Shcherbatov viết:"… Tôi cố để
tìm hiểu nhiều chi tiết của sự chuẩn bị lật đổ. Và trong 1 vài ngày đã tự mình biết
rõ: Người Mỹ, CIA đã đem tiền đến qua đại sứ ở Nga, Robert Strauss, đã sử dụng quan
hệ của ông ta để mua chuộc giới quân đội: Sư đoàn dù Tamansky và Dzerzhinsk cần
phải đứng về phía Yeltsin. Một lượng tiền lớn đã được đưa đến cho con của soái Shaposhnikov và bộ trưởng
QP Grachyov.Shaposhnikov giờ có trang viên ở miền nam Pháp,
nhà ở Thụy Sĩ.
Tôi nghe từ George
Bailey, bạn cũ của tôi, nhiều năm làm việc cho CIA rằng, để làm tan rã Liên Xô,
một lượng tiền lớn hơn 1 tỷ USD đã được đem vào. Ít người biết năm 1991, những
chiếc máy bay đặc biệt dưới chiêu bài ngoại giao đã chở tiền đến sân bay Sheremetyevo,
các kiện hàng của chúng là các tập đô la mệnh giá 10, 20, 50 được phân phát cho
các đầu não chính phủ và quân đội. Những kẻ này về sau tiếp tục tham gia vào
quá trình tư nhân hóa. Ngày nay tất
cả điều này đều đã biết rõ.
Tham gia vào
đảo chính là các cựu đại biểu dự hội nghị ở Shatagua: tướng Chervov giữ vai trò
phân phát tiền trong giới quân đội, một trong số các giám đốc "Banks Trust of Company"
là John Kristall như tôi biết, đã chuyển tiền giúp CIA qua ngân hàng. Tỏ ra là,
khi tạo cho các quan chức Liên Xô 1 cơ hội tốt để nhận đút lót, thì làm tan rã Liên
Xô không phải là việc khó…”
Cần phải thêm rằng,
cuộc nói chuyện của phóng viên với hoàng tử Shcherbatov, người gọi mình là “con người-huyền thoại của lịch sử Nga",
được thực hiện ở nhà ông, Manhattan - New York mùa hè 2003.
Shevardnadze phản bội
Phản quốc đã trú
ngụ trong điện Kremlin từ lâu. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2014, kênh TV Russia 1 cho
phát sóng bộ phim có tên "Afghan" của phóng viên Andrey Kondrashov. Trong
phim, 1 trong những thân tín của thủ lĩnh Mujahideens Ahmad Shah Masoud nói
rằng phần lớn các hoạt động quân sự của Liên Xô chống Mujahideens đều không
mang lại kết quả bởi ông ta, Masoud đã nhận được kịp thời thông tin về các hoạt
động này từ Moskva.
Ở NATO người
ta luôn luôn hiểu, Eduard Shevardnadze là đồng minh
thân cận nhất của Gorbachev,
do đó họ chấp nhận ông ta như
khách quí và không thể bỏ qua.
Trong phim còn
đưa ra 1 thực tế khác về sự phản bội rõ ràng của giới chức hàng đầu Liên Xô. Người
ta biết rằng trước khi Liên Xô rút quân ra khỏi Afghan và đã đạt được thỏa
thuận ngừng bắn với Ahmad Shah Masoud. Tuy nhiên, theo yêu cầu của bộ trưởng
ngoại giao Shevardnadze và chỉ đạo của chỉ huy tối cao Gorbachev, quân đội Liên Xô trong các ngày 23-26 tháng 1 1989
đã ồ ạt tấn công tên lửa và không kích vào vùng nằm dưới sự kiểm soát của Ahmad
Shah Masoud. Đó không chỉ là quyết định phản bội của Kremlin, mà còn là tội
phạm chiến tranh.
Afghanistan hoàn
toàn có cơ sở để buộc tội Gorbachev và Shevardnadze
cũng như đòi hỏi xét xử ở tòa án quốc tế.
Sự phản bội của Shevardnadze
không chỉ ở Afghan. Biết rằng tháng 4 1989, ông ta giúp BCT ngay lập tức thiết lập
lại trật tự với các cuộc biểu tình ở Tbilisi và xét xử thủ lĩnh đối lập Gruzia Zviad
Gamsakhurdia. Tuy nhiên, khi xảy ra sự kiện bi kịch ngày 9 tháng 4 1990, Shevardnadzebắt đầu
đổi giọng về hành động quân sự không tương xứng khi giải tán biểu tình, nhấn
mạnh căng thẳng là do lính dù sử dụng xẻng công binh tấn công người biểu tình.
Nhưng phim do KGB quay, lại chỉ thấy họ bị tấn công bằng gạch đá và chai.
Tôi nhớ cuộc họp
BCT tháng 3 1990 về vấn đề Litvia ly khai, Shevardnadze là duy nhất trong đó đòi
áp dụng biện pháp mạnh chống ly khai và duy trì trật tự hiến pháp. Nhưng ông ta và
A. Yakovlev lại thường xuyên cung cấp tin tức cho lãnh đạo Litvia Landsbergis.
Ngày 1 tháng 6 1990,Shevardnadze đã hành động phản bội tổ quốc ghê
gớm khi đi thăm Washington với chức vụ bộ trưởng ngoại giao Liên
Xô. Cùng ngoại trưởng Mỹ J. Baker, ông ta ký thỏa thuận mà theo đó Mỹ tự nhiên
được hơn 47 nghìn km2 mặt nước biển Bering giàu có nguồn cá và
hydrocarbons.
Không nghi ngờ gì,
chính Gorbachev đã được báo về sự thông đồng này. Ngược lại, ở Moskva, Shevardnadze
chẳng được ai chúc mừng. Nói cách khác, Gorbachev đã ngăn chặn mọi hành động
thừa nhận sự "chuyển giao" này là bất hợp pháp. Người Mỹ biết lãnh
đạo Liên Xô sẽ có phản ứng như vậy, họ nhanh chóng chiếm lấy vùng nước này và
kiểm soát nó. Dường như vì sự “giúp đỡ” này mà Shevardnadze và Gorbachev đã
được thưởng công rất nhiều tiền.
Rõ ràng, lãnh đạo
KGB Kryuchkovbiết
về thỏa thuận đáng ngờ này, nhưng ông ta chẳng thèm bận tâm công khai tuyên bố Gorbachev
và Shevardnadze phản bội Liên Xô. Đành rằng 2 kẻ này kiếm được nhiều tiền vì “bán
nước”, nhưng tại sao Kryuchkov im lặng? Ngoài ra, Nga ngày nay cũng có sự "thông
đồng im lặng" về biến cố này.
Những năm gần đây,
thực tế tham nhũng của giới cai trị nước Mỹ “tự do độc lập” đã rất hiệu quả và ghê
gớm. Iraq, Afghanistan, Tunisia, Libya, Ai Cập … và ví dụ gần đây nhất là Ukraina.
Các nhà khoa học chính trị Nga cho rằng, vị thế không chắc chắn của Yanukovych trước
cơn thịnh nộ Maidan gây ra bởi cái mà nhiều kẻ cho là tham vọng muốn cất giấu 1
tỷ tờ “bạc xanh” ở Mỹ. Những niềm hy vọng vô ích. Ở Mỹ chẳng có tiền nào của cựu
vương Iran M. Reza Pekhlevi, của cựu TT Philippines F. Marcos, cựu TT Iraq Saddam
Hussein, hay cựu TT Ai Cập H. Mubarak và các cựu “bạn bè” khác của Mỹ.
Hoàn cảnh và khả năng làm ăn không tồi xung quanh các đời TT Ukraina. Phần lớn giới bề trên đã
giã từ quê hương mình ở Kiev đến các "bãi đáp dự phòng" tương tự như
“nhà yêu nước Ura Nga”, cựu thị trưởng Moskva Yury Luzhkov đã tạo cho mình ở Áo và London. Không có gì
phải nghi ngờ là phần lớn giới bề trên Nga, trong trường hợp tình hình xấu đi
cũng sẽ theo gương các “đồng nghiệp” Ukraina. Tiện lợi là các "bãi đáp dự
phòng" của họ cũng đã thực sự có từ lâu.
Giải bạc thứ 30 của Gorbachev
M. Gorbachev cũng
đã kiếm được những món tiền lớn nhờ phản bội tổ quốc. Điều này là như thế nào đã rõ từ
2007 qua lời kể của ông Paule Creg Roberts– nhà kinh tế và nghiên
cứu người Mỹ, cựu trợ lý tài chính cho CQ Reagan trên tờ Izvestiya. Ông Roberts
nhớ lại thời kỳ khi 1 lãnh đạo nghiên cứu của ông được bổ nhiệm làm trợ lý thư ký
QP Mỹ về các vấn đề quốc tế (lúc đó Melvin Laird là BT). Chớp cơ hội, ông Roberts
đã hỏi, làm thế nào để Mỹ buộc 1 quốc gia phải nhảy múa theo điệu nhạc của họ? Câu
trả lời đơn giản: “Chúng ta cho lãnh đạo của họ tiền. Chúng ta mua lãnh đạo của họ!".
Có thể lấy cựu
Ttg Anh Tony Blair làm ví dụ cho ông Roberts. Ngay khi ông ta
từ chức, Tony Blair được bổ nhiệm làm cố vấn 1 tập đoàn tài chính với lương 5 triệu
bảng. Ngoài ra, Mỹ giúp ông ta tổ chức 1 loạt các buổi đọc diễn văn, mỗi buổi
ông ta kiếm 100-250 nghìn đô. Biết rằng, bộ ngoại giao Mỹ cũng thu xếp các
chương trình tương tự như vậy cho cựu Gorbachev.
Tuy nhiên, Gorbachev
giải thích ông ta tham gia vào các hoạt động quảng cáo là do thiếu tiền cho quĩ
Gorbachev. Có thể, có thể là… Tuy nhiên người ta biết Gorbachev đã nhận được
khoản bồi thường không hề nhỏ từ Yeltsin vì đã "không gây sự" với
điện Kremlin. Tháng 9 2008 Gorbachev nhận huân chương Tự do vì "kết thúc
chiến tranh lạnh" từ Mỹ kèm 100 nghìn đô la. Thêm vào cái huân chương Nobel
hòa bình năm 1990 vì đã "xin xỏ" R. Reagan. Tuy nhiên không phải nghi
ngờ, đó chỉ là phần biết đến của sự giàu có vật chất mà Mỹ đã chu cấp cho cựu
TT duy nhất của Liên Xô.
Khả năng tài
chính của ông cựu Gorbachev được chứng tỏ trong đám cưới tân thời của cô cháu Ksenia
năm 2003, tại nhà hàng sang trọng ở Moskva "Gostiny dvor", vây quanh
là hàng rào cảnh sát, và đăng tải trên media là "không kiểu cách". Trên
bàn tiệc lạnh là hình trái tim được xếp bằng gan ngỗng sống và quả vả, trứng cá
đen trên khay đá với bánh kếp nóng, gà nấu nấm bọc bột xốp mỏng. Gà gô nướng và
lưỡi nai. Bánh cưới 3 tầng cao 1 mét rưỡi.
Năm 2007, thiên hạ
thật ấn tượng khi thấy Gorbachev sống trong lâu đài ở Bavaria.Lâu đài Hubertus trước đây là 1 trong 2
công trình lớn làm trại trẻ mồ côi Bavaria, trên giấy tờ nó
thuộc về cô con gái ông ta, Irina Virganskaya. Ngoài ra, ông
ta còn sở hữu 2 ngôi nhà khác, 1 ở San Francisco và 1 ở Tây Ban Nha (gần nhà ca
sĩ V. Leontyev). Ông ta vẫn còn bất động sản ở Nga - nhà nghỉ Dacha ngoại ô
Moskva "Moskva River 5" rộng 68 ha.
Cần nói thêm,
năm 2011 ông ta tổ chức sinh nhật lần thứ 80 xa hoa của mình với 1 dàn siêu sao
tên tuổi thế giới, chỉ mỗi tội là ở London. Đã lâu ông ta không dám về nước vì
sợ nhiều thứ.
Chẳng nghi ngờ
gì ông ta còn có thể tổ chức đám cưới xa hoa cho 1 số cô cháu nữa. Nhưng ông ta bị trừng phạt cả cuộc đời còn lại, như ông ta phải chịu đựng. Ngoài
tòa án lương tâm, còn có các tòa án khác sớm hay muộn muốn xét xử người hùng
bạc thứ 30 của thế kỷ XX nhưng thực chất là tội đồ phản bội kinh tởm nhất của Liên
Xô và các nước cựu XHCN. Lúc đó, Mỹ cũng chẳng giúp được quí ông Gorbachev.
Hay duy trì thế địa chiến lược là quan trọng nhất chứ không đặt vấn đề giải cứu!
Như
video trên, hóa ra Eurozone không có cơ chế pháp lý nào để đẩy Hy Lạp ra trừ
khi họ tự nguyện. Vậy thì những dọa dẫm chỉ là dọa dẫm.
Đức
là tiếng nói quyết định trong EU, cũng như IMF – vẫn rất cứng rắn với áp đặt cũ,
xem lẫn đôi chút an ủi và cảm thông từ Pháp – nhưng không có trọng lượng.
Vì
thế, nhận định ở bài trước: dìm chết Hy Lạp trong Eurozone là có cơ sở. Và 1 mục
đích là để Hy Lạp khỏi rơi vào tay Nga. Giọng điệu Merkel, các quan chức Đức lên gân đến khó
tả. Như thể họ đang cố bằng mọi cách để làm tan rã cả EU. Nhưng cũng có
vấn đề khác, tương tự như ở Ukraine, Rõ ràng, Merkel không đại diện cho lợi ích
Đức hay dân chúng Đức, bà ta đại diện cho gia tộc Judaic - những kẻ đang nắm phần lớn nhất nợ Hy Lạp, cho tài phiệt quốc tế - những kẻ đang thiết kế địa chính trị khu vực châu Âu. Giống như
vật DT Shylock trong vở kịch của Shakespeare “Lão lái buôn thành Venice”,
Merkel giữ nguyên yêu sách “Nợ phải được trả và chế độ thắt lưng buộc bụng phải
được duy trì”.
Vì
thế, Putin không nói đùa, ông ta nói thật rất cay nghiệt và phũ phàng: nước Đức
đã bị Judaic hãm hiếp tàn tạ suốt WWI, WWII và tận ngày nay mà bất lực.
Trong khi mục tiêu của đảng cánh tả
cầm quyền và Syriza Tsipras
được tuyên bố rõ ràng ngay từ khi tranh cử: xóa nợ, bãi bỏ thắt lưng buộc bụng.
Mục đích 2 bên quá khác xa nhau. Thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras thậm chí đang
cầm trong tay các con bài pháp lý nặng ký: Một điều khoản của Hiệp ước Lisbon,
coi như Hiến chương hình thành EU, có thể được sử dụng để chống lại ECB: viện dẫn
tình trạng nguy hiểm khẩn cấp, tịch thu toàn bộ ngân hàng TW Hy
Lạp, các tài sản quốc gia khác 1 cách hợp pháp và nhiều hành động có thể khác…
Tuy
nhiên, số phận Tsipras đang bị đe dọa trước nguy cơ đảo chính hơn các vấn đề trên. Đường phố, các đám đông biểu tình chống chính phủ đã quay lại với yêu sách đòi chấp nhận gói giải cứu. Nếu
như các ông trùm Mỹ ra tay, không tránh khỏi kịch bản Ukraine 1 năm trước đây sẽ
lặp lại ở Hy lạp. Có quá nhiều thế lực phương Tây, EU, Mỹ chống Tsipras,
không hẳn là giới chức Mỹ im lặng thì Hy Lạp được yên. Nó là khoảng lặng trước
bão và cần thiết để tính toán đến các option. Khi mà lợi ích giới đầu tư cả 2
bờ đại dương, lợi ích địa chính trị giới đầu sỏ là trùng nhau và đang bị đe dọa
trong pha cuối cùng của cuộc khủng hoảng (chẳng hạn như 1 tuyên bố ra khỏi Eurozone), nguy cơ đảo chính tại Hy Lạp là
hiển nhiên và khó tránh khỏi.
Nga
dù đang im lặng để tránh tiếng can thiệp vào Hy Lạp, nhưng mặc định họ sẵn sàng
chớp lấy cơ hội, sẵn sàng 1 giúp đỡ nào đấy để tóm lấy 1 mảnh vỡ nào đấy – Như Ukraina, đó là chiến thuật
theo dõi và chờ đợi. Vì vậy, nhà bình luận John Helmer, trong bài viết “Múa cùng Gấu” có nhận định: Lật đổ ở
Athens để cứu lấy Hy Lạp khỏi Nga đang được chuẩn bị bởi Washingron và Berlin.
Và
mỗi cuộc cách mạng màu đều cần đến lực lượng tại chỗ. Trong trường hợp này khá
hùng hậu: tầng lớp bỏ phiếu có ~39% vẫn đang hy vọng được giải cứu bằng mọi giá,
giới đầu sỏ, tài phiệt được nuôi béo trong 15 năm qua, giới con buôn trục lợi,
đám quan chức thối nát giàu có nhờ bailout và tham nhũng đang ngồi đầy trong
các cơ cấu chính quyền. Giới an ninh, quân đội được hưởng lương bổng hậu hĩnh.
Giới nhà thờ vốn đã không tấn phong Tsipras theo nghi lễ truyền thống từ xưa đến
nay. Sau trưng cầu Oxi! một cựu tướng Hy Lạp nhận định, “những gì thực sự xảy
ra, chỉ là quá trình chậm của thay đổi chế độ!”
Một
điều rõ ràng là hầu hết giới quân đội không ủng hộ Tsipras, họ bỏ phiếu Yes! Đặc
biệt nguy hiểm là cánh cựu tướng, cựu quan chức về hưu nhưng vẫn nhiều tham vọng
chấp chính, kiếm chác. Cựu tướng Fragkoulis
Fragkos, cựu BT quốc phòng, cựu tổng tư lệnh lớn giọng huyên náo trước
trưng cầu. Ông ta từng bị sa thải năm 2011 vì can dự vào âm mưu đảo chính. Một nhóm 65 tướng tá cấp cao từng cảnh báo Tsipras: Chúng
tôi tuyên thệ với đất nước và quốc kỳ… và “bằng cách chọn cô lập, chúng ta đang
đặt đất nước và tương lai vào nguy hiểm.” Thực sự, Tsipras và đảng cánh tả cầm
quyền Syriza đã phải đề phòng phe nhóm quân sự kể từ khi nắm quyền. CIA đã thao
túng toàn bộ giới quân sự Hy Lạp từ 1952 trong nỗ lực lôi kéo Athens gia
nhập NATO và chiến
dịch Gladio. Kể từ đó đến nay, quân đội Hy lạp đã không còn là lực lượng
bảo vệ đất nước hay giữ gìn hiến pháp, mà là thế lực tiêu tiền ngân sách. Nuland
đã có cuộc gặp với Tsipras hồi tháng 3. Bà ta thuyết phục ông Ttg trẻ 2
điều: Một là hãy thỏa thuận tốt (good deal) với các tổ chức. IMF, ECB, Đức và
sẽ không có vỡ nợ nào cả. Hai là đứng im trong hàng ngũ EU và NATO bởi Nga đang
“tăng cường gây gổ ở phía Đông”. Tuy nhiên, thái độ Mỹ cho đến nay, như cổ đông lớn
nhất của IMF là không có nhượng bộ nào hết và như 1 quan chức cấp
cao cho biết: Chúng tôi quan sát tình hình… chúng tôi tiếp tục tin rằng
điều quan trọng là tất cả các bên làm việc cùng nhau để quay lại con đường đã
đi, cho phép Hy Lạp khởi động lại cải cách và tăng trưởng trở lại bên trong
Eurozone. Nhưng 1 lần nữa, chúng tôi quan sát rất kỹ lưỡng.” Nỗ lực lật đổ chính phủ Hy Lạp gần nhất của Mỹ là đảo
chính 1987-1989 chống cựu Ttg Andreas Papandreou. Reagan lúc đó đã chọn “giải
pháp mềm” bằng trói buộc và treo cổ. Như lời đại sứ Mỹ Robert Keeley tại Athens
sau này thú nhận – một dạng chiến “Operation Nemesis” ở Thổ, Hy Lạp, Armenia
thời kỳ 1920-1922. Papandreou đã bị lật đổ bởi gian lận phiếu bầu của phe cánh “dân
chủ đối lập” với những cáo buộc ông ta độc tài, tham nhũng và bê bối. Hy Lạp
rơi vào hỗn loạn với nhiều cuộc bầu cử sau đó, cho đến năm 1993 Papandreou quay lại nắm
quyền, nhưng Hy Lạp vẫn bất ổn cho đến tận ngày nay.
Song song với việc
triển khai TPP và TTIP, Mỹ tiếp tục xúc tiến trong bí mật TISA nhằm vào mảng
tài chính dịch vụ liên quan đến 51 quốc gia.
TISA: Trade In Services Agreement; Hiệp định thương mại trong lĩnh vực dịch
vụ;
Tin tức về TISA đã bị
Wikileaks
tiết lộ năm 2014, nay họ tung ra tiếp bản dự thảo mới nhất bị rò rỉ ngày 2 tháng 7 mới đây. Không
có Wikileaks, thậm chí cái tên TISA còn không ai biết đến. Hiện nay,
trên Google còn chưa hề xuất hiện bất cứ trang web tiếng Việt nào về TISA.
Hiệp hội “Public
Citizen's Global Trade Watch - GTW” giải thích 10 đe dọa
chủ chốt của TISA đối với các qui định tài chính. Ông Robert Weissman của hiệp
hội này cho biết:
"Phân tích của chúng tôi về một phiên bản bị rò rỉ của dự thảo thỏa
thuận, cùng với phụ lục dự thảo về dịch vụ tài chính, xác định các mối đe dọa
đến các quy tắc và các chính sách khác nhau, phạm vi từ giới hạn về kích thước tổng thể của ngân hàng để bảo vệ người tiêu dùng, từ
bảo vệ dự phòng chống lại các công cụ tài chính đầu cơ
mới đến hạn chế chuyển nhượng các dữ liệu tài chính cá nhân." "Nó là không thể tưởng tượng rằng một thỏa thuận như
vậy lại đang được đàm phán trong khi nền kinh tế toàn cầu vẫn còn đang hồi phục từ cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ cuộc Đại suy
thoái, trong khi Hy Lạp và các nước khác vẫn còn đang lảo đảo vì các tiến triển liên quan đến khủng hoảng." Bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 đã bị
bỏ qua một cách có hệ thống. Ông
Weissman kêu gọi đình chỉ đàm phán TISA, công bố các văn bản được coi là đầy
đủ, và không làm gì hơn nữa mà không "tranh luận công khai, đúng đắn về
cuộc vận động phá bỏ luật lệ triệt để của họ".
Họ sẽ yêu cầu các nước tham gia đảo ngược những qui định tài chính đã có
hơn nữa - ảnh hưởng ngân hàng, cổ phiếu và trái phiếu, ngoại hối, bảo hiểm, thẻ
tín dụng, xử lý dữ liệu tài chính, xếp hạng tín dụng, tái bảo hiểm, các phái
sinh và các dịch vụ tài chính khác.
Mười mối đe dọa chính mà GTW dẫn bao gồm:
1. Giới hạn các chính sách hạn chế rủi ro tài chính: "tiếp cận thị
trường" không bị kiểm soát là bắt buộc. Các quốc gia bị cấm hoặc hạn chế
các dịch vụ tài chính rủi ro hoặc các sản phẩm như phái sinh phải đối mặt với
các thách thức pháp lý trước "Toà án ngoài pháp lý (do tập đoàn nước ngoài
vận hành)". Bảo vệ tường lửa để ngăn chặn sự lây lan của rủi ro đều bị
cấm.
2. Xuất ngoại dữ liệu tài chính khách hàng nhạy cảm là được phép - bỏ qua những
mối quan tâm riêng tư bằng cách tiết lộ thông tin này để giám sát không chính
đáng.
3. Các chính phủ được yêu cầu phải "dự đoán tất cả các quy định" có
khả năng gây hại cho TISA-được uỷ quyền "tiếp cận thị trường không hạn
chế". Thiếu điều này có thể bị thách thức như là vấn đề vi phạm hiệp định
để có thể cấm vận thương mại.
4. Quy định tài chính mới không phù hợp với quy tắc TISA-được uỷ quyền không bị
kiểm soát đều bị ngăn cấm. Cái gọi là biện pháp "dừng" của nó cấm
thực hiện các quy định mới để đối phó với "các sản phẩm và rủi ro tài
chính mới nổi". Các chính phủ không thể ban hành các chính sách theo bất
cứ cách nào để hạn chế "tiếp cận thị trường" không giới hạn.
5. Kiểm soát vốn phòng ngừa hay giảm nhẹ khủng hoảng tài chính đều bị cấm.
Bài học trong quá khứ đã học bị bỏ qua. TISA đi đến thay thế mọi thứ. Ngoại lệ
duy nhất là trong trường hợp khủng hoảng cán cân thanh toán. Thậm chí khi đó,
chỉ có các biện pháp tạm thời riêng là được phép", “loại bỏ dần 1 cách lũy
tiến" – ý nghĩa bảo vệ bằng thể chế sẽ không còn vị trí trong trường hợp
cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai nổ ra.
6. Các sản phẩm tài chính chưa tạo ra phải được chấp nhận như qui tắc - tự do -
không có vấn đề nguy hiểm như thế nào. Phụ lục TISA về Dịch vụ Tài chính khẳng
định các chính phủ "sẽ cho phép" các công ty nước ngoài giới thiệu
bất kỳ dịch vụ tài chính mới hoặc sản phẩm nào miễn là nó không đòi hỏi luật
mới hay thay đổi những luật hiện có.
GTW giải thích điều kiện này sẽ không "loại trừ nhiều sản phẩm tài chính
mới từ các qui tắc sâu rộng, như khi giới thiệu một sản phẩm mới thường không
đòi hỏi" các luật mới hoặc thay đổi những luật đang có.
7. Chính phủ có thể miễn các công ty tài chính nước ngoài khỏi các qui định nội
địa "thận trọng" nếu đất nước họ có hệ thống tài chính gần
"tương đương". Thực tiễn này trong các lĩnh vực khác làm suy yếu sự
bảo che chở.
Cách khác, các chính phủ có thể "làm hài hòa" quan hệ tài chính của
họ để phù hợp với các tiêu chuẩn đàm phán với các bên ký kết TISA khác. Hài hòa
hóa quá khứ trong các lĩnh vực phi tài chính cho thấy biện pháp bảo vệ đã thiết
lập bị thay thế bằng các đàm phán bí mật mới - làm suy yếu sự bảo vệ pháp lý.
8. Các chính phủ phải công bố đề xuất các quy định tài chính để "những
người liên quan" có thể bình luận trước khi chúng thành qui định. Nói cách
khác, cản trở, trì hoãn và cuối cùng là làm suy yếu hoặc ngăn chặn việc thực
hiện chúng.
9. Các chính phủ bị cấm ưu tiên doanh nghiệp trong nước khi ký kết hợp đồng
dịch vụ tài chính. Hãng nước ngoài phải được tiếp cận bình đẳng.
10. Làm suy yếu "các biện pháp bảo đảm an toàn" để ngăn chặn các
thách thức hiệu quả làm hại ủy quyền TISA. Chúng cưỡi trên luật pháp quốc gia.
GTW giải thích các điều khoản TISA "áp đặt những hạn chế ràng buộc lên một
vùng rộng lớn các biện pháp bảo vệ nội địa, bao gồm cả các quy định tài
chính."
Giống như NAFTA, TPP, TTIP, và những giao dịch thương mại phương Tây khởi xướng
khác, lợi ích của tập đoàn được trao quyền bên trên các quốc gia và các biện
pháp bảo vệ người tiêu dùng.
Chúng ta đề cập đến phần cuối cùng,
không phải là bộ phim hành động kiểu Mỹ mà là những vụ cướp trong đời thực:
cướp của nhà băng.
Đây là câu chuyện kinh điển, đã và
đang xảy ra khắp nơi, không riêng gì Hy Lạp.
Chuyện rằng có 1 gã nhà băng béo ú
tốt bụng đến bảo: tiền của tôi đây, các vị cứ lấy mà dùng, 10 năm, 20 năm hay
100 năm sau trả tôi cũng được. Chỉ xin mỗi năm trả thêm cho tôi 1%.
Xem ra rất hời! Ông lão Aristotle bùi tai vứt đồng drachma
cầm 100 tỷ bạc, bằng đúng
toàn bộ tài sản đất nước Hy Lạp. Ông xây cầu, dựng thành, mở trường triết học,
ông phát tiền cho dân chúng ăn chơi phè phỡn – ai ai cũng sung sướng.
100 năm sau, gã béo tốt bụng đến đòi
nợ. Bây giờ con cháu ông Aristotle
gom góp cũng chỉ trả được có đúng 100 tỷ bạc. Họ không thể lấy đâu ra thêm 1
đồng nào nữa bởi họ không có máy in tiền.
Họ đành gán quốc gia cho gã nhà băng
và khăn gói lên đường ăn mày.
Câu chuyện cướp của nhà băng này trong
thực tế không cần đến 10 năm, bởi nó nhiều mánh khóe, thủ đoạn và dã man nhiều
lần hơn thế.
Nhưng trên MSM, chúng ta chỉ nghe
rủa: dân Hy Lạp ăn chơi, trốn thuế, lương cao, nghỉ hưu sớm, không chịu làm
việc, vung tay quá trán, chi tiêu quá nhiều và phá sản.
Tất cả những điều này có thể ít nhất là có thật 1 phần. Nhưng hoàn toàn không có chuyện cướp của nhà băng.
Ngoại trừ việc
nó là gã béo nói
dối... không chỉ về Hy Lạp, mà
còn về các nước EU khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Ireland tất cả những ai
đang trải qua mức độ thắt lưng buộc bụng khác nhau. Cùng dối trá như thế đã được đám
nhà băng dùng để cướp bóc Mỹ La tinh, châu Phi, châu Á bao nhiêu năm qua.
Dĩ nhiên, Hy Lạp không tự sụp đổ,
chúng đã làm họ sụp đổ!
Nói gọn, đám nhà băng đã nhận chìm
chính phủ Hy Lạp, rồi
cố tình đẩy họ vào tình trạng nợ không trả
được... khi đó, từ tài
sản công cho đến lợi tức bị bán tống bán tháo cho bọn đầu sỏ chính
trị và các tập đoàn
nước ngoài. Phần còn lại của bài sẽ giải thích tại sao và như thế
nào.
Có thể bạn
khoái những bộ phim kiểu mafia hoặc Bố già! Chắc bạn đã biết cách bọn mafia
chiếm đoạt 1 nhà hàng nổi tiếng. Đầu tiên, chúng sẽ làm cái gì đó để công việc
kinh doanh bị gián đoạn – dựng lên 1 vụ giết người hay bắt đầu một đám cháy đều
được. Khi doanh nghiệp bắt đầu phải chịu đựng, Bố già xuất hiện và sẽ hào phóng
đề nghị một số tiền như dấu hiệu hữu hảo. Đổi lại, hắn đưa tay chân vào kế toán
của nhà hàng, gã đàn em làm chân phụ trách mua sắm, và cứ như vậy. Không cần
phải nói, đó là một vòng xoáy đau khổ của chủ sở hữu, anh ta sẽ sớm phá sản, và
nếu may mắn thì còn sống.
Câu chuyện cướp bóc Hy Lạp của đám nhà băng tuy có phức tạp hơn nhưng cơ bản là
tương tự như vậy, nó gồm 4 bước.
Bước 1: Lý do
đầu tiên và quan trọng nhất mà Hy Lạp gặp rắc rối là "Đại khủng hoảng tài
chính" 2008, nó là đứa con tinh thần của Wall Street và các nhà băng quốc
tế. Nếu bạn còn nhớ, các nhà băng đã đưa ra một ý tưởng tuyệt vời cho vay thế
chấp dưới chuẩn với bất cứ ai lơ ngơ. Họ sau đó gói ghém tất cả những quả bom
tài chính hẹn giờ này vào và bán chúng như là "chứng khoán thế chấp"
cho các tổ chức tài chính khác nhau ở các nước trên thế giới và kiếm món hời
khổng lồ.
Hoạt động tội
phạm qui mô lớn này có 1 nhánh khác trong hệ thống, đó là bọn “cò mồi” được gọi
theo kiểu bác học kinh tế-tài chính là các tổ chức đánh giá, như S & P,
Fitch hay Moody – bọn chúng khêu gợi, mời mọc các con mồi bằng các bảng xếp hạng sao hay chi chít sao cho các loại
chứng khoán, các phế thải tài chính có mệnh giá sắp sụp đổ. Chúng còn thuê
những gã chính trị gia vô đạo đức bán rong món hàng này. Như gã Tony Blair đã gia nhập Goldman Sachs
và bán món chứng khoán nguy hiểm này cho các quỹ hưu trí, các thành phố và các
nước khắp châu Âu. Gã Tony Blair cũng đã nhiều lần xuất
hiện ở VN thậm thụt với giới quan chức và châu Á trong vai cò mồi. Bọn Wall
Street đã kiếm được hàng trăm tỷ đô trong vụ lừa đảo này.
Nhưng đây chỉ là khởi đầu của canh bạc bịp khổng lồ của bọn chúng. Chúng còn kiếm bẫm
hơn nữa trong các bước sau.
Bước 2: Khi
các quả bom hẹn giờ tài chính nổ tung. Các ngân hàng thương mại và đầu tư trên toàn
thế giới bắt đầu sụp đổ chỉ trong một vài tuần. Các chính phủ địa phương và khu
vực nhìn thấy khoản đầu tư và tài sản của họ bốc hơi. Hỗn loạn xảy ra khắp mọi
nơi!
Kền kền như
Goldman Sachs và nhà băng lớn bắt đầu nhảy vào kiếm lời trên đống xác chết hay
đang hấp hối bằng 3 cách:
- Mua tài sản
với giá rẻ mạt như chúng đã mua Lehman Brothers và Washington Mutual với giá
vài xu.
- Giả chết để
đòi bailout, chúng đòi ngân khố quốc gia phải cứu chúng, như Mỹ hàng ngàn tỷ
USD vì chính tội lỗi chúng gây ra.
- Dã man hơn,
chúng mua hết và đặt cược vào các chứng khoán sẽ nổi lên hay được bơm cho nổi
lên. Như Goldman Sachs và kẻ tay trong John Paulson
đã kiếm được hàng tỷ nhờ trò này.
Tại Hy Lạp, các
nhà băng trong nước đã nhận khoản giải cứu 30 tỷ USD từ chính người dân Hy Lạp.
Thay vì để cho chúng chìm, chính phủ Hy Lạp đã vô trách nhiệm bảo lãnh và giải
cứu cho các nhà băng tư bản gộc.
Bước 3: Khi
các nhà băng buộc chính phủ phải chấp nhận các khoản nợ khổng lồ. Ví như trong
sinh vật học là virus, khuẩn độc, hoặc ký sinh trùng. Tất cả chúng đều có chiến
lược duy nhất là làm suy yếu hệ thống miễn dịch của vật chủ. Một trong những kỹ
thuật đã được chứng minh, sử dụng bởi các nhà băng quốc tế ký sinh là hạ cấp
trái phiếu chính phủ của một quốc gia. Đó chính xác là những gì các nhà băng đã
làm, bắt đầu từ cuối năm 2009. Điều này ngay lập tức làm cho lãi suất trái
phiếu tăng lên, làm cho nó ngày càng đắt đỏ hơn để đất nước có thể vay tiền
hoặc thậm chí chỉ là để đảo trái phiếu hiện có.
Từ năm 2009 đến
giữa năm 2010, lãi suất trái phiếu 10 năm Hy Lạp gần
như tăng gấp ba lần! Cuộc tấn công tài chính độc địa này đã đốn quị chính phủ
Hy Lạp, và bọn chúng giành được hợp đồng cho vay nợ đầu tiên với 1 con số khổng
lồ 110 tỷ euro.
Các nhà băng
cũng kiểm soát nền chính trị của đất nước. Năm 2011, khi Ttg Hy Lạp từ chối
chấp nhận gói cứu trợ lớn thứ 2, các nhà băng buộc ông ta ra khỏi văn phòng và
ngay lập tức thay thế bằng Phó Chủ tịch ECB! Bóp
nghẹt dân chủ và không cần 1 cuộc bầu cử nào. Tay chân mới của chúng làm gì? Ký
vào chỗ trống mọi thứ giấy tờ bọn chúng đem đến.
Cũng bằng cách
này, trong ít ngày tiếp theo, chính xác điều tương tự xảy ra ở Ý, nơi Ttg Chính phủ từ chức, chỉ để được
thay thế bởi một con rối là nhân viên nhà băng/kinh tế. Mười ngày sau đó, Tây
Ban Nha đã có một cuộc bầu cử sớm, một con rối, nhân viên nhà băng "kỹ
trị" thắng cuộc bầu cử.
Đàn con rối của
đám chủ nhà băng bắt đầu múa may từ những tháng đẹp nhất của chúng, tháng 11
năm 2011.
Vài tháng sau,
vào năm 2012, chính xác là các thao túng thị trường trái phiếu đã được sử dụng
khi đám nhà băng thổi lãi suất trái phiếu Hy Lạp vọt lên đỉnh đến 50%!!! Cuộc
khủng bố tài chính này ngay lập tức có hiệu quả mong muốn: Quốc hội Hy Lạp đã
đồng ý gói cứu trợ lớn thứ 2, thậm chí còn lớn hơn cái thứ 1.
Đây là
một thực tế mà hầu hết
mọi người không hiểu. Các khoản vay này không đơn giản là cho vay như bạn nhận từ
thẻ tín dụng hay tiền từ nhà băng. Các khoản vay này đi kèm với chuỗi rất đặc
biệt đòi hỏi tư nhân hóa tài sản quốc gia. Nếu bạn đã xem phim Bố già III, hẳn
nhớ nhân vật Hyman Roth, chỉ cần thay cái tên Hyman Roth bằng Goldman Sachs hay
IMF hoặc ECB,
và bạn sẽ có được kẻ giống hệt.
Bước 4: Bây
giờ, là lúc bắt đầu hãm hiếp và làm nhục 1 quốc gia. Đối với các khoản nợ đã áp
đặt lên họ, Hy Lạp đã phải bán nhiều tài sản có
lợi nhuận để các đầu sỏ chính trị và các tập đoàn quốc tế mua. Và tư nhân hóa
là tàn nhẫn, liên quan đến tất cả mọi thứ và bất cứ cái gì có lợi nhuận. Tại Hy
Lạp, tư nhân hóa bao gồm điện, nước, bưu
điện, dịch vụ sân bay, nhà băng quốc gia, viễn thông, chủ quyền cảng biển, nó
là rất lớn tại 1 đất nước hàng đầu thế giới trong vận chuyển biển.
Bên cạnh đó,
các bạo chúa nhà băng còn bức chế mọi chương mục trong ngân sách chính phủ.
Muốn cắt giảm chi tiêu quân sự? NO! Muốn tăng thuế đối với các đầu sỏ chính trị
hay các tập đoàn lớn? NO! Quản lý vi mô không tồn tại trong bất kỳ mối quan hệ
chủ nợ-con nợ nào khác.
Vì vậy, cái gì
sẽ xảy ra sau khi tư nhân hóa và chuyên quyền của nhà băng? Tất nhiên, doanh
thu của chính phủ đi xuống và nợ tăng thêm. Làm thế nào để "sửa chữa"
điều đó? Tất nhiên, cắt giảm chi tiêu! Sa thải nhân công, cắt giảm tiền lương
tối thiểu, cắt lương hưu cũng như an sinh xã hội, cắt giảm các dịch vụ công
cộng, và tăng thuế đối với mọi thứ ảnh hưởng đến số đông 99% nhưng không phải
là số giàu 1%. Ví dụ, lương hưu đã bị giảm một nửa và thuế bán hàng tăng đến
hơn 20%. Tất cả những biện pháp này đã dẫn đến hậu quả Hy Lạp lao vào 1 thảm
họa tài chính còn tồi tệ hơn cuộc Đại suy thoái Mỹ những năm 1930.
Dĩ nhiên, đám nhà băng thao túng sẽ luôn luôn đòi hỏi
tư nhân hóa ngay lập
tức tất cả các phương tiện truyền thông, có
nghĩa là quốc gia này bị
đóng chặt vào những hình ảnh tuyên truyền hàng ngày và chúng nói cho dân chúng rằng, các
nhà băng tham lam và đám gian lận là những kẻ cứu rỗi; còn nô lệ trong cảnh thắt lưng buộc
bụng như thế là tốt
hơn nhiều những thứ khác.
Nếu người dân Hy Lạp biết được sự thật về thắt
lưng buộc bụng, họ sẽ không chấp
nhận điều này. Cùng xảy ra như thế với Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Ireland và
các nước khác. Khía cạnh buồn của tất cả những điều này là nó chẳng phải chiến
lược độc đáo gì. Kể từ WW-II, những con thú ăn thịt này đã thực hành vô số lần
qua IMF và WB tại Mỹ La tinh, châu Á và châu Phi.
Đây là bản chất
của trật tự thế giới mới – NWO, một thế giới thuộc sở hữu của một nhóm nhỏ các
tập đoàn và nhà băng.
PS: Cũng có thể
xem video này, nơi John Perkins - tác giả của cuấn sách "Lời thú tội của 1 sát thủ kinh tế -
Confessions of an Economic Hit Man" - Nói về cách bóc lột các nước Mỹ
Latinh và châu Á bằng việc sử dụng cùng các công cụ nợ-thắt lưng buộc bụng-tư
nhân hóa mà chính ông ta từng làm trong cuộc đời.