Bọ là văn sĩ nổi tiếng. Nhưng cái sự nổi tiếng chẳng đến từ nghề văn, mà từ chơi blog. Sẽ có ai đó bênh vực, Bọ được nhiều giải thưởng lắm mà!
Bọ Lập, Quê Choa!
Tướng quân SVR – trò chơi ảo!
Cùng với chiến dịch ở Ukraine, cơ quan FSB cũng đã phải tăng cường hoạt động chống phá hoại, bạo loạn ở nhà. Mới đây, vào tháng 4, họ bắt giữ một nhân vật khá đặc biệt.
Trong thực tế, ngay cả khi không biết tiếng Nga cũng dễ dàng tìm thấy tin tức thật về vụ này.
Stalin đã 3 lần cứu cuộc đời của Kollontai
Nữ binh, kẻ nổi loạn, nhà nữ cách mạng, nhà nữ quyền, chiến sĩ cộng sản, v,v Aleksandra Mikhailovna Kollontai (1872–1952) là người duy nhất sống sót đến cuối cùng. Nếu không có Stalin, chắc chắn bà đã chết vì bị vu cáo “gián điệp” bởi chính những kẻ là “đồng chí” của bà.
Câu chuyện này rất dài, và ở đâu đó, có câu chuyện rất tương tự về bà Võ Thị Thắng, thậm chí là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, có khác chăng, chỉ là khác thời gian, không gian địa lý.
***
Hiện nay, có khá nhiều bài viết và sách về Kollontai, đáng chú ý là cuốn của Leonid Mlechin xuất bản năm 2013, cuốn thứ 2 là nhật ký của Kollontai, đáng tiếc là chỉ được đăng một phần sau khi cắt bỏ nhiều đoạn nhạy cảm. Tuy nhiên, vẫn còn cả loạt vấn đề trong tiểu sử của người phụ nữ này vẫn chưa được làm sáng tỏ. Một trong số những vấn đề như vậy, là mối liên hệ của Kollontai với Stalin, và tại sao, theo một số nghĩa nhất định, Stalin đã cứu sống Kollontai, ít nhất 3 lần.
Kollontai có thói quen lưu giữ nhật ký, ghi chép các sự kiện, các vấn đề quan trọng trong suốt cuộc đời mình. Một số trong đó được sử dụng và tập hợp vào "23 năm làm công tác ngoại giao", một phần trong đó đề cập đến quan hệ và trò chuyện với Stalin vào các năm 1922-1934. Ngày nay, một phần của tập này đã được xuất bản. Không nghi ngờ chúng đã bị chỉnh sửa, thay đổi, nhưng, như những thư từ trao đổi với Stalin còn sót lại cho thấy, những gì còn lại đáng tin cậy.
Có lẽ, Kollontai gặp Stalin lần đầu tiên vào cuối năm 1917, khi cả hai trong chính phủ Xô Viết đầu tiên: bà - với tư cách là dân ủy của tổ chức từ thiện nhà nước, ông - là ủy viên nhà nước về vấn đề dân tộc. Theo Mlechin, giao tiếp của họ vào năm 1917 có ảnh hưởng rất quan trọng đến số phận sau này của nữ dân ủy đầu tiên: “Ngày 25 tháng 11 năm 1917, hai ủy viên: Kollontai và Stalin - đến dự đại hội ĐDCXH Phần Lan. Stalin có ấn tượng về sự am hiểu Phần Lan và bán đảo Scandinavia của Kollontai nên coi bà như một chuyên gia về các vấn đề Phần Lan. Có lẽ, những lần tiệc tùng với giới thượng lưu ở Petrograd, bà đã quá hiểu những gì đang diễn ra. Điều này đã gây thiện cảm và đặt ra quan hệ tốt đẹp với Stalin mà còn cứu sống Kollontai không lâu sau này.
Cuộc đấu đá, tranh giành địa vị “lãnh tụ giai cấp vô sản” chưa bao giờ là không khắc nghiệt. Chỉ cần một ít chứng cớ giả tạo, cùng với lời lẽ ngụy biện là có thể lật ngược sự thực để hạ bệ những kẻ mình không ưa. Đến lượt Kollontai là mục tiêu, những sai lầm phá lối của bà thời làm thủ lĩnh phe “công nhân đối lập”, những chỉ trích “Sai lầm của Lenin” của bà bị mang ra bêu riếu và đấu tố. Đến 1922, nhóm Kollontai chịu thất bại hoàn toàn. Tại ĐH XI, Kollontai buộc phải công khai từ bỏ cương lĩnh của mình. Trong nhật ký, bà mô tả cuộc họp của BCHTƯ đã đưa ra vấn đề khai trừ phe "công nhân đối lập” ra khỏi đảng.
Điều quan trọng là lúc này, Kollontai đã hoàn toàn ủng hộ Stalin. Lá thư mà bà viết lại trong nhật ký gửi Stalin đề ngày 11 tháng 10 năm 1922, bà viết “ lòng tràn đầy sự biết ơn vô hạn đối với Stalin", bởi sự ủng hộ của ông dành cho bà và nhóm “trong những ngày khó khăn, thảm khốc nhất của cuộc đời”. Theo Kollontai, đó là do sự nhạy cảm phi thường của đc TTK mới được bầu, là phản ứng của ông trước sự bất hạnh của một đồng chí.
Trước đó, người ta biết quan hệ vợ chồng của Kollontai với vị chỉ huy nổi tiếng Pavel Efimovich Dybenko đã bị rạn nứt. Còn trong thư, bà than thở rằng, sau hội nghị mùa xuân của QTCS và sau Đại hội XI, bà không thể làm việc trong Ban Thư ký Quốc tế Phụ nữ được nữa. Đặc biệt là không thể hợp tác với người đứng đầu QTCS G. Zinoviev. Bà đề nghị Stalin bổ nhiệm mình vào một công tác mới, đến Viễn Đông hoặc bổ nhiệm làm đại sứ ở nước ngoài. Bà nhanh chóng nhận được tin nhắn hồi đáp: "Chúng tôi cần một vị trí có trách nhiệm ở nước ngoài. Hãy trở về Mátxcơva ngay lập tức. Stalin".
Cuộc đời biệt phái ngoại giao và làm đại sứ bắt đầu, Kollontai tạm thời tránh được những làn đạn. Cuối năm 1923, Ủy ban Kiểm soát TƯ điều tra lời buộc tội từ cựu đồng chí trở cờ phản bội trong phe "công nhân đối lập". Tầm quan trọng khiến đích thân Chủ tịch Ủy ban Kiểm soát TƯ Valerian Kuibyshev tiến hành, ông ta tin vào lời khai và nghi ngờ Kollontai "mất lòng tin vào đảng". Mức kỷ luật mà ông ta đưa ra là triệu hồi đại sử về nước để ra tòa, tuy nhiên quyết định bị Stalin thu hồi.
Cuối năm 1924, Kollontai có cuộc gặp với Stalin, bà viết rằng: "Đồng chí Stalin tiếp tôi trong một căn phòng nhỏ được bài trí đơn giản, ông ấy đang ngồi trên bàn viết”.
- Ai đã xúc phạm bà, Litvinov hay Chicherin? -
câu hỏi dường như là đùa của Stalin.
- Cả hai, thưa đồng chí Stalin, - Kollontai trả lời.
Giọng Stalin trở nên nghiêm túc: - "Việc này đã tệ hơn rồi, hãy nói cho tôi biết, có chuyện gì?”
Cơ bản, vấn đề là Chicherin, Litvinov cùng phe
cánh đã vạch ra một đường lối ngoại giao khác đối với bán đảo Scandinavia,
nhưng Stalin ủng hộ phương pháp của Kollontai và vì thế mũi dùi chĩa vào bà.
Nhưng bà cũng không phải là mục tiêu chính, muốn hạ bệ Stalin, phải cô
lập, loại bỏ những người ủng hộ ông. Kollontai viết về điều này trong nhật ký, ĐH
XIV và năm 1925: "Mọi người đều cảm thấy điều này. Cá nhân chống lại
Stalin. Ông ấy mạnh mẽ và can đảm hơn họ. Ông ấy có những thứ họ thiếu, ông ấy
bận rộn không phải với bản thân, mà là với đảng, ông ấy là hiện thân của nó và đây
là sức mạnh của ông ấy...
Còn những người theo chủ nghĩa Stalin (Stalinism, đây là một từ mới ở Liên Xô) mà cá nhân tôi gần gũi nhất... Sau đó, tôi không bao giờ có thể liên đới gì nữa với Zinoviev, tôi cũng ghét linh hồn nhỏ nhen này, vì chính sách sai lầm và có hại của ông ta ở QTCS".
Đó cũng là thời điểm khó khăn đối với Stalin trong cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng, Kollontai đã chân thành ủng hộ Stalin.
Những nhận xét của Kollontai về Stalin có khá nhiều trong nhật ký. Mùa hè 1934, bà tham dự Hội nghị toàn thể BCHTƯ, bà ngạc nhiên về cách cử tọa lắng nghe Stalin, cách họ phản ứng với từng cử chỉ của ông. Trong nhật ký bà viết: "Một loại bức xạ 'từ trường' nào đó phát ra từ ông ấy. Sự quyến rũ từ nhân cách của ông ấy, cảm giác tin tưởng vô hạn vào sức mạnh đạo đức, ý chí không ngừng và sự sáng suốt của tư tưởng. Khi Stalin ở gần, có cảm giác dễ dàng hơn để sống, có nhìn nhận tự tin hơn vào tương lai, và vui vẻ ở con tim”.
Kollontai viết rằng, trong Hội nghị: “Stalin chậm rãi đi phía sau hàng ghế Chủ tịch Đoàn. trên mặt một chút nụ cười buồn. Nụ cười không ở môi, và thậm chí không trong mắt, nhưng bằng cách nào đó có nó xung quanh khuôn mặt. Khi mọi người đang ngồi, ông đi đi lại lại một mình. Lắng nghe và nghe cẩn thận với một nụ cười trên khuôn mặt. Những suy nghĩ lớn, những quyết định lớn đều ẩn sau nụ cười như vậy. Nó là một sự hạ mình trước sự thiển cận của con người..."
“Một cái gì đó là “huyền bí” trong ông. Là sức mạnh của tư chất tuyệt vời. Trong ông toát ra ý chí mạnh mẽ khuất phục con người. Bạn sẽ rơi vào quỹ đạo của sự lan tỏa và không còn sức kháng cự nữa, ý chí của bạn sẽ “tan biến”... Lenin, chẳng hạn, không sở hữu đặc điểm này. Stalin khuất phục con người bằng sức mạnh của logic, bằng sự vượt trội của trí tuệ. Còn với sự hiện diện của Lenin, ông vẫn là chính mình, có thể tranh luận với Lenin, để chứng tỏ. Thường Stalin thắng cuộc tranh luận và tước lấy nó. Với Stalin, bạn ngay lập tức từ bỏ, ngay cả trước khi tranh luận. Đây là điểm mạnh của ông ấy. Ý chí của ông ấy mạnh đến mức bạn phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ hoàn toàn."
Logic của phái nữ là vậy...
Trong những năm 1940, các đám mây đen một lần nữa tụ lại trên đầu "đại sứ Liên Xô", có đến 3 lần như vậy. Tháng 8 năm 1942, Kollontai ở tuổi 70, bị đột quị. Một báo cáo của NKVD viết rằng, nhưng giấy tờ lưu trữ tại Thụy Điển của Kollontai là có hại đối với Liên Xô, việc thu giữ kho lưu trữ Kollontai là một "sáng kiến của bộ" không được xác nhận. Toàn bộ được chuyển về Matxcơva năm 1943. Merkulov báo cáo tóm tắt với Stalin rằng, "Không có gì đáng ngại đối với giới lãnh đạo Liên Xô trong vali của phái viên ở Stockholm…”
Vì vậy, đám mây đen đầu tiên không gây ra bất kỳ thiệt hại nào cho Kollontai, ngoại trừ sự đau khổ về mặt đạo đức. Năm 1944, lại một đám mây đen khác, Tổng cục trưởng phản gián quân sự "Smersh" Viktor Abakumov đã gửi một báo cáo đặc biệt cho Stalin về điệp viên tình báo Anh bị phát hiện và bắt giữ, thiếu tá Pyotr Gusev, người từng ở Stockholm với tư cách là thư ký của tùy viên quân sự Liên Xô. Lời chứng của Gusev về sự hiện diện của điệp viên nước ngoài trong số nhân viên của đại sứ quán Liên Xô tại Thụy Điển, và anh ta biết một đặc vụ của cảnh sát Thụy Điển chính là tài xế riêng của Kollontai, cùng một số người khác bị Thụy Điển hoặc tình báo Đức tuyển dụng cho mục đích gián điệp. Tuy nhiên, kẻ bị bắt nghi ngờ Kollontai có hoạt động gián điệp. Lời chứng của thiếu tá bị bắt có chất lượng cực kỳ thấp. Bằng chứng buộc tội Kollontai chỉ là tin tưởng người nước ngoài, xa rời thực tế Xô Viết và không đủ để "triệu hồi Kollontai ngay lập tức về Matxcơva, bắt giữ và hành quyết". Vì vậy, Tổng cục trưởng Abakumov đề nghị cho điều tra thêm. Tuy nhiên, Stalin từ chối cho phép Abakumov điều tra.
Nhiệm kỳ công tác đại sử Thụy Điển của Kollontai cũng sắp kết thúc. Căn bệnh của người phụ nữ lớn tuổi đã trở nên tồi tệ hơn - cánh tay trái và chân của bà bị mất cảm giác và không chữa trị sẽ sớm bị liệt. Trong tình trạng như vậy, bà buộc phải trở về Matxcơva chữa trị. Tháng 9 năm 1944, bà được trao tặng Huân chương Lao động Đỏ lần thứ hai và được cấp một căn hộ trên phố Bolshaya Kaluzhskaya. Tháng 7 năm 1945, BCT ra quyết định, thể theo nguyện vọng và bệnh tật của bà, miễn nhiệm chức vụ đại sứ, đặc phải viên Liên Xô tại Thụy Điển.
Alexandra Mikhailovna không nghỉ hưu, bà vẫn là cố vấn của Ủy Ban Đối ngoại.
Tháng 8 năm 1946, Kollontai đề nghị Stalin giúp bà tìm lại kho lưu trữ của bà, các tài liệu này đã được gửi về Matxcơva từ Thụy Điển. Kho lưu trữ cuối cùng đã được tìm thấy và trả lại cho chủ nhân. Ngày 21 tháng 11 năm 1946, thông qua A. N. Poskrebyshev, Kollontai chuyển tới Stalin lời chào chân thành nhất và lòng biết ơn nồng nhiệt: "Hãy nói cho Joseph Vissarionovich biết ông ấy đã mang lại cho tôi niềm vui lớn như thế nào bằng cách trả lại cho tôi những tài liệu mà tôi đã coi là thất lạc".
Nhưng sau chiến tranh, cựu thù của bà trong vụ thu giữ giấy tờ, tài liệu cá nhân đã giữ chức vụ cao hơn, điều này cho phép hắn ta tiếp tục âm mưu thủ đoạn hại người.
Vào tháng 1 năm 1947, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô S.N.Kruglov đã gửi một bản ghi nhớ cho Stalin mà không đánh số và không có ngày tháng rõ ràng. Các dấu hiệu này là tài liệu đã không được đăng ký và được chuyển đến cho lãnh đạo Bộ Nội vụ một cách không chính thức. Bản ghi nhớ này viết rằng, vào tháng 5 năm 1945, gần thành phố Ceska Lipa (Sudetenland của Tiệp), có một kho lưu trữ của Bộ Nội vụ Pháp bị quân Đức thu giữ. Kho lưu trữ được phát hiện tại một lâu đài. Quá trình phân tích chúng được tiến hành ở Mátxcơva, người ta đã tìm thấy các tài liệu của Cục 2 (tình báo và phản gián) của Bộ Tổng tham mưu Pháp giai đoạn 1914-1942, và trong đó – hồ sơ No. 46800 về các năm 1941-1942, chứa các thư từ về các điệp viên và người cung cấp thông tin được tuyển dụng ở Romania, Hungary, Thụy Điển, các nước Trung Đông và những nơi khác. Và trong phần về các điệp viên được tuyển dụng ở Thụy Điển, có 6 tài liệu, trong đó cựu đặc phái viên Liên Xô tại Thụy Điển được liệt kê là người cung cấp thông tin cho Cục 2. Người đó là Kollontai.
Theo Kruglov, Kollontai được nhân viên tình báo Pháp Count de Fleurieu, một thành viên của phái bộ Pháp tại Stockholm và mang bí số 331 trong hồ sơ Cục 2 tuyển dụng làm nguồn cung cấp thông tin vào năm 1941. Bản thân Kollontai được xác định mang bí số 338. Kollontai đã liên lạc với nhân viên Defer làm việc cho văn phòng Cục 2 Pháp thường trú ở Stockholm. Trong phân loại, nguồn tin số 338 được xếp vào loại "thông tin có tính chất chính trị và quân sự nhận được từ chính phủ của họ..."
Tài liệu đính kèm, Kruglov báo cáo thêm rằng,
xác thực kẻ cung cấp tin bí số 338 là Kollontai, đặc phái viên của Liên Xô tại
Stockholm. Tài liệu của tình báo Pháp còn nhắc đến số 338 là người tình của
Lenin.
Dường như là người Pháp đã nhầm lẫn Alexandra Mikhailovna Kollontai với Inessa Armand, nhưng đánh giá cao Kollontai như một nguồn cung cấp thông tin đặc biệt quan trọng.
Dù vậy, không ai dám thẩm vấn Kollontai, lúc bà đang nằm trong viện điều trị. Bà vẫn tiếp tục được xếp vào danh sách cố vấn của Bộ Ngoại giao Liên Xô và vẫn tiếp tục viết hồi ký về cuộc đời mình gần như hàng ngày. Nhưng Stalin không còn liên lạc gì với bà nữa.
Từ đây trở đi, từ năm 1948 cho đến khi qua đời, liên hệ của Kollontai với Stalin bị gián đoạn. Bà viết nhiều thư từ gửi Stalin mà không có hồi âm. Một tình huống tương tự xảy ra với các bức thư CT HCM gửi Stalin năm 1952. Có thể, một âm mưu rất lớn đã được triển khai ngay sau Thế chiến nhằm cô lập Stalin với các nhân vật thân cận gần gũi bị chụp mũ “gián điệp”, “kẻ thù của nhân dân”.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1952, trước khi qua đời ít lâu, Kollontai viết bức thư cuối cùng cho Stalin: "Joseph Vissarionovich thân mến, trước khi giao những ghi chép của tôi về những năm hoạt động ngoại giao cho cơ quan lưu trữ bí mật của đảng IMEL, tôi coi đó là nhiệm vụ của tôi phải gửi cho đc những trích đoạn của tất cả các cuộc gặp gỡ và trò chuyện của tôi với đc trong thời gian này cho người quen của đc"... Vào ngày 25 tháng 2, bà gửi thư cho Poskrebyshev, trợ lý riêng của Stalin về việc hoàn thành cuốn hồi ký của mình "Hai mươi ba năm làm công tác ngoại giao", mà bà đã chuyển đến kho lưu trữ của IMEL, và đề cập rằng chúng cũng chứa một cuốn sổ có tựa đề "Các cuộc gặp và trò chuyện với Đồng chí J. Stalin qua những năm làm Ngoại giao của tôi". Bà yêu cầu được thông báo về việc nhận thư. Bức thư ghi yêu cầu: "Báo cáo những gì đã nhận được”. Yêu cầu IMEL về “Các cuộc gặp và trao đổi với đồng chí Stalin".
Ngày 29 tháng 2 năm 1952, Phó Giám đốc IMEL G. Obichkin gửi cho Poskrebyshev bản thảo cuốn hồi ký của Kollontai "Những cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Stalin. 1922 - 1934" .. Đương nhiên, không ai khác có thể yêu cầu những tài liệu này ngoại trừ chính Stalin.
Ngày 11 tháng 3 năm 1952, tờ Izvestia đăng cáo
phó, viết rằng vào ngày 9 tháng 3, "sau một thời gian dài ốm đau ở tuổi
80, một thành viên cũ của đảng Bolshevik và nhà ngoại giao Liên Xô Alexandra
Mikhailovna Kollontai đã qua đời". Dưới cáo phó, thay vì chữ ký cụ thể của
đại diện đảng Bolshevik, chỉ có dòng chữ mơ hồ: "Nhóm các đồng chí".
***
Bóng mây đen tiếp tục u ám Kollontai và cả Stalin sau cái chết. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1958, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô Nikolai Dudorov báo cáo với BCHTƯ CPSU rằng trong số các tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Đặc biệt Nhà nước Liên Xô, hồ sơ "Cục 2 – Bộ Tổng tham mưu Pháp", có 5 bản ghi chép, được xác định là tình báo Pháp liên lạc với Kollontai và liên quan đến việc bà được cho là thuộc cơ quan tình báo Pháp trong các năm 1941-1942, cũng như các tài liệu theo dõi bà trong thời gian trước đó.
Trong số các tài liệu mà Dudorov trình bày và lặp lại vấn đề, có tài liệu đã được gửi cho Stalin vào tháng 1 năm 1947. Điều khác biệt, là tài liệu này đã được đánh số mà con số và ký hiệu lưu trữ không có trên tài liệu gốc. Như thông tin, 5 bản ghi chép gửi đến BCHTƯ về Kollontai dài 42 trang, kèm 7 bản sao chụp từ các tài liệu đã gửi trước đó và một phần là bản dịch.
Trong số những thứ khác, các tài liệu đưa thông tin về người cung cấp tin bí số 338: 60 tuổi, rất đảm bảo, nằm trong giới ngoại giao và giới chính trị gia hàng đầu. Tiếp xúc với người Pháp được ghi nhận là tự nguyện.
Dù vậy, thời điểm năm 1958, Khrushchev đã hoàn tất cuộc đảo chính lật đổ Stalin, không cần nhiều đến lá bài gián điệp Kollontai.
Cả ngàn năm qua, câu này đã quen thuộc đến nhàm chán: Các tình báo viên thường đánh lừa cấp trên và moi tiền của chính phủ bằng cách dựng lên các nhân vật tuyển dụng giả, các chiến dịch giả, và những chiến công giả.
Sau tất cả, vụ tuyển dụng "đại sứ Liên Xô" quá rẻ tiền, không đáng tin và cũng chẳng có thông tin gì nhiều giá trị từ nhà ngoại giao – nhiều khả năng đó là màn biểu diễn nghiệp dư vụng về của Bá tước de Fleurieu. Kẻ có lẽ đã dựng lên chiến công giả, tuyển dụng giả đại sứ Liên Xô và nhờ thế đã moi được nhiều tiền từ chính phủ Pháp và cả Đức quốc xã. Nhưng số phận trớ trêu của bà Kollontai đã được cứu thoát nhờ mối quan hệ đặc biệt của bà với Stalin.
Cuộc trò chuyện của Stalin với A.M. Kollontay
TẬP CẬN BÌNH TIÊU DIỆT “ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN”!
Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra ngoài trong Đại hội CPC |
Mang CS ra chế diễu là Putin đã đốt cháy cây cầu phía sau lưng. Cũng
như Putin, ông Tập Cận Bình chủ trương nhà nước Tập quyền, củng cố quyền lực
trung ương. Điều này không dung hòa với Tán quyền cộng sản. Loại bỏ giới “Đoàn
Thanh niên Cộng sản” tân tự do cấp tiến cũng là Tập Cận Bình đã đốt cháy cây
cầu phía sau lưng.
Cả hai đã đốt cháy cây cầu CNCS kết nối với phương Tây, CNCS là
học thuyết của phương Tây, ra đời ở London. Không phải bây giờ CNCS mới bộc lộ
sự thối tha băng hoại của nó, hay lộ ra bản năng cá nhân tham lam độc đoán của
nó. Ngay từ khi ra đời nó đã như vậy, nó ra đời và bén rễ trong sắc dân nông
thôn-bán thành thị bị đào thải trong xã hội công nghiệp hóa. Họ cùng đường, nổi
loạn và mong muốn lật đổ nhà nước. Đã đủ lâu để CNCS mang gen di truyền phá
hoại. Do đó, cứ mỗi lần tiêu diệt CNCS, đất nước lại phát triển. Điều này đã
xảy ra dưới thời Stalin, Putin, Tập Cận Bình.
Các cuộc biểu tình ở Trung Quốc nổ ra, lan rộng ở các thành phố
lớn, Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, Nam Kinh, Urumqi (thủ phủ của Tân Cương). Đó
là sự quẫy đạp của phe phái cũ, phe “Đoàn Thanh niên Cộng sản” TQ thân Mỹ trong
ĐCSTQ. Từ sự kiện bất ngờ trong Đại hội XX, Hồ Cẩm Đào (nắm quyền 2002-2012) bị
dẫn giải ra ngoài trong phiên họp là đánh bại nhóm thân phương Tây trong các cơ
cấu quyền lực của CHND Trung Hoa, nhưng các "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" còn có một con át chủ bài - khủng bố xã hội.
Phát triển nhanh chóng để lại tình trạng bất ổn ở Trung Quốc kể từ năm 1989. Lần cuối cùng có các cuộc biểu tình chống Nhật Bản là vào năm 2012 về một vấn đề khá nhỏ liên quan đến tranh chấp các hòn đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sau đó, nó được chuyển sang một mối đe dọa từ bên ngoài, và vào năm 2022 - hoàn toàn là chính sách đối nội của nhà nước.
Có một lý do và nó khá hợp lý, chính sách Co-vi của ông Tập là “khủng
bố nhân dân”, không có sự tương tự trên thế giới về thời lượng và quy mô. Chưa
từng có ai bị đối xử khắc nghiệt như ở Trung Quốc. Chính sách không khoan
nhượng đối với Co-vi đang tiến triển và bây giờ vấp phải phản ứng.
Nhóm quyền lực "Đoàn Thanh niên Cộng sản" mang tư
tưởng tự do cấp tiến thân Mỹ
Komsomol là một từ bị lãng quên ở Nga nhưng ở TQ vẫn có ý nghĩa
rất lớn. Các nhân vật đi lên từ bệ phóng Đoàn viên không chỉ chiếm các vị trí
lãnh đạo nhà nước cao nhất, mà còn tạo thành một mạng lưới quyền lực bao trùm
gần như toàn bộ TQ. Nhóm này gồm những ai, hệ tư tưởng của họ là gì - và ai sẽ
là người chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" và "hoàng thân"?
Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Lý Nguyên Triều, Lãnh đạo Chính
phủ Lý Khắc Cường, Trưởng ban Tuyên giáo Lưu Vân Sơn, Chánh án Tòa án Tối cao
Chu Khương, các lãnh đạo các Ủy ban khu vực, bao gồm các khu vực phát triển
nhanh nhất của đất nước như: Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Đông - tất cả giới
lãnh đạo hàng đầu này, cũng như hàng chục lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố - đã bắt
đầu sự nghiệp của họ từ Đoàn thanh niên Cộng sản. Họ thăng tiến sự nghiệp của
mình phần lớn là do cựu TBT-cựu CTN Hồ Cẩm Đào, người nắm quyền cao nhất ở TQ
các năm 2002 đến 2012. Tất cả đều có chung quá khứ bệ phóng Đoàn Thanh niên,
hình thành phe nhóm thượng tầng độc nhất trong ĐCSTQ. Kể từ khi ông Tập Cận Bình
củng cố quyền lãnh đạo và phát động "đả hổ diệt ruồi”, ở mức ý thức hệ, đã có
cuộc đối đầu tư tưởng đường lối dù ít được công khai. Đó cũng là cuộc đối
đầu giữa phe "hoàng thân" của ông Tập – với những Đoàn viên đã thăng
tiến, tự coi mình là tự do cấp tiến, thân Mỹ và được quyền thừa kế làm nhà
lãnh đạo hàng đầu của TQ.
Con đường qua Thiên An Môn
Đến đầu những năm 80, giới Cộng sản TQ đã phải đối mặt với một
cuộc khủng hoảng quyền lực rộng lớn: cải cách diễn ra ở một quốc gia có nền
kinh tế kế hoạch hóa, đội ngũ Cận vệ Mao đã bộc lộ đen tối hoàn toàn bởi hành
động của những kẻ ông ta đỡ đầu - băng đảng bốn người, bè lũ 4 tên do cô vợ lẽ
Giang Thanh cầm đầu và hàng chục triệu HVB cuồng tín. Nhưng Đặng đã khá khéo phẫu
thuật cắt bỏ khối u ác tính quá lớn này. Ông ta hiểu đốn hạ một cái cây cổ thụ,
sẽ để lại khoảng trống cho cỏ dại, cây độc, giun sán khác sinh trưởng. TQ vẫn
cần một cái tượng và những người cộng sản làm chỗ dựa niềm tin cho dân chúng,
nhưng không liên quan đến "cực tả" của vợ lẽ Mao. Đó là chỗ
để nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng sản" kiểu Đặng chui ra và sau này trèo
tít lên ngọn cây như đã thấy.
Tuy nhiên! Đấu trường Thiên An Môn sớm nổ ra, giới thanh niên
trong các trường đại học của đất nước đã cố gắng chứng tỏ là lực lượng đáng
gờm. Chúng tụ tập trên Quảng trường và trung tâm các thành phố đòi tự do, dân
chủ.
Qui mô và tổ chức chứng tỏ có kẻ giật dây và không ai khác phải
ở cấp rất cao, cao nhất là TBT Hồ Diệu Bang, cha đẻ của tổ chức “Đoàn Thanh
niên Cộng sản”. Cuộc đấu Thiên An Môn và cuộc đấu trong đảng vượt ra khỏi tầm
kiểm soát, Đặng đã phải dùng đến quân đội để hành động - các cuộc biểu tình
biến thành bạo loạn và đã bị đàn áp, giải tán.
Kể từ đó, có một sự cân bằng nhất định giữa "hoàng thân
đỏ" và "Đoàn Thanh niên Cộng sản" ở Trung Quốc. Nhưng Thiên An
Môn đã để lại sự chia rẽ sâu sắc trong đảng, nó sâu đến mức là điều cấm kỵ để
được nói tới ở Trung Quốc. Một minh chứng cho điều này, kể từ 1989, mọi vấn đề
liên quan tới Hồ Diệu Bang đều bị kiểm duyệt. Ông ta như thể đã tàng hình biến
mất, nhưng kể từ năm ngoái, nhân vật này đã xuất hiện trở lại, ai đó đã cho
phép.
Sau Thiên An Môn, Hồ Diệu Bang mất hết các chức vụ, nhân sự trong Đoàn Thanh niên cũng bị thay thế hầu hết. Năm 1992, quyền lực ở TQ thuộc
về "người Thượng Hải" Giang Trạch Dân, được cho là, với một số điều
kiện ràng buộc nhất định từ Đặng Tiểu Bình, còn sau đó, 10 năm sau là Hồ Cẩm
Đào.
Hệ tư tưởng định hướng trong tương lai thuộc về Quân đội hay
Đoàn viên?
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) là tổ chức nền
tảng của nhà nước Trung Quốc hiện đại. Hồng quân TQ xuất hiện sớm hơn nhiều so
với nhà nước. Đặng và cả Mao đều ít nhiều là những chỉ huy chiến trường, giới
chức trưởng thành trong PLA đã cố gắng thiết lập một nhà nước TQ khả thi theo
tầm nhìn xa về chính trị của họ. Trước cải cách thị trường, gần như toàn bộ nền
kinh tế Trung Quốc đã trong tình trạng quân sự hóa và phụ thuộc nhịp điệu duy
nhất từ quân đội. Quân đội sau này vẫn là nguồn sức mạnh thực sự của chế độ,
thậm chí gần như là khi nói về "đảng" cũng là nói về "quân
đội".
Tuy nhiên, có một khái niệm khác nữa gọi là nhóm "hoàng
thân" – mô tả không chỉ các nhân vật chính trị có di truyền, có ảnh hưởng,
mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn hùng mạnh mới nổi của Trung
Quốc, nhưng đồng thời, nền tảng chính của họ, của các tập đoàn cũng là từ nguồn
gốc chính quân đội của họ, như mọi khi hay vào vào thời điểm quan trọng, quân
đội sẽ đóng vai trò là người bảo đảm cho việc duy trì trật tự quyền lực. Do đó,
các bước tiến tư tưởng của các “hoàng thân” để khôi phục truyền thống đế chế
Trung Quốc hoặc nỗ lực tạo ra một hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc bành trướng
đều có dấu vết quân đội. Khẩu hiệu mới "một đội quân có khả năng chiến
thắng trong mọi cuộc xung đột" cũng là sự hồi sinh của truyền thống cách
mạng quân sự thời Mao và Bành Đức Hoài, việc tổ chức các cựu chiến binh PLA,
việc hình thành một "think tank" để ra quyết định từ họ là những
đường hướng để bảo đảm quyền lực của "các hoàng thân-hồng quần”. Câu hỏi
liệu Trung Quốc có tham gia vào một "cuộc chiến nhỏ nhưng chiến
thắng" vì lợi ích của giới tinh hoa quân sự hay không vẫn nằm trong chương
trình nghị sự.
"Đoàn Thanh niên Cộng sản" thu hút quyền lực và sự ủng
hộ đông đảo từ dân chúng. Điều này làm cho Trung Quốc ngày càng giống với thời
cổ đại, ví dụ, thời La Mã, nơi yêu nước và quân đoàn bảo vệ nhà nước bị cấm đoán
bởi các tòa án phổ hiến. Thiên An Môn là nơi diễn tập sức mạnh của đám đông,
sức mạnh của sắc nông dân-bán thành thị bất mãn với lòng mong muốn đổi mới và
một bậc thang xã hội nhanh chóng.
Đô thị hóa - di cư và định cư hàng chục triệu nông dân trong
ranh giới thành thị - là một trong những điều kiện chính để giới Đoàn Thanh
niên mở rộng ảnh hưởng. Công cụ khác để mở rộng ảnh hưởng của giới Đoàn Thanh
niên Cộng sản là dân nghèo. Đầu thế kỷ, có đến 300 triệu người nghèo đói ở TQ.
Chính "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đã tỏ ra quan tâm chăm sóc và là cơ
hội tuyên truyền CNCS và mị dân của họ.
Hệ tư tưởng của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản", gọi
một cách tương đối là cấp tiến, dân chủ cải cách, mang lại quyền tự do bình
đẳng cho tất cả mọi người.
Nếu giới “hoàng thân” là một đẳng cấp khép kín của những ai được
chọn – từ tướng lĩnh quân đội TQ, tuy nhiên gần đây, đã có sự thu nạp ngày càng
nhiều giới trí thức, tinh hoa học thức, sinh viên có trình độ cao, thì
"Đoàn Thanh niên Cộng sản" là ở tầng lớp thấp, số lượng đông từ dân
bán thành thị với khoảng 200 triệu người di cư và nông dân, cũng có giới trí
thức trong các thành viên. Nhưng họ là phe phái khác biệt, ảnh hưởng của
"Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong quân đội là rất hạn chế - Thủ lĩnh
Hồ Cẩm Đào cũng từng nỗ lực nắm quân đội, ông ta đã thay thế hàng ngũ lãnh đạo
PLA ít lâu sau khi nắm quyền.
Cho dù nghe có vẻ kỳ lạ trong thời đại công nghệ chính trị,
nhưng quyết định - con đường nào của Trung Quốc sẽ đi trong tương lai là tùy
thuộc phe phái nào thắng thế. Nếu Trung Quốc chọn chiến lược pháo đài, áp dụng
học thuyết đối đầu với Mỹ, với Nhật thì đó là xuất phát từ các “hoàng thân” và
giới tinh hoa chính trị quân sự, còn nếu Trung Quốc đòi hỏi cơ hội bình đẳng,
giá trị phương Tây phổ quát thì đó là phe phái "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" đang trên ngựa. Vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi này,
thường là có sự hòa trộn của cả hai.
Cái nôi An Huy
"Xương sống" của phe nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng
sản", còn được gọi là "Tuanpai - 團派" đến từ tỉnh An Huy - nằm trong vành đai của khúc giữa
dòng sông Dương Tử. Không có gì tình cờ khi An Huy lại là căn cứ địa của
"Đoàn Thanh niên Cộng sản", và cốt lõi khu vực này là An Huy – quê
của Hồ Cẩm Đào, Lý Khắc Cường và Uông Dương – một lãnh đạo chính trị, nhà cải
cách tự do cấp tiến nhất trong ĐCSTQ.
Chắc chắn rất ít người biết, tình trạng bất ổn đầu tiên của sinh
viên đã diễn ra ở đây, ở An Huy, sau đó phát triển thành các sự kiện Thiên An
Môn.
Thủ lĩnh của “Đoàn Thanh niên Cộng sản” Hồ Diệu Bang, đến từ
tỉnh Hồ Nam lân cận, và giới lãnh đạo từ bệ phóng Đoàn khác, ủy viên BCT tương
lai như Hồ Xuân Hoa và Tôn Chính Thành, đến từ tỉnh Hồ Bắc. Do đó, có thể nói
nòng cốt của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là những người đến từ một cụm
khu vực, mà Lý Khắc Cường đặt tên là "Vành đai sông Dương Tử". Nhân
tiện, "Vành đai kinh tế" là một khái niệm khác được chỉ định bởi lãnh
đạo của "các hoàng thân" Tập Cận Bình.
Các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" cũng phát triển một
"sườn phía bắc" – là các tỉnh Thiểm Tây và Nội Mông - một thành viên
của BCT xuất thân ở đây là Lưu Vân Sơn; ông này từng nhân vật số 5/7 trong giới
lãnh đạo TQ. Thời nắm quyền Ban tuyên giáo, ông ta thả nổi báo chí truyền
thông, cực tả thái quá theo hướng phương Tây hóa. Con trai Lưu Vân Sơn là Lưu
Lạc Phi, một đại gia chứng khoán, từng được tạp chí Fortune xếp hạng 25 trong
số các nhà giàu châu Á. Có tin tức Lưu Vân Sơn hiện lúc này đã bị bắt giữ.
Một cựu lãnh đạo Mặt trận Thống nhất (liên minh các đảng ở TQ)
là Lệnh Kế Hoạch cũng đến từ khu vực này, còn Hồ Xuân Hoa từng làm việc ở đây
trong một thời gian dài trước khi làm Bí thư tỉnh Quảng Đông.
Thành phần “trí thức” của giới "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" đến từ Đại học Bắc Kinh - chính ở đó, là nơi đào tạo khối kinh tế của
Lý Khắc Cường. Nhưng còn một nhóm Đoàn viên khác nữa từ Đại học Thanh Hoa do Hồ
Khải Lập (Hu Qili) – cựu thủ lĩnh Đoàn, thành viên BCT. Trong sự kiện Thiên An
Môn, Hồ Khải Lập công khai ủng hộ giới đoàn viên thanh niên biểu tình và bị trừng
phạt, mất chức uv BCT nhưng vẫn làm Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Máy và
Điện tử đến năm 1998.
Lý Tòng Quân, một thành viên thuộc giới "Đoàn Thanh niên
Cộng sản" xuất thân An Huy - nắm quyền kiểm soát Tân Hoa Xã cho đến năm
2014. Người kế nhiệm là Thái Danh Chiếu đến từ tỉnh Sơn Đông.
Trò chơi rượu mới bình cũ
Không phải đến tận Đại hội XX mà sau hỗn loạn Hồng Kông 2017,
ông Tập Cận Bình đã muốn thay máu chính trị và chuyển đổi hơn nữa cơ cấu nhà
nước cho phù hợp tình hình mới. 2017 là năm bản lề, có cuộc bầu cử ở Hồng Kông
mà giới thân Mỹ đặt nhiều hy vọng sẽ trở thành hình mẫu dân chủ cho TQ. Nhưng
điều này đã không xảy ra, cũng năm 2017 có Đại hội XIX CPC, tại đó một thế hệ
lãnh đạo mới được chỉ định và có kỳ vọng thăng tiến ở các nhà tư tưởng tự do
cấp tiến, xuất thân "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Hồ Xuân Hoa - người là
Bí thư Quảng Đông, tỉnh cận kề Hồng Kông, cái ổ bất ổn nhất của TQ. Phương Tây
đã rất kỳ vọng Hồ Xuân Hoa kế nhiệm ông Tập Cận Bình. Có lẽ, ai đó đã mộng
tưởng bất thành Hồ Xuân Hoa làm Tổng thống được bầu đầu tiên của đất nước này,
một phiên bản Gorbachev của TQ.
Bất cứ nơi nào và ở mọi nơi
Sau Đại hội XIX, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đứng
đầu các tỉnh và khu vực Hồ Nam, Giang Tô, Quảng Đông, Trùng Khánh, Quý Châu, An
Huy, Thiểm Tây, Hà Bắc và Cát Lâm – không tình cờ, khi hầu hết các tỉnh này nằm
trong "Vành đai Dương Tử", những tỉnh nằm ngoài biên giới của nó có
lãnh đạo người bản địa đến từ cùng khu vực, ngoại trừ tỉnh Cát Lâm ở phía bắc
là một người Mông Cổ. Đó là một sự giảm sút so với trước đó, năm 2013, giới
"Đoàn Thanh niên Cộng sản" nắm chức vụ Bí thư/Chủ tịch của 25/31 tỉnh
thành Trung Quốc. Có thể nói, những năm này, "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" gần như kiểm soát hoàn toàn Trung Quốc. Trong số đó, các nhân vật nổi
bật là Hồ Xuân Hoa – Bí thư Quảng Đông; Tôn Chính Tài – Bí thư Trùng Khánh và
Chu Cường lãnh đạo Tòa án Tối cao Trung Quốc. Cả 3 đều vào Ủy ban thường vụ BCT
sau Đại hội XIX.
Nội các Thủ tướng Lý Khắc Cường
Dưới thời thủ lĩnh "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lý Khắc
Cường làm thủ tướng, có 7 người đến từ Đoàn Thanh niên. Họ nắm Bộ Kiểm soát, Bộ
Hành chính Dân sự, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên Đất đai, Bộ
Nông nghiệp và Bộ Văn hóa. Riêng Ttg Lý Khắc Cường trực tiếp nắm 3 bộ. Trong Bộ
Chính trị, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" có Lý Khắc Cường, Lưu Vân
Sơn, Lý Nguyên Chương (phó Chủ tịch nước), Lưu Diên Đông (phó Ttg), Lưu Kỳ Bảo
(trưởng Ban tuyên giáo) và Hồ Xuân Hoa (chủ tịch Quảng Đông).
Rắc rối của Tập Cận Bình
Với việc ông Tập Cận Bình củng cố quyền lực ở Trung Quốc, một
cuộc chiến chống tham nhũng chưa từng có đã được phát động, nó thường được nhắc
đến với cái tên “đả hổ, diệt ruồi”. Tham vọng thăng tiến của các "Đoàn
Thanh niên Cộng sản" đối với danh pháp đảng dường như đã được sử dụng để
chống lại họ. Ngay từ đầu chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi”, nhân vật Chu Vĩnh
Khang – uv BCT, đã trở thành trung tâm của các mũi nhọn. Tuy nhiên, đó cũng chỉ
là bề nổi. Trước đó, đã có sự giận dữ của các "hoàng thân" phải loại
bỏ quyền lực của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lưu Vân Sơn, uv BCT, lãnh
đạo Ban tuyên giáo. Sau vụ bắt giữ Chu Vĩnh Khang, người ta nói rằng, không có
lá bài miễn tử nào cho bất cứ ai ở Trung Quốc.
Đằng sau công cuộc chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình là cuộc
chiến tư tưởng. Như đã đề cập ở trên, quyền lực của giới "Đoàn Thanh niên
Cộng sản" đến từ sự mộng mị xã hội công bằng, tốt đẹp của sắc dân bần cùng
bán thành thị và nông thôn, đáng tiếc, lại là đông đảo rộng lớn – cũng không
ngạc nhiên, Lưu Vân Sơn, một đồng sự thân cận của Hồ Cẩm Đào và cỗ máy tuyên
truyền trở thành công cụ chính của nhóm này. Bây giờ, khi Lưu Vân Sơn bị bắt,
ngày càng có ít ai nghi ngờ các cuộc "thanh trừng" là nhằm vào giới
"Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong khi họ đã cố gắng nắm giữ quyền trong
suốt các thập kỷ qua. Vụ bê bối gần đây liên quan đến "Đoàn Thanh niên
Cộng sản" là việc xuất bản một video cá nhân của người dẫn chương trình
truyền hình nổi tiếng Bi Phúc Kiến bôi đen Mao Trạch Đông trong một khung cảnh
riêng tư. Bi Phúc Kiến gắn liền với Đài truyền hình trung ương TQ và cũng đến
từ Đoàn viên Thanh niên. Có rất nhiều cái tên Đoàn Thanh niên Cộng sản mang họ
"Hu" – phát âm gần như là “Hổ” và có lẽ không tình cờ khi “Đả hổ,
diệt ruồi” là chiến dịch của ông Tập nhằm vào họ. Đó là Hổ Cẩm Đào, Hổ Diệu
Bang, Hổ Khái Lập, Hổ Xuân Hoa; còn TQ được Mỹ ca ngợi là con Hổ mới nổi ở châu Á.
Tiếp theo là gì?
Phía sau các “hoàng thân” của ông Tập Cận Bình là quân đội, còn
đằng sau "Đoàn Thanh niên Cộng sản" – là tuyên truyền và ảnh hưởng
trong giới quần chúng. Các “hoàng thân” đang cản lại xu hướng tự do hóa thân Mỹ
ở TQ, họ cản trở vấn đề Hàn Quốc, coi Hồng Kông, Đài Loan là mảnh đất của TQ và
coi Nhật Bản, Mỹ là đối thủ. Khi TQ mạnh lên, sự ủng hộ từ “hoàng thân” của ông
Tập Cận Bình sẽ chỉ tăng lên, trong khi "Đoàn Thanh niên Cộng sản"
đang giảm tốc tăng trưởng, còn lượng các nhân vật liên quan đến các
vụ bê bối tham nhũng ngày càng lớn. Sự cân bằng đã mất đi khi các thành phần
“hoàng thân” mới đi vào trong cơ cấu BCT. Điều này được khẳng định qua Đại hội
XX gần đây, quyền lực của ông Tập Cận Bình và phe "hoàng thân" được
củng cố, gần như tất cả các nhân vật cao cấp của "Đoàn Thanh niên Cộng
sản" đã bị loại bỏ.
Không có đường lùi, các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" sẽ
phải tiếp tục tấn công để duy trì quyền lực. Biểu tình chống phong tỏa Co-vi
gần đây là cuộc tấn công phản đối của họ nhằm vào chính sách “Zero co-vi” của
ông Tập Cận Bình, họ vẫn còn con bài: vận động dân chúng bất mãn biểu tình bạo loạn lật đổ nhà nước, khủng bố xã hội.
Cha đẻ các Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc là ai!?
Có một
ông già trầm lặng thường ngồi một mình trên chiếc ghế dài trong công viên Regent
ở London. Xung quanh ông ta, các diễn biến xảy ra: đấu tranh nữ quyền, quyền
của giới chuyển giới, chống áp bức bất công, biểu tình đủ các kiểu, các màu
sắc. Người đó chính là Trần Đại Tôn (陈岱孙), ông ta đã chọn London, cái nôi của CNCS để
sinh sống những năm cuối đời.
Năm 1900,
Trần Đại Tôn sinh ra ở Trung Hoa. Cậu trẻ sớm theo học tại trường Cao đẳng
Anh-Trung, ngôi trường Helin Yinghua có các giáo viên người Anh và người Mỹ này
được thành lập vào năm 1881 bởi một ngân hàng và đặt dưới sự giám hộ của người
Mỹ.
Trần Đại
Tôn sau đó tiếp tục được đào tạo tại vườn ươm tự do dân chủ Harvard. Năm 1926,
Trần Đại Tôn trở về Trung Quốc và giảng dạy tại ĐH Thanh Hoa. Sau đó, Trần Đại
Tôn làm Viện trưởng Viện Kinh tế và Tài chính Trung ương Bắc Kinh và là giáo sư
tại ĐH Bắc Kinh trong rất nhiều năm.
Sự trống
rỗng trong thuyết giáo Marx khiến CNCS không có gì để vận hành trong thực tế,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Không có gì để vận hành, không có gì để phát
triển. Sự trống rống đó là chỗ để các học trò thân Mỹ của Trần Đại Tôn nổi lên.
Tại Đại hội CPSU cuối cùng của cuộc đời, năm 1952, Stalin nói rằng: “Tôi thấy cần loại bỏ một số yếu tố Chủ nghĩa Marx, gắn một cách giả tạo vào xã hội của chúng ta…”. Còn Putin nói, giáo lý CNCS là cóp nhặt, có thể đọc thấy ở bất cứ nhà thờ nào. Đúng, CNCS chỉ tốt đẹp trên giấy, thì có thể đọc trên giấy thứ tương tự trong Kinh thánh, nguyên bản, cổ truyền hơn. Còn trong thực tế, không thể ứng dụng, không thể vận hành ở bất cứ đâu. Làm thế nào để 3 thằng học việc nhân danh Chuyên chính vô sản đòi lãnh đạo ông thợ cả trong nhà máy?
Trần Đại
Tôn để lại nhiều thế hệ học trò, trong đó có Lê Yên Ninh (Li Yining), người
sinh cùng năm với George Soros và được coi là cha đẻ của thị trường chứng khoán
Trung Quốc vào năm 1990 cũng như khởi động công cuộc tư nhân hóa các công ty
nhà nước TQ. Ba anh em nhà Lê Yên Ninh đều nắm giữ các vị trí quan trọng trong
các trường Đại học về tài chính và kinh tế ở TQ.
Trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, Lê Yên Ninh đã gặp may khi chỉ bị đày về nông thôn, dọn cỏ vườn trong 6 năm. Nhưng dưới thời Đặng Tiểu Bình, ông ta đã thăng tiến trở lại và là một trong những nhà lý luận chính về "tự do hóa và mở cửa hòa nhập". Vào những năm 1980, Lê Yên Ninh được coi là “hạt giống đỏ” như Gaidar và Chubais ở Liên Xô. Cũng giống như thế, đề xuất tư nhân hóa quy mô lớn các doanh nghiệp nhà nước của Lê Yên Ninh chỉ dành cho các tay chơi lớn. Giới đầu tư tài chính quốc tế đã đến Trung Quốc nhờ sự tự do hóa và mở cửa của Đặng.
Các học
sinh học các trường đạo Tin lành Anh-Mỹ ở Trung Quốc năm xưa, đã quay trở lại
để mua và họ đã kiếm được hàng nghìn tỷ đô la nhờ đúng cậu học trò cũ học
trường này.
Cũng không ngạc nhiên, con nhang đệ tử Cộng sản của Lê Yên Ninh khá nhiều, ba nhân vật dưới này là tiêu biểu:
- Lý Khắc Cường, thủ tướng Trung Quốc (2013-2023), ông này nói năm 2020 rằng, “Trung Quốc có 600 triệu người ăn xin”, dường như ông ta ám chỉ chính sách phát triển TQ của Tập Cận Bình là thất bại, trong khi ông Tập hứa hẹn sẽ xây dựng TQ thành một “Tiểu Khang”, một xã hội thịnh vượng vừa phải. Lý Khắc Cường đi lên từ Đoàn Thanh niên, là Bí thư Thứ nhất Đoàn các năm 1993-98.
- Lý
Nguyên Triều, bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên Thượng hải. Sau đó giữ chức Phó
Chủ tịch nước CHND Trung Hoa từ năm 2013 đến tháng 3 năm 2018. Thời kỳ đó, một
phiên họp của Quốc vụ viện đã phê chuẩn việc mở rộng quyền hạn của Tập Cận Bình
còn Lý Nguyên Triều xin nghỉ hưu. Giấc mộng kế vị Hồ Cẩm Đào của Lý Nguyên
Triều sớm tan vỡ. Ông ta đau sót chứng kiến cảnh phe nhóm suy tàn, phe hoàng
thân Tập Cận Bình lên ngôi.
- Lục Hạo
năm 28 tuổi, anh ta đã là lãnh đạo của một nhà máy với 5.000 công nhân – chứng
tỏ cũng là người có tài năng. Sau này, Lục Hạo làm Bí thứ thứ nhất Đoàn Thanh
niên các năm 2008-13, rồi làm Chủ tịch tỉnh Hắc Long Giang ở tuổi trẻ nhất TQ
cho chức vụ này. Khi đó, ông ta báo cáo: "Lương của những người thợ mỏ
được trả liên tục". Biết được điều láo toét này, họ đi biểu tình phản đối
và đòi lương. Lẽ ra, Lục Hạo đã bị sa thải, nhưng lại được phe nhóm che chắn và
lên cao hơn, trở thành Bộ trưởng Bộ Tài nguyên vào năm 2018 và phó Thị trưởng
Bắc Kinh. Một thời, Lục Hạo được đánh giá là có tiềm năng làm "lãnh đạo
thế hệ thứ 6" (aka TBT vào năm 2020). Nhưng sau đó, sự nghiệp chính trị
của Lục Hạo đã đi xuống. Đến tháng 6 năm 2022, ông này chỉ còn giữ chức vụ vô
thưởng vô phạt, trưởng một Trung tâm tư vấn nào đó.
Các tác
phẩm mà Trần Đại Tôn để lại không nhiều, chủ yếu đề cập lĩnh vực kinh tế:
"Lịch sử lý thuyết kinh tế", "Từ kinh tế học cổ điển đến Marx:
Giới thiệu tóm tắt về sự phát triển của một số lý thuyết chính" (Nhà xuất
bản Nhân dân Thượng Hải, 1981).
Nhưng tất
cả bây giờ chỉ là cát bụi. Trần Đại Tôn chết năm 1997, ông ta sống thọ, nhưng
không đủ lâu để chứng kiến các học trò bị Tập Cận Bình hạ bệ, đặc biệt là không
thấy được cảnh Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra khỏi phòng họp ngay tại Đại hội đảng,
không thấy được CNCS thân Mỹ của ông ta chết như thế nào.
Trần Đại Tôn, nhà kinh tế Marxist |
Hồng Vệ Binh Mao ở Paris!
Xứ Buốc bông này cực lạ, dung nạo đủ thứ tạp nham cặn bã khắp thế giới, Trotskyism và Maoism là một ví dụ. Trong vấn đề phát triển Mao giáo ở Pháp không tránh khỏi có bàn tay lãnh tụ Khrushchev. Chống Stalin làm uy tín và hình ảnh Stalin xấu đi rõ rệt, tạo ra bối cảnh bỏ lại khoảng chân không và nó được lấp đầy bằng Mao giáo. Dĩ nhiên, không loại trừ điều này thành Cây Gạo, lãnh địa lâu đời của giới người Hoa, nhưng đó là chủ đề riêng.
Khi xem xét vấn đề tư tưởng và thực tiễn của Maoism du nhập vào
Pháp những năm 1960, thấy là khái niệm của Mao phát triển trong bối cảnh Đại
cách mạng văn hóa TQ đã được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình Buốc bông.
Maoism ở Pháp tỏ ra có ảnh hưởng đặc biệt đối với tầng lớp sinh viên – Hồng vệ
binh tại École normale supérieure ở rue d'Ulm, một địa hạt thuộc Paris. Có điều
này là bởi vai trò đặc biệt của nhà lý luận, ông thầy giáo Mác-xít, Louis
Althusser. Triết học Maoism đã tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề chỉ trích
chính sách thân Moscow-Stalin của ĐCS Pháp và hội sinh viên của họ. Thậm chí,
triết gia Althusser còn đặt lại vấn đề với chủ nghĩa Marx nguyên bản, và tư
tưởng của ông ta cuối cùng đã khiến các học trò đi đến chỗ đoạn tuyệt với “chủ
nghĩa lý thuyết” của ông. Sự đóng góp phong phú của Mao giáo vào văn hóa tri
thức Pháp trong những năm 1960, giúp đặt nền móng cho các sự kiện tháng 5 năm
1968, bắt nguồn chủ yếu từ bản chất lý luận và thực tiễn kép của nó. Dưới này
nêu 2 đối tượng cụ thể của Maoism: Bản chất bạo lực không thể tránh khỏi của
cuộc cách mạng và phương pháp “điều nghiên thực tiễn” theo chủ nghĩa kinh
nghiệm thay thế tri thức. Cuối cùng, sau năm 1968, Maoism ở Pháp đã từ bỏ chính
Maoism vì nền chính trị dân chủ tỏ ra hữu ích trước những đổ nát kinh hoàng ở
Pháp cũng như ở TQ vì Hồng Vệ Binh.
TQ trong giai đoạn 1920-1970 trải qua nhiều biến động và thay
đổi, từ nội chiến và cuộc đấu tranh đồng thời với chế độ phong kiến, ruộng
đất và giới CNTB dân tộc, sau đó là cuộc chiến chống Quân phiệt Nhật những năm
1930-40, đến tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa năm 1949. Mao nổi lên như
một nhà lãnh đạo các nước Thế giới thứ ba trong quá trình phi thực dân hóa sau chiến
tranh. Biến loạn loại bỏ Stalin mở ra cuộc đối đầu với Liên Xô, đặc biệt là sau
năm 1956, đến cuộc Đại Cách mạng Văn hóa bắt đầu những năm 1960.
Vào nửa cuối thập kỷ 1960, nhà báo Pierre Hervé đã đặt một câu
hỏi tự nhiên: “Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một phe bất đồng chính kiến
Trung Quốc trong ĐCS Pháp?"
Ngày nào đó đã đến 2 năm sau khi ĐCS Pháp liên kết với Liên Xô
trong các cuộc xung đột với Trung Quốc, Albania và sự e ngại sự kiện Hungary mở
ra khả năng du nhập phong trào Maoism vào Pháp. Đó là thời kỳ Pháp gặp khủng
hoảng, còn ĐCS Pháp chìm trong bế tắc.
Khó hình dung, giới thanh niên Pháp lại si mê cuồng tín Mao đến
vậy nếu không kể đến sự du nhập tư tưởng. Kể từ 1962, một lượng lớn các ấn phẩm
của Mao và về Mao, trong đó có Mao tuyển đã được giới lãnh đạo ĐCS Pháp dịch ra
tiếng Pháp. Đồng thời, giới du học người Hoa cũng đóng góp đáng kể vào việc
phát tán các tài liệu này.
Ông thầy triết gia Marxist Althusser ở rue d'Ulm là nhân vật có
công lao chính trong việc trang bị cho giới sinh viên lý luận để khám phá các
lựa chọn khác ngoài chủ nghĩa Stalin chính thống. Mặc dù, trên thực tế,
Althusser cũng đôi lần chỉ trích Mao. Từ nền tảng ấy, cùng một số yếu tố khác,
Mao giáo và Hồng Vệ Binh Pháp ra đời, tuy nhiên, sau Đại văn cách Pháp 1968,
ông ta cho rằng, đám sinh viên của ông ta chỉ “bằng cách nào đó tìm thấy chủ
nghĩa Mao”.
UJC(ml) - Union des jeunesses communistes marxistes-léninistes
được thành lập năm 1966 từ các thành viên ly khai khỏi Hội đoàn thanh niên Cộng
sản. Mặc dù cái tên vẫn là Mác-Lê, nhưng thực chất là tổ chức Hồng vệ binh
Maoist đúng nghĩa. Thực tế, UJC cũng không phải là duy nhất, nhưng mạnh nhất.
Mang đặc trưng "Cánh tả vô sản cấp tiến", UJC đặc biệt
chống trí thức, chối bỏ sách vở và văn hóa truyền thống. Họ thích những khẩu hiệu
ngắn gọn trong Mao tuyển. Họ cho rằng, đã là giai cấp công nhân thì nhất nhất
phải trải qua giai đoạn “tự căm thù, tự gột rửa chất tiểu tư sản trong mình”.
Họ không thích những lý luận khó hiểu trong sách Marx, mà thích “Sách Đỏ” của
Mao. Chính Mao mới khai sáng chủ nghĩa Marx cho họ qua những khẩu hiệu đơn
giản, dễ hiểu và họ có được quyền “tự do tư tưởng theo cách mà nó không phải là
quyền tự do của một nhóm tinh hoa".
Phát triển nhanh chóng, đầu 1968 đám HVB Pháp bắt đầu nổi loạn.
Đến tháng 5 1968, Đại Văn cách trộn lẫn Thiên An Môn chính thức
nổ ra ở Pháp, nhờ mạng lưới rộng lớn, các cuộc biểu tình bạo động xảy ra gần
như đồng thời tại các thành phố lớn khắp cả nước.
Cũng như ở TQ, đám HVB Pháp xông vào trường học, nhà máy chiếm
giữ, bắt bớ giáo viên và các viên quản đốc. Cũng không kém phần long trọng là
các cuộc ẩu đả, bạo loạn đường phố. Đỉnh điểm “Tháng Năm Đỏ, Tháng Năm
Tự do”, phong trào HVB lan đến công đoàn và giới công nhân, gần như toàn bộ
nền kinh tế và xã hội Pháp tê liệt. Lượng người biểu tình lên đến con số 11
triệu – hơn 20% dân số Pháp khi đó. Chính phủ và TT Charles de Gaulle sợ hãi bỏ
chạy sang Đức lánh nạn. Báo giới nói đến một cuộc nội chiến đang diễn ra. Trên
các khu phố La tinh ổ chuột nghèo đói ở thủ đô Paris là những cuộc chiến thực
sự.
Cảnh sát đàn áp nặng nề không dập tắt được cuộc tổng đình công
“Mèo hoang” lớn nhất lịch sử nước Pháp. Tuy nhiên, đến cuối tháng 5, một số sự
kiện đã thay đổi. Chính phủ de Gaulle ký được Thỏa thuận Grenelle vào ngày 27
tháng 5 với giới công đoàn và giới chủ với các điều khoản nhượng bộ. Cuộc phản
công của đảng Gaullist tổ chức vào ngày 29 tháng 5 tại trung tâm Paris đã giúp
cho de Gaulle tự tin giải tán Quốc hội và bầu cử sớm. Bạo lực và hỗn loạn nhanh
chóng chấm dứt sau 7 tuần, công nhân quay trở lại nơi làm việc. Phe chính phủ
Gaulle giành thắng lợi lớn hơn nhờ bầu cử.
Không có tin tức các thủ lĩnh Hồng Vệ Binh Pháp bị trừng phạt,
còn tổ chức Maoism Union des jeunesses communistes tự giải tán cùng năm 1968.
***
-
Bài viết: Những người kém tử tế đã xuyên tạc bài giảng Biển Đông dậy sóng vào ngày 12/6/2011 tại chùa Từ Tân của Thượng Toạ Thích Chân Qu...
-
Nhà cách mạng, nhiếp ảnh gia kiêm leo núi 36 tuổi có cái tên lãng mạn Plamen Goranov đã đổ xăng vào người và châm lửa tự thiêu ở quảng ...
-
Hai mươi lăm năm trước, mỗi media Mỹ, cùng với TT Bush và QH Mỹ đã gieo rắc tràn ngập chứng cuồng loạn và tấn công chống Trung Quốc vì nhữ...
-
Kính gửi bác Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT). Kính thưa bác. Con là ...
-
Theo nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì 4 câu gần cuối của Sấm Ký Trạng Trình ứng với năm 2011 là câu này: Phân phân tùng bách khởi Nh...
-
Ngày xửa ngày xưa, nơi vương quốc Trái Đất, có một nàng công chúa xinh đẹp, kiều diễm vô cùng. Mái tóc nàng dài đến thắt lưng, óng ả, ngát ...
-
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc --------------------- ĐƠN TỐ CÁO Về việc Đài truyền hình Việt Nam ...
-
ĐỪNG MƯỢN DANH KHOA HỌC ĐỂ ĐÁNH TRÁO LỊCH SỬ! ©Nguyễn Minh Tâm "Với việc gộp cả 9 đời chúa Nguyễn có công mở mang bờ cõi vớ...
-
PHẦN I Đây là bối cảnh của cuộc đấu tranh ở Tây Tạng và làm thế nào mà Mỹ đã dựng Đạt Lai Lạt Ma để theo đuổi cuộc đấu tranh ý t...
Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc
Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...