Cuộc phô trương Higgs Boson bị dội mưa!


Có 1 số bạn thắc mắc về loạt bài viết dạng “Năng lượng tối nuốt vật chất tối để lại ngân sách trống rỗng!” hay “Sai lầm rất nhỏ? Phát hiện ra Higgs boson có vẻ là Higgs-kỹ thuật”, Tuy nhiên, tôi không viết chơi, thứ trong đầu chúng ta chỉ là 1 phản ánh của thế giới thực. Nó chỉ là khoa học khi có thể giải thích nó bằng những phản ánh và thực tế khác cho đến tận phản ánh cuối cùng, gọi là khái niệm nguyên thủy. Không có điều đó, chỉ còn lại là tín ngưỡng tôn giáo.

Bạn có thể tin tất cả những cái được lẳng ra báo chí – đó cũng là  tín ngưỡng tôn giáo. Còn để là khoa học, rất khó khăn mệt mỏi, thậm chí chỉ để phân biệt đâu là thật đâu là giả.

Làm khoa học ví như đãi cát tìm vàng. Ý nói vàng rất hiếm cả ngàn người đãi may ra có 1 người được vàng, ý khác là lao động khó khăn cực nhọc. Ý khác nữa là phải khôn ngoan để biết đãi ở đâu, đãi như thế nào.

Nhưng người ta có cách khác để có nhiều “vàng” mà không phải khó nhọc là lấy luôn cát mạ vàng. Khi cái cục vàng mạ ấy được đặt lên bệ thờ, nó đã thành tôn giáo, các fan cuồng khói hương nghi ngút và xì sụp khấn vái.

Có cái gì đó rất giống nhau giữa nhà phát minh vĩ đại Edison, thuyết Anhxtanh, NASA đổ bộ mặt trăng, Biến đổi khí hậu và Higgs boson… Ít nhất ở chỗ tất cả đều lừa đảo!

Hàng triệu, tỷ phát minh khoa học mỗi năm để làm gì? Thế giới phẳng, văn hóa, văn học, lịch sử, kinh tế, chính trị, thậm chí là khoa học, những gì có giá trị bị mua sạch và … cất trong kho. Thậm chí là 1 bản nhạc tử tế. Những giả dối lừa đảo được lăng xê, quảng cáo.

Vấn đề này có những hậu quả rất nghiêm trọng, nó có thể giải thích: hàng triệu triệu phát minh sáng chế của các nhà “khoa học”, rất nhiều (nếu không phải hầu hết) là những thứ ấm ớ vớ vẩn cất trong kho và thi thoảng mang ra lòe thiên hạ cho oai; hơn thế, nền văn minh phương Tây dựng trên lừa dối. 

Đàn chí thức chí ngủ ở các quốc gia lạc hậu không tự nhiên sùng kính đám Tây lông giả cầy này đến vậy, chúng tìm thấy 1 công thức quen thuộc để kiếm ăn, để vươn tới danh vọng tiền tài khi chúng không có năng lực và không thể nào với tới được.

Đúng là khoa học đã chết, nó chết từ lâu lắm rồi – ít nhất là khoa học cơ bản. Đã từ lâu lắm rồi không có bất cứ phát minh, khám phá nào đáng giá, thứ còn lại ngày nay chỉ là ngụy khoa học và những kẻ cặn bã nhất khoác áo khoa học đang giả vờ nghiên cứu khoa học.

Bài viết sau đây của Lucas Taylor, CERN, đăng bởi Miles Mathis là chi tiết nhất về Higgs boson, trái ngược những gì đình đám mấy năm qua.
---------------------------------------------------------------------

Vào ngày sinh nhật của tôi, ngày 17 tháng 9, năm 2012, tạp chí Physics Letters B và Large Hadron Collider tổ chức công bố một món quà sinh nhật cho tôi, ở dạng tuyên bố Higgs Boson. Tôi cho rằng họ biết tôi thích không gì hơn một món quà lừa phỉnh.

Sự kỳ lạ bắt đầu với lời đề tặng của báo cáo để "ghi nhớ các đồng nghiệp của chúng tôi, những người đã từng làm việc trên CMS nhưng đã qua đời kể từ đó." Tôi biết mình phải rơi nước mắt, nhưng lời văn bi ai lại thái quá để lấy làm nghiêm túc đối với tôi. Giống như một nỗ lực vận dụng tâm lý kém cỏi. Thế nào là 1 báo cáo khoa học đứng đắn khi bắt đầu với một tấm mềm đề tặng người vừa qua đời? Đây chỉ là một sự lôi kéo thô thiển những cảm xúc sâu thẳm , nỗ lực rõ ràng là để đặt bạn vào tâm trạng đồng cảm và thiếu phê phán. Nó đặt bạn đứng trên rìa ngôi mộ đang mở, với cái kèn túi, vì vậy bạn sẽ chấp nhận bất cứ điều gì có thể diễn ra. Tôi chỉ ngạc nhiên là mình đã không vẫy cờ và có 1 bản đàn sáo nào.

Sự kì lạ tiếp theo đến một cách nhanh chóng, với một danh sách các tác giả phải 20 trang dài. Nó chiếm 1/3 báo cáo. Tôi ước tính khoảng 2000 tác giả, mặc dù tôi không bận tâm đếm tất cả. Điều này chắc chắn phải lập kỷ lục. Đây là trò chơi tâm trí thứ 2, trong trường hợp trò đầu không được việc. Nếu bạn không động lòng cảm tạ người đã chết, bạn có thể thấy mình yếu đuối và quỳ gối bởi đối mặt với đội quân 2000 nhà vật lý hàng đầu, những người đang đồng giọng nói cho bạn họ đã tìm thấy một cái gì đó quan trọng. Kể từ khi tôi không bao giờ bị ấn tượng bởi đám đông, ngón đòn thứ 2 này cũng thất bại khi hạ tôi làm bò, và tôi tự đi xem báo cáo.

Mặc dù chúng ta cho rằng thứ trừu tượng của báo cáo sẽ làm phải thán phục trong trường hợp như thế này, nhưng nó lại không nói gì xác thực với chúng ta. Ngay cả ở đây, chúng ta thấy có một số nhầm lẫn. Chúng ta đang nói về tầm quan trọng mong đợi để Higgs Boson có độ lệch chuẩn 5,8 sigma, nhưng không thế, cái quan trọng được nói thấp hơn thế. Bản tóm tắt chỉ làm hào nhoáng kết quả thí nghiệm, không được như những mong chờ cũ. Đặt con số 5,8 vào bản tóm tắt là lừa dối, bởi một người đọc khoa học thông thường, mong đợi ở bản tóm tắt kết quả thực tế, họ có thể đọc nhanh nó và nghĩ rằng báo cáo cho biết 5,8 trong khi lại không phải.

Điều kỳ cục khác trong bản tóm tắt là ở chỗ nó kết luận bằng cách nói với chúng ta những hạt đã phát hiện "có spin khác 1". Vâng, nếu nó là boson, spin đó nên tốt hơn là 0 hoặc 2 hay 3, thì là bởi nếu nó là 1/2, hạt không phải là boson theo định nghĩa. Theo mô hình chuẩn được ca tụng (và lố bịch), boson phải có spin nguyên. Nhưng cái thực sự kỳ cục là sự không chắc chắn. 2000 nhà vật lý này tuyên bố đã tìm thấy hạt. Họ tuyên bố biết khá đủ về hạt mà họ tìm thấy này để gán cho nó cái tên siêu nổi tiếng “hạt của Chúa”, hạt Higgs, nhằm hoàn tất mô hình chuẩn của họ, đặt cho nó một nền tảng, đặt khối lượng ra khối lượng, và thứ vật lý cách mạng hóa này (mà chúng ta bị thuyết phục) theo rất nhiều cách sẽ làm cho cái đầu đinh của bạn sưng tấy lên. Nhưng họ không biết spin của nó? Họ có báo cáo chỉ biết mỗi đốm năng lượng? Hay họ chắc chắn rằng bất kỳ đốm năng lượng nào tại năng lượng đó phải là Higgs? Dựa trên cái gì? Có phải mô hình chuẩn quá hoàn chỉnh để họ biết chỉ có một cách tạo ra đốm năng lượng tại những năng lượng này? Họ sẽ chỉ ngụ ý nó, nhưng không tin nó. Nếu mô hình chuẩn quá hoàn hảo để biết có một cách duy nhất tạo ra đốm tại năng lượng đó, lẽ nào lại không biết năng lượng Higgs Boson, và spin của nó? Nếu mô hình chuẩn không thể dự đoán được khối lượng và spin của hạt Higgs, làm thế nào họ có thể dự đoán chỉ có một cách để tạo ra đốm tại năng lượng cao?

Hãy nhớ rằng, đây là lĩnh vực mới. Kẻ chào hàng tự kể cho chúng ta điều đó. Chúng ta đang ở trên ranh giới mới. Thì làm sao chúng ta biết rất nhiều về lĩnh vực mới này để có thể gán đốm sáng đầu tiên chúng ta thấy làm hạt của Chúa? Liệu chúng ta sẽ không tốn một số thì giờ với đốm sáng này, để nhận biết nó, ít nhất là để biết spin và điện tích của nó, cũng như tuổi thọ và những thứ như vậy trước khi chúng ta gán nó với 1 độ chắc chắn nào đấy và phô trương? Nếu nó hóa ra lại là hạt Chúa khác hơn là thứ chúng ta đang tìm kiếm, thì lại không giống như bị gán nhầm. Các vị thần khó tính là như vậy.

Sau đó chúng ta có vài trang của câu chuyện, khi có sự thú nhận rằng kết quả báo cáo trên thực tế thấp hơn độ lệch dự kiến ​​5,8. Đầu tiên họ tuyên bố 5σ và rồi tụt xuống 4,1 và 3,2. Từ ngữ ở đây cũng kỳ cục. Đầu tiên họ nói giá trị cục bộ quan sát được là 5, nhưng khi nói cho chúng ta biết dấu hiệu mạnh nhất ở 2 tuyên bố cuối, nó cho thấy 4,1σ cho H→γγ và 3.2σ cho H→ZZ. Nếu dấu hiệu mạnh nhất tại 4,1 và 3,2, như thế nào là giá trị cục bộ 5? Họ ngụ ý cái gì là mạnh nhất? Nếu dấu hiệu mạnh nhất của bạn là tại 4,1, thì làm thế nào để bạn có thể tuyên bố độ lệch 5? Đây không phải là cãi vặt, hoặc là, có sự khác biệt lớn giữa độ lệch 5,8 và 3,2. Xem chi tiết hơn dưới này.

Những ai không phải là nhà khoa học chuyên nghiệp có thể không hiểu được con số 5. ​​Tại sao số 5 lại xuất hiện quá sớm như vậy, đầu tiên trong bản tóm tắt và sau đó trong phần giới thiệu? Đơn giản là vì độ lệch chuẩn 5 có ý nghĩa thỏa mãn để đóng chiện cho một phát hiện mới trong vật lý hạt. Nó nói với chúng ta rằng phát hiện gần như được đảm bảo là đúng, bởi 2 triệu mới có 1 sai lệch. Nhưng chúng ta biết họ luôn luôn thổi phồng sigma (σ) của họ, và không bao giờ học được gì từ những sai lầm của họ. Hãy nhớ rằng sigma của “khám phá vĩ đại” gần đây neutrino nhanh hơn ánh sáng được nói là 6, và rằng toàn bộ thông báo đã bị xé bỏ và đốt đi chỉ trong vòng vài tuần. 500 triệu có 1 sai lệch cũng không loại trừ, có phải không? Một thất bại như thế chỉ xảy ra 2 lần trong mỗi 1 tỷ năm, nhưng vì  một số lý do, chúng ta dường như thấy những thất bại như vậy ở vật lý hạt chỉ khoảng một năm 2 lần.

Nhưng quay lại với thông báo. Chúng ta nhận được 3 phán quyết từ các kết quả bị cắt xén như trêu ghẹo, rồi sau đó quay trở lại câu chuyện. Ngay sau khi nói về độ lệch, chúng ta chuyển sang phần 2: thí nghiệm CMS. Đây là đôi trang giải thích máy móc sử dụng. Một lần nữa, thông tin quan trọng nhất lại bị cắt đuôi ở phần cuối, nơi người ta thừa nhận siêu máy tính trên khắp thế giới của họ được sử dụng cho, trong số những thứ khác, "sinh và phát hiện chi tiết mô phỏng mẫu sự kiện Monte Carlo."

Đối với những người đọc không hiểu việc nhập nha này, tôi gửi cho họ bài báo từ năm ngoái, ở đó tôi đã viết rằng ít nhất có một số nhà vật lý làm việc tại LHC đã không hài lòng với toán và mô hình được sử dụng. Phần lớn toán hóa ra là mẫu ngẫu nhiên Monte Carlo, thứ là toán học "thô" mà các nhà vật lý sử dụng chỉ khi họ tuyệt vọng. Về cơ bản, khi mô hình vật lý của anh đã chứng tỏ là không thể có dự đoán đáng giá, Monte Carlo được sử dụng để ép các dữ liệu phải hiện ra một cái gì đó cho anh từ hư không. Tôi phát hiện ra rằng một số nhà vật lý và kỹ sư tại LHC khá biết khiếm khuyết này của thứ toán học đủ để nhận ra rằng Monte Carlo có nghĩa là các lý thuyết nổi tiếng đã thất bại và đã chơi trò tung súc sắc. Đây là lý do tại sao thú nhận Monte Carlo lại quan trọng trong bài báo này. Nó có thể đã được chèn vào bởi một trong số nhiều kẻ tủn mủn ở danh sách 2000 nhà vật lý, như một dấu hiệu cho phần còn lại chúng ta.

Trong phần 3, chúng ta có những dấu hiệu có thể khác của loại này, ở dạng:

Quỹ đạo trong khối theo dõi được tái tạo bằng mô hình electron mất năng lượng và phù hợp với bộ lọc tổng Gauss.

Thực tế này nổi lên khi bộ lọc Gauss làm mờ tập dữ liệu bởi việc sử dụng trị trung bình lệch hơn về trọng tâm. Đây là sự  khác biệt Gauss với ý nghĩa bộ lọc, khi mà trị trung bình có trọng số đơn nhất. Điều này có thể thực sự làm tăng độ lệch của môt số loại dữ liệu nhất định, đặc biệt là tại các đỉnh nhọn, và đặc biệt là nếu Gauss được áp dụng để cố tình làm như vậy. Bộ lọc Gauss có thể được sử dụng bởi cả hai, các nhà vật lý hạt và thiên văn học để thúc dữ liệu. Việc áp dụng bộ lọc cần được xem xét để chứng tỏ đó là việc đang xảy ra, và chỉ có những kẻ trong cuộc mới có thể làm điều đó, còn đối với người ngoài nó vẫn còn là một lá cờ đỏ tiềm năng. Chúng ta ưa dữ liệu không lọc.

Trong phần 4, chúng ta thấy một số thông tin hữu ích hơn. Bốn cơ chế tổng hợp giả định của sản phẩm Higgs Boson được thảo luận, đó là tổng hợp gluon, vector boson, W và Z fusion, và hợp quark đỉnh. Tất cả những thứ này hoàn toàn là lý thuyết, và dựa vào một vài trong số những lý thuyết cam quýt nhất của thế giới lượng tử. Ngay từ đầu, gluon và quark chưa bao giờ được nhìn thấy trong bất kỳ máy gia tốc nào, và được suy đoán từ các hạt lớn hơn. Nhưng chúng ta hầu như không cần phải có tất cả điều này, khi bản báo cáo này thừa nhận họ tìm kiếm hạt Higgs không phải bằng cách va đập gluon, quark, hay thậm chí là vector boson. Họ đập các proton. Nếu đập proton, nó phải là hợp nhất proton đầu tiên đã chứ, không ư? Họ thậm chí còn thừa nhận rằng:

Tiết diện chắn của cơ chế sản phẩm riêng rẽ và phân rã các mảnh, cùng với sự không chắc chắn của chúng, đã được tính toán theo Refs. . . .

Vì thế, tất cả các gluon, quark, v,v, chỉ được thấy trong máy tính và Refs. Chúng không được tìm thấy trong các thí nghiệm.* Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì nếu họ đập proton để tạo ra Higgs boson, thì khó cho họ để khẳng định Higgs boson tạo ra khối lượng cho proton. Nếu họ tạo ra Higgs boson từ proton, thì sao lại không hợp lý hơn để nói rằng proton tạo ra khối lượng cho Higgs boson? Chúng ta được kể trong báo cáo này này rằng, "Trường vô hướng cũng tạo khối lượng cho các fermion cơ bản qua tương tác Yukawa (tương tác mạnh)." Nhưng đó là cái chúng ta thấy trong dữ liệu? Không. Thứ "tạo ra khối lượng" này chỉ thấy có ở trong Refs. Chúng ta không thấy tương tác Yukawa trong hộp (hộp Wilson), chúng ta thấy nó trong tạp chí Physical Review Letters khác. Tương tác Yukawa được định nghĩa là tương tác giữa trường vô hướng và trường Dirac, nhưng cả hai trường này là những khái niệm trừu tượng. Chúng không tồn tại trong hộp, và không thể tồn tại trong hộp, vì chúng là tương tác ảo, tự phá vỡ đối xứng, và là những con thú thần thoại khác có tính chất đó nữa. Nói cách khác, chúng ở ngoài mọi dữ liệu khả dĩ, mà không thể giả mạo, và chưa bao giờ được xác nhận với mức độ tin cậy ngay cả thậm chí 1%. Mức độ tin cậy của tất cả những lý thuyết chứa phá vỡ đối xứng, trường và hạt ảo, và các giá trị kỳ vọng chân không là 0% và luôn luôn phải là 0%. Nếu bạn có bất kỳ mức độ tin tưởng nào vào những lý thuyết như vậy, nó cũng là mức độn bạn chế tác trong sọ mình, dựa vào cái gì đó bên ngoài dữ liệu vật lý.

Bốn cơ chế chính cũng kỳ cục. Họ không thiếu mất 1 trong phần này sao? Gì mà phân rã thành bb, thứ có khả năng nhất tại năng lượng này theo mô hình chuẩn (xem hình 2 dưới đây). Tại sao chúng ta được kể 5 cơ chế trong phần trước, nhưng lại chỉ có bốn ở đây? Có phải chúng ta bị bỏ mất phân rã bb?

Còn lại của phần 4 là mô tả mô phỏng máy tính. Nó sẽ làm bạn lo ngại vì rất nhiều nghiên cứu Higgs đã phụ thuộc vào mô hình máy tính. Mô hình máy tính là điều rất đáng ngờ, ngay cả trong các lĩnh vực chắc chắn nhất, vì nó cổ vũ và khuyến khích giả mạo. Nhưng ở đây trong vật lý hạt, không phải là ở tất cả các tổ chức, mô hình được sử dụng theo cùng một cách như Monte Carlo, để nhào nặn ra bất cứ thứ gì các nhà lý thuyết hay mô hình muốn có. Nó được dùng để tạo bản sau và bản trước dữ liệu ảo, và những thí nghiệm tự nó khi đó phù hợp với các mô hình. Tất nhiên điều này là lộn ngược, vì dữ liệu cần phải là nguyên bản. Người ta hầu như luôn luôn có thể tìm ra cách để khớp dữ liệu vào mô hình theo lập luận, nhưng vì mọi con số của các mô hình khác cũng có thể bị ép dữ liệu cho phù hợp, không có cách nào để lựa chọn giữa các mô hình cạnh tranh.

Cách mà mô hình chuẩn giải quyết điều này là bởi không cho phép các mô hình cạnh tranh. Các thuyết gia nổi tiếng nhất tạo ra mô hình, mô hình này được gọi là tiêu chuẩn, còn sau đó tất cả công việc của các chuyên gia máy tính và kỹ sư là tập trung để khớp dữ liệu vào mô hình. Dữ liệu không phù hợp với mô hình nổi tiếng bị bỏ qua, dữ liệu có thể làm cho phù hợp với mô hình được ca ngợi. Các lỗ hổng và những mâu thuẫn hoặc bị ỉm đi hay bị che đậy bởi những điều rất vô nghĩa. Chúng ta thực sự đã thấy điều đó ở đây, kể từ khi tương tác Yukawa là một ví dụ vô nghĩa lý đầy màu mè.


Hình 1 là một đồ thị quan trọng cho thấy xác suất (p-value) "cho dao động nền ít nhất là lớn đến có thể để thỏa mãn quan sát cực đại". Mặc dù các xác suất này được tính toán từ tiêu chí tần suất sửa đổi mà bản thân nó là đáng ngờ (do không chắc chắn đầu vào), xác suất vẫn còn khá cao, như thấy. Mặc dù họ cố trên báo để hướng bạn vào p-value tổng hợp, thì các giá trị riêng là quan trọng. Việc kết hợp p-value sẽ chỉ được sử dụng trong trường hợp, mà chúng ta đã khẳng định phát hiện tất cả 5 phản ứng hợp hạt Higgs ở cùng mức năng lượng trong cùng thí nghiệm, nhưng chúng ta không có điều này. Chúng ta có thể giả sử chỉ có một, tức tốt nhất, vì vậy chúng ta hãy nhìn vào p-value cụ thể. Tại 125GeV, xác suất cho bằng chứng “mạnh nhất” của phân rã H→γγ và H→ZZ khoảng 1/100 và 1/1000. Điều đó có nghĩa xác suất đốm sáng này là tiếng ồn lại cao đáng kể. Một xác nhận xác suất 1/100 trong thí nghiệm như thế này với rất nhiều sự không chắc chắn là rất cao. Giá trị sigma 5 yêu cầu sự chắc chắn trong khoảng 2 triệu có 1 lệch, hãy nhớ rằng đó không phải là 100 có 1.


Cũng đáng quan tâm là 2000 tác giả thừa nhận rằng bằng chứng "mạnh" là của diphoton Higgs, được rút ra với đường màu xanh lá cây ở đây. Các văn bản với con số này thừa nhận:

Dấu hiệu mong đợi trong các kênh này do đó là tiếng dội hẹp trên nền, có bề rộng phù hợp với độ phân giải thiết bị dò.

Tôi coi điều này có nghĩa là cho đến khi chúng ta đạt đến năng lượng trên 145GeV, các phát hiện mong đợi sẽ không có nhiều trên nền. Chúng ta thấy điều này theo cách 3 đường màu nằm trong phạm vi 2σ. Vì lý do này, chúng ta có thể hình dung hầu hết các tác giả đã muốn chờ đợi phát hiện ZZ Higgs ở năng lượng cao, nơi nhiều phát hiện có nghĩa hơn để tuyên bố. LHC có khả năng đến 14TeV, vì vậy 125GeV thực sự là rất thấp. Phát hiện Z tại 91GeV không phải là quá cao. Ngoài ra, dải năng lượng thấp này đã thực sự bị càn quét bởi tất cả các máy gia tốc nhỏ và cũ hơn. Là kỳ cục vì nhiều lý do để họ tuyên bố phát hiện tại 125GeV, không ít trong số đó không thể biện minh được cho kích thước của LHC. Máy gia tốc Tevatron ở Fermilab đã có khả năng đến 1TeV kể từ năm 1983, và 125GeV chỉ là 1/8 của năng lượng này.

Hóa ra, Tevatron cũng tuyên bố phát hiện hạt Higgs lúc này, mặc dù bạn không nghe nhiều về điều đó. Vào tháng 7 năm 2012, Fermilab thông báo rằng họ cuối cùng đã đối chiếu hàng tệp dữ liệu có từ 2001, cho thấy một xác suất phát hiện hạt Higgs 550-1 (<3σ). Trùng hợp (?), LHC cũng quyết định tiết lộ phát hiện của mình hai ngày sau đó, nhân rộng độ chắc chắn tiết lộ lên thành 2 triệu đến 1 vào tháng 9. Thời gian này bất kỳ tâm trí khoa học nào cũng đều phải hỏi liệu chúng ta thực sự có một sự trùng hợp ở đây. Tôi sẽ nói lời giải thích hợp lý nhất là LHC không thể bị rủi ro vì cái tin sốt dẻo từ Fermilab, và quyết định vội vàng gì đó trên báo chí, mô hình máy tính chết tiệt. Sau tất cả, khi LHC được xây dựng để tìm hạt Higgs, nếu Fermilab được phép để công nhận, mọi nguồn tài trợ trong tương lai của CERN sẽ bị ném vào tình trạng nguy hiểm. Tôi đoán là kể từ khi Fermilab đóng cửa và các nhà vật lý ở đó, những người đã nghỉ hưu không chỉ hy vọng có việc làm tại LHC trong tương lai, đã có sự đồng ý bởi mọi người để cho LHC lấy danh tiếng. Một bộ báo chí đã nhanh chóng được tập hợp và thông báo được ném vào truyền thông, dù sẵn sàng hay không. Còn sigma bị thổi phồng lên đến 5 bởi mọi biện pháp cần thiết, và phần còn lại là một trò đùa.

Nhưng xác suất (σ~10), như thông báo của Fermilab cũng là động thái chính trị, một nỗ lực của ai đó để bước ra với một tiếng nổ, có lẽ không có sự cho phép của đa số. Điều gì nếu các nhà vật lý Fermilab đã nghỉ hưu muốn biện hộ cho công trình cuộc đời của họ và tung cú đá móc vào LHC nhân thể? Sau tất cả, LHC đã dẫn đến việc đóng cửa Tevatron của Fermilab. Không nghi ngờ gì, đã có 1 số hay nhiều người tại Fermilab có niềm vui thích lớn nhất là LHC sẽ bị múc. Nếu họ có một số dữ liệu cho thấy một phát hiện Higgs, tại sao lại không công bố? Không có gì để mất mà lại có mọi thứ để giành lấy.

Chỉ có những người trong cuộc mới có thể biết đầy đủ sự thật, nhưng tất cả chúng ta thấy thời gian rất đáng ngờ, cả lúc Tevatron thông báo, ngay khi đóng cửa máy gia tốc và LHC thông báo hai ngày sau công bố của Tevatron. Nếu nhìn nó giống như chính trị, có mùi giống như chính trị, và khẩu vị như chính trị, nó có lẽ là chính trị.

Nói về Z boson, bạn nên tự hỏi mình là Higgs Boson tại 125GeV có thể "phân rã" thành 2 Z như thế nào, mỗi trong số đó tại 91GeV. Đó sẽ là 1 tảng thiên thạch 10 tấn phân rã thành hai thiên thạch 8 tấn. Thế 57GeV khác đến từ đâu? Trên thực tế, báo cáo cho chúng ta biết một trong 2 Z là cái “vỏ-tắt” khối lượng. Điều đó có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là các phương trình đã không tuân theo quy tắc toán học thông thường, giống như các tổng số và khác nhau. Về cơ bản, vỏ-bật nghĩa là các phương trình thêm lên, và vỏ-tắt nghĩa là chúng không. Nhưng các nhà vật lý hiện tại nghĩ rằng họ có thể biện hộ cho phương trình bị lỗi và dự đoán chỉ bằng cách cho chúng một cái tên: vỏ-tắt. Vỏ-tắt có liên hệ với các hạt ảo và những ý tưởng gà tơ khác, như phá vỡ đối xứng, vay mượn từ chân không, và tương tự như vậy. Theo cách này, 63% những thứ còn lại và các thứ biến mất có thể bị gạt bỏ như "vỏ-tắt". Mặc dù mô hình chuẩn có chứa những vỏ tắt dư thừa khắp nơi và mặc dù một trong những điều rất quan trọng là vỏ-tắt bởi 120 qui tắc quan trọng (xem bài viết của tôi thảm họa chân không) - tất cả các bài viết như thế này tại PRL đi kèm khẳng định rằng mô hình chuẩn "tạo ra một mô tả khá chính xác" thế giới lượng tử. Thảm họa chân không sẽ lớn đến thế nào nếu mô hình chuẩn không tạo ra mô tả khá chính xác? Nếu 120 qui tắc quan trọng là "khá chính xác," thì qui định thất bại sẽ là khá không chính xác?

Cũng là kỳ lạ khi thấy Higgs Boson tại 125GeV phân rã thành hai photon, mỗi trong số nó có năng lượng cỡ 100KeV. Higgs lẽ ra đã phải phân rã thành khoảng một triệu x-ray, vậy thì phần còn lại của năng lượng ở đâu?

Chúng ta sẽ trở lại với những câu hỏi này sau, bây giờ hãy trở lại với sơ đồ. Sơ đồ dưới đây đến từ Wikipedia, nhưng nó có liên quan đến bên trên.


Hình ảnh này cho thấy khả năng phân rã Higgs khác nhau ở “các mức năng lượng khác nhau.được xác định bởi mô hình chuẩn, và đến từ các yếu tố chúng ta được nói là "cố định" bởi lý thuyết.

Cơ học lượng tử tiên đoán rằng nếu khả dĩ cho một hạt phân hủy thành một tập hợp các hạt nhẹ hơn, thì cuối cùng nó sẽ làm như thế. Điều này cũng đúng với Higgs boson. Khả năng mà điều này xảy ra phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm: sự khác biệt về khối lượng, cường độ tương tác, v,v.  Hầu hết các yếu tố này là cố định bởi mô hình chuẩn, ngoại trừ khối lượng chính nó Higgs boson. Đối với Higgs boson có khối lượng 126 GeV/c2, mô hình chuẩn dự đoán thời gian sống trung bình khoảng 1,6x10-22 giây.

Nếu chúng ta nghiên cứu dải 125GeV, chúng ta thấy rằng khả năng của diphoton γγ Higgs là khá thấp, khoảng 0,2% của tất cả các phát hiện. ZZ Higgs ít hơn 1 chút, khoảng 1% của tất cả các phát hiện. Và bài viết tại PRL cho rằng các phân rã này của nó là "bằng chứng mạnh nhất". Liệu chúng ta có được cho biết lý do tại sao phân rã ít có khả năng nhất lại được phát hiện đầu tiên, và làm thế nào điều này lại có thể xác thực tiên đoán "cố định" của mô hình chuẩn mà quark Higgs đáy chống đáy sẽ chiếm 56% trường hợp, hoặc 280 lần hơn diphoton Higgs? Đâu là bb Higgs?

Phần 5 bắt đầu với điều này:

Trong phân tích H→γγ việc tìm kiếm đỉnh hẹp trong phân bố khối lượng bất biến diphoton tại dải 110-150 GeV, trên nền lớn không thay đổi từ sản phẩm 2 photon QCD (Thuyết sắc động lực học lượng tử).

Đây là tư liệu vì nó nhắc chúng ta rằng để nhận dạng Higgs từ cặp diphoton, các nhà vật lý phải bỏ qua tất cả các cặp photon được tạo ra theo những cách khác. Để làm được điều này, họ phải biết tất cả các cách khác sinh ra cặp photon, cũng như khả năng chồng chất của chúng. Rất không có vẻ là họ biết rõ điều này. Cũng như điểm đầu tiên, gần như là vô tận để không chắc chúng ta đã phát hiện ra tất cả các tương tác lượng tử có thể tạo ra cặp photon. Thậm chí là không chắc chúng ta đã phát hiện ra tất cả các tương tác lượng tử có thể tạo ra cặp photon ở năng lượng cao này. Tại sao? Bởi vì, thậm chí giả sử là hạt Higgs vừa được phát hiện, Higgs vừa được phát hiện. Những gì tôi muốn nói là, trong trường hợp kịch bản tốt nhất, chúng ta vừa chỉ khám phá ra sự sản sinh này của cặp photon từ Higgs. Có nghĩa là năm ngoái chúng ta không có hiểu biết này. Nếu hiểu biết của chúng ta là không đầy đủ vào năm ngoái, tại sao chúng ta cho là nó đẩy đủ trong năm nay? Chúng ta tiếp tục phát hiện các hạt lớn hơn và lớn hơn. Thì có thể có các hạt hợp thậm chí lớn hơn Higgs, và có thể những hạt lớn hơn này phá vỡ theo cách chưa biết đến với chúng ta, tạo ra cặp photon?

Đối với điểm thứ hai, cho rằng lĩnh vực phong phú với các va chạm, khả năng tồn tại mà cặp photon có thể chồng chất tại một điểm nhất định trong một thời gian ngắn, có thể ảnh hưởng đến sigma hoặc làm lệch biểu đồ. Trong một số trường hợp, các máy tính có thể xác định các đỉnh này như dị thường, nhưng không có kiến ​​thức đầy đủ về lĩnh vực này, không có máy tính nào có thể phân biệt 1 cách chính xác từng đốm sáng trong một trường. Không có máy tính nào có kiến ​​thức đầy đủ về một trường; cũng không có bất kỳ lý thuyết nào như vậy.

Vì không thể che mọi tiếng ồn trong thí nghiệm mà không biết nguồn gốc của mọi tiếng ồn, các nhà vật lý hiện tại có xu hướng khó ưa đọc tiếng ồn không che như là dữ liệu tích cực. Họ ngầm (hoặc thường công khai) cho rằng có mọi kiến ​​thức về trường, và sử dụng nó như dấu hiệu cho thấy các dị thường mà họ phát hiện phải có nghĩa. Nếu bạn chú ý câu chuyện gần đây, bạn thấy là họ hầu như luôn luôn sai. Và bạn thấy họ hầu như luôn luôn phóng đại chắc chắn của họ, thường bởi giới hạn rất lớn. Và bạn thấy họ không bao giờ học được bài học nào từ thất bại của họ, bởi không có vấn đề bao nhiêu lần họ chắc chắn thất bại 99 +%, họ sẽ cứ tiếp tục với những điều chắc chắn lớn hơn với tập dữ liệu càng nghèo nàn hơn. Xác suất là gần 100% rằng đây là những gì đang xảy ra với hạt Higgs.

Trong phần 5, chúng ta có một sự thú nhận kỳ cục, mà có thể đã được lập kế hoạch bởi 1 trong nhiều 2000 lẩn thẩn:

Các sự kiện diphoton không thỏa mãn lựa chọn dijet được phân thành 5 loại dựa trên đầu ra của BDT, với ranh giới phân loại tối ưu hóa độ nhạy với Higgs boson của mô hình chuẩn.

Toàn bộ đoạn văn trong đó gói ghém cả loạt các thú nhận trần trụi rằng mọi thứ trong các thí nghiệm đã bị thúc để đi đến chỗ phát hiện ra Higgs. Bạn sẽ nói, "Tất nhiên họ tối ưu hóa độ nhạy cho hạt tiên đoán. Đó là lý do tại sao LHC được xây dựng!" Nhưng ai đó có thể thấy nó đã trở thành nhiều hơn thế. Trong vật lý lành mạnh, chúng ta mong đợi thử nghiệm được tự do đối với lý thuyết biết đến. Ở đây, chúng ta thấy cả lý thuyết xác định thí nghiệm, với mô hình máy tính không chỉ bị định trước bởi lý thuyết, mà còn cả chính các thí nghiệm bị định trước bởi lý thuyết. Thí nghiệm đã không có quyền tự do để chứng tỏ mọi dữ liệu ngoại trừ các dữ liệu được tìm kiếm. Đây là lý do tại sao hạt Higgs lại quá "khó nắm bắt": nếu bạn tối ưu hóa độ nhạy máy của bạn cho một cái gì đó không tồn tại, dĩ nhiên bạn sẽ có hàng chục năm không có gì. Nhưng nếu bạn phải xác định đó là hạt không tồn tại, rốt cuộc bạn sẽ buộc phải tối ưu hóa độ nhạy của máy với tiếng ồn nền. Bài báo chỉ là bằng chứng cho thấy nếu bạn áp dụng đủ các bộ lọc và bộ tăng thế và bộ hội tụ và bộ giảm chấn cho một tập dữ liệu, bạn có thể tìm thấy mọi thứ bạn muốn. Đó là cái mà vật lý đã trở thành: không phải là khám phá dữ liệu, mà là việc tạo ra nó.

Như là bằng chứng về điều này, chúng ta chỉ cần nhìn vào biểu đồ 2:



Đó là lạ lùng bỏi nó vô tình (?) cho chúng ta thấy một số tiếng ồn nền lớn cũng như cho chúng ta thấy sigma đã bị thúc ra sao. Để bắt đầu, bạn không được phép thêm sigma cho các thí nghiệm riêng biệt tương tự, tạo ra một sigma tổng là đường màu đen này. Như bạn có thể thấy, họ đã kết hợp sigma với xác suất, và họ thậm chí tạo ra một biểu đồ kỳ lạ với sigma ở một bên và xác suất ở bên kia, để khuyến khích sự kết hợp này. Vâng, lúc căng thẳng bạn có thể thêm các xác suất, vì có thể lập luận rằng các thí nghiệm tại 7TeV và 8TeV là đủ khác biệt để đáng được có xác suất riêng. Họ sẽ cho rằng không chắc tiếng ồn nền kia sẽ đạt đỉnh cùng một vị trí trong hai thí nghiệm. Có thể. Ngoại trừ rằng không phải tất cả tiếng ồn nền đều là ngẫu nhiên. Nhưng đó không phải là câu hỏi. Câu hỏi là sigma. Sigma là thước đo độ lệch hay độ chắc của dữ liệu, và không thể bị cộng thêm vào. Nếu có thể, chúng chỉ chồng thêm nhiều xác suất cao, dữ liệu đốm thấp để có một phức hợp của xác suất thấp, dữ liệu đốm sáng cao.

Ví dụ, cái gì ngăn chúng từ biểu đồ bốn thí nghiệm tại 5TeV, 6TeV, 7TeV, và 8TeV, tất cả với sigma dưới 2, và thêm chúng để có sigma tổng quan sát trên 4? Và như thế? Chúng ta thấy ở trên rằng họ đã đạp lùi sigma 5 xuống 4,1, và ở đây chúng ta thấy họ lùi từ 4,1 xuống 3, đó là "bằng chứng mạnh mẽ nhất" được báo cáo của họ trong biểu đồ này.

Nhưng biểu đồ bỏ nông trại theo một cách khác. Chú ý rằng đường màu xanh biểu diễn 1 đốm sáng lớn khác ở khoảng 136GeV. Nó có sigma khoảng 2,4, so với 3 của đốm lớn nhất tại 125GeV. Và nó đã bị bỏ qua như tiếng ồn nền. Không có phát hiện được tuyên bố tại 136GeV. Điều này rất lạ lùng, bởi vì nếu họ loại trừ tối đa chỉ 25% dưới ngưỡng phát hiện, nó cũng ảnh hưởng đến sigma. Sigma là độ lệch của giá trị trung bình, nhớ là, đốm sáng thứ 2 này đưa giá trị trung bình lên. Nếu chúng ta trung bình từ 120 đến 140, nó đưa lên rất nhiều, nhưng ngay cả khi chúng ta trung bình vượt qua biểu đồ từ 110 đến 150 (mà là tất cả các dữ liệu có thể nhìn thấy ở đây), nó đưa lên đáng kể. Có vẻ như họ lấy trị trung bình như giá trị min của các đường màu đỏ và màu xanh, nhưng điều đó không đúng. Đốm sáng tại 125 đã được đo không chỉ ngược với tối thiểu, mà còn ngược với tối đa khác tại 136. Nó không giống như đối với tôi là họ làm điều đó.

Chỉ cần suy nghĩ về nó. Nếu bạn có một cực đại lớn, xác suất đó là tiếng ồn khá thấp. Đó là những gì các nhà vật lý này dựa vào. Nhưng nếu bạn có hai cực đại lớn, xác suất để một có nghĩa và một không đáng kể là thấp. Rõ ràng, càng có cực đại lớn hơn, càng có nhiều khả năng hơn là tất cả chúng hoặc có nghĩa hoặc tất cả chúng không đáng kể (tiếng ồn). Cực đại thứ 2 làm giảm ý nghĩa cực đại đầu tiên của bạn. Theo nghĩa sigma, cực đại thứ hai làm giảm sigma của cực đại đầu tiên. Người ta làm điều này bằng cách tăng trung bình dựa vào đó sigma được đo.

Nhưng họ thấy tôi đến, bởi vì sau đó họ tạo ra biểu đồ 3 để đánh lạc hướng bạn từ những sự thật hiển nhiên.


Đâu là biểu đồ độ lệch theo một số cách. Đầu tiên, họ làm tâm trí bạn không nhớ ra rằng có đốm sáng lớn tại 136 bằng cách từ chối vẽ bất cứ đường màu đỏ hoặc màu xanh nào qua nó. Thứ hai, họ lồng cho bạn một biểu đồ cận cảnh trong biểu đồ mà nó kết thúc tại – như bạn đoán – 135. Họ thậm chí không vẽ dữ liệu có tại 136. Thứ ba, đáng ngạc nhiên, họ đã có thể thực sự dịch chuyển dữ liệu bằng cách áp dụng phương pháp phù hợp nhất. Nhìn vào dữ liệu tại 126, dấu chấm ngay sau đỉnh 125. Khi không là quan trọng, nó tụt xuống cùng dữ liệu tại 128. Nhưng sau khi là quan trọng, nó đi lên đến nửa đáng chú ý của đỉnh 125, để cho phép họ để vẽ một đường cong trơn tru bằng màu đỏ. Thật là tiện! Tôi không tin bạn có thực sự dịch chuyển dữ liệu đến mức năng lượng khác cho phù hợp nhất! Tôi đã bị thông tin sai lạc, rõ ràng thế. Tôi đã được dạy rằng đường cong phù hợp là phù hợp với đường cong dữ liệu. Nhưng ở đây, dữ liệu lại phù hợp với đường cong.

Nếu dữ liệu γγ là kỳ cục, thì dữ liệu ZZ còn siêu kỳ cục. Chúng ta có rất nhiều luận điệu ru ngủ về đỉnh khối lượng 4-lepton và quá trình gluon-gluon, quark-quark, nhưng khi nó đến thành những con số, chúng ta nhận được một thứ hoàn toàn kinh khủng. Đây là biểu đồ 4:


Trước hết, nhận thấy rằng họ đã suy sụp đi để dẫn dắt bằng đồ thị với sigma trên trục tung, như với đồ thị trước đó. Thay vào đó, chúng ta có biểu đồ sự kiện/GeV. Nếu chúng ta chỉ theo dữ liệu và bỏ qua phần còn lại, chúng ta thấy dấu hiệu mạnh hơn của Z tại 91GeV hơn là của Higgs ở 125. Đỉnh của nó cao khoảng gấp đôi. Nhưng quan trọng hơn là dữ liệu đã bị bỏ qua ở mức 94, 96, 99, 122, 165 và 180. Các điểm dữ liệu ở mức 99, 122, 165 và 180 đều tăng đến 3 trên đồ thị, gần như là chính xác. Đó là 4 điểm ở mức 75% của đỉnh 125, mà chúng phải kéo sigma của nó xuống một cách đáng kể, như tôi nhắc các bạn ở trên. Sau đó, chúng ta có 2 điểm dữ liệu ở mức 94 và 96, trên biểu đồ là 5. Phần tô màu xanh là một nỗ lực của các nhà đồ thị học để cho những điểm này đến Z tại 91, chỉ Z mới tại 91, mà không phải là 94 hay 96. Ngay cả nếu chúng ta trừ ra Z tại 91, chúng ta phải cho chúng 2 điểm 94 và 96 trên nền, điều đó hoàn toàn phá hủy mọi sigma đỉnh tại 125 có thể có.

Và họ đã làm cái gì trong việc ghép biểu đồ? Họ đã bỏ các đỉnh ở mức 94 và 96 bằng việc sử dụng một "phân tích thống kê chỉ bao gồm các sự kiện với m4ℓ> 100GeV". Thật tiện, vì nó giúp họ khỏi phải giải thích tại sao lại có Z tại 91 bởi đỉnh này. Nhưng làm thế nào mà họ quên dữ liệu tại 165 và 180?

Biệt thức động học được xây dựng dựa trên tỷ lệ xác suất của tín hiệu và giả thuyết nền, KD = psig/(psig + Pbkg).

Điều đó có nghĩa là gì? Nó nghĩa là họ sử dụng một thủ thuật vớ vẩn để bỏ dữ liệu tại 165 và 180. Mặc dù bỏ rơi dữ liệu dựa trên nền của nó là vô lý, thủ thuật này đã thành công trong việc giải thoát khỏi các đỉnh bất tiện mà nếu không, có nó sẽ phá hủy các giá trị sigma.

Nhưng 2000 nhà khoa học của chúng ta có thừa nhận gì điều đó? Đôi trang báo cáo về sau, cho chúng ta một biểu đồ sigma, và cả 2, nó cũng bị cắt xén và sửa chữa.



Chúng ta đường màu đen, cái mà tôi đã chứng tỏ là lừa dối. Vì thế, chúng ta phải quay lại sigma từ 3,2 đến 2,4 - đỉnh của đường màu đỏ. Nhưng một lần nữa, sigma bị chèn vào một cách không trung thực, bằng cách bỏ qua các đỉnh khác ở dưới 110 và trên 150 GeV. Nếu chúng ta gồm các đỉnh dữ liệu tại 94, 96, 99, 165 và 180, đỉnh tại 125 hầu như không còn sigma nữa, khó để thấy nó trên nền.

Tôi thực sự không hiểu tại sao họ lại buồn bực làm giả dối dữ liệu ZZ này, khi mà họ thậm chí còn không tuyên bố phát hiện ZZ 1 cách có cơ sở trong báo cáo. Tất cả những huyên thuyên Higgs là tuyên bố phát hiện γγ. Khi điều này cũng có ở phân rã WW và quark, tôi thậm chí sẽ không bận tâm để phân tích chúng. Tôi cho rằng họ nghĩ cần phải lót cho báo cáo này 1 chút, vì vậy mà 2000 tác giả chiếm mất chiếm 1/3 báo cáo, thay vì 1/2 hay nhiều hơn. Nếu báo cáo chỉ gồm tuyên bố γγ với các số liệu của nó, 2000 vị sẽ có 2/3 là của nó, thứ đáng xấu hổ.

Vì vậy, chúng ta đã thấy rằng 2000 vị đã không chỉ thất bại khi biện bạch cho tuyên bố 5σ, họ đã làm giả dữ liệu bằng nhiều cách khác nữa. Nhưng ngay cả khi họ không làm giả, cũng không gì trong đó chứng tỏ Higgs. Nói rằng họ đã có thể biện bạch 5σ tại một số dải năng lượng. Điều đó sẽ chứng minh Higgs? Không. Nó sẽ chỉ cho thấy có một hạt ở năng lượng đó. Để chứng minh là Higgs, bạn sẽ phải chứng minh tất cả các tuyên bố lý thuyết khác, chẳng hạn như phá vỡ đối xứng, năng lượng chân không, gauge bất biến, và cứ thế. Như tôi đã giới thiệu trong bài viết lý thuyết điện từ yếu, không thể biện minh cho những điều này bởi vì họ đã làm giả phương trình và làm trái ngược lý thuyết.

Bạn thấy đấy, toán học gauge, được chọn chủ yếu để sắp xếp và xử lý dữ liệu, nó cuối cùng có ứng dụng riêng mình. Đối xứng có được bao gồm gợi ý nhất định tính chất của các hạt tiên đoán, và khi các hạt này hóa ra lại có tính chất khác, các nhà vật lý vội vàng kết luận rằng họ cần thiết phải phá vỡ đối xứng trong toán học gauge -  để cứu toán và lý thuyết ban đầu. Nói cách khác, để trình bày với dữ liệu bị nghiền nát 1 cách tiêu cực, các nhà vật lý này từ chối từ bỏ hoặc là lý thuyết của họ hoặc là toán học. Thay vào đó, họ chọn cách sửa nó.

Họ chỉ đơn giản là thêm một lớp kem khác vào cái bánh, một lớp người ta gọi là phá vỡ đối xứng.  Nó không thực sự phá vỡ đối xứng trong toán học, vì chúng vẫn tồn tại trong các lớp ban đầu; nó chỉ giải thích lý do tại sao các đối xứng ban đầu không quan trọng. Nó cố gắng giải thích tại sao tập nguyên lý đầu tiên trong lớp đầu tiên không thực sự ứng dụng. Để giải thích cho lý do tại sao các nguyên lý đối xứng không ứng dụng, các nhà vật lý phá vỡ tập nguyên lý khác,  bao gồm nguyên lý bảo toàn: bạn không thể có được 1 cái gì đó từ hư không. Thay vì một sửa chữa, chúng ta có một sự phá vỡ gấp đôi. Vâng, họ tạo ra năng lượng tự do từ hư không –không từ gì cả và vay mượn thứ năng lượng này đủ để điền vào các lỗ hổng trong lớp đầu tiên của họ. Điều này gọi là vay từ chân không, và họ thậm chí không dành nhiều thì giờ để biện minh điều đó. Vì không ai khống chế các nhà lý luận, và cũng không khôn ngoan đối với họ để tự khống chế mình. không có biện minh nghiêm túc nào là cần thiết. Họ cần có nó, họ muốn có nó, và đó là tất cả biện minh mà chúng ta có. Về cơ bản, logic của họ là nếu họ mượn nó chỉ trong một khoảnh khắc, thì thực sự không cần phải buộc tội. Đó là lý do tại sao họ thích các meson và boson mới và như vậy: chúng thọ 10-24 giây hay gì đó, vì vậy các nhà vật lý tuyên bố không có nguyên lý nào thực sự bị phá vỡ. Họ dựa vào thực tế mọi người không thể nhận thức được thời gian nhỏ này, vì vậy người ta có xu hướng bỏ qua nó.

Nhưng tất nhiên đó không phải là cách các định luật vật lý cần tác động hay đang tác động. Bạn không thể gán cho chân một năng lượng dương và vẫn gọi nó là chân không, vì nó không phù hợp với định nghĩa chân không. Và cũng áp dụng như thế với thời gian. Bạn không thể tuyên bố rằng thời gian nào đó là quá nhỏ, nên nó không đáng kể, vì điều đó không phù hợp với định nghĩa thời gian. Đối với các hạt rất nhỏ, thời gian rất nhỏ là rất quan trọng. Tuyên bố 10-24 giây là không đáng kể với kích thước photon giống như tuyên bố rằng một ngày là không đáng kể với một con người. Nó chỉ đơn giản là không đúng sự thật.

Tôi không quay câu chuyện vật lý ở đây thành lợi ích của riêng tôi. Tất cả những gì tôi nói là thừa nhận 1 cách tự do bởi các nhà vật lý hạt. Đây là cách mà họ chọn mà gần đây được viết lại bởi những người trong cuộc đầu để phản ánh các sự kiện hiện tại (THE UNIVERSE:RE-EXPLAINED)

Bất biến gauge là một đặc tính quan trọng của mô hình chuẩn. Tuy nhiên, fermion với khái niệm khối lượng vi phạm đối xứng lực điện từ gauge… Boson W và Z được nhận xét là có khối lượng, nhưng khối boson chứa những khái niệm rõ ràng phụ thuộc vào lựa chọn gauge, do đó những khối lượng này không thể coi là gauge bất biến. Do đó có vẻ như không gì trong fermion mô hình chuẩn hay boson có thể "bắt đầu" với khối lượng như 1 đặc tính sẵn có, ngoại trừ bằng cách từ bỏ bất biến gauge. Nếu bất biến gauge được giữ lại, thì những hạt này đã thu được khối lượng bằng 1 số cơ chế hoặc tương tác khác.

Thế là, cả không các fermion cũng như không các boson hành xử như chúng có. Dữ liệu không phù hợp với lý thuyết hay tiên đoán toán học. Họ do đó từ bỏ lý thuyết và toán học? Không, họ vay mượn từ chân không để phá vỡ toán học, và sau đó mượn khối lượng từ một hạt Higgs để tạo khối lượng cho các hạt khác. Khi các fermion không thể có được khối lượng của chúng từ bất biến gauge, chúng phải có được nó từ boson. Đây là lý do tại sao hạt Higgs được gọi là hạt của Chúa: nó "tạo" khối lượng các hạt nhỏ hơn. Fermion không có khối lượng trong toán học, nhưng lại có khối lượng trong lĩnh vực này sau khi Higgs trao cho chúng. Chúng có tính chất và trao đổi tính chất này khắp nơi: không giống lắm với thiên đường mà như 1 cuộc nhậu say sưa bừa bãi.

Đây chỉ là một ví dụ nhỏ về sự lộn xộn kinh khủng mà vật lý hạt hiện nay đã trở thành. Sai lầm cũ không bao giờ được sửa chữa, họ chỉ phết  lên chúng 1 lớp kem. Chúng giờ đã có quá nhiều lớp, vật lý như thể tựa vào tháp Babel, với rất nhiều toán học và diễn đạt ướt át chồng đống lên nhau, mỗi chúng vững chắc như thể 1 lớp kem bánh.

Chính vì lý do này mà các thông báo Higgs hầu như được chào đón bên cạnh quan điểm này. Tháp ngà vật lý ẽo uột đã thôi không còn có thể chứa dữ liệu mới đã cả thập kỷ. Không có chỗ nào sạch sẽ, để đặt vào đó dữ liệu mới. Tất cả đã bị lấp đầy bởi 1 thứ ươn ướt, nhờn nhợn.

Đây chính là lý do để tôi từ bỏ mô hình chuẩn 1 thập kỷ trước. Sau đó tôi đã quay lại với những thập niên đầu của thế kỷ 20 và bắt đầu lại từ đầu. Tôi không chỉ ném bỏ toán học gauge như kẻ xâm phạm, tôi kéo Lagrangian sang 1 bên, để xem nó đã bị hiểu lầm từ nền tảng như thế nào. Tôi viết lại phương trình Schrodinger, tôi sửa chữa phương trình Bohr, tôi xây dựng lại các hạt nhân trên mô hình cơ học nghiêm ngặt, tôi lập spin tại cấp độ lượng tử thực sự, tôi chứng tỏ điện từ là vấn đề như cơ học, và tôi phát hiện ra phương trình lượng tử spin cơ bản.

Sau khi làm điều đó, tôi không chỉ có thể giải thích thảm họa chân không - 120 qui tắc lỗi của mô hình chuẩn – mà tôi còn có thể giải quyết được nhiều vấn đề cơ bản khác. Quan trọng nhất, tôi đã có thể giải quyết vấn đề thống nhất, cho thấy không chỉ điện từ tồn tại trong phương trình trường, mà còn là hấp dẫn tồn tại ở cấp độ lượng tử như thế nào.

Đối với vấn đề này, tôi đã có thể thấy xa những hạt lớn được tạo ra như thế nào. Đó không phải là hạt Higgs tạo khối lượng cho các fermion, mà là fermion tạo khối lượng cho Higgs (và tất cả các hạt khác lớn hơn). Proton – sau fermion - tạo ra hạt lớn bằng cách trở thành hạt lớn. Hãy nhớ rằng, các máy gia tốc proton đã đưa proton lên đến 125GeV để tạo hạt tại 125GeV. Lạ là không ai nghĩ đến việc hỏi hạt họ nhìn thấy và proton có là cùng 1 hạt.

Do mâu thuẫn trong toán học gauge cũng như trong thuyết tương đối, các nhà vật lý hạt không bao giờ thậm chí có 1 thoáng cho ý tưởng đó là nghiêm túc. Họ đã quyết từ lâu rằng proton hoặc là hạt rời rạc trong máy gia tốc, hoặc nó là 3 quark. Như vậy, nó không thể là nguồn gốc của tất cả tan rã mà họ thấy.

Không chỉ có lý thuyết quark nói với họ điều này, mà còn là thuyết tương đối, nó đưa họ phương trình khối lượng tăng lên mà không cần cơ chế. Tương đối nói với họ khối lượng gia tăng là chỉ vì tốc độ tăng, bởi vậy họ không cần xem xét proton có spin hay có tăng tốc spin hay không.

Nói cách khác, phương trình tương đối làm tăng năng lượng là quá đơn giản. Nó quá nén chặt vật chất như cơ học, đem cho họ những con số đúng nhưng không lời giải thích có hệ thống. Bởi phương trình tỏ ra được việc, họ không có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Bởi vì phương trình sử dụng vận tốc gia tăng, họ không có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Nhưng tôi đã chỉ ra rằng một phần của vận tốc là vận tốc spin. Kể từ khi Anhxtanh không có gì để lý giải điều này, không ai kể từ ông ta có bất kỳ lý giải nào về nó. Nó đã bị bỏ qua hoàn toàn cho đến thời điểm này.

Tóm lại, những gì đang xảy ra là khi proton gia tốc, nó chịu nhiều va chạm hơn với trường điện từ – với photon thực (mặc dù tối). Đúng, điện từ là những gì được sử dụng để tăng tốc nó đầu tiên, nhưng điện từ xung quanh vẫn tồn tại trong buồng gia tốc, nó là thứ mà mô hình hiện này không có cách nào để giải thích. Ngay cả khi các nhà vật lý đã hoàn toàn thành công trong việc tạo ra chân không không có điện từ để bắt đầu với nó (mà họ không thể), ngay khi họ bắt đầu tăng tốc proton, điện từ được đặt vào buồng. Đó là cách proton được gia tốc! Khi proton quay vòng, càng quay nhiều vòng, chúng càng tích lũy điện từ nhiều hơn từ môi trường xung quanh trong vòng quay. Proton khi đó tương tác với trường điện từ sau (mà làm nó tăng tốc) và điện từ trước. Cả hai dạng điện từ này làm tăng spin của proton. Mọi sự không nhất quán trong trường điện từ sau sẽ làm tăng spin, mọi sự không nhất quán sẽ làm trường điện từ trước tác động tương tự. Proton càng được gia tốc nó càng tích thêm spin.

Nhưng do giới hạn tốc độ C, spin không thể vượt quá C. Để giải quyết điều này, tôi đã chỉ ra rằng hạt có thể chồng lên spin khác, ngoài ảnh hưởng quay của spin hiện có bên trong. Tất nhiên các proton chỉ có thể làm điều này trong tình trạng năng lượng rất cao, khi nó thực sự lớn – vượt qua năng lượng hơn 900MeV để bắt đầu. Khi nó có thêm spin ngày càng lớn hơn, proton tự nó trở thành càng phức tạp hơn. Nó có thể gồm nhiều lớp spin trực giao, spin chồng bên trong spin.

Không phải là các spin kết hợp ngang bằng. Trường điện biến đổi tạo ra một lượng lớn các proton khổng lồ, có tổng năng lượng ngang bằng nhưng có spin khác nhau xếp chồng lên nhau. Tôi đã chứng tỏ trong bài viết rằng điều này cũng thực sự đúng với proton trạng thái nghỉ, chúng thực sự có 32 trạng thái khả dĩ. Proton không phải là 3 quark, mà là 4 spin, với 3 spin ngoài đóng vai làm những gì như 3 quark bây giờ. 4 spin này có 32 tổ hợp khả dĩ, và toán spin này phản ánh toán gauge hiện tại bằng nhiều cách, như tôi đã cho thấy trong bài viết đó. Nhưng khi chúng ta có đến 125GeV, chúng ta không còn có 4 spin, mà chúng ta có 11: bảy trên mức proton bình thường cho chúng ta 242 tổ hợp khả dĩ hay 242 proton khác nhau, tất cả có xấp xỉ cùng năng lượng. Vì lý do này, các proton có thể vỡ ra thành 1 mảng rộng lớn các hạt nhỏ hơn, tùy thuộc vào va chạm xảy ra ở đâu.

Lý thuyết của tôi cũng cho thấy các photon phát ra từ đâu. Mỗi hạt có thể bị vỡ thành các photon, khi photon là cái nhân ở trung tâm của mọi hạt. Nếu bạn tách proton hay meson khỏi tất cả các spin mức cao của nó, nó sẽ trở thành electron. Nếu bạn tách electron ra khỏi tất cả các spin mức cao nhất của nó, nó sẽ trở thành X-ray. Và bạn thậm chí có thể tách X-ray ra khỏi các spin bên ngoài, biến chúng thành photon nhỏ hơn. Có thể có một số photon nhỏ nhất mà không thể tiếp tục tách spin, hoặc các lớp có thể ở vào mức thấp hơn khả năng hiện có để chúng ta thể đo lường được. Tôi không có lý thuyết về điều đó vì tôi không có dữ liệu về nó.

Điều thú vị là, phương trình lượng tử spin của tôi dự đoán hạt ở vào khoảng 120GeV, vì đó là trực tiếp gấp đôi của proton. Chỉ cần nhân proton lên 2 lần 7 bảy. Mức năng lượng thêm cũng có thể được giải thích theo cách trực tiếp, mà không cần bất kỳ sự lộn xộn nào của mô hình chuẩn. Như thế này: Nó nói rằng một số proton đã có va chạm, và đã bị tước bỏ một phần spin hoặc chỉ đơn giản là đã bị huỷ tốc độ. Nó khi đó có thể lấy giá trị spin thấp hơn. Nếu chúng ta nhân proton lên 2 lần, chúng ta có 3,756MeV. Vì vậy, nếu chúng ta tìm thấy đỉnh ngọn cây tại 125GeV, nó có thể được tạo ra bởi 1 proton ở 120,1GeV gặp 1 proton ở 3,76GeV. Nếu bạn nghiên cứu phương trình lượng tử spin của tôi, và cách tôi áp dụng nó vào W và Z, bạn sẽ thấy rằng chúng ta có thể dễ dàng giải thích các con số khác như proton va chạm kỳ lạ với thứ gia tốc hơi kém hơn. Ví dụ, đỉnh bị bỏ qua tại 136 trong biểu đồ 2 ở trên có thể được giải thích như va chạm 120,1GeV + 15GeV. Nhân proton bởi 2 bốn lần mức năng lượng thứ hai.

Vì vậy bạn thấy, tôi không hoàn toàn bỏ qua dữ liệu từ LHC. Tôi thấy cách trình bày rất cẩu thả trong báo cáo PLB này, và tôi thấy mô hình chuẩn bị lúng túng. Nhưng tôi không nghi ngờ máy gia tốc đang tạo ra các hạt kì lạ sống ngắn ngủi.


Bổ xung, ngày 17 Tháng 12 năm 2012: LHC xác nhận dự đoán của tôi ở trên, bây giờ họ công bố một thông báo 2 (hoặc thêm 2) Higgs tại 123,5GeV và 126,6. Xem cập nhật của tôi với bài viết này, điều này chứng tỏ toán học để xây dựng những hạt này từ các phương trình spin lượng tử của tôi, không cần đến trường Higgs, phá vỡ đối xứng, hay bất kỳ phần còn lại gian lận nào của mô hình chuẩn.

Bổ xung ngày 09 tháng 11 năm 2014: các nhà vật lý tông chính đã thừa nhận thông báo Higgs có thể là quá sớm. Trên tờ tạp chí Physical Review D, Frandsen et al. cho thấy không có bằng chứng thuyết phục nào được đưa ra để chứng tỏ Higgs đã được tìm thấy. Điều này có nghĩa là ủy ban Nobel đã vội vã trao giải cho Peter Higgs năm 2013, mà chẳng dựa trên cái gì. Đây là lý do tại sao họ đã từng chờ đợi vài năm, ít nhất trước khi họ cho giải thưởng Nobel vật lý dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Thường là mất nhiều năm để lặp lại và xác nhận dữ liệu phức tạp này, và để vượt qua giai đoạn to còi chính trị. Vậy tại sao giai đoạn chờ đợi bị vứt bỏ? Tại sao lại công khai ngay lập tức trên báo chí chính thống và nhanh chóng vội vàng trao giải thưởng triệu đô la? Bạn thực sự cần tự hỏi mình câu hỏi đó.

* Vâng, nhiều tuyên bố không được xác thực về quark và gluon đã được đưa ra, nhưng những tuyên bố này chỉ là tầm phào như mọi thứ khác trong vật lý hiện hành. Họ có dữ liệu giải thích được những thứ này, nhưng giải thích rất khác hơn là 1 khám chân thật.



1 nhận xét:

  1. Khoa học có sai lầm! Cái đó là luôn có! Tuy nhiên hè nhau chấp nhận sai lầm đó là gì! Có lẽ là tiền! Khoa học ngày nay là tiền! Higgs nếu tồn tại, sẽ trả lời nhiều thứ, nhưng làm sao chứng minh sự tồn tại trong lớp ảo ảnh thì đúng là!
    Có lẽ sau Proton, Newtron, Electron, việc tồn tại Higgs sẽ trở nên hài hước vì không thể nào tính năng lượng của Higgs!

    Trả lờiXóa

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...