Đảng Cộng Hòa Mỹ - Đỏ Từ Lúc Bắt Đầu

 Đảng Cộng hòa đỏ, là cái đỏ cộng sản. 


Đúng như thế, tôi không nhầm. 

Đảng Cộng hòa Mỹ từng là cộng sản. 

Nhiều người yêu nước Mỹ than vãn rên rỉ ngày nay đảng Cộng hòa đã "lạc lối” và "sai đường". Đảng đã "xa rời" trách nhiệm pháp lý, xa rời triết lý của những người hùng Cộng hòa như Robert Taft, người bị tay chân của Eisenhower lừa lọc trong cuộc bổ nhiệm ứng cử viên TT năm 1952. 

Đó là nói về hiện tượng tại sao ngày này, Đảng Cộng hòa lại ghét tiến sĩ Ron Paul, một đảng viên kỳ cựu ghê gớm đến vậy. Đâu đó đã nói Ron Paul bị tân diều hâu ghét bỏ. Nguyên cớ chỉ có một, bởi Paul giống ông Taft, là tinh hoa của đảng Cộng hòa. 

Và người yêu nước Mỹ nói đó là sai lầm, tất nhiên. Lý do đảng Cộng hòa ghét tiến sĩ Paul chính xác là bởi đảng không còn là một đảng truyền thống và chính thống, là bởi nền tảng tự do của đảng là một lầm lạc, chứ đảng Cộng hòa đã “không đi sai, không đi trái." 

Đảng Cộng hòa đã sai ngay từ đầu, ngày nó thành lập. Ngay từ đầu, Đảng Cộng hòa đã hoạt động, không bị chệch hướng vì một chính thể lớn hơn nữa, đế quốc hơn nữa, vì thuế cao hơn nữa, nhiều chiến tranh hơn nữa, nhiều chủ nghĩa độc tài hơn nữa. Ngay từ đầu, Đảng Cộng hòa đã được nhuộm đỏ bởi màu cộng sản. 

Tại sao thế? Năm 1848, Cộng sản nổi lên làm cách mạng khắp châu Âu, liên kết lại bằng một tài liệu được chuẩn bị sẵn cho mục đích này, Tuyên ngôn đảng Cộng sản. tác giả của nó là một kẻ ăn bám thoái hóa tên Karl Mark, kẻ được một bè lũ nhỏ Liên hiệp cộng sản giàu có thuê cho mục đích này. Tuyên ngôn tuyên trung thành với Liên hiệp và cũng tuyên các nạn nhân mà nó sẽ xử. 

Nhưng cuộc cách mạng năm 1848 không thành công. Các thủ phạm đã trốn thoát ngay trước mũi cảnh sát. Và bọn chúng, dĩ nhiên trốn đến đất Mỹ. Năm 1856, tức là 8 năm sau đó, đảng Cộng hòa tranh cử cho ứng viên đầu tiên của mình chức tổng thống. Vào thời gian đó, cái đảng của những tên cộng sản từ chạy trốn từ châu Âu sang đã thâm nhập hoàn toàn vào đất nước này, đặc biệt là miền Bắc. Nhiều kẻ trở thành các quan chức cao cấp trong quân đội Liên minh và chính phủ. 

Qua nhiều thập kỷ, người Mỹ thấy kỳ lạ về sự tàn bạo Yankee - dân Mỹ miền Bắc trong cuộc nội chiến. Robert E. Lee xâm chiếm miền Bắc, nhưng người anh hùng quả cảm Ki-tô đã ngăn chặn mọi sự cướp phá chống thường dân. Thiên tài quân sự Stonewall Jackson trụ vững như một núi đá và dẫn quân Yankees đến Manassas, nhưng khi Barbara Frietchie đòi phất cờ Yankee ở Frederick, Maryland, thay cho lá cờ Ngôi sao gạch chéo, người hùng Ki-tô ra lệnh, theo John Greenleaf Whittier:

 

"'Ai chạm vào một sợi tóc trên cái đầu Yon Gray 
Sẽ chết như một con chó! 

Tiến lên!”.  

Yankees xâm lược miền Nam thật tàn bạo, giết chóc, hãm hiếp và phát hủy mọi của cải của dân chúng. Trong thị trấn Georgia, 400 phụ nữ bị nhốt ở trên sân trong nhiệt độ tháng 7 cả tuần không vệ sinh tắm rửa. Thật khủng khiếp khi cái chất nhờn Yankee lên men. Khoảng hai ngàn phụ nữ miền Nam và trẻ em bị bắt về phía bắc để lao động như nô lệ. Không rõ điều này có được dạy trong trường học? 

Cuộc hành quân đến biển Sherman đốt phá trụi đến mặt đất thật kinh sợ mà bọn Phát xít cũng phải nể. Tại sao? Bởi Yankees rất ghét nô lệ da đen? Không có nghi ngờ gì Cộng sản đã thực sự ảnh hưởng mạnh ở miền Bắc, kết hợp với chủ nghĩa bãi nô điên cuồng, ít nhất là một trong những lý do chính. Chế độ nô lệ là một lý do để bào chữa về sau, chúng nghĩ ra muộn khi đưa vào để tuyên truyền lôi kéo. 

Nhìn lại, có vẻ như vì không có gì như thế này đã từng xảy ra ở đây, Lee và Jackson đã không hoàn toàn hiểu những gì họ đã chiến đấu. Có điều đó thực sự là cuộc "nội chiến", chứ không phải ly khai, họ lẽ ra sẽ và có thể dễ dàng chiếm Washington sau khi chiếm Manassas và treo cổ tổng thống Cộng sản đầu tiên của người Mỹ và những tên tội phạm chiến tranh khác. Thay vào đó họ lại quay về, trong niềm tin sai lầm rằng Yankees bị đánh bại sẽ để họ được yên. Lee hiểu ra điều này quá muộn. Ông nói sau chiến tranh giá như ông ta biết ngay từ đầu những gì ông phát hiện ra, ông sẽ phải chiến đấu đến người cuối cùng. 

Cuộc chiến miền Nam là gì? Alexander Hamilton là cục trưởng ngân khố quốc gia đầu tiên, ông ta muốn có một chính phủ trung ương mạnh và một ngân hàng quốc gia. Phó tổng thống Aaron Burr đã giết chết Hamilton trong một trận đấu. Vấn đề là Burr đã không giết Hamilton đủ sớm. Henry Clay kế thừa và mở rộng ý tưởng của Hamilton trong một cái gì đó gọi là "hệ thống Mỹ", theo đó ủng hộ chính phủ trợ cấp lớn cho các ngành công nghiệp ưu đãi và đánh thuế cao đến tổn hại, những gì ngày nay chúng ta gọi là "chủ nghĩa xã hội cho người giàu." Clay truyền cảm hứng cho ông luật sư đường sắt Abraham Lincoln, kẻ thừa kế cuộc đào tẩu Đỏ từ cuộc Cách mạng 1848 và trở thành tổng thống Cộng sản đầu tiên của nước Mỹ. 

Tất cả điều này lại đến với tâm trí bằng xuất bản gần đây về đảng Cộng hòa đỏ: chủ nghĩa Mark-xít trong nội chiến và Mark-xít Lincoln (Universe, Lincoln, Nebraska, 2007) của nhà sử học miền Nam Walter D. Kennedy và Al Benson. Bạn phải đọc quyển sách này , bởi vì nó là cái đinh không thể bác bỏ đóng chặt mọi thứ đã nói ở trên và một số thứ nữa. Hãy xem xét qua cái đảng Cộng hòa đỏ này và, khi làm việc đó, hãy nhớ rằng lý do hầu hết người Mỹ chưa bao giờ nghe nói về tất cả điều này là bởi kẻ thắng viết sử. 

Ví dụ, August Willich là một thành viên trong Liên hiệp Cộng sản London League cùng với Karl Mark và Friedrich Engels. Không cần phải nói, Willich trở thành một vị tướng quan trọng trong quân đội Liên minh. Robert Rosa thuộc về câu lạc bộ Cộng sản New York và là tướng của đoàn bộ binh 45 New York. Tướng Louis Blenker của New York là một "nhà Mark-xít đầy thuyết phục". Đội quân 10 000 lính trong sư đoàn của ông ta cướp bóc dân chúng ở Virginia là được truyền cảm hứng từ Blenker. Rất nhiều lính tráng của ông ta, vừa mới ra khỏi tù ở châu Âu. Vị tổng thống Cộng sản đầu tiên biết điều này, nên biến chúng thành những kẻ cướp bóc miền Nam. 

Trong đảng Cộng hòa đỏ, người ta thấy có 9 nhà cách mạng châu Âu bị kết án tội phản quốc và bị trục xuất sang Úc. Chúng đã trốn thoát sang Mỹ và Canada. Ba, bốn tên trong đó, không hề có kinh nghiệm quân sự, lại trở thành tướng trong Liên minh, cùng tham gia ít nhất có ba nhà Mark-xít khác cũng nắm giữ các chức vụ. "Mỗi người trong số 9 kẻ này sau là thành viên của Nghị viện Canada, thống đốc vùng lãnh thổ, hay bang trong Liên minh, lãnh đạo đảng, thủ tướng hay tổng chưởng lý." 

Nhiều người trong số những người này, dù không phải tất cả, là người Đức-Do Thái, một nhóm trong số 4000 tên chạy trốn sang Mỹ được biết đến với cái tên Nhóm 48, chúng nhanh chóng thêm vào chủ nghĩa giải phóng nô lệ đầy bạo lực, nữ quyền - femenism vào đức tin cộng sản của chúng (ai có ý kiến về phong trào feminism ngày nay?). Ở Missouri, Franz Sigel (nhóm 48) trở thành tướng Liên minh và đã may đồng phục cho trung đoàn bộ binh thứ 3 của ông ta mà đồng phục thì trông tương tự như đồng phục các nhà cách mạng Đức mặc vào năm 1848. 

Nhóm 48 trở thành các thủ lĩnh cao cấp của Liên minh, bao gồm đại tá Friedrich Salomon, trung đoàn Wisconsin 9, đại tá Fritz Anneke, trung đoàn Wisconsin 34 và đại tá Konrad Krez, trung đoàn Wisconsin 27. Nhà báo cộng sản Karl Heinzen đã viết: "Nếu bạn phải cho nổ tung một nửa lục địa và gây ra một cuộc tắm máu để tiêu diệt đảng của bọn man rợ, bạn phải không đắn đo lương tâm. Bất cứ ai không sẵn lòng hy sinh cuộc đời mình để làm tròn nghĩa vụ tiêu diệt một triệu lũ man rợ, không phải là một người cộng hòa thực sự." Heinzen đã đến đất nước này và hỗ trợ Lincoln. 

Joseph Weydemeyer đã chạy trốn khỏi Đức sau khi cuộc cách mạng cộng sản thất bại. Tại London, hắn ta thuộc về Liên đoàn Cộng sản và là một ông bạn chí tình của Mark và Engels. Hắn đến Mỹ năm 1851, hỗ trợ Lincoln, nhưng vẫn duy trì tình bạn thân thiết với Mark và trở thành thiếu tướng trong quân đội Liên minh. 

Nhà XHCN hàng chục năm Richard Hinton phải rời nước Anh. Ở Mỹ, hắn ta là đại tá quân Liên minh, một đảng viên Cộng hòa cấp tiến và có mối liên hệ với kẻ kỳ dị John Brown. Còn Allan Pinkerton là tài trợ của Brown. Tại một cuộc họp với Brown, Pinkerton nói với con trai mình: "Hãy nhìn rõ con người này. Hắn ta vĩ đại hơn Napoleon, xứng đáng vĩ đại như George Washington." Đúng, Pinkerton là tay thám tử vĩ đại đã lập ra bộ máy mang tên hắn ta. Tại sao lại không biết điều đó? Ở Kansas, gã giết người hàng loạt Brown được hưởng sự hỗ trợ của các Yankees giàu có (nhóm bí mật 6). August Bondi và Charles Kaiser là 2 kẻ khác đồng đảng với Brown, thì thuộc về Nhóm 48. 

Còn chính Mark thì sao? Sau cách mạng 1848, Mark đã trốn sang Anh. Ông ta thành phóng viên tờ New York Tribune của Horace Greeley, có tổng biên tập là một cộng sản tên Charles Dana. Dana thuê Mark làm phóng viên nước ngoài. Mark thường viết thư cho họ hàng về đảng Cộng hòa mới. Sự rộng lượng của Dana đối với Mark giữ cho cái đống phế thải này sống còn. 

Nhớ rằng Mark không bao giờ đi làm một ngày nào để nuôi đình ông ta, nhưng lại có thời gian để làm người hầu gái có chửa. Dana sau này trở thành trợ lý Bộ trưởng Chiến tranh. Tất cả đều có vị trí khi ông tổng thống cộng sản đầu tiên được bầu theo phiếu của đảng Cộng hòa năm 1860 và kích động cuộc chiến tranh cộng sản Lincoln để phá hoại Liên minh. 

Hội nghị đảng Cộng hòa năm 1860 tổ chức tại Chicago, một trung tâm cháy rực những cộng sản Do Thái gốc Đức. Nhiều kẻ đỏ như vậy là các đại biểu, bao gồm Johann Bernhard Stallo và Frederick Hassaurek từ Ohio, Heinrich Bornstein từ Missouri, là bạn của Mark. Nhà XHCN Carl Schurz là đại biểu của Wisconsin. Để đảm bảo hỗ trợ tiếng Đức ở Illinois, Lincoln đã bí mật mua tờ báo Illinois Staats Anzieger. Sau cuộc bầu cử, ông ta được trao vị trí biên tập viên lãnh sự. 

Nhà XHCN Friedrich Kapp là biên tập viên của tờ New Yorker-Abendzeitung. Ông ta viết các bài tuyên truyền cho đảng Cộng hòa mới và tích cực giúp đỡ để các đầu mối Đức-Mỹ dồn phiếu cho Lincoln. Cùng với Nhóm 48, ông là đại cử tri cho Lincoln năm 1860. 

Hãy nhớ rằng, đó chỉ là một vài ví dụ. Bạn thực sự cần phải đọc cuốn sách. Gọi điện thoại miễn phí ở Mỹ 1 (800) 288-4677 để đặt mua "Đảng Cộng hòa đỏ: chủ nghĩa Mark-xít trong nội chiến và Mark-xít Lincoln" (Red Republicans: Marxism in the Civil War and Lincoln's Marxists). 

Hãy nhớ rằng chế độ nô lệ, đối với những người Cộng sản, chỉ là một công cụ về sau. Trước chiến tranh giành độc lập, các thuộc địa miền Nam đã có kiến nghị đến vua Anh dừng nhập khẩu nô lệ vào miền Nam, do các trùm sò Do Thái buôn vào đây. Bạn có biết rằng Jefferson đã cố gắng đưa vào Tuyên ngôn Độc lập lời khiếu nại chống lại nhà vua, vì chính phủ của ông đã bị ngăn cấm các thuộc địa chấm dứt buôn bán nô lệ? Diễn đạt của Jefferson đã bị xoá để tránh hành vi xúc phạm vua Anh, cùng các trùm Do Thái kiếm được bộn tiền từ buôn bán nô lệ. 

Thật vậy, bạn cũng biết rằng nếu chế độ nô lệ là những gì miền Nam chiến đấu để bảo vệ, thì tại sao tất cả chế độ nô lệ lại tồn tại trong Liên minh? Lincoln tuyên bố rõ ràng ông ta sẽ bảo vệ chế độ nô lệ và sẽ không giải phóng các nô lệ thuộc sở hữu của các ông chủ trong các bang Liên minh: "Tôi không có mục đích, trực tiếp hay gián tiếp can thiệp vào tổ chức của chế độ nô lệ tại các bang, nơi chúng tồn tại. Tôi tin rằng tôi không có quyền hợp pháp để làm như vậy, và tôi không có ý làm như vậy. " 

Hãy nhớ rằng Tuyên Ngôn Giải Phóng đã đi vào cuộc chiến. Đó là một tuyên truyền phô diễn giải phóng nô lệ chỉ ở các khu vực do Liên minh chiếm đóng, nói cách khác, không có gì cả. Trong khi đó, nhà bãi nô nổi tiếng Robert E. Lee, người đầu tiên Lincoln đề nghị làm chỉ huy của quân đội Liên minh, đã giải phóng nô lệ trong gia đình ông ta từ lâu trước khi chiến tranh. Vì vậy, vai trò của những nhà cộng sản, những kẻ đến sau là ở chỗ nào? 

Thượng nghị sĩ Cộng hòa John Sherman, anh em của con quỉ hành quân đến biển Sherman, tư vấn cho các thượng nghị sĩ đồng nghiệp "quốc hữu hóa càng nhiều càng tốt làm cho người ta yêu đất nước hơn các tiểu bang của họ. Tất cả các quyền cá nhân, tất cả các quyền lợi địa phương, tất cả các lợi nhuận ngân hàng, lợi ích của mọi cá nhân, mọi thứ, lúc này phải đặt dưới quyền lợi của Chính phủ." 

Nước Đức là một tập hợp phi tập trung các bang độc lập. Mục tiêu của Nhóm 48 là "hợp nhất, các nền cộng hòa độc lập" mà trong đó các bang này sẽ bị giải thể. Đất đai và công nghiệp tư nhân sẽ bị tịch thu. Chính phủ bị chuyển đổi thành chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng như thế của Nhóm 48 đã được thực hiện ở đây. Bằng cách đó, Hitler đã thi hành ở Đức những năm 1930. Đó là những gì những nhà cộng sản chạy trốn đã tìm thấy rất hấp dẫn ở Lincoln. Lịch sử đã lặp lại, cho dù người ta không để ý. 

Vì vậy, một lần nữa, đảng Cộng hòa đã không "đi sai". Chỉ có điều nó đã thối rữa ngay từ đầu. Nó chưa bao giờ là bất cứ cái gì khác, ngoài cộng sản đỏ. Đặc trưng của quốc gia cộng hòa hoàn toàn phù hợp với "nhà nước cộng sản”. Phát hiện này có ý nghĩa gì với chúng ta? Một lần nữa, tiến sĩ, thượng nghị sĩ Ron Paul đã sai. Ông không phải là một "nhà cộng hòa truyền thống”. Bởi "cộng hòa truyền thống" phải chống lại thuế cao, chống chính phủ đế quốc và chống chiến tranh vô độ. 

Tiến sĩ Paul là thượng nghị sĩ Cộng hòa nhưng lại giống đảng viên Dân chủ truyền thống hơn, chiểu theo tham khảo các khóa học của đảng Dân chủ trước khi cộng sản chiếm quyền, bắt đầu với việc bầu Nhà băng dự trữ liên bang-thuế thu nhập-WWI Wilson và quá đỗi tài giỏi với cuộc bầu cử chọn ra kẻ dối trá, lừa đảo, trộm cắp, phản bội và giết người hàng loạt Do Thái Franklin Delano Roosevelt. Đấy là đang nói về đảng Dân chủ của Thomas Jefferson. 

Vì vậy, tất nhiên là đảng Cộng hòa sẽ làm mọi thứ có thể nhằm vào cái bị cát tiến sĩ Paul. Thật sự đúng khi người ta coi ông là kẻ hay can thiệp mà lại không thuộc về nơi này. Đúng như thế, sau hàng thập kỷ xuyên tạc quan điểm dân chúng về đảng Cộng hòa, ông phải làm một đảng viên Cộng hòa. Nhưng không có lòng trung thành yêu nước, và chắc chắn không có sự tin tưởng, cái đảng rắn chuông này, sẽ phản bội ông ngay vào lúc có thể. 

Tiến sĩ Ron, chỗ của ông không phải ở đây. Đảng Cộng hòa là một thứ khác. 

Xin chia buồn!

DỊ DẠNG CỦA TẬP TRUNG DÂN CHỦ!

1. Ở Liên Xô có nhiều chuyện tiếu lâm phổ biến xoay quanh chủ đề:

"Lenin chứng tỏ cần phải lãnh đạo đất nước theo lối tập thể.
Stalin chứng tỏ có thể lãnh đạo đất nước theo kiểu cá nhân.
Khrushchev chứng tỏ có thể lãnh đạo đất nước bởi thằng ngu.
Brezhnev chứng tỏ nhìn chung đất nước chẳng cần lãnh đạo gì cả".
“Chúng ta có tất cả, nhưng chúng ta chẳng là cái gì cả!” - Câu chuyện tiếu lâm phản ánh chính xác kết quả tác động của phép tập trung dân chủ.

Tập trung-Dân chủ tự nó đã đối lập và triệt tiêu nhau. Với phép “Tập trung dân chủ” của Lenin, vừa không có tập trung, cũng chẳng có dân chủ.

Phép "tập trung dân chủ" trứ danh một mặt không cho ai tập trung quyền lực (trừ khi phá bỏ nó như Stalin), nghĩa là TBT hay bất cứ ai không có thực quyền, chỉ là thư ký cho 1 cái hội đồng nào đó gọi là BCT hay Ban chấp hành TW. Mặt khác, nó tước đoạt quyền chính trị của mọi đảng viên cho đến dân chủ của quần chúng.

Cái còn lại của phép "tập trung dân chủ" là 1 mê cung chằng chịt. Bất cứ 1 kẻ nào muốn tồn tại trong đó chỉ có 2 cách: 
1) buộc phải tìm cho mình mối quan hệ ngang dọc để giữ vị trí - nghĩa là kết bè, kéo cánh, lập phe nhóm, băng đảng. 
2) ngồi im không làm cái gì cả - nghĩa là trì trệ bảo thủ.

Phe nhóm tất dẫn đến trục lợi cho phe mình, nhóm mình, bỏ qua, chà đạp lợi ích khác – đó là tham nhũng theo định nghĩa. Còn trì trệ bảo thủ là quả bom tích lũy bất mãn chờ ngày phát nổ. Cả 2 đều đi đến chỗ tự diệt.

2. Thuật ngữ học “dị dạng” của phạm trù “tập trung dân chủ” có nguồn gốc từ chính từ ngữ này.  Không tồn tại cái gì gọi là "tập trung" còn "dân chủ" cũng lại là vấn đề khác. Mọi thứ bắt đầu từ dối trá lồng ghép trong đó khi di cư vào nó trong thời kỳ sau này. Dân chủ không phải là quyền của nhân dân, nó chỉ là quyền của 1 nhóm rất nhỏ có quyền lực hay ảnh hưởng thực sự đối với chính phủ. Có lẽ, chỉ ở thời Hellas cổ đại có 1 giai đoạn nào đó dân chủ có 1 số ý nghĩa tích cực, và có thể nó chỉ mang tính logic lý luận dưới thời các triết gia như Platon, Aristotle, Polibiya. 

Tất cả vấn đề là sau này người ta đã điều chỉnh nó cho hợp với khẩu vị của giới cầm quyền và che đậy sự giả dối này dưới dáng vẻ khác như thể là 1 lựa chọn của "quần chúng". Điều đó đã được chủ nghĩa tư bản thực hiện trong quá trình tư nhân hóa, mà về thực chất cũng đã chiếm đoạt nó như mọi thứ khác từ những tiền nhiệm, cũng là để lấy đi khỏi nó mọi quyền lực. Căn cứ vào bản chất của chủ nghĩa tư bản, từ ngữ dân chủ này đã tuyệt đối không còn là quyền lực của quần chúng, mà là quyền lực của tiền. Điều này được hiểu rõ từ lâu và đã luôn như vậy. Nhưng rồi sau này người ta cứ diễn giải thuật ngữ này theo những kiểu: dân chủ-xã hội (dân chủ gì? xã hội nào?), Đất nước của nhân dân? (đất nước nào, nhân dân là ai?). 

Những kẻ phát tán nó hiểu rõ thuật ngữ “dân chủ” chẳng có gì liên quan đến nhân dân. Dân chủ chẳng qua là phương sách cai trị dưới chế độ CNTB, dùng để biện hộ bóc lột tư bản một cách lừa dối. Vậy mà người ta cổ vũ, cúng tế, vái lạy sự giả dối này khắp nơi. 

Hơn thế, dân chủ giờ đây được bảo vệ bằng luật pháp, tài chính, công quyền và bộ máy quan liêu đàn áp và tham nhũng của những tên độc tài đầu sỏ - đó là cả 1 biến dạng quá kinh khủng. Giờ đây, các độc tài bạo chúa, đám quan chức thoái hóa, công quyền độc đoán, đám đút lót và biển thủ, giới truyền thông bẩn thỉu ủng hộ không cần giấu giếm.

Quần chúng khoái trá, hoan hỉ với thành công quá đỗi này. Họ khúm núm, ngưỡng mộ các con rối độc tài và di cư thứ dân chủ xa lạ này vào đời sống, trong khi họ chẳng có gì còn chính quyền thì đã biến quyền lực độc tài thành hợp pháp dưới luật. Trên thị trường, để thực hành dân chủ là tự do chọn lọc Darwin, cạnh tranh sinh tồn tự nhiên, kẻ mạnh tồn tại, kẻ yếu bị đào thải. 

3. Không có ngoại lệ, chỉ là 1 chút khác biệt – phương sách cai trị tư bản (là dân chủ) được Lenin nhập khẩu vào nước Nga và các nước tự xưng là XHCN sau này với 1 sửa đổi gọi là "tập trung dân chủ" – sửa đổi này biến dân chủ phương tây thành thứ rất quái đản.

 Đầu tiên, hơn 70 năm Liên Xô tồn tại là 7 thập kỷ vừa thi hành vừa sửa chữa món 'tập trung dân chủ' này, nhưng bất kỳ nỗ lực sửa chữa nào nó cũng hành xử như 1 ma trận. Dù có tốt đẹp đến mấy vào lúc sửa chữa, dù có đao to búa lớn đến mấy rằng cần phải “đảm bảo nguyên tắc đảng trên cơ sở tư tưởng đạo đức CS:, nó luôn luôn sản sinh ra cấu trúc đảng-chính quyền quan liêu thâm căn cố đế. Hậu quả là, chế độ luôn luôn nằm trong xung đột đến nguy kịch. Sửa chữa của Gorbachev đã đem đến cơn khủng hoảng thập kỷ 80, đột quị và chết (trong khi dân chủ lừa dối tư bản tồn tại cả nửa thiên niên kỷ!)

Cái ma trận 'tập trung dân chủ' này nhìn ra sao? Tất cả biết rõ, tất cả đều thấy nó liên tục cho ra những sản phẩm tồi tệ không thể tránh được sau mỗi tác động bất hạnh của nó, nhưng tất cả luôn mơ mộng 1 phép màu nào đó từ câu thần chú "tập trung dân chủ". Ở cấp thấp nhất, mỗi khi có bầu cử cơ cấu lãnh đạo vào cấp cao hơn trong mỗi kỳ đại hội cơ sở, thì ở trong đó sâu mọt quan liêu đã ngồi sẵn tự bao giờ - làm thế nào để có dân chủ? Đại hội cấp cao hơn chọn ra các đại diện lại càng quan liêu hơn khi nhìn thấy nhiệm vụ của mình chỉ là phục vụ cho lãnh đạo cấp cao hơn, dân chủ trong đảng nhanh chóng tàn lụi.

Hậu quả tác động của ma trận này, là cái ảo ảnh tâm điểm rạp xiếc "Đoán số!" Trong khi tâm điểm vẫn chưa bắt đầu, thì kết cục thì đã được viết ra trong tờ truyền để ở túi ngực kẻ làm trò ảo thuật.

Do đó, một số lượng cơ cấu nhất định trù bị vào cấp cao không biết được số mệnh nào khác cho đến khi ngồi vào những cái ghế này, chẳng có dân chủ trong đảng nào hết kể cả là trong ý nghĩ, tất cả phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của các lãnh đạo, họ có thể muốn thực hiện nó, họ có thể muốn phá hoại nó. Nhưng điều này tạo ra sức thuyết phục khó lay chuyển về tính độc lập của mình trong đảng khi nó là kẻ tổ chức-tư tưởng CS độc nhất.

Những năm trước CM T10, bằng trí tuệ không thể hiểu nổi, ý chí Lenin đã cho phép mình nhiều lần   nắm giữ vị trí tinh hoa lãnh đạo để có thể đưa ra các phát biểu và xây dựng các luận thuyết giả tạo 1 cách khôn khéo và thậm chí hướng nghị lực của đội ngũ vào các vấn đề có lợi. Tất cả cũng chỉ vì tập trung dân chủ mà đã gây ra cả loạt thất bại trong thời kỳ CM T10 khi Trotsky đàm phán với Đức ở Brest.

Trong các năm của thập kỷ 1920-30, những nỗ lực khôi phục nước Nga từ hoang tàn đổ nát cộng sản của Stalin có trọng tâm là xóa bỏ tập trung dân chủ của Lenin trong nội bộ đảng. Stalin là con người của thực tế, luôn luôn là thiểu số trong đám đông BCT, ông thường xuyên phải áp dụng hầu hết các biện pháp ngược nhất với đảng cho đến tận các thành phần "mưu kế đầu đen" để bảo vệ đất nước khỏi đám lãnh đạo đảng, kiểu: "Hãy làm như tôi nói!" hay mệnh lệnh hành chính và để thiết lập ra nhóm tập thể mạnh noi gương mình! Chỉ có năng lực cá nhân Stalin đơn độc ở vị trí đứng đầu đảng mà có thể chèo lái kinh tế, đời sống chính trị-xã hội và cho phép giành được những thành tựu đặc biệt xuất sắc trên mọi phương diện. my and internal political life camps allowed it to achieve outstanding achievements in everything. Không như thế, các nhân vật có chút hướng thiện nhưng thất bại như Frunze, Dzerzhinsky, Kuibyshev, Kirov chỉ có thể giải thích 1 cách logic là hậu quả của tập trung dân chủ (Stalin đã gần như cấm đảng CS hoạt động trong giai đoạn quan trọng nhất của đất nước 1939-1953).

Nhưng cũng chính tập trung dân chủ đã cho phép phe nhóm Khrushchev cuối cùng loại bỏ được di sản Stalin và quay đầu đất nước vào thoái hóa. Tương tự như vậy, chính là nhờ tập trung dân chủ mà phường hội Gorbachev-Yeltsin cùng đám cơ hội chủ nghĩa đã tiếm quyền.

Phần lớn đảng viên cơ sở lại cho là các chức năng của đảng hoạt động tốt. Cũng như con người, các chức năng này có thể làm hỏng bất cứ công việc nào hay làm những điều xấu, hay chỉ là ngoại vi của các chức sắc đảng, tuy thế, họ lại trông cậy vào tập trung dân chủ để lần lượt được đưa vào cơ cấu lãnh đạo đảng và đóng vai trò trong các hoạt động xã hội.

Thậm chí là họ đòi hỏi cần tăng cường tập trung dân chủ để "hồi phục và tiếp tục trẻ hóa thành phần đảng, sự thay thế người trưởng thành trong đội ngũ có tính hấp dẫn lớn, kết hợp nghị lực và sự nhiệt tình của tuổi trẻ với kinh nghiệm của thế hệ đảng viên trước”. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Cái ma trận tập trung dân chủ không cho phép điều này, cũng chẳng có “dân chủ hóa đời sống nội bộ đảng” nào cả, hay chẳng có “các hoạt động có mục tiêu rõ rệt để hình thành đảng của quần chúng lao động loại trừ hiện tượng quan liêu và chủ nghĩa lãnh đạo” nào hết. Ngay cả việc "tiến hành đối mới có hệ thống toàn bộ các cơ quan được bầu chọn và các cá nhân lãnh đạo", cũng như việc "thiết lập các qui tắc không cho phép xuất hiện những kẻ phản bội chính trị, kẻ hám lợi, sử dụng chức quyền của mình trong đảng để đạt các mục đích vụ lợi, phá hoại uy tín của đảng" - vô tác dụng. Chẳng có gì trong đảng gọi là điều kiện như thế và cả "giáo dục chính trị CS thường xuyên, đem ý thức XNCH tiến tiến đến quần chúng lao động, lĩnh hội kiến thức khoa học Nga và thực tiễn thế giới, phát triển khoa học cơ bản và ứng dụng về xã hội", vv, cũng chẳng có gì hết.

Dĩ nhiên, vẫn còn 1 thứ để hy vọng: lòng yêu nước! Nhưng cũng chính tập trung dân chủ đang thường xuyên loại bỏ những người yêu nước ra khỏi đảng. Cuộc đấu tranh chống hậu quả tập trung dân chủ đã lôi cuốn họ, nhưng họ cũng sớm tan ra thôi.

4. Đề nghị: Cần phải thay cái ma trận tập trung dân chủ 1 cách cương quyết. Quá trình đi đến suy đồi không còn gì để tranh cãi của sự lãnh đạo đảng về nguyên tắc cần phải loại bỏ.
Những đề nghị dưới này không phải là tuyệt đối, nhưng có thể là lựa chọn tốt nhất. Và ở vào thế bắt buộc, khi đã chối bỏ tập trung dân chủ, thì cần đưa ra lựa chọn thay thế.

Tiến cử ứng cử viên đại biểu đến hội nghị cấp cao hơn có thể là 1 thay thế:

    - Hạn chế số lượng ứng cử viên đại biểu dự hội nghị cấp cao hơn từ số lãnh đạo đảng, ví dụ 10-20%.

    - Các ứng cử viên khác cho đại hội được đề xuất từ số các thành viên đảng trên cơ sở các khuyến nghị khởi xướng bởi 1 hội đồng chuyên trách đặc biệt tương ứng, xét đến hoạt động và công lao của các ứng cử viên công tác cơ sở đảng (tham gia vào các tổ chức xã hội không đảng phải, các tổ chức chính phủ khác nhau, các cổ động và tuyên truyền khác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ, các công tác xã hội và xuất phát từ xã hội, vv).

- Các cán bộ đảng khác có thể được bầu tại đại hội theo địa vị đại biểu với biểu quyết tham vấn.

- Qui định hạn chế cơ bản bầu cử lại vòng sau các lãnh đạo trong cơ cấu tất cả các cấp, ví dụ, ít nhất 50%.
-----------------------------------
E hèm! Nhưng mấy đề nghị cải lương như trên có tác dụng? Bị dồn đến cùng đường, bị đe dọa có nên van xin loài thú ăn thịt? Lenin đẻ ra quái thai, chính Lenin có thể tiêu diệt quái thai. Không ai còn nhớ: Bạo lực là bà đỡ của cách mạng!? Chính quyền trên đầu nòng súng!?

Nếu như cho rằng "đảng - là đảng của nhân dân", thì nguyên tắc này (tập trung dân chủ) cần phải gọi là "Trung tâm hóa quyền lực nhân dân" hay "Trung tâm hóa nhân dân".

(Trích và bình báo cáo của 1 thành viên KPRF trong hội thảo năm 2008, "Nền văn minh Nga" trong phong trào xã hội thế giới, vì sự phục sinh của khoa học đất nước.)

Hai nhánh rẽ của nền văn minh nhân loại - TT. Thích Chân Quang

Thời Thổ Tả xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả một bài nói chuyện rất hay về lịch sử văn minh nhân loại của người cháu nội Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - Thượng Toạ Thích Chân Quang:


"Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN" - HCM


Khẳng định vai trò của con người với tư cách là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN". Xây dựng con người mới là mục tiêu chiến lược. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu những quan điểm có tính phương pháp luận rất cụ thể: 
                              
Thứ nhất, con người ta ai cũng có cái tốt, cái xấu. Cái tốt, cái xấu trong mỗi con người không phải bất biến mà luôn thay đổi, biến hóa. Vì vậy, xem xét đánh giá con người không nên chấp nhất; sử dụng con người phải khéo nâng chỗ tốt, khéo sửa chỗ xấu, Người dạy: "Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng, ta phải làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng".
                            
Thứ hai, con người ta dù tốt, xấu "đều có tình"; vì vậy, khi đánh giá con người không thể chỉ dùng lý mà phải có tình, phải nhìn thấy nhân bản của mỗi con người, ngay khi họ có khuyết điểm, sai lầm.
                            
Thứ ba, con người ta ai cũng có khuyết điểm, chỉ không làm việc thì mới không có sai lầm, nhưng không phải vì khuyết điểm, sai lầm nhất thời mà đánh giá họ là người xấu, là con người bỏ đi, mà đập cho tan nát; phải có lòng tin vào cái thiện, vào tương lai tốt đẹp.
                            
Thứ tư, con người luôn gắn liền với tập thể, với xã hội; vì vậy, đánh giá từng con người phải gắn với đánh giá tập thể, phải đặt trong môi trường nhất định và xuất phát từ yêu cầu của tập thể, cộng đồng và xã hội mà họ sống và hoạt động. Người chỉ rõ: "Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, thói quen". Đánh giá con người phải thông qua quá trình rèn luyện và thử thách trong hoạt động thực tiễn, "qua hoạn nạn mới rõ người trung".
                            
Những quan điểm cơ bản trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xem xét, đánh giá con người là cơ sở để đặt ra những yêu cầu, nội dung và biện pháp xây dựng con người mới trong chiến lược con người của cách mạng XHCN hiện nay, đó là:
                            
Thứ nhất, bồi dưỡng con người về trí tuệ:
                            
Cách mạng XHCN là một sự nghiệp hết sức mới mẻ, lâu dài, đòi hỏi con người XHCN phải có trí tuệ cao, có kiến thức sâu sắc và toàn diện về nhiều lĩnh vực. Điều quan trọng là cần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ và nhân dân. Người chỉ rõ: "Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Cùng với nâng cao trình độ lý luận chính trị, phải nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của con người mới. Không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì khơng có khả năng tiếp thu những kiến thức của khoa học, kỹ thuật và do đó không theo kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp xây dựng CNXH.
                            
Thứ hai, bồi dưỡng đạo đức cách mạng:
                            
Với Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng luôn là cái gốc của con người mới XHCN, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người: "Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" và "Muốn xây dựng CNXH phải có con người thấm nhuần đạo đức XHCN". Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... Khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần khiêm tốn, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, quan liêu, kiêu ngạo, hủ hóa.
                            
Thứ ba, xây dựng mục đích và lối sống mới:
                            
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến xây dựng mục đích và lối sống của con người XHCN. Đó là những con người sống có lý tưởng, có bản lĩnh, dù khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đến đâu cũng không từ bỏ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, không lùi bước, thắng không kiêu, bại không nản. Lối sống của con người mới là lối sống dân chủ, phấn đấu để trở thành người chủ xã hội và vì quyền dân chủ của nhân dân; là mình vì mọi người; yêu tự do; lạc quan cách mạng, tin tưởng ở tương lai...
 ------------------------------------------------------
Bác Hồ nói về kẻ địch của xã hội chủ nghĩa...
"Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách mạng.
Kẻ địch gồm có ba loại.
Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm.
Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài.
Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia."



Tình thương yêu mênh mông, ôm hết mọi linh hồn … (*)

Thầy vừa nói đến một tình thương bao la ôm ấp hết mọi linh hồn, làm Thầy nhớ đến bài thơ của Việt Phương, ngày Bác Hồ mất ông viết bài thơ rất là dài, trong đó có một đoạn thế này, ông kể rằng khi Bác Hồ đọc một bản báo cáo “trận đánh đó ta thắng rất là đẹp, giết được rất nhiều quân thù”, Bác Hồ buồn. Bác Hồ nói “một trận đánh giết được nhiều quân thù để thắng không phải là một trận đánh đẹp”. Thì ông thư ký của Bác Hồ mới gạch chữ “đẹp” đi từ đó mới có vầng thơ:

Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là “đánh đẹp”
Con xóa chữ “đẹp” đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con
Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn

Bài thơ thật cảm động, thật hay. Tức là trong chiến tranh bị buộc phải đánh nhau, vẫn phải chiến thắng, không có nhu nhược. Nhưng mà không hề ghét ai, cả quân thù Bác cũng yêu thương. Trận đánh giết nhiều người, dù người đó là quân thù, lòng Bác cũng rất chua xót. Thật sự, nhiều người nói Bác Hồ là Thánh cũng đúng chứ không phải không. Thì, chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng phải tập yêu thương để làm sao được như lời thơ của Việt Phương ca ngợi Bác Hồ: “Tình yêu thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn”. Chúng ra phải tập như vậy. Tập điều đó trong những giờ phút ta sống bên nhau như thế này. Trong những ngày Tết đầm ấm, thiêng liêng như thế này.

(*) Trích đoạn gõ lại từ bài giảng “Tết đầm ấm, Tết thiêng liêng” của Thượng Toạ Thích Chân Quang trong một đêm giao thừa tại Chùa Phật Quang, núi Dinh, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, thời điểm 00:58:42: https://youtu.be/Q2NZVJcqEII?t=58m42s 

Bài thơ đầy đủ “Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương”: http://vuhuu.edu.vn/null/Ebook/Bac_Ho/hanoi.vnn.vn/chuyen_de/1905/tho/bai22.html  

Đảo ngược sự thật Việt Nam

Tiếp tục chủ đề người Mỹ viết lại lịch sử, lần này là chiến tranh Việt Nam. Chúng ta biết rằng, chủ trương của ta đối với Mỹ là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Chúng ta đã có những nhân nhượng nhất định đối với Mỹ, ví dụ như vấn đề chất độc da cam với gần 1 triệu nạn nhân và cả nước có đến gần 5 triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam, thì nay vấn đề chất độc da cam, mà nạn nhân chính là con người đã bị biến thành khắc phục "ô nhiễm môi trường".

Trong lúc 2 bên đang tiếp tục tiến tới bình thường hóa quan hệ, hợp tác cùng phát triển thì ông TT Obama đã đăng đàn bẻ ngéo sự thật lịch sử chiến tranh Việt Nam.

Lầu Năm Góc vừa tiến hành chiến dịch quan hệ công chúng quốc gia nhiều năm để biện minh, để ca ngợi và tôn vinh cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc và thất bại của Washington đối với Việt Nam - cuộc xung đột quân sự gây tranh cãi nhất và không được lòng dân nhất của Mỹ.

Tổng thống Barack Obama vừa khai mạc một sự kiện quân phiệt, do Quốc hội phê duyệt với thế áp đảo cách đây 4 năm, trong bài phát biểu tại Bức tường Việt Nam trong Ngày tưởng niệm 28 tháng 5. Toàn bộ chiến dịch này sẽ bao gồm hàng chục ngàn các sự kiện trong 13 năm tiếp theo, bề ngoài là nhằm mục đích "cuối cùng vinh danh" binh lính Mỹ đã chiến đấu tại Việt Nam. Nhưng người cuối cùng đã được rút lui gần 40 năm trước đây.

Trong thực tế, dự án chưa từng có - có tiêu đề Tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam - sẽ lợi dụng sự ngông cuồng "ủng hộ cựu chiến binh" để thực hiện 2 mục tiêu lâu dài được thêm vào:

• Đầu tiên là để hợp pháp hóa và tăng cường thay mới tinh thần chiến binh Mỹ khi mà Lầu Năm Góc hiện lên từ 2 cuộc chiến tranh bất chính, xa lầy và tốn kém đến tàn hại và sinh ra phản tác dụng ở Iraq và Afghanistan, và chuẩn bị những cuộc phiêu lưu quân sự tiếp theo ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Chỉ trong vòng vài ngày sau bài phát biểu của Obama, ví dụ, Bộ trưởng Quốc phòng Leon E. Panetta đã công bố một sự tăng cường lớn cho lực lượng Hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, một động thái rõ ràng là nhắm đến Trung Quốc. Đồng thời cuộc chiến tranh UAV của chính quyền Obama đang được đẩy nhanh khi danh sách giết chóc của Văn phòng Bầu dục mở rộng, và tổng thống tham gia vào phá hoại không gian mạng chống lại Iran.

• Thứ hai là làm phai nhạt ký ức phản đối đã có lịch sử của dân chúng đối với chiến tranh Việt Nam bằng cách đặt ra trước các điều khoản kiểm duyệt xung đột của Lầu Năm Góc trong các cuộc biểu tình cộng đồng, diễu hành và các khóa giáo dục diễn ra trên toàn quốc đến năm 2025. Những lá cờ vẫy, những duyên cớ siêu-yêu nước sẽ đề cao các cựu chiến binh, các thành viên quân sự đang làm nhiệm vụ, các quan chức chính phủ, các chính trị gia địa phương, giáo viên và các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ được kết hợp lực lượng để ca ngợi những người đã chiến đấu tại Việt Nam và những người trên mặt trận quê nhà-những người ủng hộ chiến tranh. Sẽ không có nhiều - nếu có - sự chú ý tập trung vào đa số người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu của chủ nghĩa đế quốc, ngoại trừ một chú thích mô tả làm thế nào nền dân chủ khoan dung Mỹ chịu đựng bất đồng chính kiến.

Chủ đề chính trong bài diễn văn của Obama là quân đội Mỹ đã không được đón nhận đầy đủ vinh quang cho những nỗ lực của họ để ngăn chặn thống nhất Bắc-Nam Việt Nam một cách bạo lực. Ông ta đã không chỉ ra rằng sẽ không có chiến tranh nếu Mỹ cho phép bầu cử tự do diễn ra trong phạm vi cả nước Việt Nam vào năm 1956, theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 kết liễu chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương. Washington gần đây đã quyết rằng cuộc chiến tranh này "chính thức" bắt đầu vào năm 1962 (mặc dù sự tham gia của Mỹ là từ những năm 1950), và cho phép tưởng niệm bắt đầu như là "kỷ niệm 50 năm".

Tổng thống Obama nói với đám đông lớn cổ vũ của các cựu chiến binh và gia đình của họ tại bức tường Việt Nam chính xác những gì họ - và tất cả những ai vẫn còn phẫn nộ vì phong trào chống chiến tranh lớn của thời đại - muốn nghe:

"Một trong những chương đau đớn nhất trong lịch sử của chúng ta là Việt Nam - đặc biệt nhất, chúng ta đã đối xử với binh lính của chúng ta phục vụ ở đó như thế nào…

"Bạn thường đổ lỗi cho một cuộc chiến tranh bạn đã không bắt đầu, trong khi bạn cần phải được khen ngợi vì đã phục vụ đất nước của mình với lòng dũng cảm (Vỗ tay). Bạn đôi khi bị đổ lỗi vì những hành động xấu của một số ít, trong khi sự phục vụ đáng tôn kính của nhiều người cần phải được ca ngợi. Bạn trở về nhà và đôi khi bị phỉ báng, trong khi bạn cần phải được làm cho nổi danh. Đó là một sự xấu hổ quốc gia, sự nhục nhã mà lẽ ra đã không bao giờ xảy ra. Và đó là lý do tại sao ở đây hôm nay chúng ta quyết định rằng nó sẽ không xảy ra lần nữa (Vỗ tay)…”

"Bạn đã viết một trong những câu chuyện phi thường nhất của lòng dũng cảm và tính toàn vẹn trong biên niên sử của lịch sử quân sự (Vỗ tay) .... Mặc dù một số người Mỹ quay lưng với bạn - bạn đã không bao giờ quay lưng với đất nước Mỹ … Và cho phép nhớ đến tất cả các cựu chiến binh Việt Nam đã quay trở lại và phục vụ một lần nữa trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan. Các bạn đã không ngừng phục vụ tổ quốc (Vỗ tay).”

"Vì vậy, ở đây ngày hôm nay, phải nói rằng – các bạn đã chiếm lĩnh vị trí của mình trong thế hệ vĩ đại nhất. Vào lúc này, tôi sẽ yêu cầu tất cả các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta, tất cả các bạn những người có thể đứng lên, xin vui lòng đứng lên, tất cả những người đang đứng, hãy giơ tay của mình – khi chúng ta nói những từ giản dị là từ nay trở đi sẽ luôn luôn chào đón binh lính của chúng ta khi họ trở về nhà: (Vỗ tay) Chào mừng về nhà. Welcome home! Welcome home! Chào mừng về nhà. Cảm ơn các bạn. Chúng tôi đánh giá cao các bạn. Chào mừng về nhà! (Vỗ tay... .)”

"Xin Chúa ban phước cho các bạn. Xin Chúa ban phước cho gia đình các bạn. Xin Chúa ban phước cho những người đàn ông đàn bà trong bộ quân phục của chúng tôi. Và xin Chúa ban phước lành cho Hợp chủng quốc Mỹ!"

Hầu như không có những lời chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự phóng đại đến mức khó ngửi của ông tổng thống về cái gọi là "ngược đãi" cựu chiến binh Việt Nam. Đúng là, không có các cuộc diễu hành chiến thắng, nhưng đó là bởi Quân đội Mỹ đã bị đánh bại bởi một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều và vô cùng thiếu thốn vũ khí – lực lượng du kích của mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (quân giải phóng - NLF) và các lực lượng chính qui từ miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc mà nhiều các cựu chiến binh trở về nhà, người dân Mỹ đã quay ra chống chiến tranh và họ muốn nó kết thúc, cũng như một phần đáng kể binh lính đang tại ngũ, bao gồm rất nhiều người đồng cảm với phong trào hòa bình hay những người nổi loạn hoặc bị ruồng bỏ. Không nghi ngờ gì, một số cựu chiến binh đã bị coi thường - nhưng mức độ ít hơn rất nhiều so với Obama và các lực lượng ủng hộ chiến tranh giả thiết trong những năm qua.

Bất cứ khi nào Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược không được dân chúng ủng hộ, như ở Việt Nam, Afghanistan hay Iraq, Washington và các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn nhấn mạnh rằng nghĩa vụ của công dân yêu nước là "ủng hộ quân đội" ngay cả khi họ phản đối chiến tranh. Nhưng rõ ràng, dạng thức ủng hộ mà chính phủ Mỹ tìm kiếm vẫn không tránh được hàm ý ủng hộ chiến tranh. Đây là lý do tại sao các nhóm hòa bình có khẩu hiệu "Ủng hộ binh lính – Mang con em về nhà NGAY!"

Theo Lầu Năm Góc, nơi phụ trách tổ chức Lễ Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam, mục đích chính là để "cảm ơn và vinh danh các cựu chiến binh của chiến tranh Việt Nam ... vì sự phục vụ và hy sinh của họ thay mặt cho nước Mỹ và để cảm ơn và vinh danh gia đình của các cựu chiến binh. Để nhấn mạnh sự phục vụ của các Lực lượng vũ trang trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và những đóng góp của các Cơ quan Liên bang và các tổ chức chính phủ, phi chính phủ đã giúp đỡ, hay hỗ trợ cho các Lực lượng vũ trang. Để vinh danh sự đóng góp trên mặt trận quê nhà của người dân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam…"

Hàng ngàn người trong cộng đồng cựu chiến binh, các tổ chức phi chính phủ khác nhau trên khắp nước Mỹ được dự kiến là sẽ tham gia “Chương trình Đối tác kỷ niệm” , “để hỗ trợ chính quyền liên bang, các bang và chính quyền địa phương để giúp đỡ một quốc gia vĩ đại biết ơn và cảm ơn, tôn vinh các cựu chiến binh Việt Nam của chúng ta và gia đình của họ. “Đối tác kỷ niệm” được khuyến khích tham gia bằng cách lập kế hoạch và tổ chức các sự kiện và các hoạt động ghi nhận sự phục vụ của các cựu chiến binh Việt Nam gia đình, ghi nhận lòng dũng cảm, và sự hy sinh."

Ngoài ra chính phủ và các "đối tác" sẽ được phân phối các tài liệu giáo dục về chiến tranh, theo Lầu Năm Góc, nhưng không chắc rằng bên phía Việt Nam của câu chuyện này hay số đông phản đối chiến tranh ở Mỹ, dân sự và quân sự, sẽ nhận được sự chú ý tán thành. Nhiều thực tế, bao gồm cả nguồn gốc chiến tranh chắc chắn sẽ bị thay đổi để phù hợp với mục đích chính của lễ kỷ niệm là giảm thiểu thất bại của Washington và tối đa hóa chủ nghĩa anh hùng, lòng trung thành tận tụy của binh lính.

Về mặt chính thức, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 11 năm (1962-1973), nhưng Mỹ đã thực sự tham gia liên tục trong 21 năm (1954-1975). Mỹ đã cung cấp tài chính khôi phục sự kiểm soát của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam và toàn bộ Đông Dương sau thất bại của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Đến năm 1954, Washington đã không chỉ cung cấp tiền bạc và các cố vấn, mà còn đã cử 352 người Mỹ đến Việt Nam trong một “Nhóm cố vấn hỗ trợ quân sự” để giúp đỡ Pháp chống lại các lực lượng giải phóng dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Giải phóng quân đã đánh bại quân đội Pháp ở trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ cùng năm đó.

Hội nghị Geneva năm 1954, tạo điều kiện cho Pháp một cuộc rút quân trước mắt, được thiết lập để Việt Nam bị chia cắt tạm thời thành 2 nửa cho đến cuộc bầu cử tự do được tổ chức vào năm 1956 để xác định xem các lực lượng giải phóng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, hay ông vua Bảo Đại, kẻ đã cộng tác với cả Pháp và lực lượng chiếm đóng Nhật Bản và cũng là một con rối của Mỹ, sẽ cai trị nhà nước thống nhất.

Người ta nghi ngờ tưởng niệm sẽ đi đến chỗ nhấn mạnh một thực tế rằng Mỹ, đứng đầu bởi Tổng thống Dwight D. Eisenhower, đã sử dụng sức mạnh của mình để ngăn chặn cuộc bầu cử tự do diễn ra trên toàn quốc khi đã trở nên rõ ràng rằng Hồ Chí Minh sẽ giành chiến thắng 80% phiếu bầu. Eisenhower thừa nhận điều này trong hồi ký của mình. Thay vào đó, Washington liên minh với lực lượng cánh hữu ở phía Nam tuyên bố "miền Nam Việt Nam" là một nhà nước riêng biệt lần đầu tiên trong lịch sử và đã thiết lập tài chính, huấn luyện và đã kiểm soát một lực lượng lớn quân đội phía nam để ngăn cản thống nhất đất nước. Mỹ đã chi phối chính quyền Sài Gòn trong suốt cuộc chiến tranh sau này.

Khi Paris rút đi và còn lại quân đội Pháp tháng 4 năm 1956, theo John Prados trong "Việt Nam: Lịch sử một cuộc chiến tranh không thể thắng, 1945-1975" (2009) (Vietnam: The History of an Unwinnable war), "sự ra đi của họ (Pháp) đã biến Mỹ thành ông anh lớn của miền Nam Việt Nam", tức là, chúa trùm và quân đội để bảo vệ chống lại các lực lượng giải phóng phổ biến ở nửa phía nam của đất nước đã nửa thế kỷ.

Tháng 6 năm 1962, 9700 Mỹ "cố vấn quân sự" cùng với 1 lượng lớn các điệp viên CIA đã được đào tạo và chiến đấu để hỗ trợ chế độ tham nhũng Sài Gòn do Mỹ đỡ đầu, lúc đó, bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara dưới thời TT Mỹ Kennedy's, tuyên bố rằng "mọi biện pháp định lượng cho thấy chúng ta đang chiếm lĩnh cuộc chiến."

Đến năm 1968, khi số lượng của quân đội Mỹ đạt đến đỉnh điểm 535.040 người, Washington rõ ràng đã để thua đối thủ ngoan cường của họ. Đó cũng là khi Tổng thống Lyndon B. Johnson của phe Dân chủ quyết định không xúc tiến tái tranh cử nữa, để tránh phải mang cái bộ mặt nhục nhã của sự thất bại. Tổng thống Richard M. Nixon phe Cộng hòa đã kế nhiệm và tăng cường mạnh mẽ các vụ ném bom trong khi cũng kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Đối mặt với một thất bại xảy ra trước mắt và một thảm họa chính trị, quân đội Mỹ rút lui vào năm 1973. CIA và một số nhân viên quân sự của Mỹ, các cố vấn chính trị vẫn còn ở lại với chính quyền cánh hữu miền Nam Việt Nam bị cắt giảm viện trợ cho đến tháng 4 năm 1975 khi toàn bộ đất nước được giải phóng.

Mỹ đã mất 58.151 quân trong chiến tranh. Từ 4 đến 5 triệu dân thường và binh lính Việt Nam đã thiệt mạng ở cả hai phía trong một thảm họa có thể đã hoàn toàn tránh được nếu Washington cho phép các cuộc bầu cử tự do diễn ra. Hơn 1 triệu dân thường ở nước láng giềng Lào và Campuchia cũng đã bị giết hại hoặc bị thương bởi bom đạn Mỹ.

Việt Nam, bắc và nam, đã bị nghiền thành bột bởi bom đạn Mỹ. Lầu Năm Góc đã ném 15.5 triệu tấn vũ khí trên mặt đất và trong không trung 3 nước Đông Dương, 12 triệu tấn ở riêng miền Nam Việt Nam trong một nỗ lực không thành đánh tan quân Mặt trận Giải phóng được hỗ trợ bởi quân đội miền Bắc. Để so sánh, Mỹ đã ném chỉ 6 triệu tấn vũ khí như thế trong suốt chiến tranh thế giới thứ II ở châu Âu và Viễn Đông. Tất cả như đã nói, cho đến khi chiến tranh kết thúc, có đến 26 triệu hố bom lỗ chỗ ở Đông Dương, nơi tràn ngập vũ khí và máy bay ném bom Mỹ.

Lầu Năm Góc cũng đã rải 18 triệu lít chất diệt cỏ để khai quang vài triệu hecta đất nông nghiệp và rừng. Hàng triệu người Việt Nam bị dị tật bẩm sinh, bệnh tật và tử vong từ những hóa chất độc hại. AP gần đây viết bài từ Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, rằng "Hơn 100.000 người Việt Nam đã bị thiệt mạng hoặc bị thương bởi bom mìn trong đất phát nổ hay các chất nổ bị bỏ lại khác kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc cách đây gần 40 năm, để rà phá bom mìn trên cả nước sẽ mất thêm nhiều thập kỷ nữa."

Cũng cần đề cập - vì nó sẽ bị cấm trong kỷ niệm – rằng các lực lượng Mỹ, bao gồm cả CIA và Lầu Năm Góc, quân đội bị điều khiển miền Nam Việt Nam, đã tra tấn hàng ngàn người bị "nghi ngờ" ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, tra tấn bằng dòng điện trên thiết bị di động là thường xuyên và phổ biến. Ước tính có khoảng 40000 "Vietcong” (bị nghi ngờ là thành viên hoặc ủng hộ quân giải phóng) đã bị sát hại trong thời kỳ dài thực hiện "Chiến dịch Phượng Hoàng - Operation Phoenix" chiến dịch ám sát này được tiến hành bởi CIA, lực lượng đặc nhiệm và các đơn vị giết người của quân đội Sài Gòn.

Có ba mặt trận chính trong cuộc chiến tranh Việt Nam, theo thứ tự: Đầu tiên, là chiến trường Đông Dương. Thứ hai, là phong trào phản chiến lớn trong phạm vi nước Mỹ và sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam. Thứ ba, là các đàm phán hòa bình Paris. Hơn 60% người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh năm cuối thập kỷ 60-đầu thập kỷ 70. Cuộc biểu tình hòa bình đầu tiên diễn ra vào năm 1962, cuộc biểu tình rất lớn đầu tiên diễn ra tại Washington vào năm 1965. Sau đó nổ ra hàng ngàn cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn nhỏ trong thành phố, thị xã, và các trường đại học trên khắp nước Mỹ.

Tiết lộ, nhà văn này là một người phản đối chiến tranh và là người phản có lương tâm trong thời nay. Thông tin của ông về chiến tranh bắt nguồn từ khi ông lãnh trách nhiệm như một biên tập viên tin tức, biên tập viên quản lý và sau đó là tổng biên tập của tờ báo cánh tả độc lập lớn nhất tại Mỹ vào thời điểm đó, đó là tờ Guardian hàng tuần. Ấn bản này chuyên về chiến tranh, phong trào hòa bình, chống chiến tranh của cựu chiến binh (tổ chức Cựu chiến binh Việt Nam chống chiến tranh (VVAW) được thành lập vào năm 1967 và vẫn còn hoạt động ngày nay), về sức phản kháng phi thường của binh lính làm nhiệm vụ tại Việt Nam và tại các căn cứ Mỹ và trong các nhà tù ở Canada và châu Âu trong suốt thời gian của cuộc xung đột.

Hầu hết các cáo buộc về những lời lăng mạ nhằm vào binh lính hay cựu chiến binh từ phía đối lập với chiến tranh đã bị bịa đặt để làm mất uy tín của lực lượng chống chiến tranh – Lừa dối của Obama là đã chọn để lặp bịa đặt này lại như là một phần của chiến dịch Lầu Năm Góc để đảo ngược phán quyết tiêu cực của lịch sử về cuộc chiến Việt Nam. Các mục tiêu của phong trào hòa bình là những kẻ gây chiến ở Washington và các đồng minh của chúng ở nước ngoài, không phải là các thành viên của một đội quân bị bắt đi lính trên qui mô lớn. Có lẽ nổi tiếng nhất của những lời buộc tội giả dối là những báo cáo nhanh về các cá nhân chống chiến tranh đã "khạc nhổ" vào binh lính và cựu chiến binh. Những tin đồn thất thiệt hoang dại đến mức mà nhà xã hội học Jerry Lembcke đã phải viết một cuốn sách nhằm phơi bày chúng - "Hình ảnh khạc nhổ: Hoang đường, Ký ức, và Di sản Việt Nam," (The Spitting Image: Myth, Memory, and the Legacy of Vietnam) New York University Press, 1998.

Sẽ là rất đáng ngờ những kỷ niệm chiến tranh lại dám đả động một cách trung thực đến phong trào chống chiến tranh của binh lính đang làm nhiệm vụ hay đả động đến hàng trăm trường hợp các sĩ quan đã tự sát.

Sử gia Howard Zinn đã đưa cả những dòng này vào để phản ánh phản đối chiến tranh Việt Nam của binh lính Mỹ trong cuốn "Lịch sử dân tộc nước Mỹ" (People's History of the United States) của mình:

"Khả năng lực phán xét độc lập trong những người Mỹ bình thường có lẽ là thể hiện rõ nhất bởi sự phát triển nhanh chóng của tình cảm chống chiến tranh giữa các binh lính Mỹ - những người tình nguyện và người quân dịch đến chủ yếu từ các nhóm có thu nhập thấp hơn, trước đó trong lịch sử nước Mỹ, đã có những trường hợp binh lính bất mãn với chiến tranh: những cuộc nổi loạn bị cô lập trong chiến tranh Cách mạng, từ chối gia nhập quân đội nằm giữa các hành vi thù địch trong chiến tranh Mexico, đào ngũ và cắn rứt lương tâm trong Thế chiến I và Thế chiến II. Nhưng chiến tranh Việt Nam đã tạo ra sự phản chiến của binh lính và cựu chiến binh trên một quy mô, với lòng nhiệt thành, chưa bao giờ thấy trước đây."

Theo Trung tâm Hòa bình Washington: "Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hàng ngũ quân sự đã tiến hành phản kháng đại chúng về các căn cứ và tàu chiến ở Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Mỹ và châu Âu. Phản chiến là công cụ để chấm dứt chiến tranh bằng cách làm cho hàng ngũ chính trị không đáng tin cậy. Lịch sử này được ghi chép rõ trong tư liệu “Những người lính nổi loạn” của David Cortright và bộ phim gần đây “Thưa ngài! Không Thưa ngài!" ('The Soldier's Revolt' và Sir! No Sir!)

Sách “Những người lính nổi loạn” được bán rất rộng rãi, lời bình luận đáng chú ý có thể đọc ở đây: http://www.citizen-soldier.org/cortright.html

Một trong những báo cáo quan trọng về binh lính phản chiến được viết bởi đại tá Robert D. Heinl Jr. và xuất bản ở Tạp chí lực lượng vũ trang vào tháng 6 năm 1971. Ông bắt đầu: "Giá trị tinh thần, kỷ luật và chiến đấu của quân đội Mỹ, với một vài trường hợp ngoại lệ nổi bật, là thấp hơn và tồi tệ hơn bất cứ lúc nào trong thế kỷ này và có thể là trong lịch sử của Mỹ.”

"Bằng tất cả các dấu hiệu có thể hình dung được, quân đội của chúng ta bây giờ vẫn còn ở Việt Nam trong một trạng thái đang đi đến chỗ sụp đổ, với các đơn vị trốn tránh hay từ chối chiến đấu một cách đặc biệt, giết chết các sĩ quan chỉ huy và các sĩ quan phi nhiệm vụ của họ, nghiện ma túy, và mất tinh thần đến chỗ gần như không thể chịu nổi. Không đâu khác hơn là ở Việt Nam, tình cảnh lại gần như nghiêm trọng đến thế.

"Hứng chịu thất bại và bị vùi dập không thể chịu đựng nổi từ bên ngoài và bên trong bởi bất ổn xã hội, nghiện ma túy thành đại dịch, chiến tranh chủng tộc, xúi giục nổi loạn, đổ tội dân sự, ngoan cố trốn nghĩa vụ và ác ý, trộm cắp doanh trại và tội phạm thông thường, không được sự hỗ trợ trong khó khăn từ chính phủ liên bang, từ Quốc hội cũng như các nhánh hành pháp, ngờ vực, chán ghét, và thường chửi rủa dân chúng, quân dịch ngày nay là nơi thống khổ đối với lòng trung thành, đối với nghề nghiệp lặng câm của những ai đã chót mang và cố để giữ cho con tàu còn nổi."

Theo cuốn sách năm 2003 của Christian Appy, "Lòng yêu nước: Chiến tranh Việt Nam được nhớ lại từ tất cả các bên" (Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides), Tướng Creighton Abrams - chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam – đưa ra nhận xét này vào năm 1971 sau một cuộc điều tra: "Đây có phải là một đội quân chúa nguyền rủa hay một bệnh viện tâm thần? Sĩ quan sự hãi chỉ huy binh lính của mình vào chiến trận, và binh lính không nghe theo. Chúa Giê-su! Điều gì đã xảy ra?"

Một cựu đại tá quân đội khác ở Việt Nam, Andrew J. Bacevich Sr (bây giờ là giáo sư quan hệ quốc tế tại đại học Boston và đối thủ mạnh của chính sách đối ngoại/quân sự Mỹ) đã viết một cuốn sách về việc quân đội Mỹ đã nỗ lực như thế nào hàng chục năm sau thất bại để sửa chữa lại chiến lược chiến thuật chiến tranh của mình. ("Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ mới: Người Mỹ bị cám dỗ bởi chiến tranh như thế nào" (The New American Militarism: How Americans Are Seduced by War), Oxford University Press, 2005). Một kết luận chính là đội quân nghĩa vụ có thể trở nên không đáng tin cậy nếu chiến tranh bị coi là bất công về bản chất và không được ưa chuộng ở quê nhà. Đây là lý do tại sao chế độ nghĩa vụ quân sự đã kết thúc và Lầu Năm Góc hiện nay dựa vào quân đội thường trực chuyên nghiệp được trả tiền hậu hĩnh hơn và được cung cấp bởi một số lượng lớn các nhà thầu và lính đánh thuê, những kẻ thực hiện nhiều nhiệm vụ được giao phó thay cho binh lính thông thường.

Phong trào cựu chiến binh của đội quân chuyên nghiệp từ các cuộc chiến tranh đương thời, chẳng hạn như phong trào cựu chiến binh Iraq chống chiến tranh và phong trào Diễu hành tiến bộ (March Forward), cũng như từ thời Việt Nam, vẫn đang trên đường phố phản đối chiến tranh đế quốc, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng hơn 60% người Mỹ phản đối cuộc phiêu lưu Afghanistan.

Mặc dù Mỹ đã gây ra thiệt hại khổng lồ cho Việt Nam và dân chúng Mỹ trong những năm chiến tranh, đất nước Việt Nam đã nổi lên từ đống tro tàn và đang từng bước tiến tới trở thành một xã hội tương đối thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Chính phủ Hà Nội đã không nhận được sự giúp đỡ từ Washington. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris năm 1973, Nixon đã hứa với Ttg Phạm Văn Đồng bằng văn bản rằng Mỹ sẽ trả cho Việt Nam 3,5 tỷ USD bồi thường. Lời hứa này hóa ra là vô giá trị.

Cái đập vào mắt những du khách đến thăm Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả người viết bài này, là đất nước này dường như đã đến với những gì họ gọi là chiến tranh chống Mỹ tốt hơn nhiều so với Mỹ đi đến với những khái niệm chiến tranh chống Việt Nam. Mặc dù phải chịu đựng những khó khăn gây ra cho Việt Nam, chính phủ và nhân dân nước này tỏ ra không giữ mãi những hận thù chống Mỹ.

Hà Nội cũng đã nhiều lần rộng mở, trải thảm chào đón cựu thù, kêu gọi người Mỹ và người dân miền nam Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài "khép lại quá khứ và nhìn về tương lai". Bất cứ nơi nào công dân Mỹ đến - bao gồm cả cựu binh du lịch ở Việt Nam, họ đều được đón chào với sự tôn trọng giống như du khách từ các quốc gia khác.

Tại Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn gợi lên những ngôn từ hiếu chiến ở một số vùng. Một số người Mỹ vẫn cho rằng Mỹ "có thể đã giành được chiến thắng nếu không có một tay bị trói sau lưng" (tức là, sử dụng vũ khí hạt nhân), và một số tiếp tục căm ghét những người biểu tình chống chiến tranh của những năm qua, giống như khi họ biểu tình chống lại cuộc chiến tranh ngày hôm nay. Và một số kẻ khác trong Quốc hội, trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc - vẫn tiếp tục gây chiến bằng cách nỗ lực tổ chức tuyên truyền khổng lồ để bóp méo lịch sử xâm lược và tàn bạo không thể nói hết được của Washington tại Việt Nam.

Thay cho lời kết: Nếu như người Mỹ có những sách lịch sử trung thực và tử tế, thì người ta sẽ đọc được ở đâu đó rằng: Trong lịch sử xâm lăng và cướp bóc 300 năm qua của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nước Mỹ là nhân vật chính trong những chương tàn bạo nhất, dã man nhất và đẫm máu nhất.

Thay vì thế, tay vẫn ném bom giết người - mồm vẫn ra rả tự do-dân chủ-nhân quyền. Thật là kỳ lạ như quái vật!

Hết!

Phần lớn tư liệu trong bài là của globalresearch, có thể tham khảo tại đây:
http://www.globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=31296

Sự thật về câu nói được cho là của Voltaire

“Tôi không đồng tình với những gì bạn nói, nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền được nói của bạn”. Câu này không hề của Voltaire mà là của 1 nữ sử viết tiểu sử Voltaire. Nhà văn, nhà triết lý có nhiều câu để đời, nhưng ko hề có câu nào ngố như thế này. Kể cả là suy luận ra cũng không có luôn.

“I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it.” - Voltaire!

"Tôi phản đối những gì anh nói, nhưng tôi thà chết để bảo vệ quyền được nói của anh." Vôn-te!

Slogan ấy được các chí sĩ "dân chủ", chủ nghĩa tự do, liberals tru lên khắp nơi.

Câu nói trứ danh bên trên được cho là của Voltaire (1694-1778), nhà văn, nhà tư tưởng tự do Pháp. Nhưng không phải, điều đó có thể đọc thấy ngay trong wiki. http://en.wikipedia.org/wiki/Voltaire

Trích dẫn đó không phải là của Voltaire, kể cả phát biểu hay ghi chép, hay tóm tắt quan điểm. Nó được Evelyn Beatrice Hall viết dưới bút danh Tallentyre trong 1 cuốn sách về tiểu sử "Bạn bè của Voltaire" năm 1906, tức là tận gần 130 năm sau ngày Voltaire chết. Hall có dụng ý tóm tắt, tổng kết quan điểm của Voltaire nhưng đã nhầm lẫn. Cho dù Voltaire có nhiều châm ngôn nổi danh, được thường xuyên trích dẫn ngày nay nhưng không có bất cứ phát biểu hay ghi chép nào của Voltaire để có thể trực tiếp hay gián tiếp tổng kết ra quan điểm của ông là như vậy. Do đó không có cách gì để đóng ngoặc và gắn mác Voltaire cho câu nói ấy. Nếu có thể thì đó là của Evelyn Hall, nhưng Hall không có tên tuổi gì nhiều nên đóng mác Hall không đủ độ phê!

Những phát biểu sáng giá về nhân quyền, tự do dân chủ Mỹ, ví dụ: Mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, dân biết dân bàn dân kiểm tra, hay tuyên ngôn về quyền con người này khác như quyền ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, bình đẳng trước pháp luật... thực ra đều dẫn từ phong trào tự do cách mạng Pháp. Nhưng liberal Pháp lại cũng không phát minh ra những thứ này, họ tham khảo từ những luật, những tuyên ngôn xa lắc lơ của các đế chế cổ đại khác như Ba-tư, Lưỡng hà, Roma hay Hy Lạp...

Chúng ta để ý, tự do dân chủ kiểu Mỹ không hề đề cập đến quyền sống. Sống mới là quyền cơ bản nhất, không sống thì những đao to búa lớn kia vô nghĩa. Và đã bao nhiêu sinh mạng nằm xuống vì phổ biến tự do dân chủ kiểu Mỹ? Thật dễ hiểu! và thêm nữa, cứ nói thoải mái, không thay đổi được gì hết.

"Tôi thà chết..." tiếng tru ấy ngày nay nghe được khắp các bàn nhậu, hay lúc một tên dở hơi nào đó lên đồng. Thà chết để nghe một ai đó nói, để rồi thấy chối quá không chịu nổi, không đồng ý nổi. Thế chết rồi thì nghe Diêm vương nói sao?

Pseudo-ngụy tạo! Chẳng có tên khùng nào chịu bỏ tài sản của mình ra (tiền bạc, công sức, thì giờ) làm cái việc khùng này. Thằng bé đánh giày trong quán phở được boa tờ 10 đô còn dễ hơn.

Người ta nghe thấy nhiều tiếng tru tréo ấy trong đám làm "cách mạng", khi cần tụ tập quần chúng mỗi dịp bầu cử, dịp hô hào biểu tình, phản đối nào đó. Thấy đầu tiên là ở đám chí sĩ rân chủ X-cà - một slogan to tướng treo trên 4rum, rồi thấy các @ mạng, các bậc trưởng bối đầu bạc răng long tập tọe mạng miếc cũng tru lên như thế. Chẳng ai biết gốc tích của nó ở đâu.

Thêm: thật không may, rất có thể ai đó có liên tưởng đến câu nói: Dân chủ là để dân được mở miệng. Tôi không dám đóng mở ngoặc gì cả câu nói này vì không biết nguyên gốc hay ngữ cảnh, và được cho là của một phát biểu mang tính dân dã thuở sơ khai mới giành được độc lập của HCM. Nhưng rõ ràng là Bác đã không hề đề cập đến cái giá đao to búa lớn nào đó, không phải là hô hào khẩu hiệu, mà đúng hơn là đề cập đến một cơ chế, đó mới là ý tưởng thực chất dân chủ và không ngụy tạo có nguồn gốc Việt.

Sức mạnh tinh thần

Bài viết tuy dài nhưng cực kì giá trị, mong quý bằng hữu kiên nhẫn đọc đến hết ạ (Thời Thổ Tả).

Sáng ngày 02/04/2017, (nhằm ngày 06/03/năm Đinh Dậu), TT Thích Chân Quang - Phó ban Kinh tế Tài chính T.Ư GHPGVN đã có buổi thuyết Pháp về chủ đề “SỨC MẠNH TINH THẦN” tại chùa Tương Mai (Trương Định, Hà Nội), với sự tham dự gần 5 nghìn phật tử xa gần. Bài Pháp thoại đã gợi mở cho mọi người thấy đặc điểm và vai trò quan trọng của sức mạnh tinh thần đối với đời sống nội tâm của con người. Đồng thời, chỉ ra các phương pháp rèn luyện, giúp nâng cao tinh thần. Từ đó, các phật tử siêng năng thực hành, xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn trên con đường giác ngộ giải thoát. 

Mở đầu bài Pháp, Thượng tọa khẳng định nhiều người trên đời này có tinh thần mạnh mẽ nhưng cũng không ít người có tinh thần nhu nhược; nhiều người khi gặp chuyện buồn thì suy sụp, suy sụp đến mức làm ra các chuyện sai lầm, thậm chí là tự tử, nhưng cũng có nhiều người lại chịu đựng, gắng gượng, phấn đấu để vượt qua, đứng lên làm lại từ đầu. Vậy nên mới có câu “Thất bại là mẹ của thành công”. Tất nhiên, phải qua rất nhiều trường hợp, chúng ta mới đúc kết được câu thành ngữ quý giá này. Bởi thực tế, những người đã đi qua thất bại, biết mạnh mẽ đứng lên, biết rút ra những bài học từ những lần vấp ngã thì lần sau sẽ được thành công. Làm được điều đó bởi họ có tinh thần mạnh mẽ. Không chỉ vậy, người có tinh thần mạnh mẽ khi gặp chuyện khó khăn thì dám chiến đấu, tìm cách tháo gỡ để vượt qua; khi bị chỉ trích, công kích thì tỉnh bơ, không dao động, việc gì đúng thì vẫn cứ làm. Ngược lại, những người nhu nhược khi gặp chuyện khó thì ngại ngùng, sợ, không dám dấn thân; khi bị chê bai, chỉ trích thì rụt rè, nhụt chí, bất an. Thượng tọa chia sẻ: Có lần Thượng tọa gặp một vị Tăng cũng rất tài giỏi. Sau khi thăm hỏi nhau, vị này bộc bạch: Nhìn thấy con đường vấn thân, hoằng Pháp của Thượng tọa mà con lo sợ! Con thấy Người làm được việc quá, lại có tiếng tăm, nhưng lại bị lời ra tiếng vào, có nhiều người xấu lợi dụng hệ thống mạng xã hội, internet để tạo hiệu ứng đám đông, họ xúm vào chửi mắng, công kích tràn ngập. Do vậy, con sợ, con không dám làm gì hết. Con thật nể Thượng tọa – trước những làn sóng dư luận mà Người cứ tỉnh bơ tồn tại, coi như không vậy, lòng nhiệt huyết vì đạo của Người vẫn không hề thay đổi. Dịp này, Thượng tọa trình bày quan điểm của mình mà cũng là lời động viên dành cho vị huynh đệ đồng đạo rằng: Đúng là bản thân Người bị chê bai, chỉ trích rất nhiều. Không chỉ nói miệng mà họ còn nói trên các phương tiện đại chúng. Nhưng vì Phật pháp, Người không để ý đến những làn sóng dư luận, cố gắng hoằng dương giáo hóa, làm lợi ích chúng sinh. Theo Người, một khi đã đi tu thì không còn sống cho bản thân, giặc chưa đánh mà mình đã sợ hãi rút chạy, thì chỉ có thua, làm gì còn sức để chiến đấu. 

Không chỉ ngày nay, mà từ xa xưa, lịch sử đã chứng minh tinh thần mạnh mẽ có vai trò rất quan trọng. Nhờ có nó mà cha ông ta mới ghi nên được những trang sử hào hùng, đánh bại rất nhiều giặc ngoại xâm, bảo vệ thành công chủ quyền và nền hòa bình của dân tộc. Nhắc lại lịch sử để ta thấy ai có tinh thần mạnh mẽ là đang được một ưu thế rất lớn trong cuộc sống. Dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng có thể tự đứng vững để bảo vệ lấy cuộc đời mình và che chở cho bao nhiêu người khác. Trong khi những người nhu nhược thì lúc nào cũng sợ hãi, lúc nào cũng phải dựa dẫm vào người khác, chẳng thể làm chỗ tựa được cho ai. Thế nên, những người có tinh thần manh mẽ, nếu có thêm đạo đức nữa thì đúng là có lợi cho bao nhiêu người xung quanh mình. Lại thêm, cuộc đời này luôn bất ổn, không lúc nào bình yên. Chỉ những người có tinh thần mạnh mẽ và có đạo đức mới vượt qua được những giông bão của cuộc đời. Do đó, ngoài kiến thức, đạo đức thì sức mạnh tinh thần cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng, cần thiết trong hành trang bước vào cuộc đời của ta. 

Tuy nhiên, ta cần phải nhận biết và phân biệt cho rõ sức mạnh tinh thần với sức mạnh của thể chất, bởi đôi khi chúng cũng khác nhau. Nhiều người luyện võ rất giỏi, cơ bắp vạm vỡ, nhưng khi gặp chuyện lại trốn mất, không dám đương đầu với khó khăn. Trong khi những cô gái nhìn vẻ bề ngoài thấp bé, nhưng gặp chuyện gì cũng dám đương đầu để chiến đấu mà không sợ gì hết. Người có sức mạnh tinh thần cũng có cái hệ lụy. Nhiều khi mạnh mẽ quá mà không có sự tu tập thì bản ngã sẽ tăng lên, biến họ thành một người kiêu mạn, khiến mọi người khó chịu. Nhưng nếu họ biết gói sức mạnh đó trong đạo đức, khiêm hạ thì đây đúng là Thánh. Ta sống trên đời là cần cái tinh thần vững chãi trước đã. Có điều, tùy việc, tùy lúc mà ta sử dụng nó một cách hợp lí để tạo thành một lợi thế cho bản thân. 

Để có một tinh thần mạnh mẽ, cần rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, Thượng tọa nhấn mạnh cái chính vẫn là do công đức. Người nào càng công đức, làm phước nhiều thì càng mạnh mẽ, can đảm. Người ít hy sinh, ít nhường nhịn, ít làm phước thì yếu đuối, nhu nhược. Hai yếu tố này luôn đi cùng nhau. Và Thượng tọa dùng nhiều câu chuyện có thật để chứng minh cho quan điểm này. Biết được điều này, mọi người hãy suy nghĩ lại lối sống của mình. Người lớn tuổi còn ít thời gian tu tập thì cố gắng làm phước để rèn luyện sức mạnh tinh thần để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma. Còn Thanh niên thì cần biết trang bị sức mạnh tinh thần cho mình để sống một cách mạnh mẽ suốt cuộc đời còn lại. 

Nhưng tại sao ta phải chuẩn bị để đi vào cõi chết, chiến đấu với ma? Lí giải về điều này, Thượng tọa khẳng định thế giới của các vong linh cực kì phức tạp. Các vong vốn dĩ cũng là con người như ta, nhưng họ đã bước qua một cõi khác, nơi có những quy luật khác thế giới này, nên chúng ta không biết, cũng không hiểu. Vậy nên, suy nghĩ của họ cũng khác của ta rất nhiều. Nói về ma thì rất nhiều người sợ, bởi ma ở trong bóng tối (khuất kín), chúng ta không thể nhìn thấy. Hơn nữa, khuôn mặt ma rất ghê rợn và họ làm nhiều chuyện khiến ta giật mình. Không ít chúng sinh cho rằng chết là hết, kỳ thực không phải vậy. Chúng ta đừng tưởng chết rồi sẽ bình yên, bởi nếu không có phúc thì ở cõi ma ta cũng bị bắt nạt. Tuy nhiên, những người có sức mạnh tinh thần thì dù ở cõi nào cũng không ai bắt nạt được họ. Nhờ cái tinh thần mạnh mẽ đó, họ có thể tự tỏa hào quang xung quanh mình. Dù không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng quỷ thần nhìn thấy, điều đó cũng khiến các vong sợ hãi, không dám lại gần quấy phá. 

Trong cuộc sống đối với mọi người, người có sức mạnh tinh thần không chỉ làm cho quỷ thần, mà ngay bản thân chúng ta cũng phải kính sợ. Chưa nói đến tốt xấu hay đạo đức, mới chỉ có sức mạnh tinh thần thôi, ta xuất hiện ở đâu cũng đều khiến chúng sinh kính sợ, đó là nguyên tắc. Nhìn vào cuộc đời này chúng ta thấy, những người vừa có phước, vừa có sức mạnh tinh thần thường trở thành lãnh tụ. Một câu nói của họ được đông đảo chúng sinh hưởng ứng và nhất nhất nghe theo. Chúng ta không mong mình đạt đến sức mạnh tinh thần như vậy. Tuy nhiên, nếu có một ít sức mạnh tinh thần trong cuộc sống này thì ta có hai điều lợi: 

- Một là ta không sợ gian khó trong cuộc đời. 

- Hai là ý kiến ta đưa ra được người khác lắng nghe một cách đàng hoàng, dù không biết họ có chấp nhận nó hay không. 

Trong cuộc sống, người có được hai điều này sẽ có lợi thế khiến họ dễ thành công. 

Mặt khác, để tăng cường và nâng cao tinh thần mạnh mẽ của bản thân, bên cạnh việc công đức, làm nhiều điều phước thiện, chúng ta còn phải tích cực rèn luyện. Có rất nhiều cách để rèn luyện. Tuy nhiên, Thượng tọa chỉ ra 6 cách cơ bản và hiệu quả nhất: 

- Đầu tiên, ta phải biết dứt khoát giữa cái đúng và cái sai để tạo thành sự tự tin cho bản thân. Tấm gương về sức mạnh tinh thần trong lịch sử rất nhiều, nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến là Trần Bình Trọng. Dù bị giặc mua chuộc, dụ dỗ, rồi đe dọa, ông vẫn hiên ngang, nói một câu khiến địch phải khiếp sợ: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc”. Câu nói này của ông rất nổi tiếng, nhiều người biết đến, nhưng lại ít ai hiểu và thấm thía được bề sâu của nó. Người phân tích rằng, câu nói của Trần Bình Trọng chứa một sức mạnh tinh thần rất lớn, cho thấy sự dứt khoát giữa cái đúng và cái sai. Chúng ta có thể biết được đâu đúng đâu sai, nhưng nhiều khi đứng giữa ranh giới đó, ta không dứt khoát được. Còn người nào dứt khoát được thì tinh thần mạnh lên liền, không gì có thể mua chuộc hay đe dọa được họ. Ngoài ra, sức mạnh đó còn cho ta sự tự tin. Cái tự tin này rất gần với cái tự kiêu, tự mãn, chủ quan khiến ta dễ bị nhầm, nhưng nó không phải vậy. Cái chủ quan là ta cố chấp cái ý của mình, nên khăng khăng bảo vệ nó. Còn cái tự tin không có cái bướng, bởi sức mạnh của nó là lẽ phải. Khi đã nhận ra đâu là lẽ phải rồi thì không ai có thể lay chuyển, làm ta thay đổi lập trường được nữa. Mà cái tự tin, cái lập trường đó luôn bị thử thách bởi quyền lợi cùng sự nguy hiểm và Người đã chứng minh về điều này. Qua đó khẳng định, sự tự tin là dấu hiệu ban đầu của sức mạnh tinh thần. Tuy nó chưa tạo ra được ảnh hưởng lớn đến những người xung quanh, cũng chưa nhận được nhiều lời khen ngợi, thậm chí còn bị chê trách, nhưng ta vẫn giữ vững lập trường để bước tiếp. 

- Thứ hai, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết khước từ sự cám dỗ. Sự cám dỗ tồn tại ở rất nhiều hình thức như: tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, địa vị,… Khi khước từ được những điều này, tinh thần ta mạnh thêm một chút nữa. Tuy nhiên, để khước từ được những cám dỗ đó, thực sự rất khó. Trong đó, việc khước từ tình cảm yêu mến là cái khó nhất trong tất cả cái cám dỗ. Ta thấy, luật pháp chỉ cấm giết người chứ không cấm yêu. Trong đạo đức, ta không được quyền yêu lung tung, giới hạn chỉ được yêu gia đình mình. Vậy nhưng, do duyên nợ nhiều kiếp nên ta dễ động tâm, yêu mến tràn lan, vượt ra ngoài cả giới hạn đó. Nếu có duyên nợ thì việc kiềm chế cảm xúc yêu mến rất khó. Ai biết kéo tình cảm của mình lại, không bị lạc ra ngoài thì người đó có một sức mạnh tinh thần rất lớn. Đây cũng gọi là khước từ sự cám dỗ. Lứa tuổi dễ bị cám dỗ nhất chính là giới trẻ. Được bố mẹ nuôi nấng hoàn toàn, chỉ lo ăn học, nên cái cám dỗ lớn nhất với thanh niên chính là tình yêu và game. Hai đối tượng cám dỗ này không chỉ khiến giới trẻ lãng phí nhiều thời gian, tiền bạc, cái phước, mà nó còn có nhiều tác động không tốt đến tâm lí và tinh thần của chúng. Còn như các em biết khước từ những cám dỗ này để tập trung cho việc học hành thì tương lai của các em sẽ rất tươi sáng. Theo Thượng tọa, khi biết khước từ sự cám dỗ, ta bắt đầu có sức mạnh, lời nói cũng có giá trị hơn. Chúng ta để ý thấy một điều rằng: sức mạnh tinh thần mình có hay không là ở chỗ ta nói mọi người đã lắng nghe hay chưa. Nếu chưa thì sức mạnh tinh thần của ta còn yếu, cần tu dưỡng lại. 

- Thứ ba, để có sức mạnh tinh thần, ta phải biết kiềm chế sự nóng nảy của bản thân. Ta cứ nghĩ người nóng nảy thì đáng sợ nhưng thực chất, họ là người yếu chứ không phải mạnh. “Yếu” là dễ buồn, dễ khóc, dễ giận, dễ suy sụp, dễ tổn thương. Ngược lại, người mạnh là người trầm tĩnh, hiền lành, bởi họ có sức mạnh để kìm giữ cái tâm trong bình yên. Trong sự tu tập cũng vậy. Diệt cái sân là một điều kiện để ta bước vào vị trí của Thánh. Không có một vị Thánh nào nổi nóng hết, các Ngài chỉ ra uy thôi. Trong cái uy đó, không có cái sân. Dịp này, Thượng tọa phân biệt rõ thế nào là ra uy; thế nào là nổi sân. Thế nên, kiềm chế được cái nóng nảy mới là một sức mạnh. Hiểu điều này mọi người hãy chiêm nghiệm lại bản thân, trong từng cái tâm niệm nhỏ, khi người ta nói mình có tự ái, có nóng giận hay không? Nếu có tức mình còn yếu đuối, còn nhu nhược, cần phải tu tập lại. Kiềm chế được sự nóng nảy không chỉ mang lại sức mạnh cho bản thân, mà còn mang lại sức mạnh cho đất nước. Nhật Bản chính là một quốc gia như thế. Công dân của họ lúc nào cùng ôn hòa, nhẹ nhàng, cúi chào người khác rất lịch sự. Hành động cúi chào người khác càng cho thấy họ là một quốc gia mạnh mẽ, có văn hóa. Càng biết đạo lí, ta càng thấm thía những hành động của họ. Dù là một cử chỉ nhỏ thôi nhưng rất đáng để cả thế giới học tập. Trong cái cúi chào của người Nhật, không chỉ thể hiện phép lịch sự, tôn trọng đối phương, mà còn cho thấy sự khiêm hạ của chính bản thân người cúi chào. Cái khiêm hạ này cũng tạo nên sự mạnh mẽ cho họ… 

- Thứ tư, biết đối diện với đau khổ cũng làm cho tinh thần ta mạnh lên. Chúng ta cứ nghĩ khóc là yếu đuối nhưng thực ra nó lại là mạnh. Vì ta dám đối diện, nhìn thẳng và ôm lấy nỗi buồn của mình, không một chút né tránh. Những nỗi buồn của tình nghĩa càng đáng cho ta ôm ấp, giữ gìn. Đấy mới là mạnh mẽ. Ngày xưa, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, trừ những vị chứng quả Thánh cao thì không động tâm. Riêng các vị còn lại khì khóc như mưa. Cái khóc này mới là sức mạnh. Đó là tình cảm chân thành khi ta đối diện với sự thật chứ không phải né tránh, rồi để nó trở thành một sự bi lụy, làm suy sụp cuộc đời mình. Thượng tọa khuyên rằng, chúng ta cứ đối diện với đau khổ, với trở ngại, với những điều thị phi, đừng lẩn tránh chúng. Như vậy là chúng ta đang rèn luyện cho mình một tinh thần thép. 

- Thứ năm, ta phải dám dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm để làm điều công đức. Thượng tọa cho rằng: những cái rèn luyện ở trên chỉ cho ta sức mạnh tinh thần ở mức độ thấp, còn điều thứ 5 này mới cho ta đỉnh cao của sức mạnh tinh thần. Có thể thấy ngay điều này ở những người anh hùng trong chiến tranh như anh Phan Đình Giót, anh Lê Văn Tám,… Những anh hùng này sau khi hi sinh sẽ thành Thần ngay, vì sức mạnh tinh thần của họ lúc đó vượt lên ngàn lần. Trước lúc đó có thể tinh thần các anh mạnh rồi nhưng chưa đủ. Khi quyết định hi sinh thân mình, tạo nên một công đức thì sức mạnh tinh thần lên đến tột cao. Do vậy, nếu trong cuộc sống ta luôn thiết tha biết tạo phước, giúp đời, giúp người thì cứ đều đều mà làm và chấp nhận mất thời gian, tiền bạc, công sức. Nhưng đôi khi lỡ gặp một việc khó khăn, nguy hiểm thì đừng khước từ, vì đó là cơ hội để ta luyện sức mạnh tinh thần. Ví dụ ai đã một lần hiến máu cứu người rồi thì tinh thần người đó vượt lên một bước rất là xa. 

- Thứ sáu, thiền cũng là một phương pháp để nâng cao sức mạnh tinh thần. Ngồi thiền rất khó, đòi hỏi phải thực hiện đúng kĩ thuật, lại thêm tính kiên nhẫn chịu đựng khéo léo. Thấy một người khiêng vác ta tưởng họ rất mạnh, coi vậy chứ không bằng người ngồi yên bất động trong chánh niệm, tức ngồi giữ cho thân mềm mại mà không nhúc nhích, biết hơi thở, quán thân vô thường, v.v...chính những điều đó tạo nên sức mạnh tinh thần. Còn ngồi thiền mà múa máy, nhúc nhích thì không ăn thua. Cho nên, thiền định là một công phu tâm linh làm cho sức mạnh tinh thần của ta vượt lên rất cao. Do vậy, khi nhìn một vị Thiền sư, ta thấy họ hiền lành, trầm mặc, nhưng tinh thần của họ không ai có thể lay động được. Người có sức mạnh tinh thần không chỉ khiến quỷ thần kính sợ mà còn được chúng sinh lắng nghe, tôn lên làm người chỉ huy hoặc người cố vấn. Đây là một lợi thế lớn, giúp ta có thể thuyết phục người khác tin và làm theo lẽ phải, giúp cộng đồng ngày một tốt đẹp. Đồng thời, đạo đức ta nhờ thế cũng tăng trưởng theo. Và khi sức mạnh tinh thần trong lẽ phải càng lúc càng lớn thì ta được Chư thiên kết nạp, hộ trì, sau khi chết sẽ được lên cõi trời, làm dân trên đó. Dĩ nhiên, rất khó để được sinh lên cõi trời, trừ khi công đức ta rất lớn, mới có thể bước một bước dài như vậy. Để có công đức lớn, không phải ta làm vài việc phước, đi tu một mình vài buổi là đủ, mà ta phải vừa tu cho mình, vừa giúp người khác cùng tu. Đến khi tinh thần đủ mạnh, ta vừa làm chỗ dựa tinh thần, vừa là người khuyên bảo, thuyết phục để các huynh đệ giữ được đạo tâm, biết làm công đức, xây dựng đạo Pháp. Đồng thời, không tiếc gì trong cuộc sống này, tất cả đều là hi sinh, phụng sự hết. Ngoài ra, khi tinh thần mạnh, lúc chết ta rất tỉnh táo và biết được ngày giờ chết. Về căn bản, chúng ta phải biết được điều này. Ta không tạo ra cái chết của mình được như những bậc đắc đạo, nhưng ít ra ta biết trước cái chết để có sự chuẩn bị cho đàng hoàng. 

Lại nữa, người có những yếu tố của sức mạnh tinh thần đó mà đủ lòng tôn kính Phật tuyệt đối thì chắc chắn chứng quả Thánh. Trong đạo Phật có tứ quả Thánh và ta chỉ mong chứng được quả đầu tiên là Tu Đà Hoàn. Nhân đây, Thượng Tọa nhắc lại cần có những điều kiện nào để chứng quả Thánh đầu tiên này. Và những lợi ích của một người chứng Tu Đà Hoàn là gì. Lại thêm, những người có sức mạnh tinh thần, thường họ cầu gì thì Chư thiên đáp ứng điều đó. Có khi, những lời cầu nguyện của họ trái với nhân quả nhưng vẫn được đáp ứng. Cái tội phước lúc đó sẽ được để bù sau, trước mắt họ thay đổi được số phận chỉ bằng lời cầu nguyện. Và lễ cầu an, cầu siêu trong đạo Phật cũng là những lời cầu lên Chư thiên để thay đổi số phận chúng ta. Với bài Pháp thoại có nghĩa lý rõ ràng, súc tích, dễ hiểu, Thượng Tọa hy vọng mọi người cố gắng suy ngẫm và thực hành để xây dựng cho mình một tinh thần thật mạnh mẽ. Người có sức mạnh tinh thần không phải là quậy mà sức mạnh tinh thần làm cho ta điềm tĩnh chững chạc, sống an vui hòa hợp với mọi người. 

Cuối cùng, Thượng Tọa hướng dẫn các phật tử tập âm dương khí công. Theo Thượng Tọa, khí công cũng là một phương pháp rèn luyện sức khỏe, nâng cao tinh thần. Ai chăm chỉ tập âm dương khí công sẽ ngủ ngon, tinh thần tỉnh sáng, ít bệnh tật và xây dựng được cái nội lực bên trong. Buổi tập khí công đã tạo nên không khí hào hứng cùng một hình ảnh vô cùng mới mẻ trong ngôi chùa Tương Mai. 

Thật vậy, những giáo lí, những khái niệm tưởng chừng phức tạp trên đã được Thượng Tọa đúc kết, rút gọn và đơn giản hóa bằng những từ ngữ vô cùng giản dị, dễ hiểu. Lại thêm, các ví dụ minh họa đều gần gũi, đời thường, khiến các phật tử bị cuốn hút nghe mê say. Vậy nên, dù bài Pháp khá dài nhưng mọi người vẫn nắm được hết những điều cơ bản nhất để chiêm nghiệm, học tập và thực hành. Từ đó, cố gắng rèn luyện để nâng cao thể chất, tinh thần cho bản thân và giúp đỡ những người xung quanh. Bên cạnh đó, Thượng Tọa cũng mong muốn Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền ngày càng quan tâm hơn nữa đến đời sống tinh thần của nhân dân. Tinh thần chính là phần hồn, quyết định đến chất lượng con người. Khi chất lượng con người được nâng cao thì xã hội sẽ có một nguồn lực tốt để phát triển./.

Nguồn gốc cảm hứng của câu hát "Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta.."

Tại buổi lễ khai mạc Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng Giêng năm 1955, không khí lúc bấy giờ rất sôi nổi, hào hứng và có pha ít nhiều tính chất thiêng liêng. Hà Nội mới được tiếp quản chưa trọn một trăm ngày thôi, mọi người như còn say mê rạo rực tự do và chiến thắng. Đứng trước Bác là những khuôn mặt tươi trẻ, phơi phới niềm tin, nhưng cũng còn bỡ ngỡ với nhiệm vụ của tuổi trẻ dựng xây đất nước. Bác ở tuổi 65 nhưng quả là còn rất trẻ trung từ cách đặt vấn đề, cách nói, giọng nói đến nụ cười cởi mở. Bác đã nói rất thẳng, rất cụ thể: 

"Phải quan tâm đến việc khôi phục và xây dựng lại nước nhà. NHIỆM VỤ CỦA THANH NIÊN KHÔNG PHẢI LÀ HỎI NƯỚC NHÀ ĐÃ LÀM CHO MÌNH NHỮNG GÌ? MÀ PHẢI TỰ HỎI MÌNH ĐÃ LÀM GÌ CHO NƯỚC NHÀ. Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào". (Trích đoạn từ sách Người suy nghĩ về tuổi trẻ chúng ta, Hồi ký của Vũ Kỳ, NXB Lao Động, năm 2007).

Lời bàn:  Qua sự thật lịch sử này, ta có thể khẳng định câu hát "Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc" trong bài "Khát vọng thanh niên" là lấy cảm hứng từ câu nói của Bác Hồ, chứ không phải từ lời phát biểu trước sinh viên một trường đại học tại Mỹ của John Fitzgerald Kennedy.

Tân Sinh.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...