Nhìn lại vụ tai nạn thảm khốc máy bay TWA-800 P3

Những vấn đề còn lại!

Kết luận của Ủy ban “an toàn giao thông quốc gia” NTSB là nổ bình nhiên liệu chính (không rõ nguyên nhân), đã bỏ lại vô số thắc mắc, nghịch lý và những vấn đề nổi cộm chưa có giải đáp. Rất nhiều ngờ vực nhà chức trách Mỹ đã cố tình giấu giếm, che đậy nguyên nhân thật của tai nạn.


Kết luận bị phản đối dữ dội từ thân nhân người bị nạn và từ bên ngoài. Một số người phản đối NTSB đã liệt kê ra một số vấn đề như sau:

1. Máy bay bị nổ tung, vỡ làm đôi, bốc cháy, nhưng nửa sau vẫn bay hàng km, thậm chí bay dốc đứng lên cao 3000ft “như tên lửa”, để các nhân chứng nhận nhầm. Điều này chưa từng có và quá vô lý trong lịch sử hàng không, cũng như về kỹ thuật, về logic vật lý.

2. Hầu hết nhân chứng đã bị bỏ qua, trừ Mike Wire được CIA lấy làm ví dụ (như thể đã nhầm lẫn) trong đoạn phim hoạt họa giải thích cho nguyên nhân bên trên.

3. Hơn 700 nhân chứng, 100 người nhìn thấy vệt sáng như tên lửa bay lên từ mặt đất đâm trúng máy bay, họ nghe thấy vụ nổ nhỏ kèm theo vụ nổ lớn hơn nhiều và nhìn thấy bằng mắt thường.

4. Một số nhân chứng thậm chí là cựu sĩ quan, đang trên máy bay khác khi xảy ta tai nạn ở tầm tương đối gần.

5. Tất cả nhân chứng "bị xét hỏi" bởi FBI nói đã không nhìn thấy tên lửa.

6. Bản ghi âm gọi là 302 đã không đưa lời gốc, mà bị FBI biên tập cùng những ghi chú, bình luận mang tính thóa mạ, miệt thị nhân chứng là ‘tối dạ, ngu ngốc’ kiểu: “pháo chai với cái màu vàng cam ngu si đần độn” hay, “ánh sáng bay nhanh hơn máy bay” như đã dẫn ở phần 2.

7. CIA dựng video hoạt hình mô tả tai nạn hoàn toàn trái ngược với thực tế, trái ngược với mô tả của nhân chứng. Thậm chí mô tả phi lý như điều (1), để đi đến kết luận “nổ bình nhiên liệu chính”.

8. Có bằng chứng ở nhà để máy bay Calverton, nơi thu thập và phục dựng các mảnh vỡ TWA-800 rằng: các tấm kim loại đã bị bẻ ngược chiều cong để xóa dấu vết vụ nổ từ bên ngoài vào.


9. FBI đã đánh cắp tất cả các bằng chứng chứng tỏ máy bay bị tên lửa bắn. Họ từ chối trả lại các bằng chứng.

10. Ủy ban điều tra tai nạn của NTSB lệ thuộc vào FBI.


11. Phát hiện bã nhiên liệu tên lửa rắn (hoặc chất nổ) trên ghế ngồi máy bay, đúng vị trí máy bay bị gãy đôi. Nhưng người phát hiện ra việc này đã bị sa thải.


Đó là các ghế màu đỏ. Hợp chất tìm thấy ở đây giống thành phần nhiên liệu tên lửa rắn, gồm:

Magnesium 18%
Silicon        15%
Calcium      12%
Zinc           3.6%
Iron           3.1%
Aluminum   2.8%
Lead          2.4%

12. James Sanders hỏi vấn đề đã phát hiện nhiên liệu tên lửa phát hiện trên ghế ngồi, nhưng không được trả lời rõ ràng.

13. Dữ liệu radar đã bị FBI niêm phong và tịch thu.

14. Dữ liệu radar chứng tỏ có tên lửa, cùng tàu chiến khác thường ở gần hiện trường.

15. 30 tàu dân sự lớn ở ngay dưới Boeing lúc bị tai nạn và đã bị bỏ qua.

16. Hải quân Mỹ nói dối không có tàu chiến hay máy bay trong khu vực. Họ quên ít nhất những cái tên: USS Normandy, 2 UH-60 Blackhawks, P-3 Orion chống ngầm, C-130, lực lượng bờ biển và có thể 1 số tàu ngầm.

17. Hải quân Mỹ từng có ‘tiền án’ bắn nhầm máy bay chở khách Iran năm 1988. Cho đến nay, chính quyền Mỹ vẫn khước từ trừng phạt hung thủ.

Có quá nhiều bằng chứng để làm TWA-800 sáng tỏ. Vấn đề chỉ là chính quyền Mỹ và giới hữu trách có muốn hay không.

Nhìn lại vụ tai nạn thảm khốc máy bay TWA-800 P2

ABC News phá lệ lắng nghe nhân chứng TWA-800

Như vậy, cùng với kết luận của NTSB và khác với nhiều nhân chứng có lý khác, nghi án chính vẫn là hải quân Mỹ đã phóng tên lửa làm rơi máy bay TWA-800.

Với một lượng nhân chứng đông đảo bị bỏ qua, hãng tin ABC News lần này đã có động thái lạ, đáng ngạc nhiên, họ đưa tin phỏng vấn nhân chứng. Đó đã là 4 năm sau vụ tai nạn, nhưng không đơn giản là thiện ý của ABC News. Bởi với những gì mà họ làm, không giúp ích cho vụ việc được sáng tỏ hơn, ngược lại, càng làm nó thêm rối tung rối mù.

Phỏng vấn của ABC News diễn ra chỉ ít tháng trước khi Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia (NTSB) dự kiến ​​sẽ công bố kết luận điều tra kéo dài đã 4 năm của mình về nguyên nhân của vụ tai nạn.

Ngay từ cách đặc vấn đề đã cho thấy dụng ý của họ: Liệu có phải 100 nhân chứng đã nhầm lẫn? Họ nghi ngờ 100, trong số hơn 700 nhân chứng chứng kiến vụ tai nạn, trong đó có cả ông Mike Wire, đã nhìn thấy và khai nhận: thấy vệt sáng bay lên “như tên lửa” dẫn đến 1 vụ nổ, như thể một cuộc tấn công vào chiếc máy bay Boeing 747 xấu số. Họ không đề cập đến các giả thiết như khủng bố hay nghi án hải quân, họ cũng tảng lờ có đến 30 tàu thuyền cỡ lớn mà người ta biết rõ ngay bên dưới TWA-800 lúc bị nạn, chính một số tàu này đã đi tìm nhà chức trách để báo cáo sự việc.

Cuộc điều tra vụ tai nạn TWA 800, được coi là lớn nhất và tốn kém nhất trong lịch sử thảm họa hàng không thương mại, nhưng đã bị tranh cãi ngay từ đầu.

Nhưng cũng cần phải nói là ban đầu, giới chức trách Mỹ rất tin tưởng đây là hành vi tội ác: hoặc 1 quả bom cài trên máy bay, hoặc tên lửa là thủ phạm. Đó là cách giải thích hợp lý nhất vào lúc đó.

Xác máy bay phục dựng tại hiện trường cho thấy: nó đã bị 1 vụ nổ lớn cắt đứt đôi thân phía gần buồng lái hơn thành 2 nửa rời nhau và rơi xuống biển.

Thế nhưng sau đó, các quan chức pháp luật lại quay sang một giả định khác, họ thuyết phục rằng khủng bố hay tên lửa đều không thể!?

Cả CIA, FBI, các nhân viên NTSB, các điều tra tư nhân đều nói họ tin chắc bình nhiên liệu trung tâm của máy bay đã nổ tung. Cho đến nay, không có ai đưa ra nguồn lửa nào, nguồn nổ nào đã làm nổ bình nhiên liệu, ngoài những ý tứ chung chung họ đã đi đến gần 1 số khả năng!

Có lẽ là vì vậy, mà họ cần đến truyền thông như ABC News? Để nói rằng cả trăm nhân chứng đã sai, không có bằng chứng vật lý, trí nhớ của họ, mắt nhìn của họ không đáng tin.

Người ta dùng lập luận của ABC News để bác bỏ giả thiết tên lửa. Bởi các nhân chứng quá thiên về phỏng đoán và họ là ‘bất đồng với nhau’.

Như đã nói, phần nặng ký nhất của giả thiết tên lửa, là hồ sơ phỏng vấn, lấy lời khai hơn 700 nhân chứng khác nhau, gọi là bản ghi âm 302 trong đó có ông Wire. Nó có thể được dùng làm bằng chứng tại tòa án.

Chín mươi sáu nhân chứng - từ tàu thuyền, từ bờ biển Long Island, từ máy bay phản lực và trực thăng gần đó - mô tả nhìn thấy một vệt sáng hoặc gì đó giống một ngọn lửa di chuyển từ mặt đất lên cao và cuối cùng dẫn đến vụ nổ trên biển Đại Tây Dương, như báo cáo của FBI.

Một nhân chứng, ví dụ, mô tả "những gì ông nghĩ là một ngôi sao băng bay từ tây sang đông, đến từ bờ biển phía nam, trên đảo Fire", một nhân viên FBI đã ghi chép. "Đối tượng mà ông ta quan sát là giống nhiều hơn pháo chai với cái màu vàng cam ngu si đần độn lớn lên trong đó" và kẻ này thêm rằng "ánh sáng di chuyển nhanh hơn so với một chiếc máy bay."

Tuy nhiên, một nhân chứng trên bờ biển phía nam Long Island cho biết đã quan sát thấy một 'vệt khói' xuất hiện từ một đối tượng bay về phía chiếc máy bay mà mình đã quan sát" theo một ghi chép của FBI. Nhân chứng nói rằng mình nghĩ đối tượng này nguồn gốc từ một nơi nào đó trên biển.

Một số nhân chứng trong những ngày sau vụ tai nạn, nghiêng nhiều về giả thiết tên lửa đã bắn máy bay bằng cách mô tả những gì họ nhìn thấy cho các TV.
  
"Lúc đó trời sáng, màu cam đỏ. Có vẻ là một ngọn lửa bay lên," nhân chứng Lou Desepoli nói với kênh tin tức.

"Nếu anh dành thời gian và đọc qua (các báo cáo nhân chứng), anh sẽ thành một người phải tin tưởng. Ý tôi là, 100 người không thể nhìn thấy những thứ này mà lại không có cái gì đó là có ở đó," vị Tư lệnh Hải quân nghỉ hưu James Donaldson nói, Donaldson là một nhà điều tra vụ tai nạn cho tổ chức và hiện là nhà phê phán mạnh mẽ nhất cuộc điều tra của chính phủ, ông ủng hộ mạnh mẽ giả thiết tên lửa.
  
Dường như là khủng bố!?

Trong thực tế, ngay sau vụ tai nạn, khả năng về một hoạt động khủng bố đã làm rơi máy bay có vẻ rất thực tế đối với FBI, Nhà lập pháp A. Robert Walsh sau này giải thích trong một bức thư cho một thượng nghị sĩ Mỹ:

"Vào lúc vụ nổ TWA, khủng bố bị kết án Ramzi Yousef và những kẻ khác bị xét xử tại Tòa án quận phía Nam New York vì âm mưu làm nổ tung 12 máy bay Mỹ trên Thái Bình Dương, tất cả trong cùng một ngày, cũng như kết án vì liên quan đến thử thiết bị của chúng trên máy bay dẫn đến cái chết của một công dân Nhật Bản."

Thảm kịch xảy ra chỉ một tuần trước khi Thế vận hội Olympic Atlanta, và khi Washington vẫn đang trong trạng thái cảnh giác cao sau vụ đánh bom tháng 4 năm 1995 vào tòa nhà liên bang ở Oklahoma.

Trong những giờ và các ngày ngay sau vụ tai nạn, hàng trăm nhân viên FBI đã đổ ra bờ biển phía nam Long Island phỏng vấn các nhân chứng tiềm năng. Ban đầu, "tất cả mọi người nghĩ đây là một hành động khủng bố", sau đó-Trợ lý Giám đốc FBI James Kallstrom, người đứng đầu cuộc điều tra cho biết. "Tôi phân công thêm 500 nhân viên để xem xét giả thiết tên lửa. Chúng tôi nghĩ rằng dường như đã có một cơ hội có khả năng xảy ra".

Nhưng khi điều tra FBI và NTSB đang tiến triển, các cơ quan liên bang bắt đầu công khai giảm trừ khả năng của một vụ tấn công tên lửa.  

FBI dừng điều tra

Mười sáu tháng sau tai nạn, Kallstrom của FBI tổ chức một cuộc họp báo để cho biết rằng FBI đã đình chỉ cuộc điều tra hình sự rộng lớn của họ, ông nói rằng họ không có bằng chứng nào đã tìm, cho thấy như một hành động tội phạm. Kallstrom cho biết FBI đã điều tra thấu đáo mọi khía cạnh khác, và tiến hành xét nghiệm pháp y, mà không có kết quả.

"Nếu một quả bom hoặc tên lửa hoặc một mảnh tên lửa hoặc một tên lửa làm chấn động hoặc một lượng nổ tích năng, một quả bom trong hành lý, hoặc bất kỳ những điều gì như vậy xảy ra, chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng pháp y của nó, bằng chứng kim loại học của nó", Kallstrom nói trong 1 cuộc phỏng vấn với ABC News. Ông cũng cho biết: lời khai nhân chứng ban đầu dẫn FBI theo hướng giả thiết tên lửa. "Nhưng thực tế là, các nhân chứng nhìn thấy những điều gì đó trên bầu trời không làm thành bằng chứng. Nó có thể cho bạn một hướng dẫn. Bạn không thể mang lời khai này vào tòa án luật. Trong phân tích cuối cùng, bằng chứng về cái gì đánh trúng máy bay là tự bản thân máy bay. Và không có bằng chứng".

Vì vậy, FBI đã quay sang nhờ CIA phân tích một cách “hợp lý” để giải thích những gì các nhân chứng đã nhìn thấy.

CIA thách thức giả thiết

CIA, theo yêu cầu của FBI, đã chế ra một bản phân tích để đi đến kết luận là không thể xảy ra điều mà các nhân chứng nhìn thấy như một tên lửa đã tấn công máy bay. CIA cho rằng các nhân chứng mô tả đã nhìn thấy một vệt sáng kéo về hướng vụ nổ, thay vì thế có thể họ đã thực sự nhìn thấy 1 chiếc máy bay đang bốc cháy, nó đột nhiên leo lên cao thêm 3.000ft từ độ cao 13.800ft, sau khi mũi của máy bay đã bị vỡ. Việc mất khối lượng đột ngột (phần đầu rời ra) đẩy phần còn lại của máy bay đang cháy lên cao đột ngột, kéo theo sau ngọn lửa. Họ kết luận: vệt lửa mà 98 nhân chứng cho biết họ đã nhìn thấy có nguồn gốc từ mặt đất thực ra bắt đầu trong không trung trên cao.
  
CIA đã thông báo cho FBI phân tích cuối cùng của họ vào tháng 10 năm 1997 và FBI, tại buổi họp báo vào tháng sau, công bố 1 video được sản xuất bởi CIA để giải thích lý thuyết của mình có tựa đề, TWA Flight 800: Các nhân chứng đã nhìn thấy cái gì?

Nghi ngờ về phân tích của CIA

Nhưng một số nhà phê bình buộc tội phân tích của CIA là một nỗ lực bất thường đối với một cuộc điều tra thảm họa hàng không thương mại - có vẻ không toàn diện một cách kỳ dị.

Phân tích, ví dụ, không tính đến tất cả các lời khai nhân chứng. Nó bị giảm dần khi FBI lùi dần khỏi điều tra và chỉ còn 244/755 nhân chứng được tính đến, CIA sau này thừa nhận việc này.

Ngoài ra, các quan chức CIA nói với Ủy ban NTSB lý thuyết của họ về vụ máy bay được hỗ trợ lớn bởi lời khai của 1 nhân chứng duy nhất đối với vụ tai nạn, người này có lợi thế so với nhiều người khác, mà các nhà phân tích đã xác định được là có độ tin cậy cao. Hơn nữa, đó là nhân chứng quan trọng mà "lời khai lúc đầu không hoàn toàn ủng hộ lý thuyết của CIA, một nhà phân tích của CIA nói với Ủy ban. Nhân chứng ban đầu nói với FBI rằng vệt sáng có nguồn gốc từ mặt đất. Chỉ khi được phỏng vấn lần thứ 3, người này mới cho FBI cách giải thích phù hợp hơn với giả thiết của CIA – cũng như dựa trên radar, vệ tinh, vật lý và các bằng chứng khác – đó là vệt sáng có nguồn gốc cao trên bầu trời.

Dù CIA không nói ra tên, nhưng có thể đoán ra, đó là ông Mike Wire – nhân chứng và câu chuyện cái cột cờ ở phần trước.  

Lý thuyết của CIA đã lôi kéo một số hoài nghi từ Ủy ban NTSB, gọi là Nhóm nhân chứng, trong cuộc họp báo.

"Mối quan tâm của tôi là khi tất cả 755 báo cáo được tạo sẵn cho công chúng, bạn và công chúng sẽ thấy nhiều báo cáo có vẻ như là nhân chứng tuyệt vời mà không đồng ý với (nhân chứng quan trọng của CIA)," Jim Walters, với nói Hiệp hội phi công Air Line, theo một bản tóm tắt của NTSB.

Nhà phân tích CIA trả lời rằng những nhân chứng này đã nhìn thấy một cái gì đó bay lên dốc và dẫn đến một vụ nổ rồi sau đó (có cái gì đó) tách ra và rơi xuống đất có lẽ là sai lầm. "Chúng tôi tin chắc rằng ngay cả khi họ nghĩ rằng cái mà họ nhìn thấy là một cái gì đó có nguồn gốc có lẽ từ mặt biển, vệt hướng lên và đâm vào máy bay, rằng trên thực tế, cái mà họ thực sự thấy là một vệt lửa (máy bay không đầu bốc cháy) trên bầu trời mà lên đến đỉnh điểm đã làm vỡ máy bay".

CIA "đã có tất cả các bằng chứng mà chúng tôi nghĩ là đáng xem xét", Kallstrom nói. "Đó là những nhân chứng tốt nhất, trong đó họ ở vị trí tốt nhất (để quan sát). Họ đã nhớ tốt nhất. Họ ăn nói lưu loát. Họ là những người mà chúng tôi nghĩ là không sáng tác ra chuyện tầm phào chỉ vì nghe nó trên đài phát thanh." Và Kallstrom lưu ý phân tích của CIA bắt nguồn từ nhiều hơn so với các nhân chứng quan trọng để tính toán điều gì có thể đã xảy ra với máy bay.

"Chúng tôi trao cho họ 12 hệ thống radar khác nhau của đồng hồ nguyên tử vệ tinh, và vệ tinh thấy vụ nổ hồng ngoại của máy bay, vì vậy chúng tôi có thể xác định điểm đó. Chúng tôi đã có tất cả các dữ kiện của bản ghi dữ liệu chuyến bay. Chúng tôi biết nơi mà tất cả các nhân chứng đã đứng. ​​Các vị biết đấy tốc độ của âm thanh, tốc độ của ánh sáng."

Kallstrom kết luận: Phân tích CIA là "phỏng đoán, dựa trên rất nhiều bằng chứng".

NTSB thấy không có bằng chứng bắn vào máy bay

Các quan chức NTSB, cho đến nay, đã không công bố bất kỳ kết luận chính thức nào vì cái gì mà gây ra thùng chứa nhiên liệu chính phát nổ. Họ dự kiến ​​sẽ làm điều này trong tháng 8.
  
Nhưng như điều tra của họ đã đi đến chỗ kết thúc, các quan chức nói rằng không có bằng chứng quan trọng nào mà họ đã thu thập được cho thấy bất kỳ dấu hiệu nào của một vụ tấn công tên lửa.
  
"Trong trường hợp của TWA, với hơn 96% số mảnh vỡ được thu hồi, với thử nghiệm rộng rãi được thực hiện trên đống đổ nát phục hồi, với tất cả các bằng chứng vật lý khác, đơn giản là không có gì, không có một mảy may bằng chứng, để cho biết máy bay bị bắn bởi một tên lửa". Ông Peter Goelz, cựu giám đốc điều hành NTSB, người đang giữ chức trong lúc cuộc điều tra nói thế. 


Goelz nói rằng thiếu vắng bằng chứng như vậy không loại trừ một cuộc tấn công tên lửa. Nhưng ông nói rằng sự vắng mặt, và một số yếu tố khác, làm cho nó thành rất không chắc chắn.
  
"Nếu anh đang định làm nổ tung một cái máy bay, nếu anh đang đi để bắn hạ một cái máy bay, anh không thể làm điều đó mà không để lại dấu vết vật lý. Và đó là những dấu vết vật lý mà chúng tôi tìm kiếm. Và chúng chỉ đơn giản là không có mặt, chúng không có ở đó", ông nói.

Các nhân chứng vẫn đang được xem xét trong điều tra của NTSB, Goelz nói. Nhưng vì kinh nghiệm của Ủy ban với các sai lầm trí nhớ, đặc biệt là trong lúc phấn khích, họ không phải là yếu tố chính, ông nói.

"Các cuộc phỏng vấn nhân chứng là một phần của câu đố điều tra, nhưng họ không phải là tuỳ ý theo cách của họ. Không giống như một cuộc điều tra hình sự, sự tin cậy chính của NTSB là dựa trên các bằng chứng vật lý", ông nói. "Chúng tôi nhìn vào hộp."

Giả thiết không bị loại bỏ

Nhóm nhân chứng của NTSB (như nói ở trên) – là một phần của cuộc điều tra bao gồm đại diện từ NTSB, FAA, TWA, Boeing, Hiệp hội phi công và Công đoàn hàng không vũ trụ - đã không bác bỏ hoàn toàn giả thuyết tên lửa.

Họ lưu ý là, ví dụ, 38 nhân chứng thấy vệt sáng xuất hiện bay thẳng đứng lên cao từ mặt đất, hoặc gần như thế, và lưu ý rằng điều đó không tương thích với đường bay tính toán của máy bay bị vỡ. Nhưng Ủy ban gọi các khai nhận của nhân chứng FBI - mà theo thủ tục của FBI đã không được trích dẫn trực tiếp mà qua diễn giải tóm tắt – là "kém thích hợp cho mục đích của một cuộc điều tra tai nạn máy bay". Cũng có kết luận một số phỏng vấn của FBI có thể đã tiết lộ xu hướng thiên về giả thiết tên lửa, đặt ra câu hỏi hỗ trợ ngầm cho nó, chẳng hạn như, "tên lửa bay bao nhiêu lâu?"

Cuối cùng, nhóm nhân chứng kết luận nguyên nhân của vụ tai nạn máy bay không thể được xác định qua một mình các nhân chứng, mà dựa trên toàn bộ các bằng chứng phát hiện được.

Các quan chức NTSB tiếp tục nói rằng họ đã không tìm thấy bằng chứng của một cuộc tấn công tên lửa trong đống đổ nát của máy bay - nó, một lần nữa, không nhất thiết phải loại trừ khả năng - nhưng nó không hỗ trợ giả thiết này khác. "Ở giai đoạn này, chúng tôi biết rằng thùng nhiên liệu chính phát nổ. Câu hỏi đặt ra là, cái gì làm nó bắt lửa?" phát ngôn viên NTSB Ted Lopatkiewicz nói trong cuộc phỏng vấn tháng 6.

Nguyên nhân có thể khác

NTSB đã kiểm tra một số nguyên nhân khác có thể có như là hệ thống dây điện bị lỗi, máy bơm nhiên liệu bị hỏng, một tia lửa có thể do tĩnh điện, lưu huỳnh lắng đọng trong nhiên liệu.

Một quan chức FAA, nói với các phóng viên, điều tra hợp chất trong thùng nhiên liệu về an toàn sau vụ tai nạn đã cho thấy những thùng chứa này là an toàn từ các vụ nổ. Tuy nhiên, để làm cho các thùng nhiên liệu an toàn hơn nữa, FAA đã ban hành thay đổi sâu rộng về thiết kế máy bay thương mại và qui trình bảo trì, trong đó có gần 40 quy định, chỉ thị.

Một câu chuyện của Washington Post trong tháng 6 nói NTSB đã bắn thử tên lửa Stinger chống máy bay vào tháng 4, như một phần của điều tra TWA-800, đưa ra một số dự đoán mà Ủy ban, sau tất cả có thể xem xét nghiêm túc giả thiết tên lửa khi chuẩn bị làm bản báo cáo cuối cùng của họ.

Các quan chức NTSB, tuy nhiên, dường như đề nghị thử nghiệm như vậy là một cái gì đó hình thức, để thêm vào việc che chắn tất cả các căn cứ hơn việc tìm kiếm câu trả lời mới.
  
Với việc không có bằng chứng vật lý để chứng minh nguyên do mà các nhân chứng đưa ra về một cuộc tấn công tên lửa, các quan chức NTSB nói giả thiết này là tất cả nhưng bị loại trừ.

Nhân chứng không thể quên

William Gallagher là một trong gần 100 nhân chứng vụ tai nạn TWA Flight 800, ông nói rằng đã nhìn thấy một cái gì đó vệt sáng bay lên từ mặt đất, tiếp theo là một vụ nổ. Một nhân viên FBI phỏng vấn ông ba ngày sau đó. Mặc dù đã qua 4 năm kể từ vụ tai nạn, ngư dân đánh cá này cho biết trí nhớ của mình về những giây này vẫn rõ ràng. Thật không may, ông nói, trí nhớ của ông về vụ tai nạn cho đến nay không trùng với lời giải thích của chính phủ về thảm kịch này.

Gallagher, là người đang trên biển khoảng 10 đến 12 dặm về phía tây của cái Boeing 747 khi nó bị rơi, ông đã viết lại quan sát của mình một vài ngày sau thảm kịch và vẽ một sơ đồ về những gì ông nhìn thấy để chắc chắn sẽ không quên những chi tiết khủng khiếp.

"Nó trông giống như một ngọn lửa màu đỏ hướng lên bầu trời từ đường chân trời. Sau đó, ngọn lửa đã trở thành một quả cầu sáng trắng. Ra khỏi nó có đến hai vệt màu da cam. Một rơi xuống và cái khác vòng lên một chút trước khi rơi xuống", ông nói. Gallagher đã quay về cảng nhà của mình, ở Point Pleasant, New Jersey, sau chuyến câu mực vào ngày 17. Ông nói rằng mình đang đứng trên thuyền hướng về phía đông, và ước tính ông cách 4 dặm từ bờ biển New Jersey, thì nhìn thấy vệt sáng đỏ vụt lên. Ông tin rằng vệt đỏ có thể là một quả tên lửa, nhưng thừa nhận, "không có ai thực sự biết chắc điều gì đã xảy ra". Mặc dù ông đã đọc các báo cáo của chính phủ giải thích điều này, nhưng cho đến nay, những báo cáo này không tính đến vệt đỏ mà ông nhìn thấy bay lên, và không phải bay xuống, ông nói.

"Tôi biết tôi nhìn thấy gì". Gallagher nói, ông không bao giờ được gọi trở lại cho cuộc điều tra tiếp theo của FBI. "Tôi chỉ muốn chính phủ và truyền thông sẽ thực sự điều tra những gì tôi và rất nhiều người khác nhìn thấy. Tôi nghĩ rằng họ đang đợi để chúng tôi quên đi."



Nhìn lại vụ tai nạn thảm khốc máy bay TWA-800 P1

Hầu hết nhân chứng quan sát thấy đều nói về một vệt sáng mà NTSB cho là hợp với đường bay của máy bay TWA-800 sau vụ nổ ở giữa thân. Bộ phim hoạt hình của NTSB nói về nhân nhân chứng được cho là có mặt ở bờ biển đã nhìn thấy vụ tai nạn. từ video: Nhìn chiếc TWA-800 bốc cháy từ bờ biển.


Trans World Airlines Flight 800 (TWA 800), chiếc Boeing 747-100, đã bị nổ tung và đâm xuống biển Đại tây dương ở gần bờ Đông Moriches, New York, đúng ngày 17 tháng 7 năm 1996, lúc 8:31 p.m. EDT, chỉ 12 phút sau khi cất cánh từ sân bay quốc tế John F. Kennedy để bay đến Rome. Tất cả 230 người trên máy bay đều thiệt mạng

Thế nhưng quá trình xét xử và kết luận vụ tai nạn này lại vô cùng phức tạp và khôi hài. Ủy ban an toàn giao thông quốc gia Mỹ - National Transportation Safety Board (NTSB) kết luận chung chung là nổ ở thùng nhiên liệu. Không có ai chính thức bị buộc tội.

TWA 800 và những giấu diếm rối như tơ vò

Phần viết này là lấy từ điều tra của nhà làm phim độc lập Jack Cashill về thảm họa máy bay TWA 800, đăng trên WorldNetDaily. Kết luận chính thức của cơ quan điều tra đã bị những dẫn chứng và lập luận của ông bác bỏ, có thể xem qua tập video "Silenced: Flight 800 and the Subversion of Justice".



James Sanders là một cựu cảnh sát quay sang làm phóng viên điều tra, ông là đồng tác bài viết này, tác giả "The Downing of TWA Flight 800" và "Bằng chứng bị thay đổi - Altered Evidence" trong số các cuốn sách khác. 

Buổi tối ngày 17 tháng 7 năm 1996, khi Mike Wire rời phòng máy trên bãi biển Beach Lane Bridge để hít thở khí trời trong lành, ông không biết mình lại biến thành trung tâm của một trong những vụ giấu diếm chính trị bị nổ tung nhất trong lịch sử nước Mỹ. 

Wire đóng vai trò quan trọng này khi kết hợp của các yếu tố không giống và không liên quan, trong số đó có sự xảo quyệt liều lĩnh của CIA, một chút thiếu suy nghĩ của bộ máy quan liêu NTSB, một trượt ngã dường như rất dài của FBI, công việc thám tử có đôi mắt sắc bén làm việc chuẩn xác trong Reed Irvine Media, và trên tất cả, tính cách kiên quyết của Mike Wire, sự cam đảm mà CIA từng đánh giá thấp. 

Wire, một người trong liên đoàn “cối xay” từ ngoại ô Philadelphia, đã làm việc cả ngày trên cầu Westhampton. Vào cuối ngày, ông ngả tấm thân vạm vỡ vào thành cầu nhìn về phía biển xa phía chân trời.

Vào đúng lúc đó một vệt sáng trắng đập vào mắt ông. Mười hai ngày sau, trong một cuộc phỏng vấn dài 90 phút tại nhà ở Pennsylvania, ông nói với nhân viên FBI "một anh chàng thực sự tốt" chính xác những gì ông nhìn thấy. Bản ghi âm này được gọi là "302": 

"Wire nhìn thấy một vệt sáng trắng đã di chuyển lên trời từ mặt đất tạo một góc khoảng 40 độ. Wire mô tả ánh sáng trắng như một thứ lấp lánh và nghĩ rằng nó là một loại pháo hoa. Wire nói rằng ánh sáng trắng là ‘díc dắc’(sic) khi nó bay lên, và đỉnh của nó sáng trắng hình vòm cung trùm lên và biến mất khỏi tầm nhìn của mình... Wire nói ánh sáng trắng bay ra phía ngoài từ bãi biển ở hướng nam-đông nam."

Sau khi ánh sáng trắng biến mất, tiếp tục trong 302, Wire "nhìn thấy một ánh sáng màu cam xuất hiện như là một quả cầu lửa". Mô tả như thế, bằng cách này, là phù hợp với mô tả của Wire cho FBI một vài ngày trước đó qua điện thoại và trùng hợp hoàn toàn với những gì các nhân chứng khác quan sát thấy trong các thử nghiệm tên lửa của NTSB: vệt khói trắng, zig-zag, cái vòm, biến mất. Vào cuối của đoạn băng 302, các nhân viên đã thêm vào các chú thích mỉa mai, rằng Wire "mong muốn hợp tác theo bất kỳ cách nào ông có thể và có thể tái liên lạc bất cứ lúc nào." 

Wire hầu như không một mình khi nhìn thấy điều này. Bảy trăm ba mươi lăm công dân khác đã chia sẻ những quan sát của họ về vụ tai nạn với FBI. Các mô hình trong lời khai của họ là không thể phủ nhận, là những lóe sáng sau lóe sáng, vệt khói sau vệt khói, zig-zag sau zig-zag. 

Ít nhất 96 trong số các nhân chứng nhìn thấy vệt sáng bay lên khỏi đường chân trời. Nhiều người thấy vụ nổ từ một góc độ rõ ràng hơn Wire. Ít nhất bốn trong số họ, ví dụ, nhìn thấy mũi của máy bay bị thổi tung ra; hai trong số những chia sẻ thông tin này với FBI ngay cả trước khi các nhà chức trách biết mũi máy bay đã rơi xuống đầu tiên. Wire không nhắc lại chi tiết này. Ông đã rời khỏi Long Island về nhà vào sáng hôm sau trước khi bất kỳ câu chuyện nào có thể lan truyền. Đã có một đồng nghiệp không báo cho FBI với những gì Wire đã nhìn thấy, Wire không có vai diễn nào trong bộ phim truyền hình để chờ. 


Ảnh từ video mô tả của CIA, mũi rơi xuống như thân máy bay bay lên như... tên lửa!


Sau tháng 7 năm 1996, các cuộc phỏng vấn, Wire trở về cuộc sống thường ngày bình yên của ông ở Pennsylvania. Ông ít quan tâm đến chính trị và ít lên mạng Internet, ông không theo đuổi những tranh cãi đang bùng lên xung quanh vụ tai nạn. Wire đã, tuy nhiên, xem cách CIA tái tạo lại chuyến bay do FBI trình bày vào tháng 11 năm 1997, ít nhất là phiên bản rút gọn trên tin tức. Ông coi đây là một lược đồ tạm thời để làm yên lòng công chúng và hoàn toàn không biết gì về vai trò của mình trong đó. 


Video của CIA này, tuy nhiên, được chứng minh là yếu tố trọng tâm, dễ thấy nhất của một chiến dịch đánh lạc hướng thông tin, làm mất uy tín các nhân chứng. Trong một chuỗi hoạt hình, CIA lập luận rằng khi mũi của máy bay bị phá vỡ do một vụ nổ tự phát trong thùng dầu ở tâm, máy bay bị hất lên và bay lên như một tên lửa đến cao hơn 3.000 feet. Theo CIA, cái bay lên này, không phải là một quả tên lửa, thứ mà các nhân chứng gồm 736 người chính thức nhìn thấy. 

Quên khoảng khắc thế giới hàng không nhất trí nhưng từ chối tất cả kịch bản này. Quên, cũng thế, hoàn toàn không có bất kỳ nhân chứng nào trong 302 của FBI hoặc trong các phác họa đi kèm, người ta tập trung vào Mike Wire trong việc tạo video. 

Vì những lý do không được giải thích đầy đủ, CIA đã chọn để xây dựng hồ sơ dựa thẳng vào lời khai của Mike Wire. "Các nhà điều tra FBI xác định chính xác nơi mà các nhân chứng đang đứng," người kể chuyện của CIA đóng vai Wire nói trong khi video cho thấy sự vụ nổ từ góc nhìn của ông trên bãi biển Lane Bridge. "Ánh sáng trắng nhân chứng thấy là rất giống như chiếc máy bay có khả năng chiếc máy bay đang bay lên cao và nhòa đi sau khi nó nổ hơn là một tên lửa tấn công máy bay." 

Để chắc chắn, phiên bản của các sự kiện này không trung thực với tất cả các chi tiết Wire đã khai trong 302 từ tháng 7 năm 1996, ghi nhận khi trí nhớ của ông đang là rõ nhất. Các hình ảnh hoạt họa của CIA, độ dốc leo lên "40 độ" của Wire đã thành một thứ trong khoảng 70 hoặc 80 độ. Nó làm giảm sự di chuyển của vệt khói rõ ràng trong không gian ba chiều, từ phía nam và phía đông "ra ngoài từ bãi biển" cho đến khi nhỏ đi, đốm sáng hai chiều xa bờ. Nơi nó phát nổ có thể nhận thấy về phía tây của nơi Wire còn nhớ rất rõ. Đáng chú ý nhất, nó hoàn toàn bỏ qua tuyên bố của Wire rằng “cái gì đó” bay lên "lên trời từ mặt đất" và đặt góc nhìn đầu tiên của ông 20 độ trên đường chân trời, chính xác vào nơi chiếc máy bay TWA-800 sẽ được nhìn thấy. 
  
Ảnh: xác máy bay đượng dựng lại để tìm nguyên nhân;

Thật kỳ lạ, tuy nhiên, người kể chuyện CIA lặp đi lặp lại tuyên bố của Wire rằng đối tượng bay "zig-zag", mặc dù chẳng có CIA cũng không phải là hình ảnh hoạt hình của NTSB chứng tỏ máy bay đã hỏng bất cứ cái gì ngoài sự bay lên trơn tru hoàn hảo theo quĩ đạo elip. 

Câu hỏi đặt ra cần phải hỏi: Làm thế nào để CIA có thể tái tạo sự kiện với trệch hướng rất rõ ràng như vậy so với bản gốc và các chi tiết trong 302? Đây là những gì cơ quan báo cáo miệng với NTSB và đó là cái để NTSB sao chép và phát hành với sự quan liêu kém hiểu biết. (NTSB Witness document, Appendix FF, Docket No. SA-516, April 30, 1999):

Bản phân tích số 1 của CIA: "Hãy để tôi nói cái gì khác về nhân chứng này (Wire) bởi tôi nghĩ đó là thú vị Ông là một nhân chứng quan trọng đối với chúng ta và chúng ta yêu cầu FBI nói chuyện với ông ta một lần nữa, và họ đã làm (nhấn mạnh của chúng ta). Trong mô tả ban đầu của ông ta, ông ta nghĩ rằng đã nhìn thấy pháo hoa và có lẽ pháo hoa đấy có nguồn gốc trên bãi biển phía sau nhà. Chúng tôi đã đi đến địa điểm đó và nhận ra rằng, nếu ông ta chỉ nhìn thấy chiếc máy bay, thì ông ta sẽ không thấy ánh sáng xuất hiện từ phía sau mái của ngôi nhà đó, ánh sáng sẽ thực sự xuất hiện trên bầu trời. Nó đủ cao trên bầu trời như nó sẽ phải xảy ra. 


"Khi được tái phỏng vấn, ông ta cho biết đó thực sự là những gì đã xảy ra. Ánh sáng đã xuất hiện trên trời. Bây giờ, khi FBI nói với chúng ta rằng, chúng ta thậm chí còn thoải mái hơn với lý thuyết của mình. Ông ta cũng mô tả, được yêu cầu mô tả cao như thế nào trên trời qua nóc nhà mà ông ta nghĩ rằng ánh sáng đã xuất hiện, và ông ta nói như thể - nếu bạn tưởng tượng một cột cờ trên đỉnh ngôi nhà, sẽ là như thể nào nếu trên đỉnh hoặc ngọn của cột cờ".

Nếu ông ta có thể tập trung ý kiến chính trị, Tổng chưởng lý John Ashcroft có thể khởi động một cuộc điều tra nhằm vào tội lỗi giấu diếm thảm họa TWA 800 với không gì hơn là chuỗi hoạt hình của CIA và các tài liệu bên trên, bằng chứng rõ ràng và thuyết phục của một âm mưu cản trở công lý như một công tố viên có thể hy vọng có được.
  
Tại sao? Đây là lý do tại sao: FBI không bao giờ tái liên lạc với Mike Wire sau tháng 7/1996. Ai đó tiến hành phỏng vấn đã trút ra toàn bộ cái chi tiết “cột cờ” kỳ quái. (Thật kỳ lạ, David Mayer của NTSB đã sáng chế ra đầy đủ cả "hai cột cờ" để làm mất uy tín nhân chứng quan trọng số 649). Một số kẻ bên trong hoặc CIA hoặc FBI, hoặc cả hai, đã cố ý và trắng trợn làm hỏng cuộc điều tra về cái chết bi thảm của 230 người dân vô tội. 


Joan Wire, vợ của Mike, đã có một cuộc gọi từ một kẻ cho là nhân viên FBI sau tháng 7 năm 1996, nhưng khi Mike Wire gọi lại số này, ông thấy nó là nhà xuất bản New York, cho rằng có gian lận và ông đã từ chối nói chuyện.

Nếu có cuộc phỏng vấn tiếp theo của FBI, cần có sự theo dõi hoàn chỉnh với 302, địa điểm, và tên của nhân viên. Tổng chưởng lý có thể bắt đầu cuộc điều tra của mình bằng cách yêu cầu FBI công bố. Nhưng là không thể.

Bên cạnh đó, ngay cả khi FBI quyết định gọi trở lại, Wire sẽ không thay đổi lời khai của mình. Ông đã không thay đổi nó cho đến ngày nay. Khi ông và Joan trở lại Westhampton để giúp chúng tôi dựng video, "Im lặng", ông nói và cho chúng tôi thấy chính xác những gì ông nói ban đầu với các nhân viên trong 302 của mình, mặc dù ông đã không tự nhìn thấy tư liệu về chính mình. Đối với hồ sơ, Wire không nhận được thù lao cho chuyến đi này, ngay cả đối với đi du lịch.  

Wire không có lý do gì để nói dối. Trong thực tế, ông và Joan nhận thức đầy đủ về những hậu quả có thể của việc nói sự thật. Ông nói, "tôi hiểu được sự dính líu với các ông lớn." Wire nói nhẹ và dè dặt, ông đã phục vụ trong quân đội Mỹ tại Hàn Quốc thời kỳ chiến tranh Việt Nam, vẫn tin tưởng sâu sắc vào khái niệm về nhiệm vụ. "Nếu chúng ta không đứng lên vì đất nước", ông hỏi một cách hoa mĩ, "ai là người sẽ?"

Câu hỏi còn nguyên: Tại sao, trong tất cả các nhân chứng, CIA lại không chọn ai khác ngoài Mike Wire? Nhiều người khác, bao gồm cả các nhân chứng quan trọng như Major Fritz Meyer và Paul Angelides, chưa bao giờ tuyên bố thấy vệt ánh sáng bay ra khỏi đường chân trời. Lời khai của họ có thể là dễ dàng hơn để gian lận.
  
Nhưng phỏng đoán tốt nhất: ghia âm 302 có những thông tin khá chi tiết về nghề nghiệp và nơi cư trú. Có nhiều thứ để CIA có thể suy ra từ họ về thu nhập và truy cập phương tiện truyền thông. Hầu hết các nhân chứng đều ở bờ biển phía nam giàu có của Long Island, nhìn các sự kiện từ trên thuyền của họ, từ nhà nghỉ mùa hè của họ, từ các câu lạc bộ du thuyền của họ. Một nhân chứng, thợ cơ khí khiêm tốn từ Philadelphia, nhìn thấy nó trong lúc nghỉ làm công việc của mình trước khi về nhà vào sáng hôm sau. Bạn sẽ chọn ai?

Người ta phải trả tín dụng ở đây vào lúc đó. CIA chết tiệt cũng gần như đã bỏ đi với nó. Wire trải qua bốn năm sau hoàn toàn không biết gì về những sự kiện đã xảy ra. Ông đã không thấy những thứ kỳ cục được dàn dựng bởi FBI, ông đã có thể vẫn không hề hay biết.

Trong ghi âm 302, các nhân viên phỏng vấn từ tháng 7 năm 1996 đã bỏ quên một lần để tận dụng "Wire". Các nhân viên FBI biên tập 302 trước khi phát hành công khai đã quên xóa "Wire" đi, chỉ vì wire là một danh từ chung, lại không viết hoa. 302 cũng có cả thành phố quê hương của Wire. Reed Irvine của AIM, những ai siêng năng theo đuổi vụ này trong nhiều năm, nắm bắt được sự không nhất quán, tìm thấy tên của Wire trong danh bạ, và gọi. Cuộc gọi như thế đã không diễn ra cho đến tận mùa xuân năm 2000. Và chúng ta có toàn bộ các câu chuyện như đã kể.

Còn phần còn lại, như họ nói, đã là lịch sử. Một lần nữa lại là lịch sử, chẳng còn thay đổi được gì.

Video tài liệu được làm rất tuyệt vời của Jack Cashill, "Im lặng: Chuyến bay 800 và sự lật nhào pháp lý” "Silenced: Flight 800 and the Subversion of Justice" đã có ở nhiều nơi trên mạng. Dù sao thì các bạn hãy bỏ chút thì giờ để xem, coi như là không uổng phí công lao của Mike Wire và Jack Cashill.



Lều báo - cái loa tuyên truyền của phương Tây

Đã lâu, dân net nói lều báo là báo lá ngón, sủa thuê, thậm chí là những ngôn từ nặng nề hơn.


“Tối hậu thư” thường là nước lớn ra lệnh, ép buộc nước nhỏ, trong những tình huống, vấn đề nào đó mà nước nhỏ không thể không theo. Đáng ngạc nhiên, làm thế nào để nước Hà Lan nhỏ bé “tối hậu thư” với anh to xác như Nga?

Như mọi lần, lại phải tìm cái tối hậu thư này trên Google: Không thấy có các tờ báo lớn phương Tây nào mà lều báo coi là “chuẩn mực báo chí” như BBC, CNN, Fox news, RFA, VOA, NYT, Washington Post… đưa tin này. Thấy có mấy nguồn khác, ví dụ như  Guardian, Telegraphvà nguồn Israel;

Trong khi không hề có bất cứ bằng chứng nào. Không lạ gì 1 chiến dịch nhào nặn bóp méo thông tin nhằm vào dân chúng phương Tây với mục đích đổ tội cho Nga vụ máy bay Malaysia rơi ở Ukraina. Thí dụ Guardian viết: Putin có “cơ hội cuối cùng để chứng tỏ ông ta có ý định giúp đỡ [tìm cứu các thi thể]”. Ông Rutte lộ sự giận dữ của mình sau cái mà ông gọi là cuộc nói chuyện “rất mạnh mẽ” với TT Nga.

Nguồn tin РИА Новости, và nhiều nguồn Nga đưa 1 câu chuyện hoàn toàn khác, rằng Ttg Hà Lan kêu gọi Putin tác động đến dân quân Ukr;

Cần phải điểm qua tình hình: chính Kiev đang ngăn cản điều tra, họ ngăn cản 1 báo báo hiện trường của OSCE vì không như ý họ, họ trì hoãn thành lập phái đoàn điều tra quốc tế. Cho đến nay, chính dân quân, cùng lính cứu hỏa, thợ mỏ là lực lượng cứu hộ chính. Họ phong tỏa hiện trường, cấm cản cánh báo chí và dân chúng sục sạo, xáo trộn hiện trường, cho phép OSCE có mặt chứng kiến. Họ đánh dấu vị trí có nạn nhân bằng cờ trắng, không đảo lộn hiện trường để chờ các chuyên gia điều tra đến. Thế nhưng đã 3 ngày trôi qua, các chuyên gia vẫn ngồi ở Kiev.

Chúng ta sẽ không dẫn nguồn Ria Novosty, mà dẫn 1 nguồn Hà Lan về cái gọi là "tối hậu thư” của ông Ttg Hà Lan.

Nguồn tin này viết tựa đề: Rutte: Poetin moet invloed aanwenden; có thể dịch nghĩa theo từ điển Hà Lan-Anh trên mạng là “Putin phải sử dụng ảnh hưởng”;

Rõ ràng ngôn từ ‘phải’ ở đây không hề có hàm ý đe dọa, hay ép buộc bởi cái từ đi kèm sau nó là ảnh hưởng. Nó đơn thuần nêu tình huống bắt buộc phải có để giải quyết vấn đề.

Nội dung có đoạn: Premier Mark Rutte (VVD) heeft zaterdag een 'zeer intens en persoonlijk' telefoongesprek gevoerd met de Russische president Vladimir Poetin. trong đó een 'zeer intens không thể là ‘rất mạnh mẽ’ hay ‘rất giận dữ’ bởi chính ông Ttg Rutte đang phải đề nghị đối tác làm giúp ông cái việc ông đưa ra. Một cuộc nói chuyện, rất giận dữ thì còn hiểu được, nhưng rất mạnh mẽ là vô lý, do đó câu đó được hiểu là: “Ttg Mark Rutte hôm thứ 7 đã có cuộc nói chuyện rất tích cực và cá nhân với TT Nga Vladimir Putin.”

Câu ngay sau đó: “Putin cần phải gánh vác trách nhiệm về phía ly khai thân Nga và sử dụng ảnh hưởng của mình.”  Một lần nữa sáng tỏ cái ‘phải’ ở đây không hề hàm ý đe dọa hay ép buộc như giải thích ở trên. Điều này trùng khớp với bài báo Ria Novosty.

Bài báo Hà Lan cho biết, sau cuộc đàm thoại, ông Rutte họp báo, tại đó ông nói: Putin cần phải nắm lấy thời cơ chứng tỏ cho thế giới thấy ông là quan trọng để giúp đỡ. và “Ông ấy cần phải làm mọi thứ. Tôi không còn biết ai khác để gọi.”

Như vậy là quá rõ, không cần phải nói thêm về bịa đặt của một số tờ báo phương Tây, và cái loa không não của một số tờ báo Việt.

Luật báo chí chúng ta có đoạn viết về quyền và nghĩa vụ của nhà báo, Luật báo chí ghi rõ: Nhà báo có nghĩa vụ thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân, góp phần thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Nói ngắn ngọn, đưa tin kiểu này là vi phạm luật báo chí. Nhưng ai đó có thể biện hộ: đó là tin đa chiều! có nguồn gốc rõ ràng. Thưa rằng, đa chiều là thông tin phân tích mổ xẻ trên nhiều khía cạnh liên quan, kinh tế, chính trị văn hóa, các ý kiến, quan điểm có thể khác nhau về cùng 1 vấn đề. Đa chiều không có nghĩa là xuyên tạc, bóp méo thông tin, càng không có nghĩa từ bỏ chuẩn mực, nghĩa vụ báo chí: thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới…

Báo chí phương Tây đã bị tư nhân hóa, bị thao túng để phục vụ lợi ích của nhóm thiểu số cai trị. Báo chí nước ta thuộc về nhà nước quản lý, và phục vụ đông đảo quần chúng. Sau một dạo đòi ‘tự do” hóa, tư nhân hóa báo chí, không thành, nhưng báo chí ta cho thấy đã có quá nhiều biểu hiện lệch lạc, xa rời thực tế. Thấy rằng: định hướng thông tin trong thời buổi nhiễu loạn như hiện nay lại càng chứng tỏ là cần thiết hơn bao giờ hết.

Cặp vợ chồng may mắn thoát nạn máy bay Malay MH17!

Lẽ ra họ đã có mặt trên chiếc máy bay xấu số nếu như nhân viên sân bay Hà Lan Schiphol không bảo đã hết chỗ!

Một số khách ở Schiphol đã “may mắn” khi không kịp mua vé lên chiếc máy bay Malaysia đến Kuala Lumpur. Nó đã không bao giờ đến đích khi rơi ở gần Donetsk.

Trong số đó có đôi vợ chồng và đứa con nhỏ, Barry và Izzy Sim.


Họ gần như đã lên chiếc máy bay xấu số, nhưng người ta bảo hết chỗ và đành lưu lại sân bay tìm chuyến bay khác muộn hơn, và họ bay chuyến cuối đến đích bằng máy bay của hãng hàng không Hà Lan KLM. Bây giờ, họ tâm sự về việc đã qua như triết lý.

Barry và Izzy nhớ lại cảm giác khác thường vừa trải qua, khi biết rằng có thể họ đã chết. "Xuất hiện cảm giác thế nào đó đâu đó bên trong. Như thể có bươm bướm trong bụng. Tim bắt đầu đập nhanh".

"Dường như, có ai đó trên cao, nhìn chúng tôi và nói: "Các người không cần lên chuyến bay này"” − người vợ nói. Cô cho biết gia đình mình thường bay hãng Malaysia Airlines, họ thích hãng này hơn các hãng khác. Còn Barry Sim không vì thế mà sợ bay, anh tin là “sét có đánh thì không bao giờ trúng cùng 1 chỗ”.

Như người đưa tin cho biết, cùng với cặp vợ chồng Barry và Izzy Sim, còn có chục người Anh nữa cũng đã tình cờ không bay chiếc Boeing 777 tử nạn. Tất cả 295 hoặc 298 người trên máy bay đều đã chết.


10 ảo tưởng về CNTB - Ten myths about capitalism


Chủ nghĩa tư bản phiên bản tân tự do đã kiệt quệ. Đám cá mập tài chính không muốn đánh mất lợi nhuận, và chuyển gánh nặng nợ nần chính sang những người nghỉ hưu và người nghèo. Bóng ma "mùa xuân châu Âu" ám ảnh Thế giới cũ và các đối thủ của chủ nghĩa tư bản giải thích với dân chúng cuộc sống của họ đang bị hủy diệt như thế nào. Đây là nội dung chính bài viết của một nhà kinh tế Bồ Đào Nha tên là Alves Guilherme Coelho.

Có một thành ngữ nổi tiếng rằng mỗi quốc gia có một chính phủ xứng đáng. Điều đó không hoàn toàn đúng sự thật. Dân chúng có thể bị lừa bởi sự tuyên truyền hùng hổ định hướng ý kiến người ta, và khi đó dễ dàng thao túng. Bịa đặt và thao túng là vũ khí đương thời để hủy diệt hàng loạt và áp bức các dân tộc. Nó cũng hiệu quả như các phương tiện truyền thống của chiến tranh. Trong nhiều trường hợp, chúng bổ sung cho nhau. Cả hai phương pháp được sử dụng để đạt được chiến thắng trong cuộc bầu cử và tiêu diệt các quốc gia ngang bướng.

Có nhiều cách để điều khiển quan điểm công chúng, trong đó hệ tư tưởng của CNTB đã dựa vào và đi đến mức độ hoang đường. Nó là sự kết hợp của những sự thật giả dối được lặp đi lặp lại hàng triệu lần, qua các thế hệ, và do đó trở thành không thể bàn cãi đối với nhiều người. Chúng được thiết kế để đại diện cho CNTB như là sự tín nhiệm, giành được sự ủng hộ và tin tưởng của quần chúng. Những huyền thoại này được phát tán và và quảng bá thông qua các công cụ truyền thông, các tổ chức giáo dục, truyền thống gia đình, thành viên nhà thờ...

Dưới đây là những ảo tưởng phổ biến nhất.

Myth 1. Dưới chủ nghĩa tư bản, bất cứ ai làm việc chăm chỉ có thể trở nên giàu có

Hệ thống tư bản sẽ tự động đem lại sự giàu cho các cá nhân làm việc chăm chỉ. Các lao công đã định hình niềm hy vọng giàu có hão huyền một cách vô thức, nhưng nếu như không đi được đến chỗ toại nguyện, họ sẽ tự đổ lỗi cho chính mình mà thôi. Trên thực tế, dưới chế độ TB, khả năng thành công, bất kể anh có làm việc bao nhiêu đi chăng nữa, cũng ngang bằng với sổ xố. Giàu có, với một ít ngoại lệ, không hề có được từ làm việc siêng năng, mà là do gian lận và không thương xót của những kẻ uy thế hơn, quyền lực hơn giành được. Có hoang tưởng rằng thành công là kết quả của lao động siêng năng kết hợp với may mắn hay số phận, tùy thuộc vào khả năng lanh lợi hoạt động kinh doanh hay mức độ cạnh tranh. Ảo tưởng này tạo những tín đồ của hệ thống hỗ trợ nó. Tôn giáo, đặc biệt là Tin lành, nuôi dưỡng loại ảo tưởng này.

Myth 2. CNTB tạo ra sự giàu có và thịnh vượng cho tất cả

Sự giàu có tích lũy trong tay nhóm thiểu số, sớm hay muộn sẽ được phân phối cho tất cả mọi người. Mục đích của ảo tưởng này là làm cho ông chủ tích lũy giàu sang mà không bị đòi hỏi gì. Đồng thời giữ niềm hy vọng sớm hay muộn người lao động sẽ được trả công cho công việc và cống hiến của họ. Thực sự, ngay cả Marx cũng phải kết luận rằng mục tiêu cuối cùng của CNTB không phải là phân phối của cải mà là tích lũy và tập trung của cải. Khoảng cách giàu nghèo trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt là sau khi giới tân-tự do thiết lập ách thống trị, đã chứng tỏ điều đó. Ảo tưởng này là một trong những thứ phổ biến nhất trong thời kỳ gọi là "phúc lợi xã hội" sau chiến tranh, và nhiệm vụ chính của nó là hủy hoại những đất nước theo CNXH. 

Myth 3. Tất cả chúng ta cùng chung một con thuyền

Xã hội tư bản không có tầng lớp, vậy nên chịu trách nhiệm về thất bại và khủng hoảng cũng nằm trên tất cả và bất cứ ai cũng phải chịu. Mục đích là tạo ra một phức hợp tội lỗi cho người lao động, cho phép giới tư sản tăng cường thu lời và đẩy trách nhiệm về phía quần chúng. Thực tế, những kẻ chịu trách nhiệm là toàn bộ giới đầu sỏ bao gồm những tỷ phú, những kẻ ủng hộ chính phủ và được chống lưng từ chính phủ. luôn được hưởng đặc quyền lớn về thuế, thầu khoán, đầu cơ tài chính, gia công ngoại, gia đình trị... Ảo tưởng này được giới đầu sỏ gieo rắc để tránh phải chịu trách nhiệm về cảnh ngộ khó khăn của dân chúng và tránh cho chúng buộc phải trả giá cho những lỗi lầm của mình.

Myth 4. CNTB nghĩa là tự do

Tự do thực sự chỉ có được dưới CNTB với sự giúp đỡ của cái gọi là "thị trường tự điều chỉnh". Mục đích của ảo tưởng này là để tạo ra cái gì đó tương tự như tôn giáo của CNTB, ở đó mọi thứ bị chiếm đoạt, như là từ chối quyền của dân chúng tham gia vào việc đưa ra các quyết định kinh tế vi mô. Thay vào đó, quyền tự do trong việc ra quyết định là một quyền cơ bản, nhưng lại chỉ có một nhóm nhỏ cá nhân đầy quyền lực được hưởng, chứ không phải dân chúng, cũng không phải các cơ quan chính phủ. Trong các hội nghị hội thảo (ví như Bindenberg) của những nhóm nhỏ sau cánh cửa đóng kín, lãnh đạo những công ty lớn, nhà băng và các cartel đa quốc gia đưa ra những quyết định kinh tế tài chính mang bản chất chiến lược. Do đó mà thị trường, không hề là tự điều chỉnh, mà chúng bị thao túng. Ảo tưởng này đã được sử dụng để bào chữa cho việc can thiệp vào vấn đề nội bộ các nước không-tư bản, với giả bộ rằng họ không có thị trường tự do, mà có thị trường bị điều chỉnh bằng luật lệ. 

Myth 5. CNTB nghĩa là dân chủ

Dân chủ chỉ tồn tại dưới CNTB. Ảo tưởng này cũng ngọt ngào như ảo tưởng 4, nó được dựng lên để ngặn chặn người ta bàn luận về những mô hình xã hội khác, những trật tự xã hội khác. Nó được dùng để biện bạch rằng tất cả thế giới còn lại là độc tài. CNTB tự khoác cho mình là tự do là dân chủ, trong khi điều đó chỉ đồng nghĩa với xuyên tạc. Bởi thực tế xã hội bị phân chia thành các tầng lớp và tầng lớp giàu chỉ là một nhóm siêu nhỏ, lại thống trị toàn bộ số đông còn lại. Không gì khác hơn "dân chủ" tư bản là độc tài trá hình, còn "cải tổ dân chủ" là quá trình phản tiến bộ. Cũng như ảo tưởng 4, ảo tưởng này được dùng để bào chữa cho mục đích chỉ trích và tấn công các quốc gia không tư bản.

ND: Thật đáng thương, có những "nhân sĩ tây học" da vàng mũi tẹt, thấp cổ bé họng nhất trong đất nước tư bản, sống ở đáy xã hội tư bản, lại cứ tưởng mình là tự do là dân chủ, nên cứ theo chủ sủa về quê. Chưa bao giờ thấy họ tru tréo hay rên rỉ cùng số đông dân chúng chính quốc. Lẽ ra được ăn học hơn người, họ phải có cách nào đó tích cực, sáng sủa hơn chứ.

Myth 6. Bầu cử là đồng nghĩa với dân chủ

Bầu cử là đồng nghĩa với dân chủ. Mục đích là để bôi nhọ hay phỉ báng các hệ thống khác và ngăn chặn bàn luận về các hệ thống bầu cử và chính trị mà ở đó, các lãnh đạo được xác định qua bầu cử không tư bản. Lấy ví dụ, như bầu cử dựa vào đạo đức thế hệ, kinh nghiệm hay sự nổi tiếng của đại biểu. Trên thực tế, hệ thống tư bản bị thao túng và mua chuộc, ở đó lá phiếu là một thuật ngữ có điều kiện, và bầu cử chỉ là một việc làm hình thức. Thực tế chỉ ra bầu cử chỉ có và luôn luôn thắng bởi những đại diện của giới tư sản thiểu số không đại diện cho dân chúng. Ảo tưởng rằng bầu cử tư sản bảo đảm mang tính dân chủ là một trong những cản trở lớn nhất và thậm chí một số đảng phải cánh tả cũng buộc phải tin tưởng vào hoang đường.

Myth 7. Các đảng phái thay phiên nhau trong chính phủ giống như có sự thay thế

Các đảng phải tư sản, định kỳ thay phiên nhau nắm quyền có sự thay đổi nền tảng, là ảo tưởng. Mục đích là để duy trì hệ thống CNTB bên trong tầng lớp cai trị, nuôi dưỡng ảo tưởng rằng dân chủ bị giảm sút cho đến bầu cử. Trên thực tế, rõ ràng là hệ thống 2 đảng phải (như Mỹ) hay đa đảng phải (như các nước phương tây khác) là hệ thống một đảng. Có hai hay nhiều hơn phe phái của cùng một lực lượng chính trị, chúng thay nhau, bắt chước là đảng có chính sách thay thế. Dân chúng thì luôn luôn phải chọn tay sai của hệ thống này, khi bị thuyết phục rằng đó không phải là điều chúng làm. Ảo tưởng rằng các đảng CNTB có nền tảng khác nhau và thậm chí đối lập nhau là điều quan trọng nhất, lại thường xuyên được đen ra bàn luận để làm cho hệ thống CNTB vận hành.

Myth 8. Chính trị gia được bầu đại diện cho dân chúng và do đó có thể quyết định thay cho họ

Chính trị gia được sự ủy quyền bởi dân chúng, và có thể cai trị theo ý muốn. Mục đích của ảo tưởng này là để dân chúng nuôi nấng những lời hứa trống rỗng và để che đậy những phương sách thực sự sẽ được thi hành trong thực tế. Thực sự, những kẻ được bầu không thực hiện những hứa hẹn này, hoặc tồi tệ hơn, chúng bắt đầu triển khai những phương sách ngầm, thường mâu thuẫn hay thậm chí trái ngược với Hiến pháp nguyên bản. Thường thì các chính trị gia được bầu bởi một thiểu số hoạt động ở giữa nhiệm kỳ đạt phổ biến tối thiểu của họ. Trong những trường hợp này, sự mất mát của các đại diện không dẫn đến một sự thay đổi của chính trị thông qua phương tiện hiến pháp, nhưng ngược lại, dẫn đến sự thoái hóa của nền dân chủ tư bản chủ nghĩa trong chế độ độc tài thực sự hay trá hình. Việc thi hành có hệ thống dân chủ giả mạo dưới CNTB là một trong những nguyên nhân làm cho ngày càng tăng số lượng dân chúng không đi bầu cử.

Myth 9. Không có gì thay thế được CNTB

CNTB không phải là hoàn hảo, nhưng là hệ thống kinh tế chính trị duy nhất có thể, và vì thế là chế độ thích hợp nhất. Mục đích là để hạn chế nghiên cứu và thúc đảy các hệ thống chế độ khác và loại trừ đối thủ cạnh tranh bằng mọi biện pháp có thể, kể cả bằng bạo lực. Trong thực tế, có những hệ thống kinh tế chính trị khác, và nổi tiếng nhất là CNXH khoa học. Ngay cả trong khuôn khổ của CNTB, cũng có những phiên bản Nam Mỹ "CNXH dân chủ" hay phiên bản châu Âu "CNTB xã hội chủ nghĩa". Hoang đường này được thiết kế để dọa dẫm dân chúng, để ngăn chặn các cuộc thảo luận lựa chọn thay thế CNTB đạt đến sự nhất trí. 

Myth 10. Tiết kiệm tạo ra của cải

Khủng hoảng kinh tế là do người lao động hưởng quá nhiều lợi ích. Nếu chúng bị loại bỏ, chính phủ sẽ tiết kiệm được và đất nước sẽ trở thành giàu có. Mục đích là đẩy khoản nợ tư bản phải trả sang khu vực công, kể cả những người hưu trí. Mục đích khác là làm cho dân chúng chấp nhận nghèo đói, với lý lẽ đấy chỉ là tạm thời. Nó cũng nhằm ý định tạo thuận lợi cho quá trình tư nhân hóa khu vực công. Dân chúng bị thuyết phục để tin rằng tiết kiệm là "sự cứu rỗi" mà không hề đề cập đến nó đạt được thông qua việc tư nhân hóa những lĩnh vực lợi nhuận cao cho những ai có thu nhập trong tương lai sẽ bị mất. Chính sách này dẫn đến việc giảm thu nhập nhà nước và giảm phúc lợi, lương hưu và trợ cấp.

http://english.pravda.ru/business/companies/15-02-2012/120518-ten_myths_capitalism-0/

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...