Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

Sự thật về câu nói được cho là của Voltaire

“Tôi không đồng tình với những gì bạn nói, nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền được nói của bạn”. Câu này không hề của Voltaire mà là của 1 nữ sử viết tiểu sử Voltaire. Nhà văn, nhà triết lý có nhiều câu để đời, nhưng ko hề có câu nào ngố như thế này. Kể cả là suy luận ra cũng không có luôn.

“I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it.” - Voltaire!

"Tôi phản đối những gì anh nói, nhưng tôi thà chết để bảo vệ quyền được nói của anh." Vôn-te!

Slogan ấy được các chí sĩ "dân chủ", chủ nghĩa tự do, liberals tru lên khắp nơi.

Câu nói trứ danh bên trên được cho là của Voltaire (1694-1778), nhà văn, nhà tư tưởng tự do Pháp. Nhưng không phải, điều đó có thể đọc thấy ngay trong wiki. http://en.wikipedia.org/wiki/Voltaire

Trích dẫn đó không phải là của Voltaire, kể cả phát biểu hay ghi chép, hay tóm tắt quan điểm. Nó được Evelyn Beatrice Hall viết dưới bút danh Tallentyre trong 1 cuốn sách về tiểu sử "Bạn bè của Voltaire" năm 1906, tức là tận gần 130 năm sau ngày Voltaire chết. Hall có dụng ý tóm tắt, tổng kết quan điểm của Voltaire nhưng đã nhầm lẫn. Cho dù Voltaire có nhiều châm ngôn nổi danh, được thường xuyên trích dẫn ngày nay nhưng không có bất cứ phát biểu hay ghi chép nào của Voltaire để có thể trực tiếp hay gián tiếp tổng kết ra quan điểm của ông là như vậy. Do đó không có cách gì để đóng ngoặc và gắn mác Voltaire cho câu nói ấy. Nếu có thể thì đó là của Evelyn Hall, nhưng Hall không có tên tuổi gì nhiều nên đóng mác Hall không đủ độ phê!

Những phát biểu sáng giá về nhân quyền, tự do dân chủ Mỹ, ví dụ: Mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, dân biết dân bàn dân kiểm tra, hay tuyên ngôn về quyền con người này khác như quyền ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, bình đẳng trước pháp luật... thực ra đều dẫn từ phong trào tự do cách mạng Pháp. Nhưng liberal Pháp lại cũng không phát minh ra những thứ này, họ tham khảo từ những luật, những tuyên ngôn xa lắc lơ của các đế chế cổ đại khác như Ba-tư, Lưỡng hà, Roma hay Hy Lạp...

Chúng ta để ý, tự do dân chủ kiểu Mỹ không hề đề cập đến quyền sống. Sống mới là quyền cơ bản nhất, không sống thì những đao to búa lớn kia vô nghĩa. Và đã bao nhiêu sinh mạng nằm xuống vì phổ biến tự do dân chủ kiểu Mỹ? Thật dễ hiểu! và thêm nữa, cứ nói thoải mái, không thay đổi được gì hết.

"Tôi thà chết..." tiếng tru ấy ngày nay nghe được khắp các bàn nhậu, hay lúc một tên dở hơi nào đó lên đồng. Thà chết để nghe một ai đó nói, để rồi thấy chối quá không chịu nổi, không đồng ý nổi. Thế chết rồi thì nghe Diêm vương nói sao?

Pseudo-ngụy tạo! Chẳng có tên khùng nào chịu bỏ tài sản của mình ra (tiền bạc, công sức, thì giờ) làm cái việc khùng này. Thằng bé đánh giày trong quán phở được boa tờ 10 đô còn dễ hơn.

Người ta nghe thấy nhiều tiếng tru tréo ấy trong đám làm "cách mạng", khi cần tụ tập quần chúng mỗi dịp bầu cử, dịp hô hào biểu tình, phản đối nào đó. Thấy đầu tiên là ở đám chí sĩ rân chủ X-cà - một slogan to tướng treo trên 4rum, rồi thấy các @ mạng, các bậc trưởng bối đầu bạc răng long tập tọe mạng miếc cũng tru lên như thế. Chẳng ai biết gốc tích của nó ở đâu.

Thêm: thật không may, rất có thể ai đó có liên tưởng đến câu nói: Dân chủ là để dân được mở miệng. Tôi không dám đóng mở ngoặc gì cả câu nói này vì không biết nguyên gốc hay ngữ cảnh, và được cho là của một phát biểu mang tính dân dã thuở sơ khai mới giành được độc lập của HCM. Nhưng rõ ràng là Bác đã không hề đề cập đến cái giá đao to búa lớn nào đó, không phải là hô hào khẩu hiệu, mà đúng hơn là đề cập đến một cơ chế, đó mới là ý tưởng thực chất dân chủ và không ngụy tạo có nguồn gốc Việt.

Sức mạnh tinh thần

Bài viết tuy dài nhưng cực kì giá trị, mong quý bằng hữu kiên nhẫn đọc đến hết ạ (Thời Thổ Tả).

Sáng ngày 02/04/2017, (nhằm ngày 06/03/năm Đinh Dậu), TT Thích Chân Quang - Phó ban Kinh tế Tài chính T.Ư GHPGVN đã có buổi thuyết Pháp về chủ đề “SỨC MẠNH TINH THẦN” tại chùa Tương Mai (Trương Định, Hà Nội), với sự tham dự gần 5 nghìn phật tử xa gần. Bài Pháp thoại đã gợi mở cho mọi người thấy đặc điểm và vai trò quan trọng của sức mạnh tinh thần đối với đời sống nội tâm của con người. Đồng thời, chỉ ra các phương pháp rèn luyện, giúp nâng cao tinh thần. Từ đó, các phật tử siêng năng thực hành, xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn trên con đường giác ngộ giải thoát. 

Mở đầu bài Pháp, Thượng tọa khẳng định nhiều người trên đời này có tinh thần mạnh mẽ nhưng cũng không ít người có tinh thần nhu nhược; nhiều người khi gặp chuyện buồn thì suy sụp, suy sụp đến mức làm ra các chuyện sai lầm, thậm chí là tự tử, nhưng cũng có nhiều người lại chịu đựng, gắng gượng, phấn đấu để vượt qua, đứng lên làm lại từ đầu. Vậy nên mới có câu “Thất bại là mẹ của thành công”. Tất nhiên, phải qua rất nhiều trường hợp, chúng ta mới đúc kết được câu thành ngữ quý giá này. Bởi thực tế, những người đã đi qua thất bại, biết mạnh mẽ đứng lên, biết rút ra những bài học từ những lần vấp ngã thì lần sau sẽ được thành công. Làm được điều đó bởi họ có tinh thần mạnh mẽ. Không chỉ vậy, người có tinh thần mạnh mẽ khi gặp chuyện khó khăn thì dám chiến đấu, tìm cách tháo gỡ để vượt qua; khi bị chỉ trích, công kích thì tỉnh bơ, không dao động, việc gì đúng thì vẫn cứ làm. Ngược lại, những người nhu nhược khi gặp chuyện khó thì ngại ngùng, sợ, không dám dấn thân; khi bị chê bai, chỉ trích thì rụt rè, nhụt chí, bất an. Thượng tọa chia sẻ: Có lần Thượng tọa gặp một vị Tăng cũng rất tài giỏi. Sau khi thăm hỏi nhau, vị này bộc bạch: Nhìn thấy con đường vấn thân, hoằng Pháp của Thượng tọa mà con lo sợ! Con thấy Người làm được việc quá, lại có tiếng tăm, nhưng lại bị lời ra tiếng vào, có nhiều người xấu lợi dụng hệ thống mạng xã hội, internet để tạo hiệu ứng đám đông, họ xúm vào chửi mắng, công kích tràn ngập. Do vậy, con sợ, con không dám làm gì hết. Con thật nể Thượng tọa – trước những làn sóng dư luận mà Người cứ tỉnh bơ tồn tại, coi như không vậy, lòng nhiệt huyết vì đạo của Người vẫn không hề thay đổi. Dịp này, Thượng tọa trình bày quan điểm của mình mà cũng là lời động viên dành cho vị huynh đệ đồng đạo rằng: Đúng là bản thân Người bị chê bai, chỉ trích rất nhiều. Không chỉ nói miệng mà họ còn nói trên các phương tiện đại chúng. Nhưng vì Phật pháp, Người không để ý đến những làn sóng dư luận, cố gắng hoằng dương giáo hóa, làm lợi ích chúng sinh. Theo Người, một khi đã đi tu thì không còn sống cho bản thân, giặc chưa đánh mà mình đã sợ hãi rút chạy, thì chỉ có thua, làm gì còn sức để chiến đấu. 

Không chỉ ngày nay, mà từ xa xưa, lịch sử đã chứng minh tinh thần mạnh mẽ có vai trò rất quan trọng. Nhờ có nó mà cha ông ta mới ghi nên được những trang sử hào hùng, đánh bại rất nhiều giặc ngoại xâm, bảo vệ thành công chủ quyền và nền hòa bình của dân tộc. Nhắc lại lịch sử để ta thấy ai có tinh thần mạnh mẽ là đang được một ưu thế rất lớn trong cuộc sống. Dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng có thể tự đứng vững để bảo vệ lấy cuộc đời mình và che chở cho bao nhiêu người khác. Trong khi những người nhu nhược thì lúc nào cũng sợ hãi, lúc nào cũng phải dựa dẫm vào người khác, chẳng thể làm chỗ tựa được cho ai. Thế nên, những người có tinh thần manh mẽ, nếu có thêm đạo đức nữa thì đúng là có lợi cho bao nhiêu người xung quanh mình. Lại thêm, cuộc đời này luôn bất ổn, không lúc nào bình yên. Chỉ những người có tinh thần mạnh mẽ và có đạo đức mới vượt qua được những giông bão của cuộc đời. Do đó, ngoài kiến thức, đạo đức thì sức mạnh tinh thần cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng, cần thiết trong hành trang bước vào cuộc đời của ta. 

Tuy nhiên, ta cần phải nhận biết và phân biệt cho rõ sức mạnh tinh thần với sức mạnh của thể chất, bởi đôi khi chúng cũng khác nhau. Nhiều người luyện võ rất giỏi, cơ bắp vạm vỡ, nhưng khi gặp chuyện lại trốn mất, không dám đương đầu với khó khăn. Trong khi những cô gái nhìn vẻ bề ngoài thấp bé, nhưng gặp chuyện gì cũng dám đương đầu để chiến đấu mà không sợ gì hết. Người có sức mạnh tinh thần cũng có cái hệ lụy. Nhiều khi mạnh mẽ quá mà không có sự tu tập thì bản ngã sẽ tăng lên, biến họ thành một người kiêu mạn, khiến mọi người khó chịu. Nhưng nếu họ biết gói sức mạnh đó trong đạo đức, khiêm hạ thì đây đúng là Thánh. Ta sống trên đời là cần cái tinh thần vững chãi trước đã. Có điều, tùy việc, tùy lúc mà ta sử dụng nó một cách hợp lí để tạo thành một lợi thế cho bản thân. 

Để có một tinh thần mạnh mẽ, cần rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, Thượng tọa nhấn mạnh cái chính vẫn là do công đức. Người nào càng công đức, làm phước nhiều thì càng mạnh mẽ, can đảm. Người ít hy sinh, ít nhường nhịn, ít làm phước thì yếu đuối, nhu nhược. Hai yếu tố này luôn đi cùng nhau. Và Thượng tọa dùng nhiều câu chuyện có thật để chứng minh cho quan điểm này. Biết được điều này, mọi người hãy suy nghĩ lại lối sống của mình. Người lớn tuổi còn ít thời gian tu tập thì cố gắng làm phước để rèn luyện sức mạnh tinh thần để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma. Còn Thanh niên thì cần biết trang bị sức mạnh tinh thần cho mình để sống một cách mạnh mẽ suốt cuộc đời còn lại. 

Nhưng tại sao ta phải chuẩn bị để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma? Lí giải về điều này, Thượng tọa khẳng định thế giới của các vong linh cực kì phức tạp. Các vong vốn dĩ cũng là con người như ta, nhưng họ đã bước qua một cõi khác, nơi có những quy luật khác thế giới này, nên chúng ta không biết, cũng không hiểu. Vậy nên, suy nghĩ của họ cũng khác của ta rất nhiều. Nói về ma thì rất nhiều người sợ, bởi ma ở trong bóng tối (khuất kín), chúng ta không thể nhìn thấy. Hơn nữa, khuôn mặt ma rất ghê rợn và họ làm nhiều chuyện khiến ta giật mình. Không ít chúng sinh cho rằng chết là hết, kỳ thực không phải vậy. Chúng ta đừng tưởng chết rồi sẽ bình yên, bởi nếu không có phúc thì ở cõi ma ta cũng bị bắt nạt. Tuy nhiên, những người có sức mạnh tinh thần thì dù ở cõi nào cũng không ai bắt nạt được họ. Nhờ cái tinh thần mạnh mẽ đó, họ có thể tự tỏa hào quang xung quanh mình. Dù không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng quỷ thần nhìn thấy, điều đó cũng khiến các vong sợ hãi, không dám lại gần quấy phá. 

Trong cuộc sống đối với mọi người, người có sức mạnh tinh thần không chỉ làm cho quỷ thần, mà ngay bản thân chúng ta cũng phải kính sợ. Chưa nói đến tốt xấu hay đạo đức, mới chỉ có sức mạnh tinh thần thôi, ta xuất hiện ở đâu cũng đều khiến chúng sinh kính sợ, đó là nguyên tắc. Nhìn vào cuộc đời này chúng ta thấy, những người vừa có phước, vừa có sức mạnh tinh thần thường trở thành lãnh tụ. Một câu nói của họ được đông đảo chúng sinh hưởng ứng và nhất nhất nghe theo. Chúng ta không mong mình đạt đến sức mạnh tinh thần như vậy. Tuy nhiên, nếu có một ít sức mạnh tinh thần trong cuộc sống này thì ta có hai điều lợi: 

- Một là ta không sợ gian khó trong cuộc đời. 

- Hai là ý kiến ta đưa ra được người khác lắng nghe một cách đàng hoàng, dù không biết họ có chấp nhận nó hay không. 

Trong cuộc sống, người có được hai điều này sẽ có lợi thế khiến họ dễ thành công. 

Mặt khác, để tăng cường và nâng cao tinh thần mạnh mẽ của bản thân, bên cạnh việc công đức, làm nhiều điều phước thiện, chúng ta còn phải tích cực rèn luyện. Có rất nhiều cách để rèn luyện. Tuy nhiên, Thượng tọa chỉ ra 6 cách cơ bản và hiệu quả nhất: 

- Đầu tiên, ta phải biết dứt khoát giữa cái đúng và cái sai để tạo thành sự tự tin cho bản thân. Tấm gương về sức mạnh tinh thần trong lịch sử rất nhiều, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là Trần Bình Trọng. Dù bị giặc mua chuộc, dụ dỗ, rồi đe dọa, ông vẫn hiên ngang, nói một câu khiến địch phải khiếp sợ: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”. Câu nói này của ông rất nổi tiếng, nhiều người biết đến, nhưng lại ít ai hiểu và thấm thía được bề sâu của nó. Người phân tích rằng, câu nói của Trần Bình Trọng chứa một sức mạnh tinh thần rất lớn, cho thấy sự dứt khoát giữa cái đúng và cái sai. Chúng ta có thể biết được đâu đúng đâu sai, nhưng nhiều khi đứng giữa ranh giới đó, ta không dứt khoát được. Còn người nào dứt khoát được thì tinh thần mạnh lên liền, không gì có thể mua chuộc hay đe dọa được họ. Ngoài ra, sức mạnh đó còn cho ta sự tự tin. Cái tự tin này rất gần với cái tự kiêu, tự mãn, chủ quan khiến ta dễ bị nhầm, nhưng nó không phải vậy. Cái chủ quan là ta cố chấp cái ý của mình, nên khăng khăng bảo vệ nó. Còn cái tự tin không có cái bướng, bởi sức mạnh của nó là lẽ phải. Khi đã nhận ra đâu là lẽ phải rồi thì không ai có thể lay chuyển, làm ta thay đổi lập trường được nữa. Mà cái tự tin, cái lập trường đó luôn bị thử thách bởi quyền lợi cùng sự nguy hiểm và Người đã chứng minh về điều này. Qua đó khẳng định, sự tự tin là dấu hiệu ban đầu của sức mạnh tinh thần. Tuy nó chưa tạo ra được ảnh hưởng lớn đến những người xung quanh, cũng chưa nhận được nhiều lời khen ngợi, thậm chí còn bị chê trách, nhưng ta vẫn giữ vững lập trường để bước tiếp. 

- Thứ hai, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết khước từ sự cám dỗ. Sự cám dỗ tồn tại ở rất nhiều hình thức như: tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, địa vị,… Khi khước từ được những điều này, tinh thần ta mạnh thêm một chút nữa. Tuy nhiên, để khước từ được những cám dỗ đó, thực sự rất khó. Trong đó, việc khước từ tình cảm yêu mến là cái khó nhất trong tất cả cái cám dỗ. Ta thấy, luật pháp chỉ cấm giết người chứ không cấm yêu. Trong đạo đức, ta không được quyền yêu lung tung, giới hạn chỉ được yêu gia đình mình. Vậy nhưng, do duyên nợ nhiều kiếp nên ta dễ động tâm, yêu mến tràn lan, vượt ra ngoài cả giới hạn đó. Nếu có duyên nợ thì việc kiềm chế cảm xúc yêu mến rất khó. Ai biết kéo tình cảm của mình lại, không bị lạc ra ngoài thì người đó có một sức mạnh tinh thần rất lớn. Đây cũng gọi là khước từ sự cám dỗ. Lứa tuổi dễ bị cám dỗ nhất chính là giới trẻ. Được bố mẹ nuôi nấng hoàn toàn, chỉ lo ăn học, nên cái cám dỗ lớn nhất với thanh niên chính là tình yêu và game. Hai đối tượng cám dỗ này không chỉ khiến giới trẻ lãng phí nhiều thời gian, tiền bạc, cái phước, mà nó còn có nhiều tác động không tốt đến tâm lí và tinh thần của chúng. Còn như các em biết khước từ những cám dỗ này để tập trung cho việc học hành thì tương lai của các em sẽ rất tươi sáng. Theo Thượng tọa, khi biết khước từ sự cám dỗ, ta bắt đầu có sức mạnh, lời nói cũng có giá trị hơn. Chúng ta để ý thấy một điều rằng: sức mạnh tinh thần mình có hay không là ở chỗ ta nói mọi người đã lắng nghe hay chưa. Nếu chưa thì sức mạnh tinh thần của ta còn yếu, cần tu dưỡng lại. 

- Thứ ba, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết kiềm chế sự nóng nảy của bản thân. Ta cứ nghĩ người nóng nảy thì đáng sợ nhưng thực chất, họ là người yếu chứ không phải mạnh. “Yếu” là dễ buồn, dễ khóc, dễ giận, dễ suy sụp, dễ tổn thương. Ngược lại, người mạnh là người trầm tĩnh, hiền lành, bởi họ có sức mạnh để kìm giữ cái tâm trong bình yên. Trong sự tu tập cũng vậy. Diệt cái sân là một điều kiện để ta bước vào vị trí của Thánh. Không có một vị Thánh nào nổi nóng hết, các Ngài chỉ ra uy thôi. Trong cái uy đó, không có cái sân. Dịp này, Thượng tọa phân biệt rõ thế nào là ra uy; thế nào là nổi sân. Thế nên, kiềm chế được cái nóng nảy mới là một sức mạnh. Hiểu điều này mọi người hãy chiêm nghiệm lại bản thân, trong từng cái tâm niệm nhỏ, khi người ta nói mình có tự ái, có nóng giận hay không? Nếu có tức mình còn yếu đuối, còn nhu nhược, cần phải tu tập lại. Kiềm chế được sự nóng nảy không chỉ mang lại sức mạnh cho bản thân, mà còn mang lại sức mạnh cho đất nước. Nhật Bản chính là một quốc gia như thế. Công dân của họ lúc nào cùng ôn hòa, nhẹ nhàng, cúi chào người khác rất lịch sự. Hành động cúi chào người khác càng cho thấy họ là một quốc gia mạnh mẽ, có văn hóa. Càng biết đạo lí, ta càng thấm thía những hành động của họ. Dù là một cử chỉ nhỏ thôi nhưng rất đáng để cả thế giới học tập. Trong cái cúi chào của người Nhật, không chỉ thể hiện phép lịch sự, tôn trọng đối phương, mà còn cho thấy sự khiêm hạ của chính bản thân người cúi chào. Cái khiêm hạ này cũng tạo nên sự mạnh mẽ cho họ… 

- Thứ tư, biết đối diện với đau khổ cũng làm cho tinh thần ta mạnh lên. Chúng ta cứ nghĩ khóc là yếu đuối nhưng thực ra nó lại là mạnh. Vì ta dám đối diện, nhìn thẳng và ôm lấy nỗi buồn của mình, không một chút né tránh. Những nỗi buồn của tình nghĩa càng đáng cho ta ôm ấp, giữ gìn. Đấy mới là mạnh mẽ. Ngày xưa, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, trừ những vị chứng quả Thánh cao thì không động tâm. Riêng các vị còn lại khì khóc như mưa. Cái khóc này mới là sức mạnh. Đó là tình cảm chân thành khi ta đối diện với sự thật chứ không phải né tránh, rồi để nó trở thành một sự bi lụy, làm suy sụp cuộc đời mình. Thượng tọa khuyên rằng, chúng ta cứ đối diện với đau khổ, với trở ngại, với những điều thị phi, đừng lẩn tránh chúng. Như vậy là chúng ta đang rèn luyện cho mình một tinh thần thép. 

- Thứ năm, ta phải dám dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm để làm điều công đức. Thượng tọa cho rằng: những cái rèn luyện ở trên chỉ cho ta sức mạnh tinh thần ở mức độ thấp, còn điều thứ 5 này mới cho ta đỉnh cao của sức mạnh tinh thần. Có thể thấy ngay điều này ở những người anh hùng trong chiến tranh như anh Phan Đình Giót, anh Lê Văn Tám,… Những anh hùng này sau khi hi sinh sẽ thành Thần ngay, vì sức mạnh tinh thần của họ lúc đó vượt lên ngàn lần. Trước lúc đó có thể tinh thần các anh mạnh rồi nhưng chưa đủ. Khi quyết định hi sinh thân mình, tạo nên một công đức thì sức mạnh tinh thần lên đến tột cao. Do vậy, nếu trong cuộc sống ta luôn thiết tha biết tạo phước, giúp đời, giúp người thì cứ đều đều mà làm và chấp nhận mất thời gian, tiền bạc, công sức. Nhưng đôi khi lỡ gặp một việc khó khăn, nguy hiểm thì đừng khước từ, vì đó là cơ hội để ta luyện sức mạnh tinh thần. Ví dụ ai đã một lần hiến máu cứu người rồi thì tinh thần người đó vượt lên một bước rất là xa. 

- Thứ sáu, thiền cũng là một phương pháp để nâng cao sức mạnh tinh thần. Ngồi thiền rất khó, đòi hỏi phải thực hiện đúng kĩ thuật, lại thêm tính kiên nhẫn chịu đựng khéo léo. Thấy một người khiêng vác ta tưởng họ rất mạnh, coi vậy chứ không bằng người ngồi yên bất động trong chánh niệm, tức ngồi giữ cho thân mềm mại mà không nhúc nhích, biết hơi thở, quán thân vô thường, v.v...chính những điều đó tạo nên sức mạnh tinh thần. Còn ngồi thiền mà múa máy, nhúc nhích thì không ăn thua. Cho nên, thiền định là một công phu tâm linh làm cho sức mạnh tinh thần của ta vượt lên rất cao. Do vậy, khi nhìn một vị Thiền sư, ta thấy họ hiền lành, trầm mặc, nhưng tinh thần của họ không ai có thể lay động được. Người có sức mạnh tinh thần không chỉ khiến quỷ thần kính sợ mà còn được chúng sinh lắng nghe, tôn lên làm người chỉ huy hoặc người cố vấn. Đây là một lợi thế lớn, giúp ta có thể thuyết phục người khác tin và làm theo lẽ phải, giúp cộng đồng ngày một tốt đẹp. Đồng thời, đạo đức ta nhờ thế cũng tăng trưởng theo. Và khi sức mạnh tinh thần trong lẽ phải càng lúc càng lớn thì ta được Chư thiên kết nạp, hộ trì, sau khi chết sẽ được lên cõi trời, làm dân trên đó. Dĩ nhiên, rất khó để được sinh lên cõi trời, trừ khi công đức ta rất lớn, mới có thể bước một bước dài như vậy. Để có công đức lớn, không phải ta làm vài việc phước, đi tu một mình vài buổi là đủ, mà ta phải vừa tu cho mình, vừa giúp người khác cùng tu. Đến khi tinh thần đủ mạnh, ta vừa làm chỗ dựa tinh thần, vừa là người khuyên bảo, thuyết phục để các huynh đệ giữ được đạo tâm, biết làm công đức, xây dựng đạo Pháp. Đồng thời, không tiếc gì trong cuộc sống này, tất cả đều là hi sinh, phụng sự hết. Ngoài ra, khi tinh thần mạnh, lúc chết ta rất tỉnh táo và biết được ngày giờ chết. Về căn bản, chúng ta phải biết được điều này. Ta không tạo ra cái chết của mình được như những bậc đắc đạo, nhưng ít ra ta biết trước cái chết để có sự chuẩn bị cho đàng hoàng. 

Lại nữa, người có những yếu tố của sức mạnh tinh thần đó mà đủ lòng tôn kính Phật tuyệt đối thì chắc chắn chứng quả Thánh. Trong đạo Phật có tứ quả Thánh và ta chỉ mong chứng được quả đầu tiên là Tu Đà Hoàn. Nhân đây, Thượng Tọa nhắc lại cần có những điều kiện nào để chứng quả Thánh đầu tiên này. Và những lợi ích của một người chứng Tu Đà Hoàn là gì. Lại thêm, những người có sức mạnh tinh thần, thường họ cầu gì thì Chư thiên đáp ứng điều đó. Có khi, những lời cầu nguyện của họ trái với nhân quả nhưng vẫn được đáp ứng. Cái tội phước lúc đó sẽ được để bù sau, trước mắt họ thay đổi được số phận chỉ bằng lời cầu nguyện. Và lễ cầu an, cầu siêu trong đạo Phật cũng là những lời cầu lên Chư thiên để thay đổi số phận chúng ta. Với bài Pháp thoại có nghĩa lý rõ ràng, súc tích, dễ hiểu, Thượng Tọa hy vọng mọi người cố gắng suy ngẫm và thực hành để xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ. Người có sức mạnh tinh thần không phải là quậy mà sức mạnh tinh thần làm cho ta điềm tĩnh chững chạc, sống an vui hòa hợp với mọi người. 

Cuối cùng, Thượng Tọa hướng dẫn các phật tử tập âm dương khí công. Theo Thượng Tọa, khí công cũng là một phương pháp rèn luyện sức khỏe, nâng cao tinh thần. Ai chăm chỉ tập âm dương khí công sẽ ngủ ngon, tinh thần tỉnh sáng, ít bệnh tật và xây dựng được cái nội lực bên trong. Buổi tập khí công đã tạo nên không khí hào hứng cùng một hình ảnh vô cùng mới mẻ trong ngôi chùa Tương Mai. 

Thật vậy, những giáo lí, những khái niệm tưởng chừng phức tạp trên đã được Thượng Tọa đúc kết, rút gọn và đơn giản hóa bằng những từ ngữ vô cùng giản dị, dễ hiểu. Lại thêm, các ví dụ minh họa đều gần gũi, đời thường, khiến các phật tử bị cuốn hút nghe mê say. Vậy nên, dù bài Pháp khá dài nhưng mọi người vẫn nắm được hết những điều cơ bản nhất để chiêm nghiệm, học tập và thực hành. Từ đó, cố gắng rèn luyện để nâng cao thể chất, tinh thần cho bản thân và giúp đỡ những người xung quanh. Bên cạnh đó, Thượng Tọa cũng mong muốn Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền ngày càng quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần của nhân dân. Tinh thần chính là phần hồn, quyết định đến chất lượng con người. Khi chất lượng con người được nâng cao thì xã hội sẽ có một nguồn lực tốt để phát triển./.

Nguồn gốc cảm hứng của câu hát "Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta.."

Tại buổi lễ khai mạc Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng Giêng năm 1955, không khí lúc bấy giờ rất sôi nổi, hào hứng và có pha ít nhiều tính chất thiêng liêng. Hà Nội mới được tiếp quản chưa trọn một trăm ngày thôi, mọi người như còn say mê rạo rực tự do và chiến thắng. Đứng trước Bác là những khuôn mặt tươi trẻ, phơi phới niềm tin, nhưng cũng còn bỡ ngỡ với nhiệm vụ của tuổi trẻ dựng xây đất nước. Bác ở tuổi 65 nhưng quả là còn rất trẻ trung từ cách đặt vấn đề, cách nói, giọng nói đến nụ cười cởi mở. Bác đã nói rất thẳng, rất cụ thể: 

"Phải quan tâm đến việc khôi phục và xây dựng lại nước nhà. NHIỆM VỤ CỦA THANH NIÊN KHÔNG PHẢI LÀ HỎI NƯỚC NHÀ ĐÃ LÀM CHO MÌNH NHỮNG GÌ? MÀ PHẢI TỰ HỎI MÌNH ĐÃ LÀM GÌ CHO NƯỚC NHÀ. Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào". (Trích đoạn từ sách Người suy nghĩ về tuổi trẻ chúng ta, Hồi ký của Vũ Kỳ, NXB Lao Động, năm 2007).

Lời bàn:  Qua sự thật lịch sử này, ta có thể khẳng định câu hát "Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc" trong bài "Khát vọng thanh niên" là lấy cảm hứng từ câu nói của Bác Hồ, chứ không phải từ lời phát biểu trước sinh viên một trường đại học tại Mỹ của John Fitzgerald Kennedy.

Tân Sinh.

Bình đẳng là gì?

Chân lý không bao giờ là một chiều, người chỉ nhìn một chiều không bao giờ thấy chân lý. Người đã nói nhiều về bình đẳng, nhưng sự chênh lệch về quyền lợi và địa vị vẫn mãi mãi xảy ra. Nếu bạn muốn san phẳng mọi chênh lệch trong xã hội bằng một cuộc cải thiện nào đó, bạn là người không tưởng. Vĩnh viễn không bao giờ có sự ngang bằng phẳng phiu về quyền lợi giữa mọi người vì phước nghiệp của họ không thể nào hoàn toàn giống nhau. Nơi tự thân con người đã không bằng nhau về thể chất, trí tuệ và tính tình, và sau này nơi quyền lợi, họ sẽ không thể nào hoàn toàn ngang bằng với nhau. Đây là một tiên đề đầu tiên, rất rõ ràng và thực tế mà chúng ta phải chấp nhận. Dù một chủ thuyết kêu gọi bình đẳng thế nào, họ vẫn phải chấp nhận đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người có trách nhiệm và khả năng ở chừng mực nào đó. 
Nếu muốn dùng bạo lực và quyền hành để áp đặt sự ngang bằng về quyền lợi cho mọi người, chúng ta đã phạm một sai lầm rất lớn. Thứ nhất, là sai với luật Nhân Quả Nghiệp báo. Người có công và người không có công chẳng thể bằng nhau về quyền lợi. Thứ hai là đưa đến hậu quả tai hại, không còn ai cố gắng phấn đấu để lập công trạng gì nữa, họ sẽ làm việc trong tình trạng cầm chừng. Thế nên, sự san bằng quyền lợi là một điều không tưởng, thiếu thực tế, cực đoan một chiều và phi chân lý. 

Tuy nhiên nếu chấp nhận sự chênh lệch quyền lợi cũng là một sai lầm ở cực đoan khác. Nếu chấp nhận sự chênh lệch quá đáng, sẽ có đấu tranh giữa giai cấp ít quyền lợi và giai cấp nhiều quyền lợi. Giai cấp đặc lợi sẽ bảo thủ và vơ vét một cách tàn nhẫn vì quyền lợi của họ được ngang nhiên công nhận. Sự bảo thủ và vơ vét đó sẽ chạm đến quyền lợi của giai cấp thiểu lợi, đấu tranh sẽ bùng nổ. Chính vì chỗ lắt léo này mà sự bình đẳng đã được ca ngợi từ nghìn xưa đến nghìn sau. Người ta đã mơ tưởng về một xã hội mà ai cũng đồng đều với nhau về quyền lợi, ai cũng thương nhau và đem hết công sức để phụng sự cho nhau. 

Tuy nhiên ý nghĩa cao siêu tế nhị của bình đẳng phải được hiểu ở cách khác, không phải sự bình đẳng do quyền lực san bằng tài sản. Bình đẳng là tính chất Đạo Đức nơi một con người. Người có tính bình đẳng là người không muốn trội vượt hơn ai về quyền lợi. Vì bình đẳng là Đạo Đức nên nó là sự tự giác, không phải là sự áp đặt. Trong một tập thể nào đó, nhất là trong chúng tăng, ví dụ có một người, do phước quá khứ, được người thân đem đến tặng nhiều thực phẩm bánh trái. Nếu người này không có Đạo Đức bình đẳng và giữ lấy tặng phẩm để dùng một mình, mọi người xung quanh sẽ tị hiềm bực bội. Không phải mọi người tỵ hiềm vì họ không được chia phần, mà họ tị hiềm vì người kia thiếu lòng nhân ái, thiếu đức bình đẳng. Chính cái thiếu lòng nhân ái, thiếu đức bình đẳng đã khiến cho sự chia rẻ và đấu tranh xảy ra. Nếu người kia có đức bình đẳng, có lòng thương người, sẽ đem tặng phẩm chia đều trong tập thể và mọi người sẽ vui vẻ với nhau nhiều hơn. Không phải mọi người vui vì họ được chia phần mà họ vui vì người kia thể hiện đức bình đẳng và lòng nhân ái. Sự bình đẳng là một lý tưởng tốt đẹp mà ai cũng mơ ước, nhưng nó phải được thể hiện bởi sự tự giác của mỗi người. 

Có hai cực đoan mà chúng ta phải tránh, một là chủ trương san bằng quyền lợi bằng bạo lực. Hai là chấp nhận sự chênh lệch quyền lợi. Hai cực đoan này không bao giờ đưa đến tốt đẹp. Còn chân lý thì trung dung, khéo léo, tự giác, uyển chuyển và từ bi. Nếu chân lý dễ thực hiện thì cuộc đời này có lẽ không còn đau khổ. Chân lý luôn luôn khó nắm bắt, nó tiềm ẩn ngoài cái thấy biết của tai mắt, ngoài những kết luận một chiều. Người ta chỉ thực hiện được chân lý khi họ được sự hướng dẫn đúng đắn và được khuyến khích thường xuyên. Rõ ràng hành động đem phẩm vật của mình chia đều cho anh em là một sự tự giác và từ ái, không ai được quyền bắt buộc về điều này, nhưng chính lòng nhân ái và đức bình đẳng đã khiến họ có hành động tốt đẹp ấy. 

Nếu bạn hưởng thụ hết mọi sở hữu của mình dù bạn ở tập thể hay ở riêng rẻ, lúc đó bạn không phải là người bình đẳng và từ bi. Dù tài sản bạn đang có không ai hay biết, nhưng bạn hãy mạnh dạn san sẻ cho người khác, đừng sử dụng hết những gì mình có. 

Có lẽ chúng ta cũng từng gặp những trường hợp một người, nhất là tu sĩ, bị đố kỵ ganh tỵ khi họ mặc chiếc áo đẹp, khi họ sử dụng tài sản vượt trội hơn người xung quanh, nhưng cũng có người không bị ganh tỵ khi sử dụng những thứ đó. Người bị ganh tỵ vì trước đó họ không bố thí nhiều, không tùy hỉ khi người khác đắc lợi. Bố thí cũng có nghĩa là muốn cho người khác đắc lợi, bố thí cũng đã mang ý nghĩa tùy hỉ trong đó rồi. 

Cũng như mọi tính chất Đạo Đức khác không thể vắng bóng trên cuộc đời này, nhưng cũng không thể cưỡng bức áp đặt, bình đẳng cũng vậy, không thể vắng bóng trong tương quan giữa mọi người, nhưng cũng không thể cưỡng bức áp đặt. Nó là sự tự giác và sự tự giác hành bình đẳng sẽ đưa người thực hành đi về nơi tràn đầy phúc lạc. 

Nếu chúng ta cưỡng bức sự ngang bằng về quyền lợi, chúng ta sai về Nhân Quả. Một chế độ khẩu phần xít xao khiến cho không ai có thể bố thí với ai, và như thế phước họ giảm dần cho đến khi họ phải bị đói kém thê thảm trong hiện đời. Đó là sai về nhân, không tạo điều kiện dư dả để họ có thể thực hành bố thí. 

Kế đó, nếu người nào trong số đó, đã không thể làm phước bằng cách bố thí, đã làm phước bằng cách đem sức lao động ra phục vụ nhiều hơn qui định. Đến khi quả báo trở lại họ vẫn phải được quyền lợi trội hơn mọi người. Nhưng sự san bằng quyền lợi đã phủ nhận quả báo của họ. Đây là sai về quả. 

Bình đẳng không phải là sự áp đặt cưỡng bức bởi quyền lực mà chỉ là sự tự giác cao thượng trong tâm hồn của con người. 

Trích "Luận về nhân quả" (bản in cũ) - Thượng Toạ Thích Chân Quang, cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Truyện ngắn: Mây đen


- Mẹ ơi, vì sao hôm nay con không thấy mặt trời?
- Vì hôm nay mặt trời bị mây đen che mất rồi con ạ.
- Như vậy ông mặt trời còn chiếu sáng không mẹ?
- Vẫn còn con ạ, chỉ là mình không thấy được thôi con.
- Khi nào thì mình lại thấy ổng chiếu sáng nữa mẹ?
- Khi nào mây đen tan đi con ạ.
- Có khi nào mây đen không chịu tan mà che ổng hoài luôn không mẹ?
- Không con ạ. Mây đen rồi sẽ tan thôi con ạ. Rồi sẽ rơi thành mưa làm ướt người con.
- Mẹ ơi, chuyện ba mẹ giận nhau, có phải cũng giống như mây đen che mặt trời không ạ?
- ...
- Mẹ ơi, rồi ba mẹ sẽ lại thương yêu nhau phải không mẹ?
- ...
- Mẹ ơi, rồi con sẽ lại được ở cùng với ba và mẹ phải không ạ?
- ...
- Mẹ ơi, con nhớ ba lắm!
- ...

Người mẹ cúi gầm mặt lặng đi, giấu hai hàng nước mắt. Đứa bé con chạy ra trước mặt, hôn lên trán người mẹ, đặt hai ngón trỏ tí hon lên trán mẹ rồi kéo nhẹ hai ngón trỏ ra hai phía xa nhau, thì thầm trong tiếng nấc:
- Mây ơi, tan đi mà, cho ba mẹ ta về một nhà.

Ba hồi sấm rền vang, nhưng dường như là chưa đủ để át đi tiếng khóc của trẻ thơ.

Viết xong ngày 4 tháng 4 năm 2017.
Thiện Khiêm Nguyệt (Phan Hưng Duy).

Tâm thư gửi đồng bào Công Giáo ở Lộc Hà (Hà Tĩnh) đã hạ cờ Tổ Quốc Việt Nam

Châu Đốc, ngày 4 tháng 4 năm 2017

Thân gửi đồng bào Công Giáo ở Lộc Hà (Hà Tĩnh) đã hạ cờ Tổ Quốc - Cờ đỏ sao vàng.

Cách đây 159 năm, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam. Một số đồng bào Công Giáo đã phản Tổ Quốc theo thực dân, cấu kết với giặc, chỉ điểm từng nơi đóng quân, tiết lộ từng bí mật của các cuộc khởi nghĩa. Thậm chí, có đồng bào Công Giáo còn dẫn giặc đi đến tận căn cứ của nghĩa quân, bắt sống những vị lãnh tụ kháng chiến. Trong thời gian đầu của thời kì Pháp thuộc, nhà thờ thật sự đã ăn trên ngồi trước, thâu tóm rất nhiều đất đai của dân tộc, của nhân dân, chứ không còn "Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết kính thương và phụng sự Chúa trong mọi người" (Kinh Hoà Bình - Thánh Francesco d'Assisi). Cho đến khi Phát-xít Nhật nổ súng xâm chiếm Đông Dương, thực dân Pháp rơi vào thế yếu, chúng đã qua cầu rút ván, vắt chanh bỏ vỏ: chúng cướp bóc vơ vét các nhà thờ, giết hại các cha cố, hãm hiếp các bà phước, hành hạ đồng bào Công Giáo cũng như đồng bào lương.

Ngày 19/5/1941, lá cờ đỏ sao vàng được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, tức Việt Minh - tổ chức kháng chiến giành độc lập tập hợp mọi giai cấp, mọi thành phần, giáo cũng như lương. Bỏ qua những lỗi lầm phản bội, bán rẻ Dân tộc, Nhân dân của một số đồng bào Công Giáo, Việt Minh đã ra sức bảo vệ tính mạng, tài sản cho các đồng bào Công Giáo, bảo vệ các cha cố, bà phước, bảo vệ nhà thờ. Cũng có nhiều đồng bào, thanh niên Công Giáo tham gia Việt Minh, ra đi không hẹn ngày về, với tinh thần "Thượng đế và Tổ quốc", để rồi vùi thây trong lòng đất lạnh, nơi xứ lạ quê người.

Tôi càng thương cảm, kính phục bao nhiêu với gương hi sinh của các vị anh hùng dân tộc thờ phụng Chúa, thì tôi càng căm uất, phẫn nộ bấy nhiêu với sự vong ân bội nghĩa của những kẻ đã kích động đồng bào Công Giáo làm những chuyện có lỗi với dân tộc, với quê hương. Hạ cờ, hạ biểu tượng thiêng liêng của một tổ chức đã từng đổ máu để bảo vệ tôn giáo của mình; cũng là biểu tượng thiêng liêng của quê hương đất nước, nơi đã sinh mình ra, nuôi mình lớn, dạy mình khôn, cho mình không biết bao nhiêu là kỷ niệm, ân tình, nghĩa nặng... là một hành động đại bất nghĩa. Các đồng bào là người thờ phụng Chúa, mà lại làm điều đại bất nghĩa như thế, có phải các đồng bào đang phỉ báng Ơn Trên của mình hay không?

Ngày xưa, có một người Do Thái thông minh đĩnh ngộ, tuổi thiếu thời đã sang Ấn Độ học Đạo, sau đó trở về lại quê hương Do Thái của mình, trong thời kì Do Thái chịu sự cai trị của Đế chế La Mã. Người này vừa yêu thương nhân dân của mình, vừa hiểu được rằng nếu những lời lẽ mê tín (nghỉ ngày Sabbath), bất nghĩa và ác độc (Cain đã giết hại Abel), loạn luân (con trai ngủ với mẹ; con gái phục rượu ăn nằm vơi cha; Abraham lấy em gái cùng cha khác mẹ là Sarah làm vợ) và xem người vợ như món hàng (Tới Ai Cập , Abraham dâng vợ mình cho Pharaoh để được thưởng vàng, bạc, bò)... trong Cựu Ước không được uốn nắn, điều chỉnh kịp thời thì dân tộc Do Thái sẽ tiêu vong. Nên một mặt ông mạnh dạn dùng đạo lý học được tại Ấn Độ để điều chỉnh lại giáo lý Cựu Ước. Từ một giáo lý hung hãn "mắt phải đền mắt, răng phải đền răng", ông uốn nắn cho hiền hoà lại "ai tát ngươi bên má này, hãy đưa má bên kia cho người ta tát". Từ một giáo lý nhấn mạnh một đấng Chúa Trời ban phước giáng hoạ khiến tín đồ chỉ biết dập đầu cầu xin, ông cách mạng thành một giáo lý rất giống với luật nhân quả nghiệp báo "Này Simon, ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm"; "Các ngươi phải gặt những gì các ngươi đã gieo". Từ một giáo lý dồn hết tình cảm lên Đức Chúa Trời mà chẳng ai nhìn thấy ở nơi đâu, hình dáng ra sao, ông đã mạnh dạn kể câu chuyện "Ngụ ngôn về ngày tận thế", để kéo tình cảm đó của người Do Thái về với những người trong gia đình, họ hàng, xóm giềng, đồng hương. Sau này, Thánh Francesco d'Assisi đã thi vị hoá quan điểm này thành Bài Kinh Hoà Binh nổi tiếng lay động lòng người. Sự cải cách về tư tưởng, tín ngưỡng của ông là quá lớn, với tài hùng biện lỗi lạc cùng việc thi triển một số phép lạ, người dân ùn ùn kéo theo ông, khiến cho những giáo sĩ Pharisee áo đen căm tức, chính quyền La Mã thì lo sợ một cuộc nổi dậy. Những thế lực u ám đó cấu kết với nhau chặt chẽ, để từng bước cô lập, vu khống, bắt bớ và cuối cùng là đóng đinh ông trên cây thập giá. Dù cho rất nhiều người Do Thái đã đối xử rất bất nghĩa với ông, sau những gì ông đã dâng hiến cho dân tộc, cho giống nòi, ông vẫn im lặng không hề phiền trách họ, thậm chí còn cầu nguyện cho họ được phúc lành trước khi lìa đời về cõi huyền vi. Ông quả thật là người sống có hậu, có trước có sau, có nghĩa tình, một người yêu nước. Ông là ai, hỡi các đồng bào Công Giáo? Ông là Jesus Nazareth, là Chúa Jesus mà các bạn phụng thờ.

Các đồng bào Công Giáo đã hạ cờ Tổ Quốc thử ngẫm lại xem, việc hạ cờ Tổ Quốc là làm đẹp lòng đấng chí tôn chí kính mà các đồng bào hết lòng thờ phụng, hay đó là một hành vi bất nghĩa, phản quốc, đã phỉ báng xúc phạm đến Ơn Trên, đến Chúa Jesus?

Xin Chúa Jesus gia hộ cho các bạn tỉnh táo, lương thiện nhìn rõ đúng sai, thiện ác để mãi mãi trung thành với dân tộc, quê hương, đất nước Việt Nam.

Trong cùng một cõi quê hương, 
Tình yêu tín ngưỡng phải nhường quốc gia, 
Trong cùng thế giới bao la, 
Tình yêu tín ngưỡng không qua tình người.

Chúc các bạn an vui và hạnh phúc.

Một Phật tử. Một người Việt Nam.

Nguyễn Thị An Liên.

Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc

"Tát cạn văn hóa ra khỏi một dân tộc - nghĩa là tát cạn ký ức và sắc thái độc đáo ra khỏi dân tộc đó - tức là giết chết dân tộc đó".

Milan Kundera.

Bài giảng "Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc"


Thượng Toạ Thích Chân Quang, thế danh Vương Tấn Việt, cháu nội cụ lương y Vương Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Huy, tức cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh của Hồ Chủ Tịch; viện chủ Thiền tôn Phật Quang (thung lũng núi Dinh, Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu, cách chùa Thị Vải ở núi Thị Vải của cô Lê Thị Huệ không xa), chùa Viên Quang (huyện Nam Đàn, tình Nghệ An) và Thiền thất Bảo Quang (huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh).

Những người cộng sản trong màu áo lam hiền (*)

Lạ lùng những người “vá đường” không công ở Hà Nội

GiadinhNet - Đây là những câu chuyện đầy xúc động về những việc làm hướng thiện tốt đẹp của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” tại Hà Nội trong suốt nhiều năm qua.

Hướng thiện

Ngôi chùa cổ kính nằm nép mình ven đường Quốc lộ 1A cũ mang tên Tứ Kỳ, thuộc địa phận quận Hoàng Mai, TP Hà Nội nhiều năm qua đã trở thành mái nhà thứ 2 thân thuộc của các thành viên trong CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang”.

CLB là nơi quy tụ của hàng trăm thành viên không phân biệt tầng lớp, lứa tuổi, vùng miền nhưng đều có chung một mục đích cao cả: “hướng thiện. Câu lạc bộ hoạt động dưới sự dẫn dắt của thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì chùa Phật Quang - Núi Dinh - Bà Rịa Vũng Tàu.


CLB "Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang" tại Hà Nội

Chúng tôi may mắn được tham dự một buổi ngồi thiền cùng các thành viên trong CLB. Đây được xem là một hoạt động thường niên diễn ra vào tối thứ 5 hàng tuần để mọi người rèn luyện sức khỏe, cùng nhau chia sẻ những đạo lý tình người.

Trao đổi PV, bạn Nguyễn Liên (SN 1991 quê ở Hải Dương) một thành viên tích cực của CLB chia sẻ: “Em thấy mình thực sự may mắn khi được biết và tham gia sinh hoạt cùng câu lạc bộ. Trước đây mỗi khi rảnh rỗi, em thường dành cả ngày xem phim, lướt facebook tán gẫu, chơi game. Dẫu biết rằng những thói quen đó không tốt, nhưng không dễ gì bỏ được. Từ sau khi tham gia CLB này, thay bằng những thói quen vô bổ trước kia, em cùng mọi người đã tham gia nhiều vào các hoạt động phúc thiện. Bản thân thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn rất nhiều”.

Được biết, rất nhiều thành viên trong CLB trước kia có lối sống lệch lạc, ích kỉ. Nhưng khi tới đây, được tiếp thu những lời hay lẽ phải, được quen biết nhiều tấm gương sáng trong cuộc sống đời thường, họ đã có những thay đổi tích cực (sống hướng thiện, mở rộng lòng mình với cuộc sống xung quanh…).

Những nghĩa cử cao đẹp

Mang những lời hay lẽ phải vào thực tế, CLB “Chúng thanh niên Phật tử Phật Quang” đã có nhiều việc làm tốt đẹp. Trước thực trạng, nhiều tuyến phố trong nội thành Hà Nội bị hư hỏng, xuống cấp, CLB đã phát động phong trào tu sửa đường về đêm.

Đây được xem là một hoạt động hết sức thiết thực với mong muốn giảm thiểu đi những vụ tai nạn giao thông đáng tiếc có thể xảy ra.


Một thành viên của CLB tham gia hoạt động vá đường hằng đêm tại Hà Nội.

Từ kinh phí của các nhà hảo tâm quyên góp, các bạn đã mua được đá, nhựa rải đường và một số dụng cụ thuận tiện cho việc vá đường. Sau khi khảo sát địa hình và dự toán được nguyên vật liệu thì công việc được tiến hành từ sau 21h.

Nguyên vật liệu được các thành viên di chuyển bằng xe máy tới các điểm cần tu sửa. Mỗi tối, các thành viên trong nhóm vá được khá nhiều ổ gà, giúp những con đường nội đô trở nên bằng phẳng, an toàn.


Hiến máu cứu người, một trong những hoạt động thường niên của CLB.

Bên cạnh việc làm trên, CLB còn tham gia rất nhiều hoạt động công tác xã hội như: Tổ chức nhặt rác và làm vệ sinh ở những nơi công cộng như đường phố, công viên, hồ nước…

Trồng cây xanh ở những quả đồi trọc hay cánh rừng đã bị tàn phá nhiều, tặng quà cho những chị lao công, người vô gia cư sau 23h trên đường phố, tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em tại làng trẻ em SOS, tham gia hiến máu tại các trung tâm y tế và viện huyết học truyền máu TW, tổ chức các chuyến đi từ thiện ở vùng miền núi tặng, quà cho các em nhỏ, đồng bào dân tộc, phát cháo từ thiện cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện…vv.

Phật tử Trần Hưng (Pháp Danh Trí Bảo) phụ trách CLB chia sẻ: “Tất cả những việc làm mà các thành viên của CLB thực hiện hàng ngày đều có chung một mục đích, giúp cuộc sống xung quanh chúng ta ngày một tốt đẹp hơn. Để làm được những điều lớn lao, trước tiên chúng ta hãy bắt tay vào thực hiện những việc nhỏ bé đã”.

Hồng Gấm/Báo Gia đình và Xã hội

(*) Tiêu đề được đặt bởi ban biên tập Thời Thổ Tả. Hôm nay Thời Thổ Tả xin được phép chia sẻ lại toàn văn bài viết trên báo Gia đình và Xã hội. Lý tưởng Cộng sản là gì? Nếu muốn nói dong dài thì nói mấy ngày cũng không hết. Nhưng trước hết, lý tưởng Cộng sản là lý tưởng sống vị tha, với tinh thần "mình vì mọi người", luôn biết hi sinh quyền lợi cá nhân, thời gian riêng tư để đóng góp cho cái chung, phục vụ cho cộng đồng. Đẹp thay người Cộng sản trong màu áo lam hiền!

Cùng là tôn giáo tín ngưỡng, sao một bên thì đi đắp đường, còn một bên thì cứ nhận tiền từ nước ngoài rồi xuống đường chửi bới như Chí Phèo nhỉ?

Bốn điều gửi Việt Tân

Tôi là một Đoàn viên "Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh". Tôi, là một Việt Cộng – một người Việt Nam, yêu Lý tưởng Cộng sản: Lý tưởng bảo vệ, nâng đỡ, giữ gìn phẩm giá, cuộc sống cho những người nghèo, những người kém ưu thế trong xã hội.

Tôi xin có vài lời gửi đến các người.

Thứ nhất, các người hãy thôi nói về tự do ngôn luận.

Thật là kì quặc khi các người - những kẻ cầm súng bắn gục những nhà báo Việt Nam chân chính ở Mỹ, lại mở mồm rao giảng về tự do ngôn luận. Phải chăng da mặt các người dày hơn da trâu?

Tự do ngôn luận là khái niệm có tính tương đối. Xã hội loài người luôn có nhiều người xấu hơn là người tốt, nếu để tự do ngôn luận tuyệt đối, ai muốn nói gì thì nói, chắc chắn những dư luận xấu sẽ tràn ngập khắp mọi nơi và làm băng hoại đạo đức loài người. Đó là lý do nước nào cũng có những cơ quan kiểm duyệt thông tin.

Thứ hai, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về tình yêu nước.

Thật là kì quặc khi các người – những kẻ đã từng khom lưng cúi đầu làm tôi mọi, làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ để bức hại đồng bào, phản bội lại khát vọng độc lập, tự do, thống nhất của nhân dân, giờ đây lại rao giảng về tình yêu nước.

Thế thì khác gì Lê Chiêu Thống dạy Quang Trung về lòng trung thành, khác gì Trần Ích Tắc dạy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn về tình thần dân tộc?

Các người không có tư cách dạy nhân dân Việt Nam về tình yêu nước. Các người càng không có tư cách dạy Việt Cộng về tình yêu nước.

Hãy tìm Bảy Nhu – người cai ngục ở nhà tù Phú Quốc để biết Việt Cộng yêu nước như thế nào. Có rất nhiều người yêu nước không phải là Việt Cộng: có thể kể đến như Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, sinh viên Nguyễn Thái Bình... Nhưng Việt Cộng là những người gan góc nhất, kiên cường nhất, bất khuất nhất trước sự dã man, tàn bạo của kẻ thù. Lịch sử nhà tù Phú Quốc và Côn Đảo đã chứng minh.

Chỉ có những kẻ mù lương tri, điếc lẽ phải và ung thư dối trá, mới phủ nhận điều đó.


Thứ ba, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về cách chiến đấu bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.

Thật là nực cười khi những kẻ tụt quần đu càng, bán Hoàng Sa cho Tàu lại lên tiếng hướng dẫn những người đã từng đánh bại thực dân Pháp, quét sạch phát-xít Nhật và tống cổ đế quốc Mỹ về nước, đập tan tập đoàn bành trướng Bắc Kinh ở biên giới phía Bắc, thần tốc tiêu diệt bè lũ Polpot (tay sai của Mỹ - Trung), rằng phải làm thế nào để bảo vệ chủ quyền lãnh hải.

Xin lỗi, kinh nghiệm đu càng hay nghệ thuật đu càng sao cho đu không rớt, càng không gãy, khi đu tè không ướt quần, các người cứ dạy lại cho con cháu các người học tập và làm theo. Còn chúng tôi thì không cần đâu nhé.

Thứ tư, các người hãy thôi nói về nhân quyền.

Những người đã từng đập vỡ cổ chai thuỷ tinh, đâm xoáy cổ chai thuỷ tinh vào cửa mình của thiếu nữ Nguyễn Thị Mai, sẽ là người mang đến nhân quyền cho phụ nữ Việt Nam? (Mời đọc Bài ca hi vọng, NXB Tổng hợp Tp.HCM).

Những người đã từng cưa sống 6 lần đôi chân của thanh niên Nguyễn Văn Thương, sẽ là người mang đến nhân quyền cho thanh niên Việt Nam? (Mời đọc Người bị CIA cưa chân 6 lần, NXB Tổng hợp Tp.HCM).

Việt Tân à.

Tôi khuyên các bạn nên dừng lại những trò lố bịch, kệch cỡm và vô sỉ.

Chúng tôi – những người Việt Nam yêu nước, những người Việt Cộng yêu nước tự biết phải làm gì để thay đổi những cái chưa tốt, phát huy những cái tốt ở quê hương chúng tôi. Chúng tôi không có cái khoái cảm đặc biệt khi làm tay sai cho ngoại bang như các bạn, nên các bạn đừng phiền công cuộc xây dựng, đổi mới của đất nước chúng tôi nữa nhé.

Nếu các bạn dừng lại, sám hối với Tổ Quốc, với nhân dân, chúng tôi vẫn xem các bạn là đồng bào. Nếu các bạn tiếp tục ngoan cố, thì chúng tôi đành xem các bạn là giặc vậy.

Thân chào,

Châu Đốc, ngày 30 tháng 4 năm 2015

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày các bạn tụt quần đu càng.

Phan Hưng Duy.

Nguồn: http://sachhiem.net/DOITHOAI/PHD.php

Thời Thổ Tả sưu tầm đăng lại từ Facebook của Phan Hưng Duy.

Cổ tích một nàng công chúa (18+)

Ngày xửa ngày xưa, nơi vương quốc Trái Đất, có một nàng công chúa xinh đẹp, kiều diễm vô cùng. Mái tóc nàng dài đến thắt lưng, óng ả, ngát hương bồ kết. Mắt nàng xanh biếc trong veo. Chiếc mũi cao thanh tú. Miệng trái tim thường mỉm nụ cười nhẹ nhàng, ý tứ. Thân hình nàng đầy đặn, căng tràn nhựa sống. Từng ngón tay, cử chỉ như chứa chan bao tình yêu mến, sự dịu dàng. Giọng nói ngọt ngào, réo rắt như tiếng lảnh lót của loài sơn ca. Nàng tên là Loài Người.

Đến tuổi trăng tròn, bao nhiêu chàng hoàng tử các vương quốc lân cận đến ngỏ lời cầu hôn. Nàng đều từ chối. Cho đến một hôm, tình yêu đầu đời, tiếng sét ái tình đã đánh vỡ thành trì chờ đợi chắn ngang trái tim nàng, để từng đợt sóng tình cuồn cuộn ùa vào làm lòng nàng mát rượi. Nàng đã chọn hoàng tử Duy Tâm, đến từ vương quốc Catholic xa xôi làm bến đỗ cuộc đời. 


Một thời gian sau, Duy Tâm lên ngôi hoàng đế. Những tưởng sẽ hạnh phúc, nào ngờ, vị hôn phu của nàng suốt ngày mải mê cầu nguyện một vị Thiên Chúa thần quyền toàn năng nào đó ở khung trời xa xăm, và vun vén bồi tụ quyền lực chính trị, chứ chẳng đoái hoài, quan tâm gì đến nàng. Trái tim nàng ngày một héo úa đi trong niềm hờ hững, lạnh nhạt vô tình của Duy Tâm hoàng đế. Có những đêm trường trằn trọc, tiếng nấc của nàng trong phòng đơn gối chiếc làm xốn xang đất trời, sông núi. Những dòng nhật ký thấm đượm nỗi bơ vơ, lạc lõng nhoè đi bởi những giọt lệ đài trang, cũng không khiến nàng nguôi ngoai đi… Một đêm nọ, khi nàng đã thiếp đi với đôi mắt sưng húp đẫm nước, cơn gió nghịch ngợm nào đó đã ùa vào phòng, thổi bay tờ nhật ký viết dở ra nơi cửa sổ. Thình lình, một chú chim bồ câu từ đâu bay đến gắp chặt lấy trang giấy và lao mình vút đi.

Bình minh đến, chân trời xa xăm ửng lên màu hồng của những lọn nắng đầu tiên. Hoàng đế Duy Vật của đất nước Vô Thần vừa thức giấc sau mấy đêm liền truy hoan, thác loạn với cung nữ để ăn mừng ngày chàng ngồi lên ngôi báu. Chàng lững thững mệt mỏi bước đi dọc hành lang cao của cung điện Vật Chất nguy ngoa lộng lẫy. Chợt chàng nghĩ đến những người bần cùng của xã hội đang ngày đêm rên xiết trong khi chàng lại hưởng thụ sự xa hoa sung sướng ngất trời. Nhưng chàng vội gạt phăng lòng trắc ẩn bẩn thỉu đó đi, vì cuộc sống này vốn là cuộc đua tranh giành như thế giới của loài dã thú hồng hoang, mạnh được yếu thua. Vật Chất có trước, độc lập với Ý Thức và quyết định Ý Thức. Nên chết là hết, không có Luân Hồi tái sinh nên cũng không có Nhân Quả nghiệp báo. Sống là để hưởng thụ, khẳng định mình, tô điểm cho cái tôi bản ngã của mình bằng sự tiêu thụ vật chất, kiếm tiền lời khen, sự trọng vọng của nhiều người. Vậy thì những gì chàng và bộ máy của chàng đang làm có gì là sai? Ánh mắt rắn rỏi bộc lộ vẻ ngạo nghễ lạnh lùng của chàng rảo quanh ngắm nhìn lãnh địa…

Bên trái là xưởng thuốc súng, vũ khí hoá học. Ở giữa là xưởng thuốc hoá dược chỉ chữa trị triệu chứng mà không chữa dứt gốc rễ bệnh, thậm chí sự can thiệp thô bạo vào cơ thể còn khiến người bệnh mất đi nguồn Chân Âm tiềm tàng, khả năng miễn dịch, năng lực tự phục hồi, mặc kệ, đó không phải là điều xấu đối với chàng, vì duy trì sức khoẻ chúng dân ở mức đủ để họ nô dịch vào chế độ do chàng cai trị là điều duy nhất mà chàng nhắm đến cho ngành y dược. Bên phải là xưởng sản xuất phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ để tận diệt nông nghiệp thuận tự nhiên đa canh luân canh cũ kĩ lạc hậu, buộc người nông dân phải làm thuê độc canh thâm canh trên chính mảnh đất của tiên tổ bao đời. Xa xa kia là viện nghiên cứu kỹ thuật biến đổi gen để đạt được sự thống trị tuyệt đối về lương thực thông qua bản quyền hạt giống. Tất cả đều là những ngành công nghiệp dựa trên sản phẩm chiết xuất của dầu khí. Chàng mỉm nụ cười nửa miệng đầy ác độc, tỏ vẻ hài lòng với vương quyền thống trị không gì có thể lay chuyển của mình. Chợt, một chú chim bồ cầu bay vụt qua mặt chàng rồi biến mất, để lại một tờ giấy đong đưa chong chênh giữa tầng không. Chàng với tay bắt lấy xem, rồi bật lên tiếng cười man rợ.

Vì sao tôi ngừng chê bai, chửi bới đất nước?

Xin chào mọi người.

Xin chào quý khán giả của kênh Giải độc chính trị.

Mình tên là Phan Hưng Duy, hôm nay mình làm video clip này để chia sẻ một chút quan điểm của mình về câu hỏi, “tại sao mình ngừng chê bai, chửi bới sự nghèo nàn, lạc hậu, bất toàn của quê hương đất nước?”. 


Cách đây mấy tháng, mình có đọc được một bài viết (status) trên trang của một người tên là Dưa Leo. Không nhớ rõ lắm là Dưa Leo hay Dưa Chuột. Đại ý là chê bai, giễu cợt sự nghèo nàn, lạc hậu của đất nước so với nhiều nước khác. Hành động đó của anh ta khiến mình chợt nhớ lại ngày xưa, khi mình mới biết lên mạng, cũng nghe đủ thứ chuyện không hay về quê hương đất nước. Quá trời nhiều người chê bai, chửi bới đất nước, đủ mọi luận điểm, chủ đề. Khiến mình sinh lòng, tự ti, mặc cảm, xấu hổ vì là người Việt Nam. Nhưng khi mình trưởng thành, chín chắn, điềm tĩnh hơn, mình mới chợt nhớ lại một lời dạy rất hay, rất đúng của ông bà, cha mẹ khi xưa, lúc mình còn nhỏ:

“Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”

Mình giật mình. Thì ra thái độ, quan điểm của mình lúc đó là hết sức bẳng, rất là đoản, nó không có trước không có sau, nó không có hậu, nó không có nghĩa tình và thậm chí nếu như nói một cách nghiêm khắc thì còn thua cả một con chó. Vì con chó nó trung thành lắm. Dù cho chủ có nhậu say nhậu xỉn về chửi bới, đánh đập nó cũng không bỏ đi, có khi người chủ tệ hại đó chết rồi nó còn mò ra mộ nằm ở đó chẳng muốn về.

Sau khi nhớ lại lời dạy của ông bà cha mẹ, mình mới hiểu rằng mình đã từng có những thái độ, quan điểm thua cả một con chó. Từ đó, mình suy nghĩ khác đi. Mình nhận hết, ôm hết những thiếu sót, bất toàn, hạn chế của quê hương đất nước vào trái tim mình, vào trách nhiệm của mình chứ không còn mở miệng lên mặt giễu cợt, vọng ngoại…

Dĩ nhiên, đây chỉ là tâm tình, quan điểm cá nhân, câu chuyện nhỏ của riêng mình thôi. Còn đối với những ai đó vẫn tiếp tục có thái độ thù địch, lên mặt chê bai, công kích, thoá mạ về những điều chưa hoàn thiện, bất toàn của quê hương đất nước.. trong khi thực tâm họ chưa làm được gì nhiều, đáng kể để cống hiễn dựng xây, thì mình không có ý kiến gì, họ có quyền tiếp tục “nói”, tự do “ngôn” luận mà.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...