Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P12

Quan sát từ Lều chăn bò của Pala


Hai chuyên gia Tây Tạng nổi tiếng, giáo sư Melvyn C. Goldstein và Cynthia M. Beall, cung cấp các quan sát trực tiếp có giá trị về cuộc sống hiện tại của các dân tộc du mục Tây Tạng trong cuốn sách của họ năm 1990, Du cư tây Tâ Tạng. Goldstein và Beall trải qua 16 tháng sinh sống ở Pala giữa các năm 1986 và năm 1988, một khu lều trại vô cùng xa xôi của người chăn gia súc Tây Tạng có 300 con bò. Nghiên cứu này không mô tả công việc trồng trọt ở Tây Tạng, lĩnh vực mà cuộc cách mạng chủ nghĩa Mao bén rễ sâu xa nhất, và các tác giả thông cảm sâu sắc với chế độ phong kiến ​​Tây Tạng cũ. Tuy nhiên, nó rất hữu ích khi Beall và Goldstein, bất chấp sự thù địch của họ với cách mạng, đã minh chứng sự trở lại của áp bức ở nông thôn xa xôi Tây Tạng và các dấu hiệu của cuộc đấu tranh giai cấp tiếp tục ở cộng đồng Tây Tạng. 

Goldstein và Beall viết rằng ngay cả ở Pala xa xăm, những người du mục đã có một lịch sử tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp của Tây Tạng. Năm 1959, những người chăn nuôi tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang chống lại Bo Argon, một kẻ ở địa phương ủng hộ Đạt Lai Lạt Ma, bởi vì những người du mục không muốn tham gia cuộc nổi dậy phản cách mạng đã được tổ chức diễn ra ở Lhasa. Goldstein và Beall cũng ghi như thế nào mà đại đa số dân du mục Pala, mong muốn đấu tranh chống lại chính quyền địa phương, tham gia cùng Gyenlo, một trong hai nhóm Hồng vệ binh chính của Tây Tạng trong thời gian Cách mạng Văn hóa Vô sản. Các cuộc cách mạng văn hóa khuấy động cuộc đấu tranh phức tạp, ngay cả những người chăn nuôi của khu vực xa xôi nhất này.

Goldstein và Beall sau đó đưa tư liệu cuộc đảo chính năm 1976 đại diện cho một "sự thay đổi của bầu trời" cơ bản cho Tây Tạng như thế nào: "Sự kết thúc của cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đúng vào năm 1976 và sự tàn phá của “Bè lũ 4 tên" đã đưa một nhóm mới các nhà lãnh đạo lên nắm quyền trong ĐCS TQ, họ có quan điểm làm thay đổi số phận của những người du mục Pala. Giữ một triết lý kinh tế và văn hóa hoàn toàn khác với Mao và Bè lũ 4 tên, họ coi “Cách mạng Văn hóa" như một thảm họa đối với Trung Quốc và chấm dứt các hợp tác xã, áp dụng một hệ thống kinh tế nông thôn nhiều định hướng thị trường hơn được gọi là hệ thống “có trách nhiệm” . Trách nhiệm sản xuất được chuyển từ hợp tác xã đến các hộ gia đình."

Cuộc đảo chính đã đặt một chính phủ xét lại lên khu vực này, Lagyab Lhojang là tên của một chủ đất phong kiến ​​cũ từng sở hữu tất cả người và động vật ở đây. "Tác động mạnh của những thay đổi này đến Pala vào năm 1981. Qua một đêm, tất cả các thú nuôi của hợp tác xã được chia đều giữa các thành viên của họ. Mỗi dân du mục dù một tuần tuổi, thanh thiếu niên, người lớn, người già cùng được chia 37 gia súc: 5 con bò, 25 con cừu, và 7 con dê. Mỗi hộ gia đình lấy lại trách nhiệm hoàn toàn với vật nuôi của mình, quản lý theo kế hoạch và quyết định của mình. Đồng cỏ được phân bổ đồng thời cho các nhóm nhỏ từ ba đến sáu hộ gia đình sống trong các ngôi nhà-lều và cơ bản là giống nhau".

Giàu, nghèo, lương lao động và suy dinh dưỡng quay trở lại


Tuy nhiên, phân chia của cải chỉ là bước đầu tiên hướng tới khôi phục lại hệ thống giàu nghèo ở nông thôn Tây Tạng. Goldstein và Beall đưa ra ví dụ từ đồng cỏ: "Một hậu quả nổi bật khác của chính sách cải cách hậu 1981 của Trung Quốc là nhanh chóng và mở rộng mức độ khác biệt về kinh tế và xã hội đã xuất hiện trở lại ở Pala. Mặc dù tất cả dân du mục Pala trong xã hội cũ là thần dân (bị bóc lột) của Ban Thiền Lạt Ma, sự khác biệt giai cấp khủng khiếp tồn tại giữa lớp người. Gia đình giàu có đàn gia súc lớn sống trong sang trọng bên cạnh tầng lớp lao động nghèo không có gia súc, người du mục nghèo, công chức và người ăn xin. Áp dụng hợp tác xã năm 1970 đã loại bỏ những bất bình đẳng vì tất cả sở hữu tư nhân phương tiện sản xuất kết thúc vào thời điểm này. Việc giải thể hợp tác xã năm 1981 vẫn duy trì sự bình đẳng thô ráp vì tất cả những người du mục ở Pala nhận được một số lượng tương đương gia súc. Tuy nhiên, trong vòng 7 năm sau đó, một số đàn gia súc đã tăng lên trong khi những người khác đã giảm mạnh. Một lần nữa có cả người du mục rất giàu và rất nghèo. Một hộ gia đình thực sự không có vật nuôi nào cả.

"Trong khi không có hộ gia đình nào có ít hơn 37 con gia súc mỗi người năm 1981, 38%  có ít hơn 30 con vào năm 1988. Vào cuối cùng tăng cao liên tục, tỷ lệ hộ gia đình Pala có hơn 50 gia súc mỗi người tăng từ 12% vào năm 1981 đến 25% năm 1988. 10% các hộ gia đình có hơn 90 gia súc mỗi người so với 0 vào năm 1981. Là kết quả của quá trình khác biệt kinh tế này, 16% giàu hơn vào năm 1988 sở hữu 33% các loài gia súc trong 33% nghèo hơn chỉ có 17% gia súc. Bảy năm qua hệ thống  “có trách nhiệm” của gia đình dựa trên hộ gia đình đã dẫn đến một sự tập trung ngày càng tăng sô gia súc trong tay một số ít hộ gia đình giàu có mói, và sự xuất hiện một lần nữa của một tầng lớp các hộ gia đình nghèo không có hoặc có rất ít gia súc. Những người nghèo mới này sinh sống bằng cách làm việc cho những người du mục giàu, vài trong số họ bây giờ, như trong xã hội cũ, thường xuyên thuê chăn thả, vắt sữa, và làm đầy tớ trong khoảng thời gian dài”.

Trong chủ nghĩa Mao, giai đoạn xã hội chủ nghĩa, thặng dư xã hội ở nông thôn Tây Tạng hướng vào phục vụ nhân dân và hỗ trợ cuộc cách mạng: kinh phí cho công trình công cộng, trường học và các tổ chức văn hóa, và các lực lượng vũ trang cách mạng. Như Bob Avakian giải thích trong cuốn sách của mình, “Cộng sản giả chết, Cộng sản thật trường tồn!” (Phony Communism Is Dead, Long Live Real Communism!): điều này phản ánh đường lối và thực hành của các nhà cách mạng trong TQ, những ai nhằm mục đích tạo ra "sự giàu có công cộng" càng ngày càng được sự chia sẻ của toàn bộ quần chúng nhân dân.

Giờ, tuy nhiên, thặng dư đó được tiêu thụ bởi các quan chức cũng như một số người bóc lột giàu có mới, tạo ra sự bùng nổ trong mua sắm xa xỉ, trong khi quần chúng chịu đựng suy dinh dưỡng một lần nữa.

Goldstein và Beall viết rằng "giàu có mới", trên thực tế, là cùng "kẻ thù giai cấp", những kẻ đã bóc lột các láng giềng của họ trong xã hội cũ. Đây không phải là tình cờ. Các "cải cách" xét lại được thiết kế để khôi phục lại hệ thống bóc lột giai cấp ở nông thôn và thả trói cho kẻ thù giai cấp cũ để hỗ trợ chính phủ mới. Một số tiền lớn đã được trao bởi chính phủ xét lại mới cho kẻ thù giai cấp cũ để giúp chúng khôi phục lại đặc quyền trước đây của chúng. Goldstein và Beall viết là một trong những kẻ bóc lột cũ ở Pala nhận được hàng ngàn đô la của Trung Quốc, "một tài sản nhỏ ở Tây Tạng, nơi, bằng cách so sánh, mức lương 1 năm của một giảng viên đại học ở Lhasa là khoảng 2.500 đến 3.000".

Phản cách mạng ở đây không phải là khôi phục trật tự phong kiến ​​cũ. Các quý tộc cũ và tu viện đã không được phục hồi ở trên cùng của cấu trúc tầng lớp mới này. Tài sản ngày càng tập trung ở một tầng lớp nông dân giàu có, trong khi lợi nhuận thường tích tụ vào nhà nước tư bản hoạt động như nguồn vốn lái buôn trong chính quyền địa phương và cấp huyện. Sản xuất ở Tây Tạng hoàn toàn bị định dạng để phục vụ nhu cầu của tầng lớp tư bản quan liêu lớn hơn mà giờ đang cai trị toàn bộ Trung Quốc.


Kết quả đảo ngược này có thể được nhìn thấy trong các thành phố. Khách hành hương giàu có đã trở về Lhasa, và người ăn xin nghèo đói cũng đã xuất hiện trở lại. Nhà báo Ludmilla Tuting viết thấy rằng nông dân Tây Tạng đến đến Lhasa để bán con của họ - điều phổ biến dưới sự cai trị của giới Lạt Ma cũ, mà đã biến mất sau cuộc cách mạng chủ nghĩa Mao. Tuting nói thêm rằng trong khi người nghèo bị đói, 55 ngàn tấn thịt bò Tây Tạng hiện đang được xuất khẩu từ Tây Tạng đến Hồng Kông mỗi năm.

Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P11

Điểm xoay cay đắng: Cuộc đảo chính xét lại năm 1976


Các cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp của Cách mạng Văn hóa Vô sản đã diễn ra và suy tàn 1966-1976. Lúc cao trào của cuộc đấu tranh quần chúng, đổi mới quét qua khắp các khu vực. Khi những người cách mạng bị buộc phải rút lui, lực lượng xét lại xô đẩy lật đổ những thay đổi mang tính cách mạng.

Tháng 10 năm 1976, lực lượng cách mạng chịu một thất bại quyết định. Hai tuần sau cái chết của Mao Trạch Đông, lực lượng quân đội trung thành với xét lại bắt các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Mao quan trọng ở Bắc Kinh gồm cả Giang Thanh và Trương Xuân Kiều. Đó là một cuộc đảo chính xét lại. Qua nhiều năm chuyển đổi, chủ nghĩa tư bản ngày càng nhiều công khai đối với người dân Trung Quốc. Nhà xét lại tinh quái Đặng Tiểu Bình nổi lên như một lãnh đạo quốc gia của giai cấp cầm quyền nhà nước tư bản chủ nghĩa mới.

Sự thất bại lịch sử đã được cảm nhận sâu sắc ở Tây Tạng. Nhiều chi tiết của cuộc phản cách mạng ở Tây Tạng đến nay vẫn chưa được biết đến. Tuy nhiên, điều này là rất rõ ràng: giai cấp tư sản, những kẻ vẫn còn giữ nhiều vị trí chủ chốt ở Tây Tạng, đưa chương trình của họ vào với đầy đủ hiệu lực.

Ngày nay, quần chúng nông dân Tây Tạng đang bị đàn áp và bóc lột bởi lớp nhà giàu mới liên minh chặt chẽ với các công chức nhà nước. Các xét lại đang thực hiện chính sách Hán sô-vanh tràn ngập trung tâm Tây Tạng, đặc biệt là các thành phố, với sự di dân người Hán. Quân đội chính phủ và cảnh sát bắn hạ người biểu tình. Tài nguyên Tây Tạng bị khai thác vô tư  phục vụ thần tài lợi nhuận tư bản chủ nghĩa. (Xem, "Revisionist Clear-Cutting" http://www.revcom.us/a/firstvol/tibet/ecol4.htm)

Các chính sách này không có gì để làm ở chủ nghĩa Mao. Họ có tất cả mọi thứ để làm với sự phục hồi chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc với sự hỗ trợ đầy đủ từ đế quốc Mỹ.

Thanh lọc cách mạng Mao ở Tây Tạng


Khi "bầu trời thay đổi" trong cách mạng Trung Quốc, những kẻ cai trị xét lại mới tập trung vào việc củng cố quyền lực của họ. Họ có hai nhu cầu trước mắt ở Tây Tạng: Thứ nhất, lật đổ và phá vỡ các lực lượng cách mạng rộng lớn được đào tạo và tổ chức theo đường lối Mao. Và thứ hai, cởi trói tất cả các lực lượng phản cách mạng có sẵn dưới sự lãnh đạo của họ.

Có một cuộc thanh trừng rộng lớn các nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mao từ đảng đến chính phủ. Dường như là nhiều người đã bị giết hoặc bỏ tù. Nhà sử học A. Tom Grunfeld có tài liệu cho rằng số lượng các nhà cộng sản Tây Tạng đã tăng lên đáng kể trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa Vô sản vĩ đại (CMVS) và sau đó giảm mạnh sau năm 1976: Chỉ tính riêng trong năm 1973, trong CMVS, báo chí Trung Quốc đưa tin tuyển dụng 11.000 thành viên Tây Tạng mới vào Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đoàn Thanh niên Cộng sản. Một năm sau cuộc đảo chính, ĐCS TQ báo cáo chỉ có 4.000 đảng viên Tây Tạng. Một thập kỷ sau, Đảng Cộng sản đã được báo cáo có 40.000 thành viên ở Tây Tạng mà không mô tả bao nhiêu là người Tây Tạng và bao nhiêu là người Hán di cư. Điều này cho thấy toàn bộ thế hệ cách mạng trẻ Tây Tạng, chủ yếu là từ tầng lớp nghèo, bị bứng ra khỏi quyền lực. Vào năm 1979 lớp lãnh đạo đảng mới được củng cố bởi rất nhiều các nhân vật xét lại, những kẻ đã mất uy tín trong suốt thời kỳ cách mạng.

Các xét lại giang vòng tay của họ cho các lực lượng Tây Tạng, những ai có thể giúp họ đánh bại các nhà cách mạng, gồm cả những tàn tích của tầng lớp phong kiến-Lạt Ma đã chết cứng. Bắt đầu từ năm 1977, các xét lại ban hành tuyên bố chung khôi phục lại "quyền" phong tục phong kiến ​​và lên tiếng mạnh mẽ  buộc tội cách mạng và tước quyền sở hữu của tất cả các loại áp bức và kẻ thù giai cấp là "bất công". Họ hứa hẹn sẽ tạo ra sự thịnh vượng lớn bằng cách phân phối lại tài sản tập thể.

Tháng 4 năm 1977, ngay sau cuộc đảo chính, Ngawang Jigme Ngabo nói rằng chính phủ xét lại mới "sẽ chào đón sự trở lại của Đạt Lai Lạt Ma và những người theo ông ra trốn sang Ấn Độ". Ngabo là một ​​quý tộc phong kiến Tây Tạng đã thoát khỏi Tây Tạng trong cuộc Cách mạng Văn hóa và sau đó quat về và trở nên nổi bật. Kêu gọi công khai này là sau khi các cuộc đàm phán bí mật, mà Đặng Tiểu Bình đã liên lạc với anh trai của Đạt Lai Lạt Ma, Gyalo Thondup, để thảo luận về sự trở lại có thể có của các thành phần quan trọng giai cấp thống trị phong kiến ​​cũ, trong đó có Đạt Lai Lạt Ma.

Vào 25 tháng 2 năm 1978, Ban Thiền Lạt Ma, một trong những kẻ bóc lột vĩ đại nhất của Tây Tạng cũ và một đức "Phật tái thế" được thả tù và được giao cho vị trí cao trong chính phủ. 34 nhân vật người Tây Tạng nổi tiếng được CIA hậu thuẫn trong cuộc nổi dậy năm 1959 đã được thả khỏi nhà tù. Từ năm 1977 trở đi, các quan chức Mỹ bắt đầu thực hiện các chuyến thăm thường xuyên đến khu vực.

Phục hồi những kẻ bóc lột cũ và mới tạo ra tạo tiền đề cho một cuộc phản cách mạng sâu rộng trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống của người Tây Tạng.

Bạo loạn Tây Tạng ngày nay có nguồn gốc sâu xa từ đây.


Cái gọi là cải cách ở nông thôn Tây Tạng


Có vô số làng mạc và các khu định cư, du canh du cư nằm rải rác, cách xa nhau, trên cao nguyên hoang vu rộng lớn ở Tây Tạng. Các cuộc đấu tranh và những thay đổi đã phần lớn bị phớt lờ bởi những kẻ Lạt Ma lưu vong và media phương Tây, tuy nhiên nơi đây là trái tim của Tây Tạng, nơi phần lớn người dân sinh sống. Sau khi xét lại củng cố toàn bộ quyền lực nhà nước cho chính mình, họ nhanh chóng quay lại đảo ngược cuộc cách mạng ở nông thôn của Tây Tạng.

Các lãnh đạo chủ nghĩa xét lại mới bãi bỏ nông trại tập thể xã hội chủ nghĩa theo các giai đoạn. Đầu tiên, vào năm 1980 họ bãi bỏ hợp tác xã nhân dân và bãi bỏ mọi chỉ đạo tập trung hóa, các đội sản xuất địa phương (đến 20, 30 hộ gia đình). Chẳng mấy chốc họ bãi bỏ hoàn toàn đội sản xuất.

Phản động thường xuyên miêu tả điều này như là "trao cho người nông dân nhiều quyền hơn trong cuộc sống của họ". Nhưng, theo cách sâu xa nhất, điều này đã phá vỡ tổ chức nông dân thành các đơn vị gia đình bị cô lập. Nó bỏ lại quần chúng bất lực một lần nữa trước mặt các lực lượng thị trường tư bản chủ nghĩa và bỏ lại cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp đã được khuyến khích của họ. Tinh thần đoàn kết đã được công bố là một vấn đề của quá khứ và các gia đình muốn có thể một lần nữa làm giàu bằng cách khai thác hàng xóm nghèo của họ.

Lực lượng phản động làm ra vẻ việc bãi bỏ canh tác tập thể là mong muốn phổ biến trong nông dân Tây Tạng. Những tuyên bố này mâu thuẫn với thông tin có được.

Có khám phá rằng, ví dụ, xét lại bãi bỏ thuế nông thôn Tây Tạng trong mười năm, cùng lúc họ tiến hành "cải cách" phản cách mạng. Họ hy vọng rằng hối lộ "giảm thuế" sẽ vô hiệu hóa phần ít có ý thức trong số các nông dân.

Một số nông dân có thể hoan nghênh phân chia tài sản tập thể, nam giới trong mỗi nhóm gia đình ôm lấy thứ quyền ngay lập tức này và hứa hẹn rằng kẻ thù giai cấp có thể lấy lại sự giàu có cũ và đặc quyền của họ. Đồng thời, Cách mạng Văn hóa đã phát tán khắp các vùng nông thôn với các lớp học của các nhà hoạt động nông nô giác ngộ, và chắc chắn cuộc đấu tranh một lần nữa lại phục hồi.

Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P10

Những trận chiến lớn cuối cùng


"Chúng tôi đang trong quá trình làm việc mà tổ tiên của chúng tôi đã không bao giờ thử, đi theo con đường họ không bao giờ đi”. Một cộng sản kỳ cựu người Tây Tạng năm 1975

Một nhà quan sát bắt được một sự thật cơ bản về Cách mạng Văn hóa vô sản ở Tây Tạng: "Bây giờ bạn không thấy được các nông nô rách rưới khiêng  kiệu một quý tộc mặc quần áo ấm, nhẫn màu ngọc lam và vòng vàng đeo tay". Hệ thống hận thù cũ của chế độ phong kiến ​Lạt Ma đã bị tan vỡ bởi chính người dân. Đời sống của nhân dân được cải thiện. Bệnh tật giảm. Dân số tăng lên. Sự cô lập đến tê liệt của Tây Tạng đã bị phá vỡ. Đọc, viết và kiến ​​thức khoa học cơ bản được phổ biến trong nhân dân. Thậm chí kẻ thù của chủ nghĩa Mao cũng thừa nhận rằng khoảng cách rộng lớn giữa người giàu và người nghèo đã biến mất.

Đồng thời, Cách mạng Văn hóa còn đóng vai trò nhiều hơn so với việc đánh bại mang lịch sử đối với chế độ phong kiến. Mười năm nó ngăn chặn chủ nghĩa xét lại khỏi tiến hành âm mưu biến người Tây Tạng thành nô lệ ăn lương trong một đất nước Trung Quốc tư bản chủ nghĩa.
Nhưng cuộc đấu tranh sống và cái chết giữa chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa xét lại là không hơn!

Năm 1971, một cuộc đảo chính quân sự cấp cao của xét lại đã bị đánh bại tại Bắc Kinh. Tướng Lâm Bưu đầy quyền lực đã bị lộ và bị lật đổ. Một số người ủng hộ thân cận của ông là nhà lãnh đạo nổi bật của Ủy ban cách mạng Tây Tạng và họ bị mất quyền lực. Trong cuộc đấu tranh tiếp theo, Ren Rong, một lãnh đạo của " Chiều ngược tháng hai" đột nhiên nổi lên như một nhà lãnh đạo mới ở Tây Tạng. Một kẻ lạnh lùng, cánh hữu len lỏi vào Tây Tạng.

Ở Tây Tạng, một chiến dịch đã được phát động để duy trì cái gọi là "bốn quyền tự do cơ bản" (để thực hành tôn giáo, thương mại, cho vay tiền với lãi suất, thuê lao động và gia nô). Khẩu hiệu này của "bốn tự do" đã không được duy trì kể từ trước cuộc nổi dậy năm 1959 các chủ nô. Tầng lớp bề trên Tây Tạng xuất hiện trở lại ở các vị trí cao. Các cuộc đàm phán đã được mở với Đạt Lai Lạt để tìm cách đưa ông ta trở lại ở một vị trí làm bù nhìn có tên tuổi.

Các lực lượng cách mạng tập hợp lại và phản công. Vào cuối năm 1972, một chiến dịch mới chỉ trích "phung phí kiểu tư bản, động cơ lợi nhuận tư bản và cặn bã kinh tế". Năm 1973 các mưu đồ với Đạt Lai Lạt Ma đã đột ngột dừng lại. Và năm 1974 một chiến dịch quốc gia đã được phát động để chống lại sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. Nó được gọi là "Chỉ trích Lâm Bưu và Chiến dịch Khổng Tử". Ở Tây Tạng, nó được sử dụng để tăng cường ý thức chống tôn giáo của dân chúng và tái khẳng định phán quyết mang tính cách mạng rằng các nhà sư-quí tộc như Đạt Lai Lạt Ma là "con sói trong quần áo nhà sư". Khắp Trung Quốc thông điệp chính của chiến dịch này là "Giai cấp tư sản vẫn đang trên con đường tư bản chủ nghĩa", và điều này là rất đúng.

Cuộc đấu tranh giữa các lực lượng của Mao Trạch Đông và các lực lượng xét lại căng ra khắp Trung Quốc. Và cuối cùng, các xét lại thành công trong việc tung ra một đòn quyết định vào lực lượng cách mạng chủ nghĩa Mao. Tháng 10 năm 1976, ngay sau khi Mao chết, phe xét lại tổ chức một cuộc đảo chính tại Bắc Kinh. Họ bắt những người ủng hộ nhất của Mao và bắt đầu một cuộc thanh trừng các nhà cách mạng trong khắp cả nước. Họ đặt vào vị trí tất cả các chính sách mà Mao và Cách mạng Văn hóa đã từ chối. Kẻ thù của Mao là Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền.

Hai tuyến xung đột ở Tây Tạng


Những người cách mạng theo chủ nghĩa Mao đã chiến đấu với lực lượng mạnh trong Đảng Cộng sản, những người muốn áp đặt một đường lối tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc, bao gồm cả Tây Tạng. Ở đây mô tả các chương trình của "giai cấp tư sản" mà các nhà lãnh đạo của nó bao gồm Đặng Tiểu Bình. Họ tự gọi mình là "cộng sản" và nói về xây dựng một "nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện đại hùng mạnh”, nhưng họ thực sự muốn ngăn chặn cách mạng sau khi bãi bỏ chế độ phong kiến. Mao coi các lực lượng này là kẻ thù cay đắng của cách mạng, ông gọi họ là "xét lại", "giai cấp tư sản- capitalist roaders" và "cộng sản giả mạo". Mao thấy rằng sự bắt chước của họ về phương pháp tư bản chủ nghĩa "hiệu quả" sẽ đưa đến phân hóa giai cấp và bóc lột tư bản quay trở lại Trung Quốc. Kết quả sẽ là Trung Quốc sẽ một lần nữa bị phá hoại và bị chi phối bởi các nhà đầu tư và khai thác nước ngoài.

Sự tương phản giữa đường lối cách mạng cộng sản của Mao Trạch Đông và đường lối tư bản chủ nghĩa của xét lại là rất rõ ràng trên tất cả các vấn đề liên quan đến Tây Tạng.

Đường lối Mao kêu gọi tổ chức và tin cậy vào quần chúng nhân dân Tây Tạng để quá trình cách mạng tiếp tục. Ông bác bỏ việc áp đặt sự thay đổi lên các vùng dân tộc thiểu số quốc gia trước khi quần chúng có thể tham gia vào giải phóng bản thân mình.

Mao liên tục chỉ trích định kiến truyền thống "Hán sô-vanh" coi người Tây Tạng là "lạc hậu" và "man rợ". Mao hình dung một cuộc cách mạng tư tưởng sẽ nhổ bật tận gốc những mê tín hận thù của quá khứ và trên cơ sở đó mang lại sự đơm hoa của nền văn hóa Tây Tạng mới được giải phóng. Ông lập luận rằng quần chúng cần hệ tư tưởng cách mạng mới của chủ nghĩa Mác-Lênin-Mao Trạch Đông để giải phóng chính mình.

Và Mao nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng sẽ vượt qua cải cách ruộng đất chống phong kiến đi đến chủ nghĩa xã hội, nếu quần chúng nhân dân được thực sự giải phóng bao gồm cả hợp tác xã nhân dân ở nông thôn. Mao lập luận cho cơ sở công nghiệp xã hội chủ nghĩa tự lực cánh sinh ở vùng cao nguyên Tây Tạng để đáp ứng các nhu cầu của người dân ở đó.

Các xét lại đã có một kế hoạch hoàn toàn khác cho Tây Tạng: Họ muốn một hệ thống "có hiệu quả" để khai thác sự giàu có của Tây Tạng để khu vực này có thể nhanh chóng góp phần vào việc "hiện đại hóa" Trung Quốc như họ hình dung. Họ coi người Tây Tạng là lạc hậu và muốn đem rất nhiều công nhân và kỹ thuật viên từ miền đông Trung Quốc tới, trong khi những người Tây Tạng được coi như là ít nhiều sản xuất ngũ cốc hiệu quả hơn.

Các xét lại phàn nàn rằng "những điều mới xã hội chủ nghĩa" của cuộc cách mạng chủ nghĩa Mao đã phá vỡ "mặt trận thống nhất" của họ với các thành tố của tầng lớp phong kiến ​​cũ. Các xét lại muốn đề nghị những kẻ cai trị phong kiến ​​cũ ở Tây Tạng một khoảnh quyền lực để sử dụng các tổ chức và hệ tư tưởng phong kiến ​​làm công cụ để ổn định trật tự xã hội xét lại mới.

Trong ngắn hạn, đường lối xét lại cho Tây Tạng là một kế hoạch áp bức mới, trật tự quân sự mới, mà trong đó bọn xét lại bóc lột người Tây Tạng trong liên minh với những kẻ áp bức cũ. Đây là chương trình mà các xét lại theo đuổi sau khi lật đổ những người ủng hộ gần gũi Mao và nắm quyền toàn bộ sau khi Mao chết năm 1976.

Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P9

Cuộc cách mạng trong tư duy của nhân dân


"Các cuộc cách mạng cộng sản là sự phá vỡ triệt để nhất với quan hệ sở hữu truyền thống; không ngạc nhiên rằng sự phát triển của nó bao gồm cả sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những tư tưởng truyền thống".  Karl Marx và Engels Fredrick, 1848

"Chúng tôi giải phóng nông nô ngày nay để ném xuống đáy cùng của sông Tsangpu tất cả các bài hát, điệu nhảy và tuồng  cũ xấu xa tô điểm cho các chủ nô và lan truyền mê tín dị đoan về thần thánh và sinh vật siêu nhiên. Hãy để cho sóng xô mang chúng đi, không bao giờ quay trở lại nữa". Dzomkyid, một nông nô 50 tuổi được giải phóng ở tỉnh Gyatsa, 1966

"Trước khi tôi nghiên cứu các tác phẩm của Mao Chủ tịch, tất cả tôi quan tâm là những gì thuộc về tôi. Tôi biết chính xác có bao nhiêu đống phân bò để đốt cất trong nhà. Tôi thậm chí có thể nói cho ông biết bao nhiêu đống là khô và bao nhiêu đang ướt mà không cần nhìn chúng. Nhưng tôi không quan tâm nhiều lắm đến đàn gia súc của tập thể. Chủ tịch Mao dạy tôi tầm nhìn rộng mở. Mục đích của tôi trong cuộc đời bây giờ là rõ ràng đối với tôi. Hôm nay tôi quan tâm không chỉ là tập thể mà cả thế giới và cuộc cách mạng thế giới". Một người chăn gia súc Tây Tạng năm 1967

"Chúng tôi biết rằng đó không phải thần thánh, không phải ma quỷ, đã làm cho động cơ làm việc. Chúng tôi điều khiển chúng và thấy rằng đó không phải là máu của trẻ em làm cho chúng chạy, như các Lạt ma nói với chúng tôi". Một thợ máy mới người Tây Tạng

Trong Cách mạng Văn hóa, Mao-ít đã nhắm vào "bốn cũ", tư tưởng cũ, phong tục cũ, văn hóa cũ và thói quen cũ. Và ở Tây Tạng có nhiều "thứ cũ" để đương đầu. Mê tín dị đoan tôn giáo nặng nề kìm hãm cuộc đấu tranh của nhân dân. Nó là công cụ trung tâm của trật tự phong kiến ​​cũ và cũng được sử dụng bởi các xét lại mới.

Trước Cách mạng Văn hóa, hầu hết nông nô chưa bao giờ thảo luận về các vấn đề đó, với họ, được xác định bởi các uy quyền tôn giáo. Cày sắt, da thuộc, sữa đóng hộp, cắt lông cừu, châm cứu, phẫu thuật, thuốc kháng sinh, gia công kim loại, tất cả là những điều cấm kỵ của giáo điều Lạt Ma. Phụ nữ bị hạn chế bởi vô số những điều cấm kỵ. Nhiều loài động vật bị coi là quá thiêng liêng để ăn thịt. Trong những năm 1950 lứa sinh viên y khoa Tây Tạng đầu tiên thường xuyên cầu cúng vào ban đêm, xin các vị thần tha thứ cho những tội lỗi họ đã phạm trong ban ngày.

Cách thức mới đã được khám phá để giúp người dân giải phóng mình khỏi xiềng xích của mê tín dị đoan. Phụ nữ nông nô dũng cảm tổ chức nhóm để săn bắt động vật thiêng liêng và "lữ đoàn sắt" để phá vỡ những điều cấm kỵ về lưỡi cày. Năm 1966, 100.000 nông dân tiến hành một chiến dịch đại chúng hai tháng để tiêu diệt chuột đất, động vật gặm nhấm ăn ngũ cốc của họ.Trong quá khứ các nhà sư đã bảo vệ những con chuột, nói rằng chúng đã hóa thân thiêng liêng từ chấy rận trên cơ thể Phật.

Sự lây truyền của tư tưởng chủ nghĩa cộng sản đặc biệt là các tác phẩm của Mao đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng tâm trí này. Các quan chức xét lại hàng đầu đã phản đối việc xuất bản Sách Đỏ của Mao ở Tây Tạng. Nhưng ngay sau đó hàng chục ngàn cuốn Sách Đỏ song ngữ kiểu túi màu đỏ truyền thống được phân phát ở Tây Tạng. Những trích dẫn quan trọng được học thuộc lòng và các bài hát cách mạng đặc biệt phổ biến, bởi vì nhiều người nghèo không thể đọc được.

Trên sườn núi, trong hang động, ngôn từ cách mạng trích dẫn từ Mao chủ tịch được khắc chữ rất to. Trên đèo núi, lá cờ đỏ mới cho thấy rằng những ai đang nắm giữ quyền lực.

Người chăn gia súc trong đồng cỏ Tây Tạng mô tả các đội tuyên truyền đã giúp họ đối phó với thảm họa mùa đông. Trong quá khứ, họ đã phải chấp nhận "số phận" và nhiều người có thể đã chết. Bây giờ họ xây dựng kế hoạch tập thể để giữ cuộc sống và đàn gia súc. Một người chăn gia súc già nói: "Với tư tưởng Mao, chúng tôi dám đấu tranh ngay cả với thần thánh!"

Dỡ bỏ thành trì phong kiến ​​của các Lạt ma

"Đó là những người nông dân, tạo ra các bức tượng, và khi đến thời họ sẽ bỏ các bức tượng sang một bên bằng bàn tay của mình." Mao, 1927

Đó là hàng ngàn chùa chiền thiền viện xúi giục cho những sợ hãi mê tín dị đoan nhất. Trong những ngày của Cách mạng Văn hóa, những thành trì phong kiến ​​này tự chúng đã bị nhắm làm mục tiêu. Trong phong trào quần chúng rộng lớn, nhiều chùa chiền tu viện Tây Tạng đã bị bỏ trống và bị dỡ bỏ.

Những kẻ ủng hộ chế độ phong kiến ​​Tây Tạng thường nói việc dỡ bỏ này là "sự hủy diệt ngu đần" và "diệt chủng văn hóa". Nhưng quan điểm này đã bỏ qua bản chất giai cấp thực của các chùa viện. Các đan viện này là pháo đài vũ trang đã che mờ cuộc sống của nông dân trong nhiều thế kỷ.Theo đường lối xét lại, nhiều viện được giữ cho còn sống bằng trợ cấp chính phủ chi trả. Các thành lũy này gây nỗi sợ hãi biện hộ rằng con đường cũ có thể đem một âm mưu quay trở lại sau những bức tường tu viện. Tháo dỡ các tu viện này là gì đó như "ngu đần". Nhưng thực ra là những hành vi chính trị có ý thức để giải phóng con người!

Tất cả các mô tả có thể đều đồng ý rằng cuộc tháo dỡ này đã được thực hiện gần như bởi tự các nông nô Tây Tạng, dẫn dắt bởi các nhà hoạt động cách mạng. Các cuộc biểu tình hàng loạt của cựu nông nô đã tập trung họ tại các cánh cổng chùa chiền, họ táo bạo đột nhập vào chốn linh thiêng thần thánh lần đầu tiên trong đời. Của cải, sự giàu có bị đánh cắp từ họ qua nhiều thế kỷ đã bị phơi bày ra cho tất cả. Một số hiện vật lịch sử đặc biệt có giá trị đã được bảo tồn cho hậu thế.

Vật liệu xây dựng có giá trị được lấy từ các thành trì và phân phối cho nhân dân để xây dựng nhà ở và các tuyến đường. Một người lưu vong mô tả cách các khối gỗ thiêng liêng đã bị nông nô lấy đi, dùng để đốt củi và làm nông cụ cho trang trại mới. Những kẻ lạc hậu nói họ bị chỉ trích vì không tham gia. Thường các bức tượng, bùa chú, cờ khấn, bánh xe cầu cúng và biểu tượng khác đã bị công khai phá hủy theo cách đầy mạnh mẽ làm tan vỡ mê tín dị đoan xưa cũ hàng thế kỷ. Như một bình luận cuối cùng về những giấc mơ tín ngưỡng, các tàn tích thường được tung lên trời cao bởi các lực lượng vũ trang cách mạng.

Sau đó Cách mạng Văn hóa, một vài tu viện Lạt Ma đã được khôi phục, để chúng có thể phục vụ như cả đền thờ tôn giáo và bảo tàng di tích quốc gia. Nhưng phán quyết của Cách mạng Văn hóa là những chùa chiền không bao giờ quay trở lại tồn tại như là pháo đài phong kiến ​​sống trên sự đau khổ của quần chúng.

Cuộc đấu tranh khó khăn với Bốn cũ và Bốn mới


Giống như tất cả các cuộc cách mạng, Cách mạng Văn hóa ở Tây Tạng tiến triển thông qua các cuộc tranh luận và đấu tranh phức tạp. "Bốn cũ" bị chỉ trích, và cách mạng chiến đấu để mang "bốn mới": tư tưởng mới, phong tục mới, văn hóa mới và thói quen mới. Các vấn đề quan trọng đã được đưa ra và đấu tranh lần nữa và một lần nữa: Thói quen nào là văn hóa phong kiến ​​phản động và thói quen nào là văn hóa dân tộc Tây Tạng? Là mang tính cách mạng hay Hán sô-vanh khi thúc đẩy các hình thức văn hóa mới mà cách mạng đã phát triển trong khu vực Đông Hán của Trung Quốc? Là phong kiến ​​để mang các kiểu tóc bện cũ của chế độ nông nô, hay đó chỉ là người Tây Tạng? Là phản động khi ban phước cho mọi người khi gặp gỡ, tâm lý hay phản động?

Chủ nghĩa Hán sô vanh (thành kiến ​​chống Tây Tạng trong số đông người Hán) cũng là một vấn đề. Han Suyin đưa ra bằng chứng về điều này trong cuốn sách của mình năm 1977 về Tây Tạng, nơi bà ủng hộ quan điểm của một số người trong Đảng rằng  giáo dục đại học ở Tây Tạng nên được thực hiện bằng tiếng Hàn bởi vì, theo bà, ngôn ngữ Tây Tạng không có khả năng thể hiện những ý tưởng đối tượng hiện đại như hóa học.

Đồng thời, những người khác chiến đấu cho đường lối Mao về dân tộc thiểu số. Khi đường lối này dẫn dắt, đã có bùng nổ một nền văn hóa mới của Tây Tạng. Các máy đánh chữ Tây Tạng đầu tiên được phát triển cho phép giao tiếp và ghi chép dễ dàng hơn ở Tây Tạng. Một phương ngữ Tây Tạng duy nhất được cổ vũ để mọi người từ các khu vực khác nhau có thể giao tiếp với nhau. Các bộ phim được đặt theo tên Tây Tạng. Hàng triệu cuốn sách đã được xuất bản ở Tây Tạng về các lý thuyết và thực hành giải phóng. Truyện ngắn và các vở kịch của người Tây Tạng được công bố. Nhiều lễ hội Tây Tạng được chuyển thành ăn mừng hợp tác xã nhân dân mới và mùa màng bội thu của họ.

Y học truyền thống Tây Tạng đã được nghiên cứu và khám phá thảo dược được tạo ra cho các tầng lớp thấp lần đầu tiên.

Các nhà lãnh đạo cách mạng mới được phát triển trong những người Tây Tạng. Đến năm 1975, một nửa các nhà lãnh đạo hàng đầu là người Tây Tạng bản xứ. Một nửa trong số này là cán bộ mới trong đầu những năm 30 là nông nô và nô lệ. Phụ nữ trở thành các nhà lãnh đạo các cấp. Trong một quận, ủy ban cách mạng tất cả là phụ nữ. Trong số 27.000 cán bộ Tây Tạng, 12.000 là phụ nữ. Một phụ nữ Tây Tạng, Phanthog, leo đỉnh Everest vào năm 1975!

Trong Cách mạng Văn hóa, con trai của 1 nhà cách mạng trẻ, một nô lệ chăn gia súc có tên Jedi nói, "Tôi sẽ ở đâu, những gì chúng tôi, người dân Tây Tạng sẽ ra sao, nếu Chủ tịch Mao và cuộc cách mạng đã không đến với chúng tôi?"


Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P8

Cách mạng giáng vào Lhasa như sấm chớp


"Kẻ nối nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản luôn lớn lên trong những cơn bão lớn." Mao Trạch Đông 

Năm 1966, xét lại ở Tây Tạng khá ngạo mạn. Chúng kiểm soát quân đội và có liên hệ chặt chẽ với Bắc Kinh, bao gồm cả với Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Cầm đầu xét lại ở Tây Tạng là tướng quân đội PLA Zhang Guohua, ông ta đến Tây Tạng vào năm 1950 và coi Tây Tạng như "vương quốc" riêng của mình.

Phe cánh Zhang lên kế hoạch để vượt qua chiến dịch mới của Mao. Họ sử dụng chiến thuật "vẫy cờ đỏ để chống cờ đỏ". Khi Cách mạng Văn hóa được ban bố, họ tự tổ chức đội ngũ "Cách mạng Văn hóa Tập đoàn" của riêng mình, theo nghĩa đen đen tô vẽ chính quyền Lhasa là "không có hai đường lối ở đây tại Tây Tạng". Các lực lượng phản động chính, họ nói, là băng đảng phong kiến ​​CIA hậu thuẫn và do đó đấu tranh vũ trang của PLA là hoạt động cách mạng chính và vẫn còn cần thiết. Tóm lại, xét lại muốn Cách mạng Văn hóa ở Tây Tạng được giới hạn trong sản xuất có trật tự, trong học tập yên tĩnh, và trong hành động của quân đội. Họ cử các đội đến mỗi nhà máy và trường học để đảm bảo rằng phong trào Hồng vệ binh phát triển không ra ngoài tầm kiểm soát của họ. Lực lượng mạnh mẽ tại Bắc Kinh, trong đó có Ttg Chu Ân Lai, một trong những quan chức hàng đầu trong chính phủ, cố gắng giúp đỡ bằng cách ra lệnh cho Hồng vệ binh đứng ngoài Tây Tạng. Họ thậm chí thết đãi các Hồng vệ binh ra đi một bữa ăn tối. Nhưng các Hồng vệ binh đã từ chối rời khỏi Tây Tạng, có tuyên bố đỏ rằng mỗi nhà nên treo cờ đỏ và bày ảnh Mao. Loa phóng thanh phát sóng các bài hát cách mạng và đường phố được đặt tên mới. Họ đã "chứng minh" sự nhiệt tình cách mạng của họ theo cách này.

Cách mạng Văn hóa ở Tây Tạng nổ ra giống như một đám cháy đồng cỏ! Hồng vệ binh được thành lập ở khắp mọi nơi và làm rung chuyển mọi nhà. Một số tổ chức Hồng vệ binh lập tức chiếm cứ ngôi đền Jokhang ở Lhasa và tuyên bố chiến tranh với những kẻ dung tha áp bức phong kiến và ​​tiếp tục mê tín dị đoan. Chính quyền kinh hãi tuyên bố này là bất hợp pháp và "phản cách mạng". Các tòa nhà bị Hồng vệ binh đánh chiếm lan rộng.

Hồng vệ binh yêu cầu được biết lý do tại sao các quan chức cấp cao của Đảng tiếp tục coi trọng các chủ nô và các Lạt ma đứng đầu như Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma và Ngapoi Ngawang Jigme "nhà lãnh đạo của nhân dân Tây Tạng". Hồng vệ binh phát giác rằng Đặng Tiểu Bình thậm chí đề nghị tuyển dụng tầng lớp trên các Lạt ma Tây Tạng làm đảng viên Cộng sản. Không phân tích giai cấp và thực tiễn xã hội để thấy lực lượng này là những kẻ bóc lột?

Các điều kiện đặc biệt của Tây Tạng, như một tờ rơi đầu ban đầu cho biết, không có nghĩa Tây Tạng là "một vùng chân không cho đấu tranh giai cấp". Hồng vệ binh cho biết chính quyền đã vi phạm các nguyên tắc của chủ nghĩa Mao: "Cốt lõi đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch là đường lối quần chúng phải có lòng tin tưởng hoàn toàn ở quần chúng, để giải phóng bó buộc cho quần chúng, để có can đảm dựa vào quần chúng".

Chiến giữ quyền lực và thi hành quyền lực


"Trong tình hình mới của Đại Cách mạng Văn hóa vô sản, bao quanh bởi tiếng trống chiến tranh loại bỏ đường lối của giai cấp tư sản phản động, Tổng hành dinh nổi loạn cách mạng ở Lhasa đang cháy! Chúng tôi không sợ gió bão, hay cát bay, hay đá rơi. Chúng tôi không quan tâm một số ít các định hướng tư bản trong chính quyền chống đối chúng tôi hay sợ hãi chúng tôi. Chúng tôi cũng không quan tâm những kẻ trung thành tư sản tố cáo chúng tôi hoặc nguyền rủa chúng tôi. Chúng tôi sẽ kiên quyết làm cuộc cách mạng và nổi loạn. Để nổi loạn, nổi loạn và nổi loạn qua đến tận cùng để tạo ra một thế giới mới với màu đỏ rực rỡ của giai cấp vô sản” - Hồng vệ binh "Sáng lập phiến quân cách mạng Tây Tạng”, tháng 12 năm 1966.

Hàng trăm nhóm Hồng vệ binh kết hợp để hình thành các phiến quân cách mạng. Họ đặt cơ sở trong quần chúng: thế hệ mới của các nhà hoạt động Tây Tạng và sinh viên, các lái xe người Hán, người lính bình thường, cán bộ cấp dưới, và Hồng vệ binh người đến từ các khu vực khác của Trung Quốc.

Một số người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Cách mạng Văn hóa đã không nổ ta với người dân Tây Tạng bởi chính quyền Đảng Cộng sản và Hồng vệ binh "nhập khẩu" từ phần còn lại của Trung Quốc. Ngay cả những người ủng hộ Đạt Lai Lạt Ma, như John Avedon và các "nhân vật lưu vong" cũng thừa nhận rằng một số lượng lớn thanh niên Tây Tạng đã gia nhập phiến quân cách mạng từ đầu và nhiều cán bộ cũ của Tây Tạng nhiệt tình tham gia cuộc đấu tranh.

Người Tây Tạng đã tham gia vào cả hai mặt của cuộc cách mạng này. Một số, được tuyển dụng và đào tạo bởi các xét lại, hy vọng sẽ trở thành bề trên Mao-ít mới và tự gọi mình là "tư sản bảo hoàng". Những kẻ khác, đặc biệt là thanh niên cựu nô lệ và nông nô cũ, đều mong muốn thúc đẩy cuộc cách mạng tiến lên đến chủ nghĩa xã hội. Trong cơn bão đang đến, một thế hệ hoàn toàn mới của các nhà hoạt động Tây Tạng cộng sản được tôi luyện và chủ nghĩa Mao hiện bắt nguồn sâu xa trong quần chúng người dân Tây Tạng.

Vào tháng 1 năm 1967, khi tổ chức theo chủ nghĩa Mao nắm quyền ở Thượng Hải, phiến quân cách mạng Tây Tạng tuyên bố rằng họ cũng sẽ giành chính quyền từ Zhang, "vị chúa tể của Tây Tạng". Trong tháng 2, lao động-nổi loạn tại khu phức hợp dệt len Linchih đã chiếm nhà máy và là vị trí đầu tiên vị chiếm quyền của Cách mạng Văn hóa Tây Tạng. Phiến quân cách mạng bắt giữ tờ báo ngày Tây Tạng và một khu vực của thủ đô. Một chiến binh nổi loạn cho biết: "Các hình thức tổ chức chiến đấu hành động đầu tiên, đã bị tuyên bố là ‘bất hợp pháp’ bởi ‘đường lối phản động’ và sau đó được chính Chủ tịch Mao phê chuẩn". Đây là những động thái dũng cảm và nguy hiểm.

Lo sợ bị bắt, Zhang âm mưu một pha phản công và sau đó bỏ trốn khỏi Lhasa. Đơn vị cảnh sát trung thành bắt đầu một nhóm "Hồng vệ binh" bảo thủ, gọi là Liên minh vĩ đại. Bản thân nó dựa trên các quan chức đảng cấp trên và quý tộc-cán bộ Tây Tạng. Trong vòng vài tuần, đơn vị quân đội đàn áp quân cách mạng nổi dậy với sự ủng hộ của Liên minh vĩ đại. Cuộc đảo chính này (một phần của phong trào chống Mao rộng khắp TQ gọi là "Chiều ngược tháng hai")  đã đẩy ngược trở lại khi Mao nói với quân đội "ủng hộ quần chúng phía tả".

Chúng tôi không biết nhiều chi tiết của cuộc đấu tranh phức tạp và đôi khi vũ trang lan rộng khắp Tây Tạng trong vòng hai năm tới. Còn điều này thì biết rộng rãi: Vào tháng 9 năm 1968, một chính phủ mới, Ủy ban cách mạng Tây Tạng, cuối cùng đã được thành lập. Nó kết hợp các lực lượng khác nhau xung quanh đường lối của Mao. Một khi chính quyền cách mạng mới này được củng cố, Cách mạng Văn hóa bước vào giai đoạn mới để không có phần nào của đời sống xã hội không phải thay đổi.

Thiết lập các hợp tác xã nhân dân


"Khi đàn ngỗng hoang dã bay theo đội hình, chúng có thể bay qua các ngọn núi cao nhất. Chúng ta những người nghèo có thể vượt qua mọi khó khăn nếu chúng ta đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau". Tsering Lamo, nhà lãnh đạo cộng sản của Hội Phụ nữ ở một thị trấn giải thích con đường xã hội chủ nghĩa cho các cựu nông nô.

Giải phóng người dân Tây Tạng đã là, và là, quan hệ mật thiết với phản cách mạng hóa quyền sở hữu đất và tư liệu sản xuất. Sau cải cách ruộng đất đầu những năm 1960, sắp đặt mới dựa trên các trang trại nhỏ sở hữu cá nhân những mầm mống áp bức mới. Giàu và nghèo bắt đầu xuất hiện trở lại khi các nông dân phát đạt thuê và mua lại đất đai của láng giềng nghèo hơn họ. Tích tụ các tàn dư trong gia đình, nông nô thường quá vô tổ chức để đối mặt với những nỗ lực thường xuyên và khôi phục lại chế độ phong kiến.

Với thắng lợi của đường lối Mao năm 1969, Thử nghiệm nông trường mới được gọi là hợp tác xã nhân dân được tổ chức rộng khắp vùng nông thôn rộng lớn của Tây Tạng. Các phương pháp tập thể đã được sử dụng để xây dựng những con đường mới của Tây Tạng mà bây giờ làm thay đổi cuộc sống nông thôn. Ở mỗi hợp tác xã, đất đai được tập trung lại từ hàng trăm nông dân. Thu hoạch tập thể được phân chia dựa trên "điểm lao động”, một biện pháp đánh giá khối lượng công việc mỗi người đã làm. Năm 1970 gần 666 hợp tác xã hoạt động trong 34% các huyện, thị trấn trong khu vực. Nhanh chóng, các hợp tác xã có mặt khắp mọi nơi.

Phải mất cả hai công tác chính trị kiên nhẫn và đấu tranh giai cấp khốc liệt để thực hiện đổi thay như vậy. Một số nông dân chỉ muốn có đất của mình mà không thấy hình ảnh lớn hơn. Thường là nông dân nghèo hơn, như các phụ nữ cựu nô lệ, sẵn sàng thử những cách mới đầu tiên. Chế độ độc tài nhân dân đã thi hành áp bức chủ nô và các vị Lạt ma đầu. Họ bây giờ cũng phải làm việc cho dù có muốn hay không. Phản cách mạng bị phát hiện và truy đuổi.

Trong nhiều thế kỷ, lao động cưỡng bức của người dân đã phục dịch giới quý tộc nhàn tản và xây dựng những ngôi đền to lớn để tôn vinh mê tín dị đoan. Bây giờ, lao động tập thể đưa nước uống và thủy lợi đến 80% đất nông nghiệp Tây Tạng. Vì sự sống còn của mỗi gia đình không còn phụ thuộc vào những mảnh đất nhỏ của riêng của họ, từ bây giờ nông dân có thể thử nghiệm trồng hàng chục loại rau mới, trái cây và các loại cây trồng.

Một số thí nghiệm có kết quả, một số thì không. Đấu tranh giai cấp tự nó gây rối loạn một số vụ thu hoạch. Nhưng bước nhảy lớn trong năng suất đất đai đã đạt được. Sản xuất lương thực ở Tây Tạng tăng gấp đôi.

Hợp tác xã nhân dân cũng đã làm cho nó có khả năng để tổ chức những trường học nông thôn, giáo dục quần chúng và sân khấu quân đội nông thôn đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng. Người già đã được đưa về chăm sóc ngay cả khi họ không có con cái của mình. Phụ nữ có quyền mới. Một phụ nữ trẻ người Tây Tạng trong đội Hồng vệ binh nói: "Khi chúng tôi, những người phụ nữ, làm lao động, tất nhiên, các hợp tác xã là tốt cho chúng tôi". Hôn nhân sắp đặt và chế độ đa thê chấm dứt. Những kẻ lưu vong kêu ca rằng trẻ em đã bị cách mạng hóa và không còn tuân theo cha mẹ phản động.

Quyển sổ tay bác sĩ chân đất nổi tiếng được xuất bản bằng tiếng Tây Tạng và sử dụng để đào tạo hàng ngàn bác sĩ mới trong nông nô. Nhanh chóng 80% giường bệnh Tây Tạng là ở nông thônvà các nhân viên y tế đến từ các bệnh viện ở đô thị miền đông Trung Quốc. Hơn một nửa số 6.400 bác sĩ chân đất là phụ nữ (những người đã từng bị cấm hành nghề y bởi những giáo điều Phật giáo).

Hợp tác xã nhân dân đã làm tăng thêm rất nhiều quyền lực chính trị của nông dân. Các thành viên hợp tác xã được trang bị và huấn luyện bởi PLA. Mỗi hợp tác xã sản xuất lập một lực lượng dân quân yulmag để chống lại những kẻ áp bức. Họ săn đuổi băng nhóm phá chống đối phá hoại CIA đào tạo của Đạt Lai Lạt Ma và đã phá vỡ tất cả các loại băng nhóm phong kiến. Lực lượng dân quân là bằng chứng về sự ủng hộ cho sự thay đổi mang tính cách mạng trong quần chúng Tây Tạng.


Một khi phe xét lại bị lật đổ, những bước tiến lớn trong việc phát triển cơ sở công nghiệp xã hội chủ nghĩa mới ở Tây Tạng đã được thực hiện. Năm 1964 chỉ có 67 nhà máy. Đến năm 1975 đã có 250 nhà máy, hầu hết là phục vụ nhu cầu địa phương và nông nghiệp. Nhà máy thủy điện nhỏ đem điện đến cho người dân. Hàng hóa công nghiệp lần đầu tiên đã có sẵn cho quần chúng ở đây: kính bảo hộ chống nắng làm giảm trên diện rộng bệnh đục thủy tinh thể-mù lòa ở người già. Nồi áp suất bị xóa sổ nhiều bệnh tật giết hại trẻ em giết bởi phong tục nấu ăn cũ của người Tây Tạng. Trang trại mới áp dụng các tiến bộ mới tăng năng suất và làm cho cuộc sống dễ dàng hơn.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...