TƯỚNG GERASIMOV - HỌC THUYẾT CHIẾN TRANH HỖN HỢP

Igor Nikolaevich Panarin [1] - Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Chính trị, cựu KGB và cố vấn chiến lược của TT V. Putin;

Tài liệu này là nhằm hệ thống hóa một số cách tiếp cận đối với thuật ngữ “Chiến tranh hỗn hợp – Hybrid War” vốn đã khá phổ biến ngày nay, có tính đến khái niệm của Tổng tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Nga, Tướng quân đội Valery Gerasimov [2] đưa ra tại cuộc họp chung giới chức an ninh quân sự hàng đầu ở Học viện Quân sự ngày 1 tháng 3 năm 2019;

 


1. CHIẾN TRANH HỖN HỢP LÀ GÌ?


Hybrid war: chiến tranh hỗn hợp, lai ghép và gần với khái niệm proxy hay false flag war (chiến tranh ủy nhiệm, giấu mặt và cờ giả). Đế quốc Anh là kẻ thù lịch sử chính của Nga, là kẻ khai sinh ra phương pháp luận chiến tranh hỗn hợp. Anh quốc đã trở thành đế quốc chỉ với sự trợ giúp của những âm mưu và sự khiêu khích, và sau đó hy vọng duy trì sức mạnh thế giới của mình, sử dụng một tổ hợp nhiều phương pháp chiến tranh ngầm. Người phát ngôn nổi bật nhất cho ý tưởng của đế quốc Anh trong thế kỷ 19 là Lord Palmerston và thương gia Cecil Rhodes. Vào thế kỷ 19, Nga tham gia vào cuộc đối đầu địa chính trị với Anh, nước rất sợ đánh mất thuộc địa của mình (Ấn Độ, v.v.). Các điều kiện thuận lợi cho sự can thiệp của Anh đã được tạo ra bởi Chiến tranh Kavkaz, cuộc chiến gây thất vọng cho các lực lượng Nga. Người Anh đã tài trợ cho các hoạt động lật đổ của người dân vùng cao. Trên thực tế, lúc đó người Anh đã phát động một cuộc chiến hỗn hợp phức tạp chống lại Nga. Chính nước Anh đã tài trợ cho những người dân vùng núi Chechnya và Dagestan mà cầm đầu là Avar Shamil.


Kẻ tổ chức chính của cuộc chiến hỗn hợp chống lại Nga là Lord Russophobia Palmerston. Trong 35 năm, Palmerston từng là Bộ trưởng Ngoại giao hoặc Thủ tướng Anh. Trên lục địa châu Âu, ông ta còn được gọi là Quí ngài xúi giục. Mục tiêu của Palmerston  là chinh phục thế giới theo ý định của London. Tại một trong những cuộc họp của Quốc hội Anh, ông ta nói: "Dù người Anh ở bất cứ đâu trên thế giới thì cũng có thể làm bất cứ điều gì, vì đằng sau họ là sự hỗ trợ của Hải quân Hoàng gia".

Nga khi đó đã trở thành một vật cản - nước này theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, không quan tâm đến cách hành xử đế quốc của Anh. Palmerston quyết định sửa chữa tình trạng này và bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chiến với Nga, cuộc chiến đã đi vào lịch sử với tên gọi Chiến tranh Krym. Cũng chính Lord Palmerston đã khéo léo tổ chức sản xuất drug ở Ấn Độ và Afghanistan, khiến hàng chục triệu người TQ thiệt mạng, sau đó tổ chức "cuộc chiến tranh nha phiến" với TQ. Chỉ có hai quốc gia còn tồn tại là vô song và có khả năng đối đầu – là Mỹ và Nga. Lord Palmerston trở thành hệ tư tưởng chia rẽ và Nội chiến Mỹ. Đồng thời, ông ta tổ chức kích động tình cảm chống Nga ở Ba Lan nhằm hướng các mũi nhọn châu Âu chống Nga. "Sống trên đời khó làm sao, khi không ai gây chiến với Nga”- lời lẽ này của Thủ tướng Anh Lord Palmerston vẫn còn phù hợp tận ngày nay. Trong Chiến tranh Krym (1853-1856), người Anh dựa vào một liên minh hùng mạnh (Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và trên thực tế là Áo), đã cố gắng khôi phục lại Kavkaz như một vùng đệm giữa Nga và các cường quốc Hồi giáo. Chiến tranh Krym, do Palmerston tổ chức, đã diễn ra trên nhiều sân khấu hoạt động chiến tranh.

Và đến nay đã hơn 160 năm trôi qua. Và một lần nữa, Anh quốc lại là kẻ tổ chức cuộc chiến hỗn hợp phức tạp của phương Tây chống Nga. Vụ đầu độc giả mạo S. Skripal xảy ra vào ngày 4 tháng 3 năm 2018 tại Salisbury (Anh) với một kẻ phản bội và cô con gái 33 tuổi Yulia, một công dân Nga, đến từ Moskva để thăm cha mình. Nhưng vào ngày 14 tháng 3 năm 2018, Thủ tướng Anh Theresa May đã chính thức cáo buộc Nga cố giết Skripal và con gái của ông ta. Bà ta thông báo rằng các cuộc tiếp xúc song phương cấp cao với Nga sẽ bị đình chỉ do vụ đầu độc và 23 nhà ngoại giao Nga sẽ bị trục xuất khỏi Vương quốc Anh.

Theo quan điểm của chúng tôi, tư tưởng về một cuộc chiến tranh hỗn hợp bắt đầu được phát triển ở đế quốc Anh, và bằng cách sử dụng các công cụ của mình, Anh đã trở thành đế chế lớn nhất trên thế giới, còn sau đó, thông qua việc tổ chức hai cuộc Thế chiến, họ đã có thể tiêu diệt tất cả các đế quốc khác (Nga, Đức, v.v.). Ở phương Tây, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, đã có những khái niệm và kế hoạch trong nhiều thế kỷ về cách gây ra thất bại địa chính trị toàn cầu cho kẻ thù với sự trợ giúp của các hoạt động phá hoại-khủng bố và thông tin-tư tưởng bí mật, và nếu có thể, lật đổ "chế độ" phản đối hoặc tiêu diệt đất nước. Nga trong thế kỷ 20 đã 2 lần trở thành nạn nhân của những kế hoạch bí mật phương Tây này - nước Nga đã 2 lần tan rã - vào tháng 2 năm 1917 và tháng 12 năm 1991. Trước khi sụp đổ, Nga-Liên Xô đã trải qua tác động của một tổ hợp các hoạt động bí mật được tiến hành với sự dẫn dắt theo đường lối của cơ quan đặc vụ phương Tây và các tổ chức dân sự trực thuộc (NGO) và các hoạt động chiến tranh hỗn hợp đa dạng khác được thiết kế để gây áp lực phức tạp lên đất nước chúng ta (tài chính, kinh tế, thông tin) - áp lực về mặt kỹ thuật, chính trị và ngoại giao, các lệnh trừng phạt, sự sụp đổ của giá dầu, v.v.).


Cuộc đảo chính tháng 2 năm 1917, dẫn đến việc lật đổ nền Quân chủ và sự sụp đổ của Đế chế Nga, có thể coi là một hoạt động thành công của cuộc chiến hỗn hợp chống lại Nga, nó được tiến hành bởi các lực lượng của Hội Tam điểm phương Tây và tình báo Anh, điệp vụ MI-6. Không có gì bí mật khi những thủ phạm chính của cuộc đảo chính tháng Hai (Hội tự do, Tự do và các tướng lãnh âm mưu) được hỗ trợ bởi người Anh và kiểm soát từ London.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp hiện đại của phương Tây bắt đầu phát triển trong khuôn khổ của cái gọi là Chiến tranh Lạnh (1946-1991), được phát triển nhằm chống lại Liên Xô theo sáng kiến ​​của Winston Churchill. Chiến tranh Lạnh thực chất là một cuộc chiến hỗn hợp do phương Tây tiến hành chống Liên Xô.Trong cuộc chiến này, các hành động kinh tế và ý thức hệ mang tính lật đổ quy mô lớn đã được thực hiện, “tác nhân gây ảnh hưởng” phương Tây được hình thành trong giới cầm quyền bề trên Liên Xô, cuộc chạy đua vũ trang được chủ động để lôi kéo làm kiệt quệ Liên Xô hay ít nhất cũng làm hao tổn và cuộc chiến ở Afghanistan, v.v. .


Và bây giờ tôi muốn đưa ra định nghĩa của mình, được xây dựng lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2016, và sau đó được xuất bản trên trang 212 trong cuốn sách "Chiến tranh hỗn hợp chống Nga (1816-2016)".

Chiến tranh hỗn hợp là một tập hợp các phương pháp gây áp lực quân sự, chính trị - ngoại giao, tài chính - kinh tế, thông tin - tâm lý và thông tin - kỹ thuật., cũng như các công nghệ của cuộc cách mạng màu, chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan, các hoạt động của các cơ quan đặc biệt, các lực lượng có chức năng đặc biệt, các hoạt động đặc biệt và cấu trúc ngoại giao công khai, tiến hành theo một kế hoạch thống nhất của các cơ quan lãnh đạo nhà nước, khối quân sự-chính trị hoặc các tập đoàn xuyên quốc gia.

Mục đích của chiến tranh hỗn hợp là nhằm làm tan rã nhà nước, hoàn toàn hoặc một phần, nhằm thay đổi tính chất chính sách đối nội hay đối ngoại, thay thế sự lãnh đạo nhà nước bằng các chế độ trung thành, bị thiết lập sự kiểm soát tư tưởng, tài chính và kinh tế đối với đất nước từ bên ngoài, cùng sự hỗn loạn và sự phục tùng bởi áp đặt từ các nước khác hay các tập đoàn xuyên quốc gia.


Một đặc điểm của giai đoạn hiện nay trong quá trình phát triển quan hệ quốc tế là áp lực chính trị, thông tin và kinh tế mạnh mẽ từ phương Tây chống Nga, một bộ phận cấu thành chiến lược chiến tranh hỗn hợp của phương Tây nhằm làm tan rã không gian Á-Âu, tạo ra hỗn loạn và bất ổn trong Á-Âu.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp đã được Mỹ và NATO phát triển trong nhiều năm. Đó là các yếu tố mới đã được đưa vào chiến tranh qui ước, kết hợp giữa các yếu tố quân sự và các thành phần không thông thường được tăng cường ảnh hưởng lên quá trình chuẩn bị, diễn biến và kết quả của một cuộc chiến tranh toàn cầu mới. Thuật ngữ "chiến tranh hỗn hợp" đã xuất hiện trong các tài liệu quân sự Mỹ cách đây hơn 10 năm. Tại Mỹ năm 2005, Tướng Mỹ James Mattis, cựu lãnh đạo Lầu Năm Góc, và Đại tá Frank Hoffman đã xuất bản một bài báo mang tính bước ngoặt, bài báo có tên: “The Future of Warfare: The Rise of Hybrid Warfare”. Vào năm 2010, nó được gọi là “Bi-Strategic Command Capstone Concept” của NATO, các mối đe dọa "hỗn hợp" được chính thức định nghĩa là các mối đe dọa được tạo ra bởi một đối thủ có khả năng sử dụng đồng thời các phương tiện truyền thống và phi truyền thống để đạt được các mục tiêu của riêng mình. Vào năm 2012 Cuốn sách "Hybrid Warfare: Fighting Complex Opponents from the Ancient World to the Present” của nxb New York, Cambridge University Press, 2012 của nhà sử học Williamson Murray và đại tá Peter Mansour viết và phát hành trong giới hẹp. Các cách tiếp cận mới của Mỹ đã dần thâm nhập vào NATO. Trong tuyên bố cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh NATO được tổ chức tại Scotland vào tháng 9 năm 2014, lần đầu tiên ở cấp chính thức, liên minh quân sự này đã tuyên bố là họ cần phải chuẩn bị để tham gia vào một loại hình chiến tranh mới - chiến tranh hỗn hợp. Và vào tháng 12 năm 2015, tại hội nghị thượng đỉnh của các ngoại trưởng NATO, một chiến lược chiến tranh hỗn hợp mới đã được thông qua.

Chiến lược chiến tranh hỗn hợp của NATO cho rằng sự thống trị của tuyên truyền độc quyền nhằm mục đích làm tan rã không gian Á-Âu, đã tạo ra hỗn loạn và bất ổn ở các nước láng giềng Nga bằng cách sử dụng các công nghệ "cách mạng màu", chiến tranh thông tin, chủ nghĩa cực đoan và khủng bố, sức ép tài chính và kinh tế, cùng sự áp đặt bởi sức mạnh quân sự. Một ví dụ về cuộc chiến hỗn hợp của NATO chống Nga là thực tế là vào ngày 12 tháng 7 năm 2017, các đại diện của NATO đã đăng một video dài 8 phút lên Web, trong đó “các anh em trong rừng” với ngụ ý là các lực lượng đặc biệt và hiện đại của ba nước Baltic - được mô tả như những người hùng trong cuộc tranh đấu giành độc lập của họ từ Liên Xô.


2. PHẢN ỨNG CỦA NGA


Tiềm lực quân sự-chính trị của Nga cần có sự kết hợp giữa "quyền lực mềm" và "quyền lực cứng", có khả năng tương tác với các cơ cấu ngoại giao nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế sử dụng đòn bẩy chính trị, ảnh hưởng kinh tế và thông tin, bao gồm cả lực lượng hoạt động đặc biệt. Một phần của giới tinh hoa quân sự-chính trị của Nga hiểu rõ mức độ nguy hiểm của các mối đe dọa một cuộc chiến tranh hỗn hợp chống Nga. Điều này được chứng minh qua bài phát biểu tại cuộc họp thường niên của Tổng Tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Nga, Tướng Valery Gerasimov ở Học viện Quân sự ngày 27 tháng 2 năm 2016. Tướng Gerasimov nói về đặc điểm của các cuộc chiến tranh hiện đại, mang tính chất lai ghép, phần không thể thiếu của chúng là các cuộc cách mạng màu sắc và các sự kiện dưới dạng quyền lực mềm. Ông thu hút sự chú ý đến thực tế rằng "các hành động gián tiếp và phi đối xứng, các phương pháp tiến hành chiến tranh lai ghép hỗn hợp cho phép tước đoạt chủ quyền thực tế của đối thủ mà không chiếm được lãnh thổ nhà nước". Chiến tranh hỗn hợp đã bắt đầu đụng chạm đến tất cả mọi khía cạnh của đời sống, bao gồm cả môi trường văn hóa và thông tin, còn trong thời gian gần, không thấy có sự suy giảm của nó – đó là phát biểu của ông Sergei Naryshkin, giám đốc Trung tâm tình báo đối ngoại tại Hội nghị an ninh quốc tế lần từ VI tại Mátcơva ngày 27 tháng 4 năm 2017. Tuy nhiên, cũng cần chú ý rằng vẫn chưa rút ra được những kết luận có hệ thống từ bài học bi thảm của sự sụp đổ của Đế chế Nga vào tháng 2 năm 1917 và Liên Xô năm 1991.

Ba năm sau sự kiện ở Học viện quân sự năm 2016, tạp chí “Sao Đỏ” (Krasnaya Zvezda) đã công bố toàn văn bài phát biểu chiến lược của Tổng Tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Nga, Tướng Quân đội Valery Gerasimov tại cuộc họp chung, cũng tại Học viện ngày 1 tháng 3, 2019.


Dưới đây là những luận điểm chính trong phát biểu của Tướng Gerasimov:

 

1. Trong điều kiện hiện tại, cần phát triển nguyên tắc tác chiến dựa trên cơ sở phối hợp áp dụng các biện pháp quân sự và phi quân sự , với vai trò quyết định của Lực lượng vũ trang.

2. Hiện nay, các loại hình chiến tranh ngày càng mở rộng và nội dung của chúng cũng thay đổi đáng kể. Số đối tượng tham gia đấu tranh vũ trang ngày càng đông. Cùng với các lực lượng vũ trang của các quốc gia có chủ quyền, có sự tham gia của nhiều băng đảng, công ty quân sự tư nhân và các "tiểu quốc" tự xưng. Các phương tiện gây sức ép về kinh tế, chính trị, ngoại giao và thông tin đang được tích cực sử dụng, cũng như việc biểu dương sức mạnh quân sự nhằm tăng cường hiệu quả của các biện pháp phi quân sự.

3. Các Lực lượng vũ trang cần được chuẩn bị để tiến hành các loại chiến tranh và xung đột vũ trang mới bằng cách sử dụng các phương pháp hoạt động cổ điển và phi đối xứng.

4. Mỹ và các đồng minh đã xác định phương thức gây hấn trong chính sách đối ngoại của họ. Họ đang thực hiện các hành động quân sự có tính chất tấn công, chẳng hạn như "tấn công toàn cầu", "trận chiến nhiều phạm vi", sử dụng các công nghệ của "cuộc cách mạng màu" và "quyền lực mềm". Mục tiêu của họ là xóa bỏ nhà nước các quốc gia không làm vừa lòng Mỹ, phá hoại chủ quyền, thay đổi các tổ chức quyền lực nhà nước được bầu hợp pháp. Vì vậy, những điều này đã ở Iraq, Libya và ở Ukraine. Hiện tại, các hoạt động tương tự cũng được quan sát thấy ở Venezuela.

5. Lầu Năm Góc đã bắt đầu phát triển một chiến lược mới về cơ bản để tiến hành các hoạt động quân sự, vốn đã được mệnh danh là "con ngựa thành Troy". Bản chất của nó nằm ở việc sử dụng tích cực "tiềm năng phản kháng của Đạo quân thứ 5" vì lợi ích làm mất ổn định tình hình với việc đồng thời gây ra các cú đánh của WTO nhằm vào các đối tượng quan trọng nhất. Tôi muốn lưu ý rằng Liên bang Nga sẵn sàng phản đối bất kỳ chiến lược nào trong số này. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học quân sự cùng với Bộ Tổng tham mưu đã phát triển các phương pháp tiếp cận khái niệm để vô hiệu hóa các hành động gây hấn của những kẻ thù tiềm tàng. Cơ sở “phản ứng của chúng tôi” là “chiến lược phòng thủ tích cực” , có tính đến bản chất phòng thủ của Học thuyết quân sự Nga để đưa ra một loạt các biện pháp chủ động vô hiệu hóa các mối đe dọa đối với an ninh của quốc gia.

Chính luận chứng của các biện pháp đang được phát triển cần tạo thành hoạt động khoa học của các nhà khoa học quân sự. Đây là một trong những lĩnh vực ưu tiên đảm bảo an ninh của nhà nước. Chúng ta phải đi trước kẻ thù trong việc phát triển chiến lược quân sự, “đi trước một bước”.

6. Đề cập đến vấn đề đối kháng thông tin. "Một phân tích về bản chất của các cuộc chiến tranh hiện đại cho thấy tầm quan trọng của lĩnh vực đối kháng thông tin đã tăng lên đáng kể. Thực tế mới của các cuộc chiến trong tương lai sẽ bao gồm cả việc chuyển giao các hoạt động quân sự sang lĩnh vực này. Đồng thời, trên thực tế, công nghệ thông tin đang trở thành một trong những loại vũ khí hứa hẹn nhất. Lĩnh vực thông tin đã không có ranh giới quốc gia được xác định rõ ràng, tạo ra cơ hội ảnh hưởng từ xa, bí mật không chỉ đến các cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng, mà còn đến người dân trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng an ninh quốc gia. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu các vấn đề chuẩn bị và tiến hành các hành động có tính chất thông tin là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của khoa học quân sự".

7. Nhiệm vụ chủ yếu của khoa học quân sự và phương pháp giải quyết. Khoa học quân sự ngày nay cần đi trước thực tiễn, có mục đích xác định tính chất có thể xảy ra của xung đột quân sự, xây dựng hệ thống hình thức và phương pháp hành động, cả quân sự và phi quân sự, xác định phương hướng phát triển các hệ thống vũ khí và trang bị quân sự.

Đó cũng là một phần của việc thực hiện “chiến lược an ninh quốc gia Nga” vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, điều quan trọng là phải tính đến xu hướng xóa mờ sự khác biệt giữa tình trạng chiến tranh và hòa bình. Các phương pháp thông tin tuyên truyền và tư tưởng phi quân sự gây ảnh hưởng nhằm vào dụng tiềm năng phản đối của dân chúng đang được phương Tây sử dụng ngày càng rộng rãi. Các phương tiện đấu tranh này được bổ sung bằng các biện pháp quân sự bí mật, bao gồm chiến tranh thông tin và các hoạt động của lực lượng đặc biệt.

Đặc điểm cụ thể của tình hình hiện tại là phương Tây đang áp đảo thông tin trên các mạng xã hội, đó là sự thống trị hoàn toàn về số lượng người đăng ký. Đó là FB, Twitter, CNN, BBC…

Cũng cần lưu ý rằng Meduza. io được thành lập vào ngày 20 tháng 10 năm 2014 tại Riga, 1,5 tháng sau khi thành lập Trung tâm Truyền thông Chiến lược NATO ở Riga. 7 nước NATO tham gia vào hoạt động của Trung tâm - Estonia, Latvia, Đức, Ý, Litva, Ba Lan, Anh. Trên cơ sở này, có thể đưa ra giả thuyết rằng Medusa là một sản phẩm tương tự “Mũ bảo hiểm trắng” hoạt động ở Syria của đơn vị đặc nhiệm MI-6 tình báo Anh, hoạt động ở Syria của chúng bào gồm chuẩn bị một số vụ khiêu khích liên quan đến cáo buộc sử dụng vũ khí hóa học.


Các biện pháp thực hiện Học thuyết của Tướng Gerasimov [3]:

Từ học thuyết Chiến tranh hỗn hợp của Tướng Gerasimov, đề xuất nhiệm vụ cho các tổ chức nhà nước Nga như sau:

 

1. Thành lập cơ cấu tổ chức mới (Cục Tác chiến chống chiến tranh hỗn hợp), có những điểm tiên tiến để thực hiện các biện pháp đối phó (Smolensk, Pskov, Rostov-on-Don, Vladikavkaz, Sevastopol, Yekaterinburg, Vladivostok).

2. Xây dựng chiến lược đối kháng Chiến tranh hỗn hợp của Nga.

3. Thiết lập nền tảng hệ thống nhà nước để chống các hoạt động Chiến tranh hỗn hợp nhằm vào sự lãnh đạo và dân chúng Nga. Tạo ra các phân khu trong cơ cấu lực lượng hoạt động đặc biệt để tiến hành các hoạt động tâm lý và thông tin.

4. Xây dựng luật pháp quốc gia nhằm chống lại các công nghệ chiến tranh hỗn hợp, chủ yếu là các cuộc cách mạng màu sắc.

5. Phát hiện, chuẩn đoán và ngăn chặn hoạt động của truyền thông tiêu cực tìm cách phá hoại chủ quyền thông tin. Thực hiện giám sát liên tục thế giới blog và mạng xã hội để ngăn chặn sự lan truyền thông tin tiêu cực trong không gian thông tin Nga nhằm thúc đẩy chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa khủng bố, hận thù tôn giáo và sắc tộc.

6. Ngăn chặn phòng ngừa tất cả các kênh (tài chính, thông tin, tổ chức) và các cơ cấu hỗ trợ của nước ngoài và đầu sỏ đối với phe đối lập cấp tiến và cực đoan.

7. Vô hiệu hóa có mục tiêu và hệ thống các hoạt động Chiến tranh hỗn hợp nhằm chống Nga.

 

Các phân tích và nhiệm vụ cụ thể còn rất dài.

 


Ghi chú:

[1] Igor Panarin - Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Chính trị, cựu KGB và cố vấn chiến lược của TT V. Putin; Bài viết này là của Panarin: 

London vs Moskva!

Nga thực sự có phương tiện để phá hoại Trung tâm ra quyết định củaphương tây


[2] Tướng quân đội Valery Gerasimov sinh ngày 8 tháng 9 năm 1955 tại Kazan. Năm 1977, ông tốt nghiệp Trường chỉ huy xe tăng cao cấp Kazan rồi làm chỉ huy trung đội, đại đội, tiểu đoàn trong Cụm lực lượng vũ trang phía Bắc và Quân khu Viễn Đông.

Tốt nghiệp năm 1987 tại Học viện Thiết giáp Quân sự mang tên Nguyên soái Liên Xô R. Malinovsky, ông là tham mưu trưởng kiêm tư lệnh trung đoàn xe tăng, tham mưu trưởng sư đoàn súng trường cơ giới ở Quân khu Baltic. Từ năm 1993 đến năm 1995 - chỉ huy sư đoàn súng trường cơ giới trong Cụm lực lượng vũ trang Tây Bắc.

Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự của Bộ Tổng Tham mưu các Lực lượng Vũ trang LB Nga năm 1997, ông giữ chức Phó Tư lệnh Lục quân thứ nhất Quân khu Mátxcơva, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Tập đoàn quân 58 Bắc Kavkaz.

Từ 2003 đến 2005 - Tham mưu trưởng Quân khu Viễn Đông. Từ năm 2005 - Trưởng phòng Chính của Cục Huấn luyện và Phục vụ Chiến đấu của Các Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga, và từ tháng 12 năm 2006 - Tham mưu trưởng Quân khu Bắc Kavkaz.

Tháng 12 năm 2007, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu Leningrad, và tháng 2 năm 2009, Chỉ huy trưởng Quân khu Mátxcơva.

Từ tháng 12 năm 2010 - Phó Tổng Tham mưu trưởng Các Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga.

Kể từ ngày 26 tháng 4 năm 2012 - Chỉ huy trưởng Quân khu Trung tâm.

Theo Quyết định của TT LB Nga ngày 09 tháng 11 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Các lực lượng vũ trang Liên bang Nga - Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng LB Nga.

Tướng Valery Gerasimov Anh hùng Liên bang Nga. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Thánh George, hạng III và IV, Huân chương Phục vụ Tổ quốc hạng I, hạng III với gươm, IV với kiếm, Huân chương Quân công, Huân chương Danh dự, Huân chương Vì Tổ quốc trong các Lực lượng vũ trang Liên Xô hạng III và một số huân huy chương khác.

[3] Học thuyết Chiến tranh hỗn hợp của Tướng Valery Gerasimov có tính đến loại hình chiến tranh ở Syria của chính ông cũng như các hoạt động chống đảo chính thành công bằng lực lượng PMC ở Venezuela. Dĩ nhiên, cả cuộc xung đột quân sự hiện nay ở Ukraine, cả truyền thống lịch sử quân sự Nga tích lũy trong hàng trăm năm và học thuyết J. Stalin trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.

Đối với Stalin, có nghĩa là sau khi bắt đầu chiến sự, tất cả các quyết định chiến lược và chiến thuật chỉ nên được đưa ra trên cơ sở đánh giá tình hình của quân đội. Sức mạnh quân sự không chỉ nằm ở số lượng mà còn là chất lượng. Tất cả vũ khí, phương tiện chiến tranh đều là lực lượng. Cũng như Peter I, “Tôi chỉ có 2 người bạn trung thành, đó là Quân đội và Hạm đội”. Thứ hai là nguyên tắc: mệnh lệnh của người chỉ huy là tối cao. Thứ ba là vai trò không được phép xem nhẹ của nền kinh tế và hậu phương.


Shamil – Lãnh tụ Hồi giáo thứ ba của Chechnya và Dagestan (1797 – 1871)

Từ một học sinh trường dòng Hồi giáo, rồi trở thành chiến binh của thủ lĩnh Kazi-Magomed để rồi cuối cùng làm Lãnh tụ Hồi giáo (Imam) thứ 3 của khu vực.

Shamil đã cai trị vùng Kavkaz bằng luật Sharia vô cùng hà khắc. Mọi sự cướp bóc, lừa dối, phản bội đều bị trừng phạt bằng cái chết. Thần dân phải cầu nguyện 5 lần 1 ngày, rượu, âm nhạc, ca múa… đều bị cấm đoán.
Shamil vươn lên đứng đầu các thủ lĩnh bộ tộc bộ lạc trong vùng và bắt đầu xây dựng đội quân chính quy, áp đặt mức thuế rất cao để nuôi quân đội. Việc này vấp phải sự chống đối, đặc biệt là của các tầng lớp quý tộc Avar và bị Shamil thẳng tay trừng phạt tàn nhẫn, thiêu chết 1 lần 33 quí tộc Avar trong nhà, san bằng các ngôi làng nổi loạn. Sau khi mở rộng quyền cai trị ra toàn khu vực, Shamil bắt đầu chiến tranh với quân đội Nga Sa hoàng và sớm thất bại, ông và các chiến binh Hồi giáo buộc phải chạy về vùng núi cao hẻo lánh tiếp tục chiến tranh du kích, phục kích trên các tuyến đường quân đội Nga hay đi qua.

Ông ta vẫn tồn tại dựa vào tình cảm tôn giáo và sự thiện chiến của người Kavkaz, gây rất nhiều tổn thất cho quân đội Nga hoàng. Ông cũng phái các sứ giả đến Ottoman và Vương quốc Anh đề nghị giúp đỡ. Nhưng chiến tranh liên miên hàng chục năm đã làm Shamil mệt mỏi, các tướng lĩnh chỉ huy bỏ đi, sự chống đối ngầm của giới quí tộc, thủ lĩnh bộ tộc bộ lạc không dứt.
Đến cuối đời, vị Imam già đồng ý đầu hàng Nga, vào ngày 26 tháng 8 năm 1859, Shamil đến gặp tướng Baryatinsky và nói: Tôi đã chiến đấu vì tôn giáo trong 30 năm, nhưng bây giờ các bộ tộc của tôi đã phản bội tôi, các chiến binh bỏ trốn, và bản thân tôi đã cảm thấy mệt mỏi vì sự thống trị và cai quản vùng núi cao vì lợi ích của các bộ tộc.
Sa hoàng và các tướng lĩnh Nga đã đồng ý, và dù là hàng binh, họ đã xá tội cho ông, vẫn tôn trọng và giữ lại danh dự cho ông như một vị giáo chủ Hồi giáo. Ông và con cháu được cho định cư ở Kaluga. Như một sự đáp lễ, Shamil viết thư cho Sa hoàng: Nhiệm vụ thiêng liêng của tôi là truyền cho con cháu trách nhiệm của họ đối với Nga và các vị vua hợp pháp của nước Nga. Tôi muốn để họ trở thành những thần dân trung thành của Sa hoàng Nga, trung thành phục vụ Tổ quốc mới... Trong sự bình thản tuổi già, tôi đã thấy, đã đi, đã được chỉ ra, được mang đến cho tôi và các con cháu lời thề trung thành của 1 thần dân. Tôi sẵn sàng mang nó ra toàn thể. Shamil đã tuyên thệ trước các con cháu và các quý tộc tỉnh Kaluga vào mùa hè năm 1866. Chiến tranh Nga với các bộ tộc bộ lạc Kavkaz chấm dứt sau khi thu phục được thủ lĩnh Hồi giáo Shamil. Nga tiếp tục mở rộng đế chế ra toàn khu vực, vươn tới các địa bàn: Gruzia, Azerbaijan, Armenia…

Lửa không bao giờ dập tắt lửa, thù hận nuôi dưỡng thù hận, chiến tranh gieo mầm chiến tranh. Chỉ có lòng vị tha, sự tôn trọng và đối xử tử tế với các bộ tộc bộ lạc Kavkaz như các thần dân của mình mới giúp nước Nga đế chế mở rộng, vươn dài và trở nên hùng mạnh.




Về Âm mưu Tukhachevsky theo V.I. Alksnis

Khi còn tại ngũ - Đại tá Viktor Imantovich Alksnis trên bục một đại hội;

Đã nhiều lần trong các bình luận cho các bài báo khác nhau, có chủ đề về Stalin đàn áp quân nhân, về "âm mưu quân sự" bị cáo buộc trong những năm 1930, v.v. Vì vậy, mà có thêm một bài viết này dựa trên những gì Viktor Imantovich Alksnis đã viết.

Vài lời về con người này - Victor Alksnis, nếu ai đó không biết – Một tiểu sử ngắn của Viktor Imantovich Alksnis.

Viktor Imantovich Alksnis sinh ngày 21/6/1950 tại thành phố Tashtagol, vùng Kemerovo, trong một gia đình Latvia gốc Nga lưu vong.

Năm 1973, ông tốt nghiệp Trường Quân sự cao cấp Riga theo tên ông nội của mình, Yakov Alksnis, với ngành kỹ sư điện tử quân sự, ông bắt đầu phục vụ trong một phi đội không quân ở Voronezh.

Năm 1974, ông gia nhập CPSU, năm 1977 ông được chuyển đến Riga.

Năm 1979-1992, ông giữ các chức vụ kỹ sư, kỹ sư cao cấp và kỹ sư-thanh tra cao cấp của Lực lượng Không quân thuộc Quân khu Baltic. 

Vào mùa xuân năm 1989, Viktor Alksnis được bầu làm đại biểu nhân dân Liên Xô. Vào tháng 10 năm 1989 ông trở thành một trong những người khởi xướng việc thành lập và trở thành phó điều phối nhóm Soyuz. Vào mùa thu năm 1990, ông đàm phán với TT Liên Xô Gorbachev và là người khởi xướng yêu cầu các bộ trưởng từ chức – Bộ nội vụ Bakatin và Ngoại giao Shevardnadze. 




V.I. Alksnis là Nghị sĩ Đuma Quốc gia LB Nga khóa 3 và 4, (2000-2003) và (2004-2007) còn nay là Đại tá về hưu.

Bây giờ vào vấn đề chính. Ông nội của Viktor là chỉ huy cấp 2 Yakov Ivanovich Alksnis (Jekabs Alksnis) - phó Chính ủy Không quân. Hay dễ hiểu hơn là một Chỉ huy Không quân của Hồng quân.

Yakov Alksnis là một trong các thành viên Đại diện Tư pháp đặc biệt, có mặt tại các phiên tòa xét xử nhóm lãnh đạo quân sự do Tukhachevsky cầm đầu và bắt đầu từ ngày 11 tháng 6 năm 1937. Dường như là trong phiên tòa, Yakov Alksnis là thành viên tích cực nhất của quá trình xét xử này và đã bằng mọi cách có thể để buộc tội các bị cáo và nhất quyết đề nghị áp dụng hình phạt tử hình đối với họ.

Sau đó, chính ông cũng bị bắt - ngày 23 tháng 11 năm 1937, do trong quá trình điều tra (như công bố chính thức) đã áp dụng "các phương pháp gây ảnh hưởng vật lý" (nói cách khác là tra tấn), 2 ngày sau khi bị bắt, vào ngày 25 tháng 11 năm 1937, Alksnis đã ký vào lời khai rằng mình là điệp viên người Latvia, thành viên của tổ chức phản cách mạng "Tổ chức dân tộc chủ nghĩa Latvia trong Hồng quân". Kết quả là Yakov Alksnis bị bắn vào ngày 29 tháng 7 năm 1938.

Vào ngày 1 tháng 2 năm 1956, Yakov Alksnis được minh oan  vì "thiếu chứng cứ buộc tội".

Thông thường, khi đọc về thời kỳ đàn áp những năm 1930, thì có thể thấy mọi thứ diễn ra nhanh chóng - bắt giữ, điều tra, xét xử, hành quyết. Và sau đó 2 ngày mọi chuyện dường như được khám phá - bị cáo đã thú nhận mọi chuyện, nhưng không hiểu sao Yakov Alksnis lại bị giam thêm 8 tháng nữa...



Như chính Victor Alksnis đã viết về người ông Yakov: "... Người vợ của ông ấy (là bà tôi), bà Kristina Karlovna Mednis-Alksnis, với tư cách là thành viên trong gia đình của một kẻ phản bội Tổ quốc, đã phải trải qua 15 năm trong trại cải tạo và sống lưu vong. Cha tôi, Imant Yakovlevich, vào 10 tuổi không cha mẹ và cho đến năm 30 tuổi, ông ấy mang trong mình sự kỳ thị là "con của kẻ thù của nhân dân". và theo đó, tôi là một kẻ chống chủ nghĩa Stalin…”.

Thời Perestroika bắt đầu - Viktor Alksnis viết, ông chăm chỉ đọc tất cả các ấn phẩm của những năm đó, "... vạch trần tội ác của Stalin và những kẻ xung quanh ông ta...".

Năm 1989, khi Alksnis được bầu làm Đại biểu nhân dân Liên Xô, ông đã nói chuyện với Chủ tịch KGB của Liên Xô lúc đó là V.A. Kryuchkov với lời đề nghị cho ông tiếp cận với các tài liệu và tư liệu liên quan đến ông nội của mình, Yakov Alksnis.



Đặc biệt, ông yêu cầu được xem hồ sơ vụ án hình sự và các tài liệu phiên tòa xét xử Tukhachevsky, vì Yakov Alksnis là thành viên Đại diện Tư pháp đặc biệt, đã kết án Tukhachevsky và các lãnh đạo quân sự khác.

Victor Alksnis viết - "... Các tài liệu quá trình xét xử nhóm lãnh đạo quân sự do Tukhachevsky đứng đầu được tôi đặc biệt quan tâm, vì M. Tukhachevsky và Robert Eideman (chủ tịch Hội đồng TƯ Osoaviakhim Liên Xô), những người đã bị bắn bởi bản án của Đại diện Tư pháp đặc biệt, là các bạn thân của ông tôi. Và họ cũng có chút là bạn bè của Robert Eideman từ khi còn nhỏ. Còn tôi đã không thể hiểu nổi làm thế nào mà ông tôi lại có thể kết án tử hình bạn mình..."





Sau một thời gian, như Viktor Alksnis nhớ lại, ông được mời đến tòa nhà của KGB Lubyanka và hai tập giấy được đặt trước mặt ông. Đầu tiên là hồ sơ vụ án hình sự của ông nội, thứ hai là bản tốc ký ghi lại phiên tòa xét xử nhóm quân nhân do Tukhachevsky cầm đầu. Alksnis thậm chí còn được phép sao chép những trang cần thiết.

Trích dẫn Alksnis - "... Tôi ngay lập tức bị bất ngờ vì có rất ít tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự. Ông nội bị bắt vào ngày 23 tháng 11 năm 1937 và bị xử bắn vào ngày 29 tháng 7 năm 1938, tức là ông đã ở Lefortovo 8 tháng. Còn trong thời gian đó, chỉ có ba hoặc bốn biên bản thẩm vấn trong hồ sơ, hơn nữa, tất cả các biên bản này chẳng nói lên điều gì cả.

Ví dụ, một biên bản nhiều trang là về việc tổ chức sửa chữa thiết bị máy bay của Lực lượng Không quân. Hơn nữa, biên bản này rất chi tiết, đối với tôi, dường như câu trả lời cho các câu hỏi của điều tra viên chỉ đơn giản là được chép ra từ các tài liệu của lãnh đạo những năm đó về tổ chức sửa chữa máy bay.

Tôi ngạc nhiên là ba ngày sau khi bị bắt, ông tôi đã viết một bức thư viết tay gửi cho Dân ủy Bộ Nội vụ Yezhov về việc ông sẵn sàng làm chứng thẳng thắn về các hoạt động phản cách mạng của mình, nhưng lại không có dấu vết lời khai thẳng thắn này trong hồ sơ vụ án hình sự.

Xét theo các tài liệu của hồ sơ, cuộc thẩm vấn đầu tiên chỉ diễn ra vào tháng 1 năm 1938. Trong khi đó, xét theo các tài liệu minh oan năm 1956, cũng đính trong hồ sơ này, cụ ông nhiều lần bị triệu tập để thẩm vấn và bị “đánh đập” vì lời khai của mình. Nhưng những biên bản với lời khai "bị đánh đập" này ở đâu, tại sao chúng không có trong hồ sơ?...".

Tiếp theo, Viktor Alksnis làm quen với bản ghi tốc ký "phiên tòa Tukhachevsky" (tạm gọi là vậy), và nhận ra rằng không phải tất cả mọi thứ đều rõ ràng trong quá trình xét xử này, như họ đã viết khi đó, và đôi khi họ viết cả trong hiện tại.

Đầu tiên, ông Viktor Alksnis quan tâm đến vụ án này sau khi một số ấn phẩm viết rằng chỉ huy cấp 2 Yakov Alksnis đã rất tích cực tại phiên tòa, "dìm hàng" các bị cáo, yêu cầu mức án tử hình đối với họ, v.v. Như Alksnis đã viết - "... Còn theo bản tốc ký, mọi thứ hoàn toàn ngược lại. Trong toàn bộ quá trình xét xử, họ chỉ được hỏi tất cả hai hoặc ba câu hỏi...". Đây là về người ông của ông ấy.

Hơn nữa. Trước đó ông Viktor Alksnis đã tin rằng Tukhachevsky và các đồng sự chỉ đơn giản là bị ép buộc để phải tự nhận tội về mình. Họ bị vu khống. Và vì vậy họ không có bất cứ tội lỗi gì. Nhưng niềm tin này cuối cùng đã tiêu tan.

Điều kỳ lạ nhất, theo ghi nhận của ông sau khi làm quen với hồ sơ, đó là hành vi của các bị cáo. Báo chí Liên Xô những năm 1980 và 1990 viết rằng các bị cáo phủ nhận tất cả, không đồng ý với bất cứ điều gì.

Và trong bản tốc ký, ngược lại – thừa nhận đầy đủ. Có thể nói, chỉ riêng lời thú tội là không đủ - nó có thể đạt được bằng cách tra tấn.

Nhưng có một cái gì đó hoàn toàn khác ở đó, như Alksnis lưu ý - rất nhiều chi tiết, cuộc hỏi đáp dài, những lời buộc tội lẫn nhau, rất nhiều điều được làm rõ. Không thể đạo diễn điều này.

Như chính Alksnis viết - "... Sau khi xem qua bản ghi tốc ký, tôi có nhiều câu hỏi hơn là nhận được câu trả lời. Tôi có ấn tượng rằng âm mưu tồn tại trên thực tế. Điều rắc rối là nếu vào năm 1937, người ta tin rằng những kẻ bị kết án khi đó là "kẻ thù của nhân dân", thì sau 1985 tất cả đều trở nên vô tội. Và tôi nghĩ rằng đã có sự đối lập, kể cả với Stalin... Nhưng đây là những gì đã làm tôi cảnh giác: trong bản ghi tốc ký có những khoảnh khắc minh chứng cho sự thành thực của các tuyên bố, như thể có ai đó nói rằng phiên tòa là một cảnh tượng có tổ chức, rằng họ đã làm các việc đặc biệt với những bị cáo để đưa ra các bằng chứng cần thiết.

Hãy hình dung: quả là khi Tukhachevsky kể về cuộc gặp với tùy viên quân sự Đức tại một Dacha ngoại ô Moskva... Và ngay lúc đó Primakov đột ngột cắt ngang và nói: “Mikhail Nikolayevich, anh sai rồi. Cuộc gặp này không phải diễn ra trong căn phòng Dacha của anh, mà ở ngoài mái hiên". Theo như tôi hiểu, sẽ không thể sắp đặt mọi thứ cho Tukhachevsky nói về điều này để Primakov làm rõ ràng ra như vậy... Sẽ không thể sắp đặt xử án như nó được diễn đạt trong bản ghi tốc ký... Điểm chính để buộc tội những kẻ chủ mưu là gì? Tất cả mọi thứ đều ở đó: cả gián điệp, cả chuẩn bị một cuộc đảo chính quân sự, và phá hoại... Thực tế là sự liên hệ với quân đội Đức đang được thiết lập, đi đến cộng tác với chúng. Đó là về thực tế có một tổ chức, do Tukhachevsky đứng đầu và tham gia vào những việc tương tự. Đó là điểm chính trong quá trình xét xử...

... Hơn nữa, tất cả đều thừa nhận tội lỗi của mình trong lời nói cuối cùng của họ, rằng họ đã tham gia vào âm mưu (trong khi biết rằng vì điều này, họ sẽ bị bắn), không thể tưởng tượng được tất cả họ đều bị ép buộc phải tự thú và tuyên bố như vậy... Tôi không biết gì về bản chất của âm mưu. Nhưng thực tế là một âm mưu trong Hồng quân thực sự tồn tại, còn Tukhachevsky là một người tham gia vào nó, hôm nay tôi hoàn toàn bị thuyết phục... ".

Và sau đó Viktor viết rằng vụ án hình sự của ông nội đã được "làm sạch", ông tin rằng một số tài liệu rất quan trọng đã bị xóa bỏ khỏi đó, là những tài liệu đã bị tịch thu trong thời kỳ "làm tan băng” của Khrushchev mà ông nội của ông được minh oan trong đó.

Câu hỏi hợp lý là tại sao? Nếu lời khai là giả mạo khi bị đánh gục dưới sự tra tấn, thì tại sao lại xóa bỏ chúng đi? Ngược lại, chúng có giá trị để nói rằng: - Đây, hãy xem, những lời khai trong khi bị đánh đập! Đó là thứ giá trị đối với họ! Đó là một cây bồ đề! Là bằng chứng thuyết phục nhất để nói rằng, tất cả những điều này, tất cả các phiên tòa xét xử - đều là dối trá!

Nhưng lại không, các tài liệu đã không tồn tại... Khi chúng được "làm sạch", ai liên quan đến việc này thì không biết. Ông Alksnis chỉ cho là - dưới thời Khrushchev.

Và, thứ hai - theo ông Viktor, có một "âm mưu quân sự" trong Hồng quân, hay như người ta nói - "Âm mưu của Tukhachevsky", tất cả là như thế!


Rồi đến những năm 1990, Liên Xô sụp đổ... Người cha của Viktor Alksnis đã rất vất vả khi đất nước sụp đổ và ngày 17/7/1992, ông ấy qua đời ở tuổi 65 do một cơn đau tim.

Nhưng, như Alksnis nhớ, “... Một tháng trước, trong bữa trà tối tại Dacha với ông, bằng cách nào đó, chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện thẳng thắn về những gì đang xảy ra, và đột nhiên cha tôi nói: “Nếu Stalin còn sống, ông ấy đã không cho phép cái đám cặn bã này". Tôi bàng hoàng! Cha tôi, một người chống Stalin hăng hái, căm thù Stalin đến từng thớ thịt, căm thù Stalin dữ dội, bỗng nhiên hiểu ra và tha thứ cho ông ấy...".

Và rồi càng thêm tò mò. Năm 2000, ông Alksnis được bầu vào Duma Quốc gia và một yêu cầu xin phép xem lại hồ sơ vụ án hình sự của ông mình được chuyển cho Giám đốc FSB của Nga lúc đó là ông N.P. Patrushev.





Alksnis nhớ lại - "... Năm 2003, tôi một lần nữa được mời đến Lubyanka, hay đúng hơn, đến Kuznetsky Most, phòng đọc của FSB, và họ đưa cho tôi hồ sơ vụ án quen thuộc. Tôi bắt đầu lật các trang, kiểm tra hồ sơ của năm 1990, và bỗng nhiên hết sức bất ngờ, phát hiện ra rằng nó bị thiếu một số tài liệu quan trọng, ví dụ, báo cáo tình báo NKVD đề ngày 1932 đã bị mất, trong đó, tùy viên quân sự Latvia đã nói trong một cuộc nói chuyện riêng với đặc vụ của chúng tôi rằng Bộ Tổng tham mưu Latvia có người của riêng mình trong số các chỉ huy Hồng quân. Trong số những cái tên khác cũng có tên của ông tôi.

Vào năm 1990, tôi đã rất nghi ngờ về bản báo cáo này, vì không chắc ông tôi có thể là đặc vụ của Bộ Tổng tham mưu Latvia, theo lời bà tôi, ông ấy là một Bolshevik cứng rắn. Nhưng thực tế về sự biến mất của tài liệu này và một số tài liệu khác cho phép tôi kết luận rằng việc “làm sạch” các kho lưu trữ vẫn tiếp tục cho đến nay. Câu hỏi đặt ra: tại sao?...".

Và thực sự là tại sao? Các kho lưu trữ đã bị "làm sạch" dưới thời Khrushchev, dưới thời Gorbachev. Tỏ ra là họ tiếp tục "tẩy rửa" dưới thời Yeltsin. Để làm gì? Nếu có tài liệu, chứng tỏ là, "chống lại Stalin" - tại sao lại xóa bỏ chúng? Ngược lại, nó phải được bảo tồn! Đây này, hãy nhìn xem – tất cả mọi thứ được xác nhận!

Theo Alksnis, nhiều thập kỷ đã trôi qua kể từ những sự kiện đó, nhưng các kho lưu trữ vẫn đóng cửa.

Lời của Alksnis - "... Thay vì các tài liệu lưu trữ, chúng tôi buộc phải đọc Solzhenitsyn và những lời gièm pha Stalin khác. Vậy điều gì ngăn cản chúng tôi mở kho lưu trữ? Điều gì ngăn cản chúng tôi xuất bản bản ghi tốc ký phiên tòa xét xử Tukhachevsky?... ". Ông kết luận - "... Vậy là có điều gì đó phải che giấu!...".

Cuối cùng, đoạn dưới này là từ cuộc phỏng vấn với Viktor Imantovich Alksnis vào năm 2019:

"... Tôi nghĩ, có sự thất bại rõ ràng của hoạt động tuyên truyền chống chủ nghĩa Stalin, vốn đã được thực hiện đặc biệt tích cực trong 30 năm qua. Hàng tỷ đô la dồn vào hoạt động tuyên truyền chống chủ nghĩa Stalin này đã bay theo gió.... Tôi là người mà phần lớn cuộc đời là kẻ chống chủ nghĩa Stalin nhất. Ông tôi, người đứng đầu Lực lượng Không quân, chỉ huy cấp hai Yakov Alksnis bị bắn vào năm 1938, bà tôi, là thành viên trong gia đình của một kẻ phản bội quê hương, đã trải qua 15 năm trong trại cải tạo và lưu vong, cha tôi bị bỏ lại không cha mẹ khi 10 tuổi, bị đưa đến trại trẻ mồ côi, tôi gặp mẹ tôi chỉ 20 năm sau đó. Tôi được nuôi dưỡng bằng tuyên truyền chống Stalin trong gia đình tôi. Khi Gorbachev bắt đầu chính sách Glasnost, tôi đã đọc tất cả những tố giác này với sự phấn khích đến thế nào, tất cả mọi bài báo, những cuốn tiểu thuyết mới, và cứ như thế. Sau đó, dần dần, tôi bắt đầu nhận ra rằng có điều gì đó không đúng đắn....

Tôi hoàn toàn không theo chủ nghĩa Stalin và tôi không cố để bảo vệ ông ấy, nhưng tôi biết trong kho lưu trữ... thực sự có những tài liệu bác bỏ cách giải thích hiện tại về các sự kiện của thời Stalin.

... Tôi có thể nói rằng trong thời Yeltsin, các kho lưu trữ đã được dọn dẹp sạch sẽ, bởi vì vào năm 1990 tôi đã xem một trong những hồ sơ của ông tôi, và khi vào năm 2003, tôi truy cập lại vào hồ sơ của ông tôi, tôi đã không tìm thấy một số tài liệu trong đó. Ai cần xóa các tài liệu khỏi hồ sơ vào những năm 1990?...

Các kho lưu trữ không được mở không phải vì ai đó đang cố che giấu sự thật về tội ác của Stalin, mà vì tình hình lúc đó phức tạp hơn nhiều. Ngày nay, cố gắng đánh giá những con người và vấn đề của những năm xa cách đó là sai lầm.

Hôm nay tôi biết và tin chắc rằng có âm mưu của quân đội do Tukhachevsky đứng đầu, và thực sự là một cuộc đảo chính quân sự đang được chuẩn bị. Đúng vậy, việc loại bỏ Stalin và những người xung quanh ông ấy khỏi quyền lực đang được chuẩn bị...

... Vào những năm 1930, có sự chống đối... có những kẻ trải qua cuộc nội chiến mà không sợ phải đổ máu của chính mình hay của kẻ khác. Ở đó, tình hình thực sự là một cuộc tranh giành quyền lực, bao gồm cả phe đối lập mạnh mẽ nhất với Stalin, quyền lực thực sự có thể chuyển sang tay Trotsky. Vào những năm 1980, tôi đã nói chuyện với một cựu tay súng người Latvia còn sống sót, không chết, anh ta nói rằng vào những năm 1930, người Latvia, những người rất đông trong Hồng quân và trong NKVD, họ ủng hộ Trotsky, bởi vì Stalin nắm lấy khái niệm xây dựng CNXH ở một quốc gia duy nhất, từ bỏ cuộc cách mạng thế giới, còn người Latvia, những người cộng sản ở Liên Xô - họ muốn khôi phục quyền lực của Liên Xô ở Latvia, và Trotsky đã ủng hộ điều này...

... Nếu nhìn vào tầng lớp ưu tú của chủ nghĩa Stalin xuất hiện vào đầu chiến tranh, các Ủy viên nhân dân nổi tiếng của Stalin, những người mà so với các nhà quản lý hiệu quả ngày nay, tất nhiên, là những thiên tài sản xuất vào thời điểm đó, đã đảm bảo rằng vào năm 1943 chúng ta đã vượt qua kỹ thuật quân sự của Đức Quốc xã, mà có cả châu Âu đều làm việc cho Đức. Đây là thành tựu của Stalin.

Đúng, tôi còn xa mới nghĩ rằng mọi thứ đều ổn và tốt đẹp với ông ấy. Stalin có tội, trong số những điều khác, là thất bại 1941-42, khi chúng tôi bị tổn thất khủng khiếp, hàng triệu binh sĩ của chúng tôi bị bắt làm tù binh.

Đúng, chúng tôi đã không sẵn sàng, nhưng đó không phải là lỗi của Stalin, mà là sự bất hạnh của Stalin. Vài năm không đủ để ông thực hiện việc tái trang bị công nghiệp, hoàn thành công nghiệp hóa và chuẩn bị cho quân đội.

Nói chung, Stalin đóng một vai trò rất quan trọng. Không cần biết ngày nay họ có chửi rủa ông ấy như thế nào, nhưng ngày nay chúng ta đang sống trên cơ nghiệp của ông ấy. Chúng ta đã sống ngần ấy năm ở nước Nga thời hậu Xô Viết, ở nước Nga thời hậu Stalin, tất cả mọi thứ chúng ta có được đều nhờ Stalin và những người của ông ấy xây dựng nên nhờ các chính sách của ông ấy...".

Đây cũng là câu trả lời - Tại sao Viktor Imantovich Alksnis, một người được nuôi dưỡng chống chủ nghĩa Stalin hăng hái, nhưng sau khi tiếp cận các tài liệu và nghiên cứu chúng, ông ấy đã thay đổi quan điểm của mình.

Không, ông ấy không theo chủ nghĩa Stalin, ông ấy chỉ đơn giản tuyên bố rằng mọi thứ phức tạp hơn nhiều và chắc chắn có những dấu hiệu khác với những gì chúng ta đã được kể trong nhiều năm. Và đó là một âm mưu vũ trang, và còn là những lời than vãn: "Stalin đã tiêu diệt những tinh hoa của lực lượng vũ trang trước chiến tranh!" – nó không đáng một quả trứng thối.

Những kẻ âm mưu trong lịch sử của bất cứ quốc gia nào cũng luôn bị xử lý cứng rắn và nghiêm khắc.




Tiết lộ của một nhà ngoại giao Mỹ về Stalin và Liên Xô!

Joseph Davies: Nếu không loại bỏ Đạo quân thứ 5, Liên Xô đã phải chịu thất bại tan nát trước Hitler;
Joseph Davies và J. Stalin

Có bài viết này ở đây, vào lúc này là do các sự kiện đang xảy ra ở châu Âu làm gợi nhớ lại mốt quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô vào thời điểm trước và sau Thế chiến 2.
Cũng có một cuốn sách của 2 người Mỹ về Liên Xô, các ông Michael Sayers và Albert Kahn và thật ra, tiểu sử và dòng họ của 2 người này cũng khá thú vị, còn cuốn sách của họ có tên: "Cuộc chiến bí mật chống lại nước Nga Xô Viết", hay cái tên tiếng Anh: “The Great Conspiracy. The Secret War Against Soviet Russia”.
Nhà ngoại giao người Mỹ Joseph Davies có cuốn sách khác: "Sứ mệnh tới Mátxcơva” (Mission to Moscow | download). Tác giả của cuốn sách, người mà vào các năm 1936-38 là Đại sứ tại Liên Xô. Cuốn sách "Mission to Moscow" của Davies được xuất bản ở Mỹ cách đây đúng 80 năm, vào năm 1942.
Cụm từ “Soviet Russia” trong cuốn sách thậm chí còn là rất khác thường tận ngày nay. Cái lên Liên Xô, hay Xô Viết chung chung phổ biến hơn. Tại sao vậy, có lẽ cần giải thích ở một bài khác.
Cuốn sách gồm lời tựa của tác giả và chín phần: 1. Bắt đầu Sứ mệnh; 2. Washington và các nước phương Đông; 3. Thanh trừng trong Hồng quân; 4. Nước Nga qua con mắt các láng giềng; 5. Thanh trừng nhằm vào Bukharin; 6. Mátxcơva nghe tiếng trống trận; 7. Đỉnh cao nhiệm vụ; 8. Tóm tắt các sự kiện; 9. Thành quả của nhiệm vụ. Cuốn sách kết thúc với phần phụ lục mở rộng do chính J. Davies biên soạn và chứa đựng nội dung các văn bản, tài liệu tham khảo, các báo cáo quan trọng của đại sứ.

Joseph Davies sinh năm 1876. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách luật sư. Đầu những năm 1930, ông đã nổi tiếng trong Đảng Dân chủ khi đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công chiến dịch tranh cử tổng thống của Woodrow Wilson. Sau đó, Davies bắt đầu được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Năm 1913-1915, là ủy viên chính phủ phụ trách giám sát các tập đoàn; các năm 1915-1918 là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, ông là cố vấn kinh tế của Tổng thống Wilson. Sau Thế chiến 1, Davies trở lại với nghề luật một lần nữa.
Davies đã làm quen với Franklin Roosevelt năm 1933, và Roosevelt trở thành chủ nhân của Nhà Trắng (nhiệm kỳ 1933-45), Roosevelt đã tham khảo ý kiến của Davies về nhiều vấn đề. Cũng năm 1933, Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Liên Xô là William Bullitt. Quan hệ của Bullitt với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác là bình thường, nhưng thông tin về Liên Xô mà Bullitt gửi về Washington lại khá tiêu cực. Còn TT Roosevelt có mong muốn xích lại gần hơn với Liên Xô, đặc biệt là khi Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Và Roosevelt quyết định bổ nhiệm Davies làm đại sứ tại Matxcova, mặc dù lúc đó không có kinh nghiệm về ngoại giao.
Được bổ nhiệm làm đại sứ vào tháng 8 năm 1936, J. Davies đã góp phần hoàn tất các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại giữa Liên Xô và Mỹ. Gần hai năm Davies ở Liên Xô đã khiến ông tin tưởng chắc rằng chính phủ Anh và Pháp đã mắc sai lầm lớn khi xoa dịu Hitler và cố gắng cô lập Liên Xô. Đồng thời, Davies thấy Stalin đã tỉnh táo trong việc đánh giá tình hình thế giới, chuẩn bị cho một cuộc đối đầu gần như không thể tránh khỏi với Hitler. Trong cuốn sách, Davies trình bày chi tiết về sự chuẩn bị này.
- Thứ nhất, phát triển nhanh chóng của công nghiệp (công nghiệp hóa 10 năm trước Thế chiến 2).
- Thứ hai, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Liên Xô (huấn luyện quân sự, tăng số lượng biên chế, nâng cao chất lượng vũ khí và trang thiết bị quân sự).
- Thứ ba, thanh lọc Đạo quân thứ 5 (trong bộ máy quản lý nhà nước, lực lượng vũ trang, trong nền kinh tế quốc dân).

Davies đặc biệt chú ý đến tuyến thứ ba “thanh lọc Đạo quân thứ 5” trong quá trình chuẩn bị chiến tranh của Stalin. Đại sứ Mỹ đã có mặt tại hầu hết các phiên tòa ở Mátxcơva năm 1937-38. Là một luật sư có kinh nghiệm dày dặn, Davies ghi nhận tính không hoàn hảo của các phiên tòa ở Mátxcơva và xác nhận tội trạng của các bị cáo. Trong cuốn sách, Davies tường thuật nhiều sắc thái thú vị liên quan đến những bị cáo trong các phiên tòa như Nikolai Bukharin, Mikhail Tomsky, Grigory Zinoviev, Alexei Rykov, Lev Kamenev, Yuri Pyatakov, Christian Rakovsky, Nikolai Krestinsky, Arkady Rozengolts, Grigory Grinko, Grigory Sokolnikov, Karl Radek và những kẻ khác. Ông quan tâm nhiều đến "phe đối lập ngầm" trong Lực lượng vũ trang Liên Xô. Nhân vật chính ở đây là Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky. Các nhân vật khác của đội quân ngầm: V. Putna, I. Yakir, I. Uborevich, R. Eideman, A. Kork, B. Feldman, V. Primakov. Adolf Hitler, vào trước chiến tranh đã tạo ra đạo quân thứ 5 ở tất cả các nước châu Âu và sử dụng chúng để tìm cách chinh phục những nước này một cách nhanh chóng, đôi khi không cần bắn một phát súng nào. Liên Xô cũng có đạo quân thứ 5 như vậy. Nhưng sau vụ ám sát M. Kirov năm 1934, Stalin bắt đầu công cuộc thanh lọc có hệ thống, đến cuối năm 1938 thì cơ bản hoàn thành.
Davies liên tục lặp lại rằng nếu không loại bỏ đạo quân thứ 5, Liên Xô sẽ phải chịu thất bại nặng nề trước Hitler.
Davies viết về những quan sát của mình với các sự kiện diễn ra ở Liên Xô không chỉ trong nhật ký mà còn trong các thông điệp do Ngoại trưởng Cordell Hull gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Một số thông điệp đã được gửi đến F. Roosevelt. Vào mùa hè năm 1938, Davies được triệu hồi từ Mátxcơva và bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bỉ và Đặc phái viên tại Luxembourg, và vào tháng 1 năm 1940, ông làm Trợ lý Đặc biệt cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Sự nghiệp ngoại giao của Davies chấm dứt vào tháng 11 năm 1940, theo nguyện vọng, ông được cho thôi việc tại Bộ Ngoại giao. Năm 1941, Davies được đặt vào vị trí lãnh đạo Ủy ban của Tổng thống nhằm thống nhất các hoạt động của tất cả các tổ chức về vấn đề hỗ trợ đồng minh trong chiến tranh.
Thật khó để không đánh giá rất cao vai trò của Davies trong việc đưa Mỹ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn trước và sau Thế chiến 2 cũng như thời kỳ cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bùng nổ. Davies đã thuyết phục được cả Cordell Hull và Franklin Roosevelt rằng Liên Xô không những không phải là kẻ thù của Mỹ mà ngược lại, có thể và nên trở thành đồng minh chính của Mỹ trong chiến tranh thế giới. Dựa trên kiến thức sâu rộng của mình về Liên Xô, cựu đại sứ Davies, chỉ 2 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố rằng: "Thế giới sẽ ngạc nhiên về quy mô của cuộc kháng chiến mà Nga sẽ tiến hành”. Ở Mỹ, có rất nhiều giới ủng hộ Hitler một cách công khai và bí mật, cũng như giới chống Liên Xô công khai và bí mật. Davies không ngần ngại gọi giới này là Đạo quân thứ năm (fifth column) của nước Mỹ. Ông nói rằng: "Chính phủ Xô Viết không tìm cách áp đặt ý chí của họ lên các dân tộc khác mà chỉ chống lại Hitler và những kẻ muốn nô dịch nhân loại". Davies đã phát biểu trên báo chí, trên đài phát thanh, tại nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi người Mỹ từ bỏ thành kiến với Liên Xô và cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô. Ông kiên quyết yêu cầu mở mặt trận thứ hai. Sau đó, ông trở thành thành viên của phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Potsdam năm 1945 (với cấp bậc đại sứ).
Davies đã có hai cuộc gặp gỡ với Stalin. Cuộc gặp đầu tiên diễn ra vào đêm trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ đại sứ tại Mátxcơva vào tháng 6 năm 1938. Nhà ngoại giao Mỹ kể chi tiết cuộc trò chuyện của ông với Stalin trong một báo cáo gửi cho Ngoại trưởng Mỹ. Báo cáo này đã được giải mật và đưa vào phần bổ sung của cuốn sách. Cuộc gặp thứ hai, diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đó là một chuyến của Davies đến Mátxcơva, mang theo theo một thông điệp đặc biệt từ Roosevelt gửi đến IV Stalin.
Vào cuối mùa xuân năm 1943, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ bị nguội lạnh. Nguyên nhân là do phương Tây trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai chống phát-xít. J. Davies đã thảo luận vấn đề này với Roosevelt, và tổng thống đã giao cho ông đứng đầu với nhiệm vụ mới, gặp Stalin và thuyết phục rằng Mỹ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy của Liên Xô và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ sau chiến tranh. Davies mang đã chuyển về một thông điệp riêng cho Roosevelt (Bản dịch thư của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Stalin với các Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Văn bản số 83 ngày 5 tháng 5 năm 1943). Nhưng sức thuyết phục chính để Mỹ duy trì các mối quan hệ đồng minh thậm chí không phải là thông điệp dành cho Roosevelt, mà là bộ phim mà Davies, cùng với tổng thống Mỹ, đã tặng cho Stalin.
Bộ phim này có cũng tên với cuốn sách của ông, "Mission to Moscow". Bộ phim ra đời một năm sau cuốn sách. Đó là một dự án được TT Roosevelt ủng hộ. Phim thuộc thể loại nửa hư cấu, nửa tài liệu. Hầu hết phần tài liệu là những gì liên quan đến công việc của đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cũng như ông Davies. Ở Mỹ, bộ phim đã được hàng triệu người Mỹ theo dõi, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố thiện cảm của "tầng lớp thống nhất Mỹ" dành cho nước Nga Xô Viết. Nói không quá, nếu không có bộ phim này, Mặt trận thứ hai chống phát-xít ở phương Tây có lẽ đã không được mở ra sau này.
Gửi bộ phim, Roosevelt đã rất hy vọng rằng Stalin sau khi xem phim có thể cảm thấy “tâm trạng thân Mỹ”. Stalin ngay lập tức đã xem bộ phim và quả thực rất ấn tượng. Davies viết cho Harry Warner: "Nguyên soái Stalin và tất cả những người có mặt tại buổi chiếu đều đánh giá cao những hình ảnh". Năm 1943, bộ phim được phát hành cho hệ thống phân phối phim của Liên Xô và cũng rất được khán giả Liên Xô yêu thích. Bộ phim "Mission to Moscow" đặc biệt thành công bên ngoài Mỹ, ở Liên Xô ở Anh và Trung Quốc.
Ngay sau khi bộ phim được phát hành tại Mỹ, một bản sao của nó cũng đã được đưa đến boongke của Hitler. Trùm tuyên truyền quốc xã Goebbels đã viết một mục về điều này trong nhật ký của mình vào tháng 5 năm 1943. Hắn ta cũng nhận được thông tin về chuyến đi của Davies đến Mátxcơva, và đã gọi ông Davies là "cái phòng khách của Bolshevik", một loại người "nguy hiểm" và ra lệnh cho báo chí Đức tuyên truyền tẩy chay cuốn sách và tác giả của nó.
Sau Thế chiến 2, ông Davies tiếp tục làm việc để duy trì mối quan hệ Xô-Mỹ, mối quan hệ mà khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, Washington bắt đầu có chủ ý làm sụp đổ. Davies là một trong những người tổ chức và là chủ tịch danh dự của Hội đồng quốc gia về tình hữu nghị Mỹ-Xô. Trong một bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng: "Trong số tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, sẽ không có ai trung thành, kiên định hơn trong việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình vĩnh viễn hơn là nhân dân Liên Xô”. Cho đến cuối đời (ông mất ngày 9 tháng 5 năm 1958), J. Davies, bất chấp các cuộc tấn công liên tục từ giới chống Liên Xô thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, vẫn là một người bạn thực sự của đất nước Liên Xô.
PS: bên trên có cụm từ "tầng lớp thống nhất Mỹ". Cần giải thích thêm là nước Mỹ nhiều phe phái, ngay cả giới chính trị gia cũng có nhiều đường lối, quan điểm khác nhau. Do đó, không có sự thống nhất như một tầng lớp. Vì thế mà đặt cụm từ này trong ngoặc kép. Vấn đề là Stalin, nếu như không tận dụng được sự ủng hộ của giới chính khách mà Roosevelt là đại diện, nếu như coi nước Mỹ là đối thủ, là kẻ thù, thì cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sẽ khó khăn, ác liệt hơn nhiều. Chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, trong đó cây giáo dài hơn, súng đạn nhiều hơn là thiệt hại, tổn thất ít hơn, là cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Hình ảnh bên dưới là một minh chứng cho điều này. Quan điểm của Truman, TT kế nhiệm đã rất khác. Đó là sự trục lợi, là chủ nghĩa cơ hội. Về phía mình, Liên Xô nhận được 1 khẩu súng trong Lend-lease cũng đã bớt đi 1 khẩu cho phát-xít. Súng có lởm, nhưng giá trị là gấp đôi.
Cũng cần nói thêm rằng, KKE gây chiến ở Hy Lạp và giấc mộng Đại Nam tư của Tito cũng là một phần nguyên nhân của Chiến tranh lạnh.

Truman: "Nếu chúng ta thấy Đức đang thắng thì chúng ta phải
giúp Nga và nếu Nga đang thắng thì chúng ta phải giúp Đức và
đấy là cách để họ giết nhau nhiều nhất có thể,..."


Hầu hết văn sĩ đều chống chiến tranh!

 Họ là giới mang tâm hồn yếu đuối, nhạy cảm. Họ chống chiến tranh như bản năng sợ hãi chết chóc. Nhưng họ không thể giải thích tại sao có chiến tranh.

Ví dụ điển hình là nhà thơ Khoa. Sự bực tức tích tụ lâu ngày, giáo phái PLC làm lú lẫn, nhà thơ chỉ cần phán xét 1 câu là xong.

Ví dụ khác là cây cờ đỏ Hiếu Chế, theo nghĩa tích cực nhất của phản đối chiến tranh là xăng dầu giá cả đều tăng ảnh hướng đến cả nước. Còn cái máng cám Mỹ to đùng bác ta vẫn ăn dẫn bác ta đến chỗ chửi bới Putin và Nga như một thằng cờ vàng giẻ rách vô học.

Hiện tượng phản đối chiến tranh còn thấy ở những nhà văn cổ, như Lev Tolstoy, nhưng đó là câu chuyện khác.



Duy nhất một người, một nhạc sĩ tên tuổi chỉ ra nguyên nhân chiến tranh một cách căn bản, đó là John Lennon, hãy lắng nghe ca khúc Imagine.

Ba nguyên nhân-động lực gồm: tôn giáo, địa chính trị, thị trường-kinh tế. Dĩ nhiên, khi nói đến Hybrid War, có nghĩa là bao gồm cả sự hội tụ của 2 hoặc cả 3 và và các nguyên do thứ cấp khác.

John Lennon đã chỉ ra 3 nguyên nhân này cách cao siêu ý tứ nửa thế kỷ trước. Chính xác hơn, vào ngày 9 tháng 9 năm 1971 với IMAGINE, một ca khúc ca ngợi hòa bình nhưng thực ra đã chỉ ra 3 nguyên nhân của chiến tranh. Cũng cần nói rằng, “The Beatles” ,có rất nhiều ca khúc chống chiến tranh, cổ vũ cho hòa bình. Thậm chí được coi là lá cờ đầu chống chiến tranh Việt nam.

Imagine như mời gọi mọi người mơ về một thế giới không thiên đường, không địa ngục và không tôn giáo, tất cả sống trong hiện tại và không lo lắng về bất kỳ loại cứu rỗi nào trong tương lai. Thế giới ấy cũng không có quốc gia để có tham vọng địa chính trị, không có gì để bắn giết hay lý do để chết. Còn thứ 3, đó cũng là nơi không có của cải, lòng tham hay đói khát, không có tranh cướp của cải, tài nguyên nào.

Vì vậy, Lennon đã sử dụng giấc mơ hòa bình, một giá trị được chia sẻ bởi phần lớn nhân loại, để tố cáo những lý do chiến tranh: tôn giáo, địa chính trị và lòng tham của cải. 

***

Các vấn đề vẫn còn hiện hữu ngày nay, được trình bày qua một số bài phát biểu về Chiến tranh ở Ukraine, cũng đúng như Lennon đã chỉ ra.

1. Vào tháng 3 năm 2022, Giáo hoàng Francis tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng ở Ukraine không phải là một “hoạt động quân sự”, mà là một cuộc chiến gây ra “chết chóc, tàn phá và đau khổ”, trái ngược với câu chuyện của Moskva. Hơn nữa, vị Giáo hoàng quy trách nhiệm cho nhà lãnh đạo Nga về tình hình này và yêu cầu "dừng ngay cuộc thảm sát”. 

Thượng phụ Kirill của Nhà thờ Chính thống Nga trả lời: “Mọi người cần có có quyền tự do thực hành đức tin của họ và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, mà không bị đàn áp chính trị”. Trên thực tế, đó là câu đáp trả Giáo hoàng khi gợi nhắc rằng người dân Donbas ở đông nam Ukraine đã bị áp đặt Công giáo và bạo lực của chính phủ Ukraine cùng các nước phương Tây, kể từ năm 2014, khi họ chống lại những mối quan hệ lịch sử và văn hóa với Nga.

Sẽ không sai khi nhắc đến mối xung đột tôn giáo lâu đời giữa DT và Công giáo, giữa Công giáo và Chính thống giáo, và dĩ nhiên, những cuộc Thập tự chinh đẫm máu. Đó là thời Đại Schism năm 1054 giữa các nhà thờ Công giáo La Mã và Chính thống giáo phương Đông, khi bắt đầu cuộc tranh chấp giữa Rome và Constantinople về địa vị thừa kế thực sự của Văn minh Cơ đốc giáo. Vài thế kỷ sau, sau Đại Schism, các cuộc đụng độ đã đi theo một con đường khác do sự độc lập của Nhà thờ Chính thống Nga khỏi Constantinople vào năm 1448 và sự kết thúc của Đế chế Byzantine vào năm 1453. Nói cách khác, để tìm ra các cách tiếp cận khác nhau liên quan đến các sự kiện gần đây ở Ukraine, người ta phải xem xét cẩn thận cách các sự kiện này.

2. Phát biểu thể hiện động lực xã hội nặng nề của chiến tranh và hòa bình đã diễn ra vào tháng 6 năm 2022. Ngoại trưởng Anh, Liz Truss, đã cung cấp một số thông tin cho Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Vương quốc Anh về chính sách đối ngoại. Vào một thời điểm cụ thể, Nghị sĩ Đảng Lao động Chris Bryant đã nói về sự ủng hộ và quan hệ đối tác giữa Anh và Ả Rập Xê-út, được mô tả là một chế độ độc tài, chẳng hạn, chịu trách nhiệm cho 81 vụ hành quyết trong một ngày và vụ giết người của Jamal Khashoggi, nhà báo Ả Rập Saudi.

Sau một số nỗ lực không đưa ra được gì ngoài câu trả lời theo nghị định thư và có lẽ do không hài lòng rõ ràng với các câu hỏi, ngoại trưởng Liz Truss đã tiết lộ các mục tiêu chính và bản chất địa chính trị trong chính sách đối ngoại của Anh. Theo đó: “Điều tôi tập trung vào là đảm bảo rằng chúng ta đang đối phó với các mối đe dọa lớn đối với thế giới. Mối đe dọa số một mà chúng ta đang đối phó vào lúc này là mối đe dọa từ Nga. Để làm được điều đó, chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta có các nguồn năng lượng thay thế. Một trong những nguồn năng lượng quan trọng là vùng Vịnh. Chúng ta không giao dịch trong một thế giới hoàn hảo. Chúng ta đang đối phó với một thế giới mà chúng ta cần phải đưa ra những quyết định khó khăn. Và tôi nghĩ rằng việc chúng tôi xây dựng mối quan hệ thương mại chặt chẽ hơn với các quốc gia vùng Vịnh là đúng đắn”.

Tuyên bố này giúp tiết lộ các lực lượng địa chính trị xác định mối quan hệ giữa các cường quốc, các đề xuất chính của họ và tính hợp lý chiến lược của họ. Liz Truss cũng gợi lại truyền thống lâu đời về chính sách đối ngoại và địa chính trị của Vương quốc Anh. Truyền thống này nằm trong chính sách của đế quốc Anh vào thế kỷ 19 chống lại Nga, chẳng hạn như trong Trò chơi vĩ đại của châu Á, mà các yếu tố mà Alfred Mackinder đã sử dụng để xây dựng lý thuyết trung tâm nổi tiếng của mình vào năm 1904. Theo ông ta, mối quan tâm thích đáng nhất của người Anh cần phải là khu vực trung tâm, nơi, nói thẳng ra, là đất Nga. Nó là một pháo đài không thể tiếp cận trước sự bao vây của sức mạnh hàng hải đối với cường quốc lục địa hoặc cận biên của Âu-Á, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sức mạnh của bất kỳ quốc gia nào có thể chinh phục nó. Vì vậy, rõ ràng là ý tưởng “mối đe dọa Nga” vẫn tiếp tục là định hướng cho chiến lược và chính sách an ninh của Anh quốc, bao gồm cả các lập trường của nước này liên quan đến Chiến tranh ở Ukraine.

Nhưng vào tháng 6 năm 2022, một thành viên QH Tây Ban Nha, Barcelona en Comú - Nghị sĩ Gerardo Pisarello đã phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Madrid. Theo ông ấy, “Hội nghị thượng đỉnh này được tổ chức về cơ bản là để củng cố các ưu tiên địa chiến lược của Mỹ, không phải là về Ukraine hay châu Âu và trên hết là về việc làm suy yếu Trung Quốc. Các quý ông, đó là lý do tại sao Mr. Marshall đã không đến hội nghị thượng đỉnh này với một loạt các khoản đầu tư xanh và xã hội dưới tay của mình. Ông ta đã không đến với Thỏa thuận xanh mới (Green New Deal) dưới tay mình. Ông ta đã đến để bán cho chúng tôi - với giá cao, khí đá phiến gây ô nhiễm của ông ta, hạt giống GMO của ông ta, và trên hết, vũ khí của Lockheed Martin và ngành công nghiệp chiến tranh của ông ta. Và ông ta đến để nói với chúng tôi rằng, còn hơn cả việc làm cho chiến tranh kết thúc, những gì chúng tôi cần là nuôi sống nó”.

3. Phát biểu của Nghị sĩ Tây Ban Nha tiếp cận một trong những lý do lịch sử của các cuộc chiến tranh, đó là lợi ích kinh tế. Một hành vi xã hội trở nên trầm trọng hơn rõ rệt bởi một hệ thống mà mục tiêu chính là tích lũy vốn qua tranh giành thị trường (tài nguyên, nhân công) và tích lũy vốn. Kể từ khi bắt đầu củng cố hệ thống CNTB, chiến tranh đã có một quy luật trung tâm. Theo nhà sử học nổi tiếng người Bỉ Henri Pirenne, mối quan hệ giữa chiến tranh và tích lũy vốn cũng đã được thể hiện rõ rệt kể từ các cuộc Thập tự chinh trong bối cảnh thời kỳ Phục hưng kinh tế châu Âu vào thế kỷ XII. Nói theo cách riêng của Pirenne, “Một kết quả lâu dài và thiết yếu của các cuộc thập tự chinh là để lại cho các thị trấn của nước Ý, và ở mức độ thấp hơn, các thị trấn của Provence và Catalonia, trở thành chủ nhân của Địa Trung Hải. Mặc dù không thành công trong việc giành lấy các thánh địa Hồi giáo, và mặc dù không hơn gì một vài nơi trên bờ biển Tiểu Á và trên các hòn đảo, nhưng ít nhất cũng cho phép Tây Âu không chỉ độc quyền toàn bộ thương mại từ Bosporus và Syria đến eo biển Gibraltar mà còn phát triển ở đó hoạt động kinh tế và tích lũy tiền vốn để dần dần tự mở rộng ra đến tất cả các vùng đất phía bắc dãy Alps.”

Khả năng dàn xếp tránh đối đầu giữa các quốc gia phụ thuộc nhiều hơn vào kỹ thuật ngoại giao, các biện pháp kiểm soát và cân bằng có khả năng ràng buộc và ngăn chặn các hành vi bạo lực của các quốc gia hơn là khả năng loại bỏ tôn giáo, địa chính trị và kinh tế thị trường.


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...