Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P3

Sử dụng luân hồi (Karma) để bào chữa cho áp bức

Niềm tin trung tâm của chủ nghĩa Lạt ma là luân hồi số kiếp và nghiệp chướng (karma). Mỗi chúng sinh được cho là nơi cư ngụ của một linh hồn bất tử, được sinh ra và tái sinh nhiều lần. Sau mỗi cái chết, linh hồn được cho là đi vào một cơ thể mới.

Theo giáo lý luân hồi, mỗi linh hồn được cuộc sống nó xứng đáng: hành vi ngoan đạo dẫn đến luôn hồi tốt và khi nó đến kèm theo sự tăng tiến địa vị xã hội của kiếp sau. Hành vi vô đạo (tội lỗi) dẫn đến nghiệp kiếp xấu và cuộc sống tiếp theo có thể là một con côn trùng (hoặc phụ nữ).

Trong thực tế, không có cái gì giống như luân hồi. Người chết không trở lại trong cơ thể mới. Nhưng ở Tây Tạng, niềm tin vào thuyết luân hồi có hậu quả thực sự khủng khiếp. Dân chúng bị mê hoặc bởi thần bí Tây Tạng cần phải hiểu được chức năng xã hội phục vụ bởi những niềm tin Lạt ma bên trong Tây Tạng: Phật giáo Lạt ma đã được tạo ra, áp đặt và tồn tại để tiến hành áp bức phong kiến cực đoan lên người dân.

Lạt ma ngày nay kể lại câu chuyện của một vị vua Tây Tạng cổ đại, người muốn thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Nhà vua hỏi một vị học giả tôn giáo tại sao những nỗ lực của ông thất bại. "Nhà hiền triết được cho là đã giải thích với ông rằng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo không thể khép lại bằng vũ lực, vì các điều kiện của cuộc sống hiện tại luôn là hậu quả của các hành động trong cuộc sống kiếp trước, và do đó quá trình của mọi sự là không thể thay đổi theo ý muốn".

Grunfield viết: "Từ quan điểm hoàn toàn thế tục, thuyết này phải được xem là một trong những hình thức khéo léo và nguy hại nhất để kiểm soát xã hội từng được nghĩ ra. Để người Tây Tạng bình thường, chấp nhận thuyết này, cản trở khả năng có bao giờ thay đổi mình hoặc số phận của mình trong cuộc đời này. Nếu một người sinh ra là nô lệ, thì học thuyết luân hồi dạy, đó không phải là lỗi của chủ nô mà là bởi làm nô lệ do chính mình đã phạm phải một số lỗi lầm trong cuộc đời kiếp trước. Đến lượt mình, chỉ đơn giản là chủ nô được khen thưởng cho những việc làm tốt trong kiếp trước. Đối với các nô lệ cố gắng phá vỡ xiềng xích trói buộc mình, anh ta hoặc cô ta, sẽ tương tự như tự kết án vào kiếp tái sinh một cuộc sống tồi tệ hơn cuộc đời đang sống đã thực sự phải chịu đựng. Đây chắc chắn không phải là thứ mà một cuộc cách mạng được thực hiện".

Phong kiến Tây Tạng - trụ trì Lạt ma dạy người ta rằng Lạt ma đứng đầu của họ là một vị thần-vua- kẻ cai quản duy nhất và hệ thống chó-ăn- chó là yêu cầu của các hoạt động tự nhiên vũ trụ.Những hoang đường và mê tín dị đoan dạy rằng không thể có sự thay đổi xã hội, đau khổ là hợp lý, và để kết thúc đau khổ mỗi người phải kiên nhẫn chịu đựng đau khổ. Điều này gần như là chính xác những gì Giáo hội Công giáo thời trung cổ châu Âu dạy dân chúng - để bảo vệ hệ thống phong kiến tương tự.

Cũng như trong thời trung cổ châu Âu, phong kiến Tây Tạng đã chiến đấu để đàn áp bất cứ điều gì có thể làm suy yếu hệ thống "kín" này. Tất cả các nhà quan sát đồng ý rằng, trước cách mạng Mao, không có tạp chí, sách in, hay văn học phi tôn giáo của bất kỳ loại nào ở Tây Tạng. Tờ báo ngôn ngữ Tây Tạng duy nhất được xuất bản ở Kalimpong bởi một giáo sĩ Tây Tạng chuyển đạo sang Ki-tô. Nguồn tin tức về thế giới bên ngoài là khách du lịch và độ 2 chục đài radio sóng ngắn được sở hữu bởi các thành viên của giai cấp cầm quyền.

Quần chúng hình thành văn hóa dân gian, nhưng ngôn ngữ viết bị dành riêng cho các giáo lý tôn giáo và các tranh tụng. Số đông quần chúng và có lẽ hầu hết các nhà sư bị cấm đoán hoàn toàn mù chữ. Giáo dục, tin tức bên ngoài và thử nghiệm bị coi là đáng ngờ và có hại.

Giới biện hộ của Lạt ma hành xử như thể tôn giáo này là cốt lõi văn hóa (và thậm chí là cả sự tồn tại) của người dân Tây Tạng. Điều này không đúng. Giống như mọi thứ trong xã hội và tự nhiên, Phật giáo Lạt Ma đã có một khởi đầu và sẽ có một kết thúc. Có nền văn hóa và ý thức hệ ở Tây Tạng trước Lạt ma. Sau đó, thứ văn hóa phong kiến và tôn giáo này nảy sinh cùng với bóc lột phong kiến. Không thể tránh khỏi rằng văn hóa Lạt ma sẽ tiêu tan cùng với những mối quan hệ phong kiến.

Trong thực tế, khi cuộc cách mạng Mao đến năm 1950, hệ thống này đã được mục nát từ bên trong. Thậm chí Đạt Lai Lạt Ma thừa nhận rằng dân số Tây Tạng đã bị suy giảm. Người ta ước tính có khoảng 10 triệu người Tây Tạng 1.000 năm trước, khi Phật giáo lần đầu tiên được đưa vào đây, khi cách mạng Mao chỉ có 2 hoặc 3 triệu người Tây Tạng. Có ước tính rằng sự sụt giảm đã tăng tốc: dân số đã bị giảm đi một nửa trong 150 năm qua.

Hệ thống Lạt ma chất gánh nặng lên dân chúng cùng với bóc lột thô bạo. Nó ép buộc gánh nặng đặc biệt để chống đỡ cho hệ thống giáo sĩ rất lớn, sống ký sinh, không tái tạo, bao gồm 200.000 ngàn giáo sĩ chiếm mất 20% hoặc hơn nam thanh niên trong vùng. Hệ thống này áp bức sự phát triển của lực lượng sản xuất: ngăn chặn sử dụng cày sắt, khai thác than hoặc nhiên liệu, thu hoạch cá, cấm các trò chơi, y tế và đổi mới/vệ sinh bất cứ hình thức nào. Đói, vô sinh do bệnh hoa liễu, và đa phu kìm chế tỷ lệ sinh thấp.

Huyền bí bao bọc quanh Lạt ma không thể che giấu rằng xã hội Tây Tạng cũ là một chế độ độc tài của chủ sở hữu nông nô đối với nông nô. Không có gì để lãng mạn hóa về xã hội này. Nông nô và nô lệ cần một cuộc cách mạng!


Tây Tạng gặp Cách mạng Mao


Qua các thập niên 1930 và 1940, chiến tranh nhân dân cách mạng đã dâng lên trong số các nông dân ở trung tâm Trung Hoa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Mao Trạch Đông, cuộc cách mạng giành được thắng lợi trên toàn quốc và những vùng đông dân ở phía đông Trung Hoa năm 1949. Khi đó, Mỹ bắt đầu mưu đồ ở biên giới phía Bắc Trung Quốc với Triều Tiên, và đế quốc Pháp đã tiến hành cuộc xâm lược thực dân vào Việt Nam dọc biên giới phía nam Trung Quốc. Rõ ràng, các nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mao đã háo hức để giải phóng người bị áp bức ở khắp mọi nơi ở Trung Quốc, và để lái các mưu đồ nước ngoài ra xa khỏi khu vực biên giới Trung Quốc.

Nhưng Tây Tạng đặt ra một vấn đề cụ thể: Năm 1950, khu vực rộng lớn này đã được gần như bị hoàn toàn bị cô lập với cơn lốc cách mạng, quét qua phần còn lại của Trung Quốc. Hầu như không có người cộng sản Tây Tạng. Không có cơ sở cộng sản trong số các nông nô Tây Tạng. Trên thực tế, các nông nô Tây Tạng không có ý tưởng một cuộc cách mạng đang diễn ra ở những nơi khác trên đất nước họ, hay thậm chí là những thứ như các "cuộc cách mạng" là có thể.


Sự kìm kẹp của hệ thống Lạt ma và tôn giáo của nó là vô cùng mạnh ở Tây Tạng. Không thể bị phá vỡ chỉ đơn giản bằng diễu hành của quân đội cách mạng phần lớn có gốc Hán và "tuyên bố" chế độ phong kiến Tây Tạng phải bị bãi bỏ! Mao loại bỏ cách tiếp cận “chỉ huy” "làm mọi việc mang danh quần chúng". Cuộc cách mạng của chủ nghĩa Mao dựa vào quần chúng.

Dân Tây Tạng trong trang phục truyền thống mang theo ảnh các lãnh đạo Trung Quốc: Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cùng với tác phẩm điêu khắc bơ - theo truyền thống được tạo ra trong các tu viện Tây Tạng như là một hành động của lòng sùng kính, thường được thực hiện cùng với bức tranh tôn giáo. Hình ảnh này hay xuất hiện trên các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc.


Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P2

Các tu viện: Thành trì của chế độ phong kiến


Giới biện hộ cho Tây Tạng cũ miêu tả Phật giáo Lạt Ma như cốt lõi của nền văn hóa nhân dân Tây Tạng. Nhưng thực sự nó không gì hơn ít nhiều là hệ tư tưởng của một hệ thống xã hội đặc trưng đàn áp. Tôn giáo Lạt ma tự nó đã cổ lỗ lạc hậu như chính xã hội phong kiến. Vua Tây Tạng đầu tiên, Tùng Tán Cán Bố (Songsten-Gampo), thiết lập hệ thống phong kiến thống nhất ở Tây Tạng, khoảng năm 650 ông ta kết hôn với công chúa Trung Hoa và Nepal để học hỏi từ họ cách thi hành chế độ phong kiến ở bên ngoài Tây Tạng. Những cô công chúa này mang Phật giáo Mật tông đến Tây Tạng, nó được hòa trộn với tín ngưỡng vật linh trước đó để ra dời một tôn giáo mới, chủ nghĩa Lạt Ma (Lamaism).

Tôn giáo mới này được áp đặt lên dân chúng trong thế kỷ sau và một nửa là bởi sử dụng bạo lực của giai cấp cầm quyền. Vua Ngật-lật-song Đề-tán (Trosong Detsen 742-798) ra lệnh: "Ai giơ ngón tay với nhà sư sẽ bị cắt ngón tay; kẻ nói xấu các nhà sư và chính sách Phật giáo của nhà vua sẽ bị cắt môi, đứa ngờ vực vào họ sẽ bị móc mắt".

Giữa những năm 1400-1600, củng cố quyền lực đẫm máu đã diễn ra, các chưởng tu viện lớn nhất nắm quyền toàn bộ. Bởi vì những chưởng tu viện này thi hành chính sách độc thân chống phụ nữ, hệ thống chính trị mới của họ không thể hoạt động bằng cách kế vị họ tộc cha-con.Vì vậy, các Lạt ma đã cho ra đời học thuyết tôn giáo mới của họ: thông báo rằng họ có thể phát hiện trẻ em sơ sinh là hóa thân đầu thai của Lạt ma cai trị đã chết. Hàng trăm vị Lạt Ma đầu đã được tuyên bố là "Hoạt Phật" (Bồ Tát sống), kẻ được cho là đã trị vì những kẻ khác trong nhiều thế kỷ, chuyển sang cơ thể mới đôi khi như là rời bỏ cơ thể cũ già nua.

Biểu tượng trung tâm của hệ thống này, là những kẻ nam khác nhau được gọi là Đạt Lai Lạt Ma, được tuyên là thần siêu nhiên Quán Thế Âm (Chenrezig), chỉ đơn giản là xuất hiện trở lại trong hình dạng 14 cơ thể khác nhau qua mấy thế kỷ. Trong thực tế, chỉ có 3 trong số 14 vị Đạt Lai Lạt Ma thực sự nắm quyền cai trị. Giữa các năm 1751-1950, 77% thời gian không có Đạt Lai Lạt Ma người lớn lên ngôi ở Tây Tạng. Các chưởng tu viện mạnh nhất cai trị Tây Tạng với vai trò cố vấn "nhiếp chính", những kẻ đào tạo, thao túng và thậm chí ám sát vua-trẻ em làm Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Tu viện Tây Tạng không phải là thánh thần, thiên đường huyền ảo Shangrilas từ bi, như trong một số tưởng tượng thời đại mới. Các tu viện này là pháo đài đen tối của chủ nghĩa bóc lột phong kiến, chúng là các làng tu hành vũ trang hoàn chỉnh với kho quân sự và quân đội riêng. Khách hành hương đến một số đền thờ để cầu nguyện cho một cuộc sống tốt hơn. Nhưng hoạt động chính của tu viện là cướp bóc nông dân xung quanh. Các giáo nhà sư của tôn giáo rất nhàn rỗi chỉ trồng 1 ít lương thực là gánh nặng lớn đối với dân chúng.

Các tu viện lớn nhất có hàng ngàn nhà sư. Mỗi tu viện "cha" lập ra hàng chục (thậm chí hàng trăm) thành trì lớn nhỏ khác rải khắp các thung lũng. Ví dụ, tu viện Drepung chứa 7.000 nhà sư và sở hữu 40.000 người trên 185 cơ sở và 300 đồng cỏ khác nhau.

Các tu viện cũng đặt ra vô số thứ thuế tôn giáo để cướp bóc dân chúng bao gồm các loại thuế cắt tóc, thuế cửa sổ, thuế ngưỡng cửa, thuế trẻ em sơ sinh hoặc bê mới sinh, đánh thêm thuế vào trẻ sơ sinh có mắt 2 mí và cứ như thế. Một phần tư thu nhập của tu viện Drepung đến từ lãi tiền cho vay ở nông nô và nông dân.Các tu viện cũng đòi các nông nô giao nộp nhiều thanh niên để phục vụ như nhà tu trẻ em.

Quan hệ giai cấp của Tây Tạng cũng bị sao chép bên trong tu viện: phần lớn các nhà sư là nô lệ và gia nô cho sư cụ chủ trì bề trên, họ sống nửa chết đói vì lao động chân tay, cầu nguyện tụng kinh và bị đánh đập. Sư bề trên có thể buộc các nhà sư nghèo tham gia các kỳ sát hạch tôn giáo của họ hoặc phục dịch các hoạt động tình dục. Trong giáo phái Tây Tạng mạnh nhất, tình dục đồng tính được coi là dấu hiệu của sự thánh thiện xa rời phụ nữ. Một phần trăm nhỏ các nhà tu là nữ.

Sau giải phóng, Anna Louise Strong hỏi một nhà sư trẻ, Lobsang Tele, về cuộc sống tu viện theo lời Phật dạy về lòng từ bi. Lạt ma trẻ trả lời rằng ông đã nghe nhiều chuyện trong hội thánh đường về lòng tốt đối với tất cả các sinh linh, nhưng cá nhân ông đã bị đánh đập ít nhất một nghìn lần. "Nếu ai đó trong giới Lạt ma bề trên kìm chế đánh đập bạn", ông nhấn mạnh, “nghĩa là đã rất tốt rồi. Tôi chưa bao giờ thấy một Lạt ma bề trên cho thức ăn bất kỳ vị Lạt ma nghèo bị đói nào. Họ đối xử với giáo dân, những người là tín hữu chỉ là xấu xa hay thậm chí tệ hại hơn thế."

Thời này, vị Đạt Lai Lạt Ma được "đóng gói" quốc tế như một kẻ thánh thiện không mang vật chất. Trong thực tế, Đức Đạt Lai Lạt Ma là chủ sở hữu nông nô lớn nhất ở Tây Tạng. Về mặt pháp lý, ông ta sở hữu toàn bộ đất nước và tất cả mọi người dân trong đó. Thực sự, gia đình ông ta trực tiếp cai quản 27 trang viên, 36 đồng cỏ, 6.170 nông nô làm việc trên cánh đồng và 102 nô lệ làm việc nhà.

Khi ông ta di chuyển từ cung điện đến cung điện, Đạt Lai Lạt Ma cưỡi trên một chiếc ngai vàng do hàng chục nô lệ khênh. Quân đội của ông ta hành quân theo sau và hát "đó là một chặng đường dài đến xứ đạo Tipperary", một giai điệu bắt chước học từ các giảng viên đế quốc Anh của họ. Trong khi đó, vệ sĩ của Đạt Lai Lạt Ma, cao to hơn tất cả, cầu vai độn và roi dài, đánh người đi trệch khỏi đường. Nghi lễ này được mô tả trong chính cuốn tự truyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Lần đầu tiên ông ta trốn sang Ấn Độ là vào năm 1950, các cố vấn của Đạt Lai Lạt Ma gửi vài trăm con la chất đầy vàng và bạc thỏi đến trước để đảm bảo cho ngài sự tiện nghi thoải mái trong cuộc sống lưu vong. Sau lần thứ hai ông ta bỏ chạy, năm 1959, Tờ Bắc Kinh báo cáo rằng gia đình ông ta đã bỏ lại rất nhiều vàng và bạc, cộng với 20.331 đồ trang sức và 14.676 bộ quần áo.

Đói nghèo đắng cay và chết sớm


Dân chúng Tây Tạng  sống trong triền miên đói và lạnh. Nông nô không ngừng thu thập gỗ quý cho các chủ nhân. Nhưng những túp lều của họ chỉ được làm nóng bởi ngọn lửa nấu ăn nhỏ nhoi từ phân bò. Trước cuộc cách mạng không có điện ở Tây Tạng. Bóng tối chỉ được chiếu sáng bởi ngọn đèn leo lét thắp bằng mỡ bò.

Nông nô thường bị bệnh suy dinh dưỡng. Các món ăn truyền thống của dân chúng  chúng là một thứ bột loãng làm từ trà, bơ bò, và bột lúa mạch được gọi là tsampa. Nông nô hiếm khi được ăn thịt. Một nghiên cứu năm 1940 ở miền đông Tây Tạng thấy rằng 38% hộ gia đình không bao giờ có bất kỳ ít trà nào và chỉ uống các loại thảo mộc hoang dã hay "trà trắng" (nước sôi). 75% các hộ gia đình buộc phải ăn cỏ nhiều lần. Một nửa số dân không đủ khả năng có được bơ, là nguồn đạm chính có sẵn.

Trong khi đó, một ngôi đền lớn là Jokka Kang, đốt cháy 4 tấn bơ (mỡ) bò được cúng hàng ngày. Người ta ước tính rằng 1/3 tất cả các mỡ bò sản xuất ra ở Tây Tạng đã tan thành khói trong gần 3.000 ngôi chùa, không kể đến trong mỗi ngôi nhà nhỏ để thắp sáng.

Trong Tây Tạng cũ, không có gì được biết về vệ sinh cơ bản, hay giữ vệ sinh, hoặc thực tế vi trùng là thứ gây bệnh. Đối với những người bình thường, không có nhà xí, cống thoát nước hay nhà vệ sinh. Các Lạt ma dạy rằng bệnh tật và cái chết là do tội lỗi "nghịch đạo". Họ nói rằng tụng kinh, vâng lời, trả tiền cho nhà sư và nuốt các cuộn giấy cầu nguyện là được bảo vệ thực sự khỏi bệnh tật.

Mê tín dị đoan cũ ở Tây Tạng, thực hành phong kiến và lực lượng sản xuất thấp kém gây ra vấn nạn khủng khiếp về bệnh tật. Hầu hết trẻ em chết trước khi qua năm đầu tiên. Thậm chí hầu hết các Đạt Lai Lạt Ma đã không sống qua đến năm 18 tuổi và đã chết trước khi làm lễ đăng quang. Một phần ba dân số mắc bệnh đậu mùa. Một trận dịch bệnh đậu mùa năm 1925 đã giết chết 7.000 người ở thủ đô Lhasa. Người ta không biết bao nhiêu đã chết ở nông thôn. Bệnh phong, bệnh lao, bướu cổ, uốn ván, mù lòa và lở loét là rất phổ biến. Phong tục tình dục phong kiến làm lây lan bệnh hoa liễu, bao gồm cả trong các tu viện. Trước cách mạng, khoảng 90% dân số bị lây nhiễm các bệnh vô sinh và gây tử vong. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, cuộc cách mạng đã làm giảm đáng kể các bệnh tật nhưng nó đòi hỏi đấu tranh giai cấp khốc liệt chống lại các Lạt ma và mê tín dị đoan tôn giáo. Các nhà sư phản đối kịch liệt thuốc kháng sinh và các chiến dịch sức khỏe cộng đồng, họ nói rằng đó là tội lỗi vì giết chết chấy rận hay thậm chí là giết chết vi trùng! Các nhà sư tố cáo Quân đội Giải phóng nhân dân đã loại bỏ các đàn chó hoang đổng đảo, các con chó dại bị nhiễm bệnh và là nỗi sợ hãi của người dân trên khắp Tây Tạng. Tuy nhiên, thật nực cười là ngày nay, một trong những "tội lỗi" của cuộc cách mạng Mao là "giết chó"!

Bạo Lực của các Lạt ma


Trong Tây Tạng cũ, tầng lớp bề trên rao giảng bất bạo động của Phật giáo thần bí. Nhưng giống như tất cả các tầng lớp cầm quyền trong lịch sử, họ thi hành bạo lực phản động để duy trì quyền lực.

Hệ thống Lạt ma của chính phủ ra đời thông qua cuộc đấu tranh đẫm máu. Các Lạt ma sớm bị cho là đã ám sát nhà vua Tây Tạng cuối cùng, Lang Darma, trong thế kỷ 10. Sau đó, họ đã chiến đấu nhiều cuộc nội chiến, hoàn thành với các cuộc tàn sát lẫn nhau thanh toán toàn bộ một tu viện.Trong thế kỷ 20, Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 được đưa đến nước Anh đế quốc để huấn luyện hiện đại hóa quân đội quốc gia của mình. Ông ta thậm chí còn cung cấp một số quân để giúp Anh trong Thế chiến I.

Chỉ riêng những sự kiện lịch sử đã đủ để chứng minh rằng học thuyết Lạt ma về "từ bi" và "bất bạo động" là đạo đức giả.

Giai cấp cầm quyền cũ phủ nhận có đấu tranh giai cấp trong Tây Tạng. Một báo cáo điển hình bởi Gyaltsen Gyaltag, đại diện của Đạt Lai Lạt Ma ở châu Âu, nói: "Trước năm 1950, người Tây Tạng không bao giờ gặp nạn đói, bất công xã hội và không bao giờ dẫn đến một cuộc nổi dậy của nhân dân." Đúng là có rất ít ghi chép về đấu tranh giai cấp. Lý do là chủ nghĩa Lạt ma đã ngăn chặn mọi lịch sử thực viết ra về nó. Chỉ có tranh chấp về tín điều tôn giáo được ghi chép lại.

Nhưng những ngọn núi Tây Tạng đầy các tên cướp chạy trốn, và mỗi trang trại có các binh lính vũ trang riêng của mình. Chỉ điều này đã là bằng chứng vững chắc vạch rõ tình trạng xã hội Tây Tạng và các mối quan hệ quyền lực trong đó, cuộc đấu tranh có khi công khai, đôi lúc ngấm ngầm.

Các nhà sử học cách mạng đã ghi nhận các cuộc nông nô nổi dậy ở Tây Tạng vào các năm 1908, 1918, 1931, và những năm 1940. Trong một cuộc nổi dậy nổi tiếng, 150 gia đình nông nô của quận Thridug phía bắc Tây Tạng đứng lên năm 1918, dẫn đầu bởi một phụ nữ, Hor Lhamo. Họ giết kẻ đứng đầu quận, với khẩu hiệu: "Đả đảo các quan chức! Bãi bỏ mọi lao động cưỡng bức ulag!".

Bạo lực hàng ngày trong Tây Tạng nhắm vào số đông quần chúng. Mỗi chủ nô trừng phạt nông nô "của mình", và tổ chức các băng nhóm vũ trang để thực thi quy tắc của mình. Quản đội của các nhà sư đánh đập người dân. Chúng được gọi là "thanh sắt" vì các thanh kim loại lớn chúng mang đến để đập người.

Đó là phạm tội khi "bước ra khỏi vị trí" của mình như săn bắt cá hay cừu hoang mà các Lạt ma tuyên bố là "thiêng liêng". Thậm chí còn là phạm tội với một nông nô khi kháng cáo quyết định của ông chủ đến một số chức trách. Khi nông nô bỏ trốn, băng nhóm của chủ đi săn tìm họ. Mỗi chủ đất có nhà ngục riêng và phòng tra tấn riêng của mình. Hạt tiêu bị buộc dưới mí mắt, gai buộc dưới móng tay. Nông nô bị xích 2 chân bằng xích ngắn và được thả để đi lang thang tập tễnh trong phần còn lại của cuộc đời họ.

Grunfeld viết: "tín ngưỡng Phật giáo ngăn cản việc giết chết sự sống, do đó đòn roi một kể đến gần chết và sau đó thả ra để chết ở đâu đó cho phép giới quan lại Tây Tạng phán xét một cái chết là “hành động của Thượng đế". Hình thức trừng phạt tàn bạo khác bao gồm cắt đứt cổ tay, sử dụng que sắt nóng đỏ để khoét mắt, treo bằng các ngón tay; Và để làm tê liệt kẻ có tội, đút anh ta vào một chiếc túi và ném xuống sông".

Như dấu hiệu sức mạnh của các vị Lạt ma, nghi lễ truyền thống sử dụng các bộ phận cơ thể của những người đã chết: sáo làm từ xương đùi người, bát làm bằng sọ, trống làm từ da người. Sau cuộc cách mạng, một chuỗi tràng hạt được tìm thấy trong cung điện Đức Đạt Lai Lạt Ma được làm từ 108 chiếc sọ khác nhau. Sau giải phóng, các nông nô thông báo rộng rãi rằng các vị Lạt Ma tham gia vào nghi lễ hiến tế người sống bao gồm cả trẻ em nông nô sống trong các tu viện ngầm.Cựu nông nô làm chứng rằng ít nhất 21 người đã bị hiến tế bởi các nhà sư vào năm 1948 với hy vọng ngăn chặn chiến thắng của cuộc cách mạng chủ nghĩa Mao.

Một thầy tu Tây Tạng tay đang cầm trống da người gọi là Damaru và sáo xương đùi người gọi là Rkang-gling.


Bộ mặt thật của Đạt Lai Lạt Ma - P1

PHẦN I



Đây là bối cảnh của cuộc đấu tranh ở Tây Tạng và làm thế nào mà Mỹ đã dựng Đạt Lai Lạt Ma để theo đuổi cuộc đấu tranh ý thức hệ của họ. Ở Mỹ nhiều người không hiểu rõ đã kinh ngạc bởi triết lý của ông ta về "hòa bình" và "bất bạo động". Bài viết này sẽ vạch trần sự thật với màu sắc thực và mục đích của Lạt Ma, tại sao Mỹ đã cho ông ta giải Nobel và nhiều hơn nữa. Tác giả Kalovski Itim - câu chuyện thật của cuộc cách mạng chủ nghĩa Mao ở Tây Tạng, trong khi các Đạt Lai Lạt Ma cai trị: địa ngục trên Trái đất.

Đây là triết lý “bất bạo động của Đạt Lai Lạt Ma. Ông ta không bắn để giết, chỉ bắn vì sợ diều hâu: “Tôi nuôi những con chim, những con chim hòa bình. Tôi không phải là kẻ bạo lực, nhưng nếu diều hâu đến khi tôi đang cho chim ăn, tôi mất sự chịu đựng và cầm lấy súng.”

Có thật nhà sư khoác áo cà sa Đạt Lai Lạt Ma đấu tranh đòi tự do dân chủ cho nhân dân Tây Tạng? Không! ông ta đấu tranh để duy trì ách thống trị phong kiến hà khắc của triều đại Đạt Lai.

Media phương Tây đã che đậy bộ mặt thật của vị nhà sư đi giày hiệu Gucci ngàn đô này quá lâu!  

Khí hậu khắc nghiệt, Xã hội tàn nhẫn

Tây Tạng (Tibet) là một trong những nơi xa xôi nhất trên thế giới. Nó nằm trên dãy núi cao nguyên heo hút giữa lục địa châu Á. Cắt rời khỏi Nam Á bởi dãy Himalaya, với những ngọn núi cao nhất thế giới. Vô số những hẻm núi sâu và ít nhất 6 dãy núi khác cô lập khu vực này trong những thung lũng cô quạnh. Trước khi tất cả mọi thay đổi mang lại sau khi cuộc cách mạng Trung Quốc năm 1949, không có đường giao thông ở Tây Tạng mà xe cộ có thể đi lại. Tất cả các lối mòn quá quanh co nguy hiểm theo dấu những con la núi, vết chân bò. Thương mại, thông tin liên lạc và chính phủ trung ương đã gần như không thể duy trì.

Phân bò là chất đốt chính!

Hầu hết Tây Tạng là thảo nguyên núi trọc. Không khí rất loãng. Hầu hết các loại cây trồng và cây gỗ không phát triển ở đây. Trồng cây lương thực hay tìm củi đốt đã là cả một cuộc vật lộn. Tại thời điểm cách mạng, người Tây Tạng đã vô cùng tản mát, khoảng 2 hoặc 3 triệu người sống trong một khu vực rộng bằng một nửa kích thước nước Mỹ, khoảng 1,5 triệu dặm vuông. Làng mạc, tu viện và các ngôi lều du mục thường ngăn cách bằng nhiều ngày đi lại khó khăn.

Cách mạng chủ nghĩa Mao đã thấy ở Tây Tạng có "Ba Đại Thiếu": thiếu nhiên liệu, thiếu thông tin liên lạc, và thiếu người. Các nhà cách mạng phân tích rằng "Ba Đại Thiếu" này chủ yếu không phải là do điều kiện vật chất, mà là do hệ thống xã hội. Họ nói "Ba Đại Thiếu" gây ra bởi "Ba Giàu Có" trong xã hội Tây Tạng: "Giàu nghèo đói, phong phú áp bức và thừa thãi sợ hãi siêu nhiên".

Xã hội thứ bậc tại Tây Tạng cũ


Tây Tạng là một xã hội phong kiến trước những thay đổi mang tính cách mạng bắt đầu vào năm 1949. Có hai nhóm chính: các nông nô và các quí tộc chủ sở hữu nông nô. Những người dân sống như nông nô ở châu Âu "Kỷ nguyên bóng tối", hay nô lệ châu Phi và lĩnh canh ở miền Nam nước Mỹ.

Nông nô Tây Tạng xoay sở thu hoạch lúa mạch trên nền đất cứng với cái cày bằng gỗ và liềm. Dê, cừu và bò Tây Tạng được nuôi để lấy sữa, bơ, pho mát và thịt. Các bậc quý tộc và thầy tu sở hữu dân chúng, đất đai và hầu hết các loài động vật. Họ bắt nông nô giao nộp hầu hết mùa màng thu hoạch được và áp đặt mọi loại lao động cưỡng bức (gọi là ulag). Trong số các nông nô, cả nam giới và phụ nữ đều tham gia lao động nặng, gồm cả ulag. Các dân tộc du mục rải rác trong vùng cao nguyên phía tây khô cằn của Tây Tạng cũng bị sở hữu bởi các lãnh chúa và các Lạt Ma.

Anh trai của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Thubten Jigme Norbu tuyên bố rằng trong trật tự xã hội Lạt ma, "Không có hệ thống giai cấp và sự thay đổi từ giai cấp này sang giai cấp khác làm cho bất kỳ giai cấp nào cũng không thể có định kiến." Nhưng sự thật ngược lại, toàn bộ sự tồn tại của xã hội tôn giáo này dựa trên một hệ thống thứ bậc cứng nhắc và tàn bạo.

Nông nô bị đối xử khinh miệt là "thấp kém" theo cách người da Đen bị đối xử ở châu Mỹ. Họ không thể ngồi cùng một chỗ, sử dụng cùng từ vựng hoặc đồ dùng ăn uống như các chủ nô. Thậm chí chạm vào một trong những đồ đạc của chủ có thể bị trừng phạt bằng trận đòn. Các chủ nhân ông và nông nô đã quá xa cách nhau đến nỗi trong Tây Tạng họ nói hai thứ ngôn ngữ khác nhau.

Thành một phong tục là nông nô phải quỳ bốn chân để ông chủ của mình có thể dẵm trên lưng để trèo lên ngựa. Học giả Tây Tạng A. Tom Grunfeld mô tả cách một cô gái thuộc tầng lớp thống trị hàng ngày có các người hầu chỉ để bế cô ta lên xuống cầu thang vì lười biếng. Các ông chủ thường cưỡi trên lưng nông nô để qua sông.

Điều duy nhất tồi tệ hơn nông nô ở Tây Tạng là "nô lệ bị sở hữu", đó là những người không có quyền thậm chí là để trồng một ít cây cho mình. Các nô lệ thường bị bỏ đói, bị đánh đập và làm việc cho đến chết. Chủ nô có thể biến một nông nô thành nô lệ bất cứ lúc nào hắn ta muốn. Trẻ em thường bị đem bán ở thủ đô Lhasa của Tây Tạng. Khoảng 5% người dân Tây Tạng được tính là nô lệ bị sở hữu. Và ít nhất thêm 10% là các nhà sư nghèo cũng thực sự là "nô lệ trong bộ áo choàng".

Hệ thống Lạt ma đã cố gắng để ngăn chặn bất kỳ lối thoát nào. Nô lệ chạy trốn không thể lập các trang trại tự do ở các vùng đất trống rộng lớn. Cựu nông nô giải thích cho nhà văn Anna Louise Strong rằng trước giải phóng, "bạn không thể sống ở Tây Tạng mà không làm một ông chủ. Bất cứ ai cũng có thể bắt bớ bạn như một tội phạm, trừ khi bạn đã có một chủ sở hữu hợp pháp."

Sinh con gái là sự trừng phạt tội lỗi quá khứ?


Đạt Lai Lạt Ma viết: "Ở Tây Tạng không có sự phân biệt đối xử đặc biệt đối với phụ nữ." Nhà viết tiểu sử được ủy quyền của Đạt Lai Lạt Ma là Robert Hicks cho rằng phụ nữ Tây Tạng vừa lòng với vị thế của họ và "ảnh hưởng của chồng". Nhưng ở Tây Tạng, sinh ra một người phụ nữ bị coi là sự trừng phạt vì hành vi "vô đạo" (tội lỗi) trong kiếp sống trước kia. Thuật ngữ "phụ nữ" ở Tây Tạng cũ, là “kiemen”, có nghĩa là "sinh đẻ thấp kém". Phụ nữ bị dạy cầu nguyện: "Tôi có thể từ chối một cơ thể nữ nhi và được sinh một nam nhi".

Mê tín dị đoan Lạt ma đánh đồng phụ nữ với cái ác và tội lỗi. Người ta nói "trong mười phụ nữ sẽ tìm thấy chín con quỷ". Bất cứ cái gì phụ nữ chạm vào đều bị coi là thối tha – vì thế mọi thứ cấm kỵ đều bị áp đặt lên phụ nữ. Phụ nữ bị nhiều cấm đoán, Han Suyin viết, "Không một phụ nữ nào được phép chạm vào đồ đạc của một vị Lạt ma, cũng không được dựa vào tường, hoặc  là 'bức tường sẽ đổ". Góa phụ là đáng khinh, là ma quỷ. Không phụ nữ nào được phép sử dụng công cụ bằng sắt hoặc chạm vào sắt. Tôn giáo cấm họ ngước mắt cao quá đầu gối đàn ông, như nông nô và nô lệ không được phép nhìn mặt các nhà quý tộc hay Lạt ma vĩ đại".

Tu sĩ của giáo phái chính Phật giáo Tây Tạng từ chối chung chạ xác thịt (hoặc thậm chí tiếp xúc) với phụ nữ, như một phần trù định của họ để được thành linh thiêng. Trước cách mạng, không có phụ nữ nào từng đặt chân vào hầu hết các tu viện hay các cung điện của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Có những báo cáo phụ nữ đã bị thiêu cháy chỉ vì sinh đôi hay vì thực hành tôn giáo truyền thống có trước Phật giáo (gọi là Bon). Cặp song sinh được coi là bằng chứng cho thấy phụ nữ đã giao phối với một linh hồn ma quỷ. Các nghi lễ và y học dân gian Bon bcoi là "phù thủy". Như trong các xã hội phong kiến khác, phụ nữ tầng lớp trên được gả bán vào các hôn nhân sắp đặt. Phong tục cho phép người chồng có thể cắt đứt chóp mũi vợ mình nếu phát hiện ngủ với người đàn ông khác. Chế độ gia trưởng bao gồm đa thê, khi một người đàn ông giàu có thể có nhiều vợ, và đa phu, nơi mà gia đình quý tộc nghèo một phụ nữ có thể bị buộc phải làm vợ cho một số anh em.

Ở các tầng lớp thấp hơn, đời sống gia đình tương tự như chế độ nô lệ ở miền Nam nước Mỹ. Nông nô không thể kết hôn hoặc để lại gia sản mà không có sự cho phép của chủ. Các ông chủ chuyển nông nô từ điền trang này sang cái khác theo ý muốn, phá vỡ gia đình họ vĩnh viễn. Hiếp dâm phụ nữ nông nô là phổ biến dưới hệ thống ulag, lãnh chúa có thể lấy phụ nữ nông nô làm "vợ tạm thời".

Ba Chủ nhân


Người Tây Tạng gọi giới cai trị họ là "Ba Ông chủ lớn", bởi vì giai cấp cầm quyền của chủ sở hữu nông nô đã được thiết lập thành ba tổ chức: các tu viện Lạt ma chiếm cứ 37% diện tích đất canh tác và đồng cỏ Tây Tạng; tầng lớp quý tộc thế tục giữ 25% và phần còn lại 38% nằm trong tay các quan chức chính phủ được bổ nhiệm bởi các cố vấn của Đạt Lai Lạt Ma.

Khoảng 2% dân số Tây Tạng là các bề trên thượng lưu, thêm 3% là các đại diện của họ, những kẻ giám sát, quản lý, điều hành bất động sản và đội quân riêng. Gerba, là một tầng lớp nhỏ bề trên khoảng 200 gia đình, cai trị ở trên cao. Han Suyin viết: "Chỉ có 626 người nắm 93% tất cả đất đai và của cải, cùng 70% tất cả số bò Tây Tạng. 626 kẻ này gồm 333 kẻ đứng đầu tu viện và các cơ quan tôn giáo, 287 cơ quan giáo dân (bao gồm cả các quý tộc của quân đội Tây Tạng), và 6 bộ trưởng nội các".

Thương nhân và thợ thủ công cũng thuộc về lãnh chúa. 1/4 dân số ở thủ đô Lhasa sống sót bằng cách ăn xin từ những người hành hương tôn giáo. Không có ngành công nghiệp hiện đại hay giai cấp công nhân. Ngay cả diêm và đinh cũng phải nhập khẩu. Trước cách mạng, không một ai ở Tây Tạng từng được trả lương cho công việc của họ.

Trọng tâm của hệ thống này là bóc lột. Nông nô làm việc 16-18 giờ mỗi ngày để làm giàu cho chủ, họ chỉ giữ được khoảng 1/4 số lương thực trồng trọt được.

Tom Grunfeld viết: "Những tài sản này là cực kỳ sinh lời. Một cựu quý tộc lưu ý rằng một tài sản "nhỏ" thường sẽ bao gồm một vài ngàn con cừu, một ngàn con bò Tây Tạng, một số lượng không xác định dân du mục và 200 nông nô làm nông nghiệp. Sản lượng hàng năm bao gồm hơn 36 tấn ngũ cốc, hơn 1800 kg len và gần 500 kg bơ. Giới chức chức chính phủ có "quyền hạn không hạn chế để tống tiền và có thể biến cơ hội từ quyền hạn của mình thành bóp nặn hối lộ để không bỏ tù và trừng phạt người dân. Cũng có những ông chủ bóp nặn tiền bạc từ nông dân vượt ra ngoài phạm vi các loại thuế cần thiết".

Chủ nô và tầng lớp cai trị là ký sinh trùng ăn bám. Một nhà quan sát, Sir Charles Bell, mô tả một quan chức điển hình, kẻ dành một giờ mỗi ngày cho nhiệm vụ công của mình. Các buổi tiệc tùng của lớp bề trên kéo dài cả ngày ăn uống, cờ bạc và nằm đó đây. Các quý tộc Lạt ma cũng không bao giờ làm việc. Hdành cả ngày để tụng kinh, ghi chép giáo lý tôn giáo và không làm gì cả.

Trưng cầu dân ý ở Crimea và Luật pháp quốc tế



Ngày 16-3-2014, Crimea tổ chức trưng cầu đân ý để xác định số phận của họ. Quyết định này đã kích động phản ứng cực kỳ thần kinh ở phương Tây. TT Mỹ Barack Obama nói nó vi phạm luật pháp quốc tế nhưng không bao giờ viện dẫn bất kỳ lập luận pháp lý nào để hỗ trợ các tuyên bố. (1) Cùng một điều như thế áp dụng đối với các tuyên bố khác về vấn đề này, tất cả họ đều thiếu minh chứng pháp lý.

Tòa án công lý quốc tế của LHQ thông qua quan điểm hỏi ý kiến năm 2010 nói rõ ràng rằng tuyên bố độc lập đơn phương là phù hợp với luật pháp quốc tế. (2)

Quyết định về độc lập dựa vào trưng cầu dân ý nằm trong khái niệm «tuyên bố độc lập đơn phương». Có phán quyết của Tòa án liên quan đến tuyên bố độc lập đơn phương của chính phủ bất hợp pháp Kosovo và Metohija. Trong trường hợp Crimea, chính phủ được bầu một cách dân chủ và hợp pháp. Không có tiêu chuẩn quốc tế nào bị vi phạm, các qui tắc tiêu chuẩn như thế đơn giản là không tồn tại.

Một số luật sư đã bắt đầu đi đến chỗ minh chứng tính «hợp pháp» cho các tuyên bố của các chính phủ phương Tây. Nhưng họ có vẻ quá vội vàng chuẩn bị để chứng minh bất cứ điều gì.

Họ thường tán đồng, ví dụ, cuộc trưng cầu dân vi phạm các nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Thoạt nhìn điều đó có vẻ vững chắc, nhưng lại không có cơ sở pháp lý.

Để xác định các «nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ», cần phải tham khảo “Tuyên bố về các nguyên tắc luật pháp quốc tế liên quan đến quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia theo quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc”. Tuyên bố này được thông qua bằng Nghị quyết 2625 ( XXV ) bởi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24 tháng 10 năm 1970. Trên thực tế nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ là «bị vi phạm» theo nguyên tắc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Vì vậy, nguyên tắc chúng ta đề cập là như sau: «Nguyên tắc mà các quốc gia phải kìm chế trong quan hệ quốc tế của họ tránh đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc theo bất kỳ cách thức nào khác không phù hợp với mục đích của Liên Hiệp Quốc».

Nội dung của nguyên tắc này có nghĩa là, không cho phép bất cứ quốc gia nào sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào khác. (3)

Toàn vẹn lãnh thổ được nhắc lại trong bối cảnh có sự can thiệp bên ngoài. Nguyên tắc không liên quan đến các chính sách đối nội. Các chính trị gia phương Tây đang cố gắng để làm cho nó trông giống như thể có một số nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ mà theo đó nói rằng lãnh thổ của một quốc gia là không thể thay đổi. Như chúng ta thấy, điều này không đúng.

Nếu các luật sư phương Tây tham khảo Tuyên bố 1970 về các nguyên tắc luật pháp quốc tế, họ áp dụng phương pháp tiếp cận có chọn lọc. Sau tất cả, tuyên bố này lưu ý đến nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia. Nguyên tắc này (được chính thức gọi là «Nguyên tắc về nghĩa vụ không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia bất kỳ, phù hợp với Hiến chương (LHQ)». Nó có nghĩa là, «Không một quốc gia hay nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, với bất kỳ lý do gì, vào công việc đối nội hay đối ngoại của bất cứ quốc gia nào khác. Do đó, can thiệp vũ trang và tất cả các hình thức can thiệp khác hoặc bất kỳ mối đe dọa nào nhằm chống lại chủ quyền quốc gia hay chống lại các nền tảng chính trị, kinh tế và văn hóa của nó, là vi phạm luật pháp quốc tế».

Tuyên bố 1970 nêu rõ ràng rằng sự can thiệp bị ngăn cấm theo bất cứ lý do gì, bất cứ tầm quan trọng nào dường như có thể có cho các lực lượng bên ngoài. Bên cạnh đó, “bất kỳsự can thiệp nào và “bất kỳsự đe dọa can thiệp nào đều bị ngăn cấm. Tuy nhiên, can thiệp và đe dọa - đó chính xác là những gì các nước phương Tây đang làm, ví dụ, can thiệp vào công việc của Crimea bằng cách ngoan cố lặp đi lặp lại các báo cáo nói trưng cầu dân ý là “bất hợp pháp”, hoặc đe dọa cấm vận Nga.

Sau hết, cũng là Tuyên bố 1970 chứa đựng các nguyên tắc về quyền tự quyết của nhân dân. Nó nêu nguyên tắc như sau, «Mọi người dân có quyền tự do quyết định - mà không bị can thiệp từ bên ngoài, tình trạng chính trị và theo đuổi phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, mỗi nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền này  đẳng và tự quyết của các dân tộc nêu trong Hiến chương của Liên Hiệp Quốc, tất cả các dân tộc có quyền tự do quyết định, mà không có sự can thiệp bên ngoài, tình trạng chính trị của họ và theo đuổi kinh tế, xã hội và phát triển văn hóa, và mỗi Nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền này phù hợp với các quy định của Hiến chương LHQ». Một lần nữa không can thiệp” được đ cập, một lần nữa như phương Tây lại không ngừng can thiệp vào công việc của Crimea.

Tại sao họ lại áp dụng phương pháp tiếp cận có chọn lọc như vậy trong khi trích dẫn tài liệu quốc tế?

Cần lưu ý rằng không có cách nào để so sánh hành động của Nga với những gì phương Tây làm – Hành động của Nga dựa theo lời thỉnh cầu của chính quyền hợp pháp của Ukraina. Ở đây có sự không phù hợp giữa luật pháp quốc tế với những gì các chính trị gia phương Tây nói và làm, họ nhận biết rõ chính quyền (Crimea) đã mời Nga là hợp pháp, đó là lý do tại sao các cuộc thảo luận được khéo léo làm trượt vào vấn đề «hợp pháp» mà không phải là quy phạm pháp luật – một khái niệm mang tính khoa học. Nói về sự can thiệp vào quá trình tự quyết, thì một lần nữa Nga được mời bởi cơ quan hợp pháp. Ngược lại, không ai ở Crimea đã mời phương Tây. Vì vậy, các tham chiếu đến Tuyên bố 1970 về Luật quốc tế không cho phương Tây với bất cứ lập luận pháp lý nào. Chính phương Tây đã vi phạm tài liệu này.

Có lẽ các đồng nghiệp phương Tây, những người khẳng định cuộc trưng cầu dân Crimea là «vi phạm luật pháp quốc tế» có ý gì khác? Thế thì tại sao họ không làm cho nó thành chính xác? Chúng ta hãy cố gắng giúp đỡ họ.

Có thể họ không có ý nói bản thân cuộc trưng cầu dân ý mà là những câu hỏi lấy ra từ trong đó có thể là vi phạm luật pháp quốc tế (trong trường hợp đa số đồng ý nói có?). Có lẽ họ sợ rằng dân cư Crimea sẽ ủng hộ gia nhập Nga? Nhưng trong trường hợp này, một lần nữa không có vi phạm luật pháp quốc tế. Tuyên bố về các nguyên tắc luật pháp quốc tế nêu, «Việc thành lập nhà nước độc lập và có chủ quyền, tự do liên kết hay hợp nhất với một nhà nước độc lập hay thiết lập bất cứ quy chế chính trị nào khác, được xác định một cách tự do bởi dân chúng, là hình thức thực hiện quyền tự quyết của người dân».

Khi đó có thể là đồng nghiệp phương Tây muốn nói rằng luật pháp quốc tế bị vi phạm vì cuộc trưng cầu được tổ chức chỉ trong Crimea, mà không phải toàn bộ Ukraina? Vậy thì có câu hỏi đặt ra, những gì chuẩn mực pháp lý quốc tế bị vi phạm bởi một cuộc trưng cầu dân ý chỉ tổ chức tại Crimea?

Có thể họ quá e thẹn để viện dẫn lập luận này vì họ đã không tìm thấy một lời giải thích nào cho lý do tại sao họ là những người đầu tiên công nhận sự độc lập của Nam Sudan tách ra khỏi Cộng hòa Sudan là kết quả trưng cầu dân ý được tổ chức chỉ ở phía nam của đất nước này? Trưng cầu dân ý đó được tổ chức dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Cùng áp dụng trưng cầu dân ý do Liên Hiệp Quốc tiến hành ở Eritrea tách ra từ Ethiopia được công nhận toàn thể. Sau đó, cần giải thích lý do tại sao phương Tây đã không tuyên bố trưng cầu dân ý sẽ tổ chức tại Scotland tháng 9 năm 2014 là vi phạm luật pháp quốc tế vì nó sẽ không diễn ra tại các khu vực khác của Vương quốc Anh?

Hy vọng cuối cùng cho các luật sư phương Tây là phán quyết của Tòa án tối cao Canada năm 1998 nói rằng sự ly khai của Quebec là không thể dựa trên cuộc trưng cầu tổ chức duy nhất tại Quebec thay vì cả Canada bỏ phiếu. Đây là một tranh cãi lớn với một chuỗi kèm theo: Canada không thống trị thế giới và các quyết định của tòa án Canada không phải là một bộ phận của luật pháp quốc tế.

Vì vậy, những gì các chính phủ phương Tây và các luật sư của họ là có nghĩa khi họ nói cuộc trưng cầu dân ý Crimea là «vi phạm luật pháp quốc tế»? Thiếu định nghĩa rõ ràng và lập luận pháp lý có trọng lượng là nghiêm trọng trong trường hợp này. Nó chứng tỏ rằng họ hiểu rõ cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea không vi phạm bất kỳ quy phạm pháp luật quốc tế nào. Ngược lại, nó là một ví dụ về tuân thủ luật pháp quốc tế của người dân của Crimea.

(3) The full definition of the principle is defined by the Declaration on Principles of International Law Concerning Friendly Relations and Co-operation among States in Accordance with the Charter of the United Nations


Lưu ý 2 bản tiếng Anh và Nga có sự khác nhau ít nhiều về câu chữ!

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...