NGHỀ BƯNG BÔ THỜI NAY! - P2

USAID là ai?



Thực sự, chẳng cần phải nhọc công vẽ ra cái biểu đồ GNI-EDB vớ vẩn. Nhìn vào 10 tiêu chí EDB cũng đủ thấy nó đơn thuần là thủ tục hành chính và thuế, một số sẽ có tác động đến kinh doanh và do đó gián tiếp đến GNI. Nhưng 7000 đô la 1 năm như phỏng đoán của chiên da USAID là không có cơ sở, hoàn toàn là chuyện tầm phào ấm ớ dớ dẩn, chè chén vỉa hè kiểu lẽ ra tôi đã giàu nếu hôm qua chọc trúng con đề!

Vậy mà sao lắm kẻ suýt xoa tiếc rẻ đến phát rồ. 

USAID là ai? Lẽ ra, CIEM đã phải có đôi lời giới thiệu vị khách quý USAID trước công chúng chưa quen tên biết mặt. USAID là Cơ quan phát triển quốc tế của chính phủ Mỹ, kề vai sát cánh cùng các ‘đồng minh’ chống đói nghèo, kết liễu cùng khổ trong 2 thập kỷ tới…

Nhưng USAID cũng công khai: cổ vũ dân chủ cùng với thúc đẩy an ninh và thịnh vượng Mỹ. USAID có một lịch sử dài làm việc cho CIA như 1 tổ chức bình phong để phổ biến “dân chủ” ở các nước thế giới thứ 3.

Dân lành khắp nơi khốn đốn vì an ninh thịnh vượng của Mỹ, chỉ có đói rách, bom đạn và chiến tranh là của họ. Thực sự hoạt động của USAID rất đa dạng, từ viện trợ ‘nhân đạo’ cho đến cấp tiền cho đám đối lập, kể cả khủng bố gây bạo loạn lật đổ bằng cách mạng màu khắp nơi.

USAID cùng trong Quân đoàn tân tự do, tái thuộc địa vô số các quốc gia Đông Âu, Nam Mỹ, châu Phi và châu Á. Chúng gồm: USAID (Cơ quan Mỹ phát triển quốc tế), NED (Quỹ Quốc gia bảo trợ Dân chủ, hiện đang làm công việc mà trước đây được giao cho CIA), IRI (Viện Cộng hòa quốc tế), NDIIA (Viện Dân chủ Quốc gia về các vấn đề quốc tế), Freedom House, Viện Albert Einstein…

Và nếu như CIEM tử tế, giới thiệu đầy đủ tiểu sử lý lịch chẳng lấy gì làm sạch sẽ của USAID? Chỉ có 1 lý do nào đó khiến CIEM và TS Nguyễn Đình Cung im lặng về vấn đề này.

Vụ bê bối mới đây bị phát giác: USAID sử dụng mạng xã hội chống Cuba; Mạng xã hội có tên ZunZuneo được lập ra vào năm 2009 giống như Twitter của Mỹ. Cổng thông tin này chính là do chính quyền Mỹ tài trợ thông qua các công ty giả. Điều phối dự án là các quan chức của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ USAID. Theo dự án này, trước hết, Mỹ định thu hút đến với mạng xã hội này một số lượng lớn người dùng, sau đó tuyên truyền chống cộng đối với họ. Trong hai năm, đã có gần 40.000 người Cuba trở thành người dùng của ZunZuneo.

Không chỉ có vậy, điều tra của AP cho biết, từ 2009, USAID đã triển khai chương trình trợ giúp trị giá hàng tỷ đô la, như chương trình chống HIV/AID, nhưng đằng sau nó là tuyển các điệp viên người La tinh, đóng giả khách du lịch, nhân viên dân sự hay y tế đến Cuba, chúng dò la và tuyển mộ những kẻ mà chúng cho là có tiềm năng để huấn luyện đào tạo thành nhà hoạt động XHDS, nhằm mục tiêu chống đối gây bất ổn và mục tiêu xa hơn là “Mùa xuân Cuba” cho đất nước này. AP cũng phát hiện các tài liệu thú vị những thành viên này có liên lạc với nhau, sử dụng các ổ lưu trữ USB để cất giấu tài liệu và gửi nhận các tin tức được mã hóa. Nhưng các nhân viên La tinh này hầu hết bị thất bại, bởi không có chỗ nào là an toàn trước phản gián Cuba. Một điệp viên La tinh cho biết, họ vào một lớp học 30 phút để được hướng dẫn cách lẩn tránh phản gián Cuba, mặc dù chính quyền không cố để làm hại thân thể, hay đánh đập, họ chỉ đe dọa. Đó là bởi Cuba rất ngại phản ứng tiêu cực của media nước ngoài (ảnh hưởng đến du lịch).

Rõ ràng, bằng cách núp dưới vỏ bọc hỗ trợ phòng chống HIV/AID, mục tiêu chính của USAID là sắp đặt cuộc nổi loạn chống lại đất nước này.



Bạo loạn đổ máu ở Ukraina hiện nay, ít nhất USAID đã bỏ vốn vào “truyền thông tự do” để thúc đẩy nước này gia nhập EU.

Trong cái mồi câu nhử hàng triệu đô la, USAID đã tung ra ít nhất 1,25 triệu đô (trong tổng số 1,8 tỷ) để phổ biến “giá trị toàn cầu” ở đây qua truyền thông “độc lập”, công khai kêu gọi tổng thống dân bầu hợp hiến Yanukovych từ chức, lập chính quyền quá độ và bầu cử sớm. Ngoài ra, trong những nỗ lực phá hoại kinh tế Ukraina trước kia, USAID đóng vai trò lớn trong việc phá vỡ cam kết giải ngân các khoản vay cho Kiev, đẩy kinh tế đất nước này vào khó khăn bất ổn. Điều này được họ lặp đi lặp lại nhiều lần. Còn ngay lúc này, thật trùng khớp cả USAID và CIA đang tích cực trợ giúp IMF triển khai và áp đặt điều kiện cho các khoản vay “trợ giúp”. Một trong các điều kiện của IMF là chính quyền bù nhìn Junta Kiev phải lấy lại các vùng ky khai – điều đó nói thẳng ra là chiến tranh.

Haiti năm 2011, sau trận bão kinh hoàng tàn phá cả đất nước, USAID phát động chiến dịch cứu trợ nhân đạo, cứu đói. Thế nhưng, viện trợ lương thực giúp Mỹ xuất khẩu, nhưng lại dìm chết nông nghiệp Haiti, đẩy cả nước này vào nghèo đói dài hạn. Trong khi chính USAID bị tổ cáo tham nhũng, biển thủ tiền cứu trợ.

Bolivia, TT Evo Morales đành phải đóng cửa trục xuất USAID cũng như Nga năm ngoái, vì hành động can thiệp, gây bất ổn lộ liễu của các chiên da USAID. USAID dùng viện trợ thao túng các nhóm XHDS ở địa phương, mặc dù đất nước còn đói nghèo này rất cần những đồng tiền viện trợ. Kể từ năm 1964, USAID đã đổ vào đây 2 tỷ USD. Marc Weisbrot viết: “Ở một số quốc gia, kể cả Venezuela và Bolivia, USAID hoạt động giống như cơ quan can dự có hành động giấu diếm, cũng như CIA, hơn là cơ quan trợ giúp phát triển”. Ở Guatemala thập kỷ 70, USAID huấn luyện hơn 30 ngàn cảnh sát để đàn áp cánh tả, theo William Blum “Killing Hope”. Trong các thập kỷ sau, biệt đội thần chết Guatemala dưới chế độ độc tài Rios Montt được Mỹ bảo trợ đã diệt chủng nông dân người Mayan”. (Pando Daily)

Ở Salvador, “đầu thập kỷ 60, các nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ, Green Berets của CIA, và USAID tổ chức ra 2 nhóm bán vũ trang mà sau này trở thành xương sống của hệ thống giết chóc”. (Empire's Workshop - Greg Grandin)

Không chỉ Bolivia, hầu hết các nước Nam Mỹ đều đã từng phải trục xuất các chiên da USAID, bởi lý do mà họ nói thằng: can thiệp và gây ảnh hưởng đến tiến trình chính trị qua tài trợ: Cuba, Ecuador, Dominican Republic, Nicaragua và Venezuela. Còn ở Asian hiện nay, địa bàn hoạt động ưa thích của USAID là VN, Lào và Campuchia.

Ở Đức, USAID làm đối tác của AFRICOM, Sở chỉ huy Mỹ đóng ở Stuttgart, là một bộ phận của Trung tâm chỉ huy Mỹ về hoạt động ở châu Phi, gồm cả thu thập tình báo, giết người bằng UAV, các phi vụ phiêu lưu quân sự, huấn luyện và trợ sức cho các lực lượng đồng minh Mỹ ở châu Phi.

Ở Nga, góp phần vào đổ vỡ và bạo loạn, USAID cấp vốn cho Chubais làm chương trình tư nhân hóa, một chương trình của Harvard mà thực chất là tham nhũng, cướp bóc di sản Xô Viết để lại, Harvard và các vị giám đốc, bao gồm cả Andrei Shleifer bị Cơ quan tư pháp Mỹ khẳng định “âm mưu gian lận”. USAID cũng trả tiền tiếp thị cho Burson-Marsteller để bán các chứng chỉ độc hại ra công chúng, quảng cáo rầm rộ cho Chubais trước bầu cử. USAID đóng vai trò tích cực trong các chương trình tư nhân hóa, dân chủ hóa Nga, làm thối nát cả nước Nga trong thời kỳ chuyển đổi thập niên 90. Hàng tỷ đô la đã được USAID và các tổ chức Mỹ đổ vào Nga và USAID vẫn không chịu từ bỏ mưu đồ tài trợ phe phái đối lập, gây bạo loạn và bất ổn. Do đó chính quyền Nga buộc phải đóng cửa trụ sở USAID, nói cảm ơn và mời tất cả các vị về nước năm 2013.

Trong chiến tranh Việt Nam, USAID và CIA làm việc chặt chẽ với nhau đến mức cả 2 cơ quan này trở thành “gần như là tương đồng", khi USAID tạo ra cái vỏ che đậy các hoạt động cho CIA.” USAID huấn luyện cảnh sát VNCH và điều hành các hoạt động ‘dân sự’. USAID cũng tham gia vào “khía cạnh mềm” của Chiến dịch Phượng Hoàng: bắt giam, chiêu hàng, giết, hoặc kiềm chế – các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN nằm vùng, những cảm tình viên được đào tạo và các cơ sở cách mạng tại các thôn ấp Miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, USAID còn tài trợ cho chương trình gọi là “Đất cho nông dân - Land to the Tillers”, chương trình thất bại, nhưng được dùng để tuyên truyền và đối ngoại. (Pando Daily)

Và đừng quên “Chiến dịch Babylift 1975 - những toan tính nhơ bẩn của Nhà Trắng”, cuộc di tản trẻ em bất hợp pháp rất kín đáo diễn ra ngay trước khi Sài Gòn được giải phóng từ ngày 4/4 đến 26/4/1975. Vụ việc chỉ vỡ lở khi 1 chiếc máy bay vận tải C-5A gặp nạn làm cả trăm trẻ em thiệt mạng. Thế nhưng ít ai biết đến vai trò quan trọng của USAID trong chiến dịch này. Ngày 3/4, USAID thông báo, 3 chiếc máy bay tên lóng "Nightingale" đã đậu ở Phillippines để hôm sau sẵn sàng vận chuyển trẻ em rời khỏi Nam Việt Nam. Đây là báo cáo của USAID: Operation Babylift; hoặc có thể tìm trên Google: USAID, “Operation Babylift Report” Washington, D.C;


Về mặt hình thức, USAID hoạt động trực tiếp dưới sự chỉ đạo của tổng thống Mỹ và Bộ ngoại giao. Có một chi tiết đáng chú ý là Mẹ Obama, TT Mỹ hiện nay, có tên là Stanley Ann Dunham, từng làm việc cho USAID trong 1 số “dự án nhỏ” và cả Quỹ Ford, các dự án này gây rối loạn và lật đổ chính quyền ở Indonesia và Pakistan. Sau khi độc tài Suharto nắm quyền lực vào năm 1965, USAID hoạt động công khai ở quốc gia này, còn Suharto thì bổ nhiệm Stanley Ann Dunham làm cố vấn, bà ta giúp Suharto lập tổ chức New Order (Orde Baru), mở đầu hàng thập kỷ cai trị bằng bạo lực đẫm máu của độc tài Suharto. Không cần phải nghi ngờ vai trò của Stanley Ann Dunham và USAID trong “dự án nhỏ” và Orde Baru, thực chất là che giấu chương trình đàn áp thẳng tay các phe phái đối lập, đặc biệt là cánh tả và các tổ chức chính trị yêu nước bởi bù nhìn Suharto. Thậm chí là USAID triển khai các “khoản vay” trong dự án nhỏ này để đổi lấy thông tin về các phe phái chính trị, họ chuyển nó cho CIA và Suharto, các biệt đội thần chết được cử đi, theo danh sách và săn lùng thủ tiêu họ. Hầu hết các khoản vay này đều nhằm vào các tổ chức Hồi giáo cực đoan, các nhóm cánh hữu trẻ để chống cánh tả.

Đặc biệt, hàng nghìn thành viên Đảng Cộng Sản Indonesia đã bị các “quan chức Mỹ” đưa vào “danh sách thần chết”, quân đội và cảnh sát của độc tài Suharto săn đuổi họ khắp nơi. Như lời quan chức ngoại giao Mỹ và CIA, Robert J. Martens thú nhận sau này: “cuộc tàn sát tồi tệ nhất thế kỷ ở đây!” Ông ta nói thêm: “Đó thực sự là sự trợ giúp lớn cho quân đội… Họ dường như đã giết rất nhiều người…” Còn đại sứ Mỹ Marshall Green, và cấp phó của ông ta, Jack Lydman, Edward Masters thì thừa nhận đã trực tiếp phê duyệt danh sách, trước khi đưa nó cho quân đội của Suharto. Cựu phó chỉ huy CIA, Joseph Lazarsky cho biết: chỉ riêng ở Jakarta đã có 4000 đến 5000 người được “nhặt vào danh sách”. (Counterspy, Winter 1979 và Washington Post, 5/21/1990).

Trên đây chỉ là một số ví dụ điển hình và còn rất nhiều nữa… Có quá nhiều tiền sử tội ác của USAID như vậy. Ai có thể coi USAID là nhà từ thiện?


(Phần tiếp theo: Viện CIEM ở đâu, làm gì?) 

NGHỀ BƯNG BÔ THỜI NAY! - P1

Sự việc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Tổ chức USAID (Mỹ) tổ chức hội thảo “Việt Nam lẽ ra phải có mức thu nhập trên 7.000 USD/người” gần đây ở Hà Nội được các báo mạng như thanh niên, một thế giới… đưa tin rầm rộ. VTV phát trên bản tin thời sự, và tối hôm qua (3/8) vời cả các chiên da đăng đàn tranh luận hùng hồn.

$7000 với kinh tế mở, thị trường tự do?


Điều ngạc nhiên là một vị chuyên gia USAID, Olin McGill lại đưa ra nhận định lẽ ra với “chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh” thu nhập bình quân đầu người ở VN lại chỉ là 1.400 USD/năm. Bởi  theo ông, ở vị trí “xếp hạng môi trường cạnh tranh” 99/189 nền kinh tế, bình quân thu nhập ở VN lẽ ra phải ở mức trên 7.000 USD/người. (nguồn thanh niên).

Đành rằng mấy năm gần đây, cùng chung khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế VN có nhiều dấu hiệu suy giảm, thậm chí ảm đạm và thu nhập hay GDP vẫn ở nhóm các nước nghèo.

Nhưng kinh tế là phạm trù trừu tượng. Người ta đo lường đánh giá bằng nhiều chỉ số như GDP (tổng sản phẩm quốc nội),  GNI (Thu nhập quốc dân), business environment index (chỉ số môi trường kinh doanh), Global Competitiveness index (chỉ số cạnh tranh toàn cầu),  PCI (chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh)…

GDP và GNI còn được tính cho đầu người, trong đó GNI có thể hiểu là GDP cộng trừ thu nhập bên ngoài: lãi vay, cổ tức, tín dụng, lãi sản xuất kinh doanh ở người nước chuyển về, hay ví như tiền của lao động xuất khẩu gửi về nước.

Bài báo thanh niên gọi chỉ số của vị chiên da nọ là “xếp hạng môi trường cạnh tranh”, nhưng qua các con số Việt Nam thứ 99/189, Malaysia và Georgia tương ứng 6 và 8/189, cùng các chỉ số phụ đề cập đến, thì rõ ràng không hề là chỉ số “xếp hạng môi trường cạnh tranh”, mà là Chỉ số thuận lợi hoạt động kinh doanh của WB, tên tiếng Anh: Ease of doing business index (EDB). Có thể tham khảo 2 nguồn wiki ở đâyở đây.

Vì GDP và GNI là quen thuộc, chúng ta phải điểm qua EDB, qua các chỉ số con của nó:

* Khởi sự doanh nghiệp: thủ tục pháp lý, thời gian, chi phí và vốn tối thiểu để mở doanh nghiệp mới.
* Lấy giấy phép kinh doanh: thủ tục pháp lý, thời gian và chi phí để xây dựng cơ sở doanh nghiệp.
* Mua điện năng – thủ tục, thời gian và chi phí cần thiết để doanh nghiệp có được điện năng cố định đến cơ sở doanh nghiệp mới.
* Đăng ký quyền sở hữu: thủ tục, thời gian và chi phí đăng ký tài sản thương mại hợp pháp.
* Nhận tín dụng - hiệu lực của các quyền hợp pháp, độ mở thông tin tín dụng.
* Bảo hộ nhà đầu tư: mức độ tiết lộ, mức độ trách nhiệm nhà quản trị và dễ dàng cho cổ đông tố tụng.
* Nghĩa vụ thuế: các khoản thuế phải trả, chi phí thời gian mỗi năm cho thủ tục hành chính thanh toán thuế, tỉ lệ thuế phải trả so với tổng số lợi nhuận ròng.
* Ngoại thương - số lượng giấy tờ, thời gian và chi phí cần thiết để xuất nhập khẩu.
* Hiệu lực hợp đồng - thủ tục, thời gian và chi phí để đòi thanh toán nợ.
* Chấm dứt kinh doanh - thời gian, chi phí và tỷ lệ thu hồi (%) theo thủ tục phá sản.

Như đã nói, người ta đo lường kinh tế bằng hàng trăm thông số, có một số thông số là có liên quan với nhau. Nhưng theo cách hiểu thông thường, GNI phụ thuộc vào năng suất lao động, độ cần cù siêng năng, trình độ tay nghề của lao động, tài nguyên thiên nhiên, ưu đãi địa lý, mức độ phát triển của 1 quốc gia, v, v. Vậy nên thật  ngạc nhiên khi EDB với các tiêu chí như trên lại có liên hệ hay ràng buộc tuyến tính với GNI để từ đó các chiên da tâm đắc lẽ ra EDB của VN là 99/189 thì GNI phải là 7000 đô la/người.

Có lẽ đây là phát minh mới của các chiên da USAID? Năm sau có lẽ họ giật giải Nobel kinh tế chăng?

Vậy thì vẽ biểu đồ GNI per capita, PPP (current international $) của WB. Hình 1 là 30 nước đứng đầu chỉ số EDB, hình 2 là các nước từ 90 đến 120, trong đó có VN.



Có thể nhìn thấy ngay, thay vì một đỉnh giảm đều theo chỉ số EDB, người ta được 2 biểu đồ lộn xộn, thăng giáng không theo 1 quy luật “thuận lợi kinh doanh” nào cả. Nhưng lại có thể giải thích được bằng cách khác. Thí dụ:

- Na-uy (9), UAE (23), Nga (92) nhiều dầu mỏ. Nhóm các nước đã phát triển gồm Nhật, Hà Lan, Thụy điển, Úc có EDB 27-30.

- Singapore (số 1 EDB) lợi thế địa lý thương mại, với cơ hội phát triển trời cho từ chiến tranh Việt Nam.

- Phillipines (109) có GDP thấp nhưng GNI của họ ($7820) cao hơn VN vì thu nhập xuất khẩu lao động rất lớn.

- Namibia (98) đứng ngay trước VN, đất nước này rộng lớn, dân cư thưa thớt chỉ 2 triệu người và xuất khẩu kim cương, vàng, bạc, uranium.

- Palau (100) đứng ngay sau VN là 1 quốc đảo bé tẹo, đánh cá và du lịch.

Điều lạ lùng kỳ dị là 2 nước Malaysia và Gruzia được các chiên da tấm tắc khen như tấm gương sáng láng, có EDB đứng 6 và 8, là 2 quốc gia GNI lọt thỏm trong top 30 EDB có thu nhập cao. Tương tự như vậy là các nhược tiểu Đông Âu. Nhưng các vị vẫn nhất mực hùng hồn một qui luật tưởng tượng tương thích nào đó của 2 chỉ số này. Tại sao họ không sang Malaysia và Gruzia để thuyết giảng 2 nước này phải thu nhập bình quân 35 nghìn đô la?

Và như để củng cố thêm cho luận điệu bi ai của mình, các vị này cố lấy GNI thông thường của VN là 1.400 USD/năm, thực ra, tính theo PPP của chính WB, GNI-PPP của VN đã là $5030.  

Cần thừa nhận, chúng ta đã cải cách, đã mở cửa, nhưng vẫn đang đứng ở nhóm các quốc gia thu nhập thấp, và các tiêu chí theo EDB còn nhiều yếu kém, thủ tục nhiêu khê rườm rà, nguồn điện, bảo vệ nhà đầu tư, thành lập doanh nghiệp, nộp thuế… Đó đây nhiều công chức nhũng nhiễu vòi vĩnh... đã từng được đề cập nhiều, cũng đã nhiều nỗ lực cải cách.

Đó là những điểm yếu người ta biết cả. Liệu có cần chiên da USAID chỉ bảo? 7000 đô la có phải là tất yếu? Khi mà đang trong thời kỳ chuyển đổi, đa số nông dân vẫn làm nông nghiệp thủ công-năng suất thấp và vẫn đang nhọc nhằn vật lộn với khó khăn cải cách.

Đúng hơn, 7000 đô la là miếng mồi mới, được USAID mắc vào cái lưỡi câu để nhử cải cách mới, thay đổi thể chế mới, mở toang thị trường tự do, kinh tế tự do… Những ngôn từ hoàn toàn quen thuộc được quân đoàn “dân chủ” và một số kẻ có chức sắc kêu gọi dư luận gần đây.

Những thứ đó không có gì lạ. Nó nằm trong nghị sự tư nhân hóa, tự do hóa và toàn cầu hóa của Mỹ. Còn phương pháp: chiếm lấy nó và lái nó đi theo hướng Mỹ ưa thích.

(Phần tiếp theo: USAID là ai?)


George Soros thừa nhận bỏ vốn vào khủng hoảng Ukraina

Trong cuộc phỏng vấn gần đây, George Soros nói với phóng viên Fareed Zakaria của CNN rằng, ông ta  chịu trách nhiệm việc thiết lập quỹ ở Ukraina để cuối cùng góp phần vào việc lật đổ nhà lãnh đạo được bầu của đất nước và cái cắm một chính quyền quân sự được lựa chọn cẩn thận bởi Bộ Ngoại giao Mỹ.

Zakaria hỏi Soros: "Đầu tiên ở Ukraina, một trong các điều mà nhiều người công nhận về ông là ở chỗ ông đã làm cuộc cách mạng năm 1989 tài trợ nhiều hoạt động bất đồng chính kiến​​, các nhóm xã hội dân sự ở Đông Âu và Ba Lan, Cộng hòa Séc. Ông đang làm những điều tương tự ở Ukraina? "

Soros trả lời: "Vâng, tôi đã lập quỹ ở Ukraina trước khi Ukraina khi trở thành độc lập với Nga. Và quỹ đã hoạt động kể từ đó và đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện hiện nay ".

Người ta biết rõ, mặc dù truyền thông bị cấm đề cập đến, Soros đã làm việc chặt chẽ với USAID (Cơ quan Mỹ phát triển quốc tế), NAD (Quỹ Quốc gia bảo trợ Dân chủ, hiện đang làm công việc mà trước đây được giao cho CIA), IRI (Viện Cộng hòa quốc tế), NDIIA (Viện Dân chủ Quốc gia về các vấn đề quốc tế), Freedom House, và Viện Albert Einstein để kích hoạt một loạt các cuộc cách mạng màu ở Đông Âu và Trung Á sau sự sụp đổ của Liên Xô.


William F. Jasper viết: "Nhiều trong số những kẻ tham gia các cuộc biểu tình 'EuroMaidan' ở Kiev là thành viên của các tổ chức NGO Soros tài trợ và/hoặc được đào tạo bởi cùng các NGO đó trong nhiều cuộc hội thảo và hội nghị được tài trợ bởi Quỹ Phục hưng Quốc tế do Soros bảo trợ (International Renaissance Foundation - IRF), cùng các Viện Xã hội mở khác nhau, các quỹ IRF, được lập và tài trợ bởi Soros, Ông ta tự hào rằng nó đã được "cấp vốn nhiều hơn bất kỳ tổ chức tài trợ nào khác" để “chuyển đổi dân chủ” Ukraina".


Sự biến đổi này dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát xít kiểm soát các tổ chức an ninh của Ukraina. Vào tháng 4, điều này đã được công bố bởi Andri Parubi và các thủ lĩnh đảo chính khác làm việc với FBI và CIA để đánh bại và giết hại những người ly khai phản đối chính phủ quân phiệt được dàn dựng bởi Victoria Nuland và Bộ Ngoại giao Mỹ. Parubi là kẻ sáng lập của đảng xã hội quốc gia ở Ukraina và hiện là ông chủ của Hội đồng Quốc phòng và An ninh quốc gia Ukraina.

Bây giờ thì Petro Poroshenko, "ông vua sô cô la" làm TT Ukraina, nỗ lực để quét sạch mọi đối lập ở miền đông Ukraina đang nở rộ. Poroshenko là một lựa chọn gần như hoàn hảo cho bộ máy EU và giới toàn cầu hóa. Hắn từng ngồi trong Hội đồng Ngân hàng Quốc gia Ukraina và hợp tác với IMF, Wall Street và Ủy ban châu Âu.

Poroshenko và đám thủ lĩnh đảo chính tháng 2 đang giết hại thường dân ở Donetsk như nỗ lực tiếp tục trục xuất và nhổ tận gốc "chiến binh thân Nga" và "khủng bố", tức là, những người đấu tranh vũ trang đứng lên chống lại những kẻ thi hành Right Sector mà có lẽ đi cùng với lính đánh thuê Mỹ và sự giúp sức của CIA. Thường dân đồng thời cũng là nạn nhân "nổi loạn" bị cầm giữ ở Slovyansk và lân cận Kramatorsk khi trả đũa chống lại bạo lực của chính quyền quân sự Kiev.

Phản ứng quân sự với đặc trưng phát xít quá mức của nó, bao gồm cả đốt cháy một cách khủng bố tòa nhà Công đoàn ở Odessa bằng cách "nổi loạn ủng hộ chế độ" (nghĩa là Right Sector bán quân sự), có thể trực tiếp là bởi sự khuyến khích của George Soros và sự nhúng tay của Bộ Ngoại giao Mỹ, các NGO khác nhau (đó là, trên thực tế, chính phủ và mặt trận của Wall Street), cùng USAID, NED, và Freedom House, v v. 


Sau khi giết người và trục xuất những ai phản đối Quí ông IMF trong chính phủ và nhân dân Ukraina, Nga có thể thấy nhiều khiêu khích hơn nữa, đặc biệt là bây giờ khi mà họ đã đi quá khỏi chỗ hỗ trợ lực lượng phản kháng. Giới tài phiệt bề trên và những kẻ cộng tác EU của chúng đã xác định làm giảm thiểu và cuối cùng loại bỏ bất kỳ thách thức nào của Nga và các nước BRICS khi những quốc gia này có bước tiến chống lại nghị sự tài chính tự do mới.

Wayne Madsen đã viết gần đây: "Xây dựng lực lượng không quân và bộ binh NATO dọc theo biên giới Nga ở Đông Âu và chuyến đi gây ảnh hưởng của Obama đến châu Á có một mục đích duy nhất: Đấng cai trị - kẻ ra lệnh cách xử sự để những con rối chính trị của nó ở Washington, London, Paris, Brussels, Berlin và các thủ đô chư hầu khác - đã quyết định đập vỡ BRICS - khối sức mạnh tài chính mới nổi bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi."


Chuyến bay 103 Pan Am Lockerbie P3

Lừa dối về Lockerbie

“Bằng cách dối lừa, chúng ta sẽ gây chiến” – khẩu hiệu của Mossad, tình báo Israel

Cờ giả Lockerbie đã làm mất uy tín người Hồi giáo nghiêm trọng, củng cố thêm niềm tin rằng "Hồi giáo" và "khủng bố" hầu như đồng nghĩa, nó diễn ra ngay trước vụ 11/9 ít năm. Nhưng nhìn lại, những ai ở phương Tây biết về câu chuyện này, đều là chủ yếu từ truyền thông: TV, báo chí mà không phải từ những bằng chứng thực sự.

Thực sự, vụ Pan Am 103 là mô hình lừa dối điển hình nhằm mưu đồ chính trị sâu xa.

Abdelbaset al-Megrahi ra tù và được chào đón bằng cả một rừng cờ hoa như một người anh hùng ở Libya gây ra phản ứng trái ngược ở phương Tây. Trong khi các báo tin tức nghiêm túc ghi nhận những phản ứng giận dữ của Barack Obama, Gordon Brown và những người khác về những gì xuất hiện để được chào đón như một anh hùng thực khó coi với một tên khủng bố bị kết tội, họ đã quên không đề cập đến là Libya ăn mừng việc thả một đồng hương mà họ tin rằng đã bị bỏ tù sai 8 năm. Cũng bỏ qua mọi dấu hiệu mà các nhà quan sát đã nêu về vụ án Megrahi mà theo đó dường như là anh ta vô tội.

Robert Black, giáo sư luật Edinburgh là kiến trúc sư của vụ xét xử tại Camp Zeist Hà Lan, nói rằng "không có tòa án có lý nào để có thể kết án Megrahi dựa trên các bằng chứng", ông gọi kết án anh ta năm 2001 là "một sự phẫn nộ và hoàn toàn và tuyệt đối". Hans Kochler, quan sát viên của Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm tại phiên tòa, nói rằng "không hề có một mảnh tang vật nào kết nối hai bị cáo với tội phạm", và lên án phán quyết của tòa án như một "sự sai lầm ngoạn mục của công lý." Tiến sĩ Jim Swire, người có con gái Flora (đã nói ở bài trước) là một trong 270 thiệt mạng trên máy bay, bác bỏ vụ kiện của công tố chống lại Megrahi, ông gọi đó là "chuyện của bò và gà".

Theo đó "chuyện của bò và gà", Megrahi, người đứng đầu an ninh hàng không Libya (Arab Airlines-LAA), âm mưu với Lamin Khalifa Fhima, người làm quản lý LAA ở Malta (đã được tuyên bố trắng án), đặt một quả bom va li lên chuyến bay từ Malta đến Frankfurt. Tại Frankfurt, vali bom được chuyển sang chuyến bay khác đến Heathrow ở London. Sau đó, trong sân bay Heathrow, nó được chuyển một lần nữa lên chiếc máy bay xấu số Pan Am 103 đến New York.

Nhưng kịch bản này là đáng ngờ chứ không hợp lý, những người Libya sẽ phải có một đức tin quá thể lắm vào độ tin cậy của việc vận chuyển hành lý trong hai sân bay bận rộn nhất châu Âu trong thời kỳ bận rộn nhất của năm. Ít lạc quan hơn, sẽ là kẻ đánh bom đặt va li lên máy bay ở London. Nhen nhóm lên sự nghi ngờ rằng đó thực sự là những gì đã xảy ra, cảnh sát điều tra được nói bởi an ninh sân bay Heathrow rằng khu vực lưu trữ hành lý Pan Am đã bị đột nhập vào đêm của vụ đánh bom.

Báo cáo về hiện tượng bị đột nhập tại sân bay Heathrow là một phần của 600 trang chứng cứ mới và bằng chứng đã bị cố tình bỏ qua để bảo vệ Megrahi và khiếu nại buộc tội, năm 2007, Ủy ban đánh giá án hình sự Scotland, sau cuộc điều tra ba năm, đề nghị thả anh ta.

Nhưng trước khi khiếu nại có thể được nghe đến, thì Megrahi đã được thả vì bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối, một thuận tiện để tha thứ cho những bối rối của tất cả những kẻ can dự với niềm tin không rõ ràng của mình. Câu hỏi khó xử và đáng kể hơn, trong trường hợp có thể Megrahi được tuyên bố trắng án, ai là kẻ thực sự đã đặt bom, và tại sao?

Hồi giáo không ngừng tồi tệ

Nhiều trong số những người nghi ngờ trách nhiệm của Libya trong vụ đánh bom Lockerbie, có lẽ không thấy ngạc nhiên trong hoàn cảnh hiện nay, có xu hướng nghi ngờ các quốc gia Hồi giáo dính líu. Lý thuyết phổ biến nhất là Iran thuê Mặt trận Nhân dân Giải phóng Palestine có cơ sở ở Syria - Tổng chỉ huy (PFLP-GC) do Ahmed Gibril đứng đầu trả thù cho "tai nạn" bắn máy bay của họ từ tàu sân bay USS Vincennes ngày 03 tháng 7 năm 1988, chuyến bay Iran Air Flight 655 đã giết chết tất cả 288 hành khách.

Những người khác tin rằng Abu Nidal, kẻ lập nhóm khủng bố khét tiếng “Tháng chín đen”, có thể đã dính líu. Nếu họ nói đúng, nó đặt ra câu hỏi đáng lo ngại về việc ai là kẻ cuối cùng phải chịu trách nhiệm về hành động tàn ác Lockerbie. Trong cuốn tiểu sử về Nidal, “Súng cho thuê - A Gun for Hire”, nhà báo Anh Patrick Seale xác nhận những nghi ngờ từ lâu rằng "khủng bố Palestine" ở Trung Đông, là những kẻ đã làm nhiều hơn bất cứ ai để mất uy tín của người Palestine. "Abu Nidal chắc chắn là tay chân của Mossad". Ông Seale khẳng định. "Trên thực tế, mọi việc chúng làm Israel hưởng lợi".

Điều thú vị, có một giả thiết là PFLP-GC cộng tác với Abu Nidal thay mặt cho Iran, được một cựu nhân viên Mossad tán thành, Yuval Aviv, là điệp viên điều tra ở New York, và là người chuẩn bị báo cáo cho công ty bảo hiểm Pan Am về vụ Lockerbie.

Viết dưới bút danh Sam Green, Aviv là tác giả của “Chuyến bay 103”, một nguyên nhân giả tưởng về bi kịch Lockerbie mà ông ta tuyên bố là "dựa vững chắc trên những sự kiện thực tế cuộc sống", trong đó người Iran trả thù đã tuyển khủng bố Palestine, Ahmed Shabaan “chim ưng”, để làm công việc bẩn thỉu của họ. Aviv, người lấy cảm hứng từ Munich của Steven Spielberg, hy vọng người bạn đạo diễn của mình sẽ chuyển câu chuyện Lockerbie thành bộ phim bom tấn Hollywood.

Rất khó để bất kỳ bình luận chính thống nào đặt câu hỏi về độ tin cậy của một cựu nhân viên Mossad, kẻ vẫn giữ mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan tình báo, chỉ tay vào Palestine và Iran như kẻ gây ra cuộc tấn công khủng bố giết chết 189 người Mỹ, bằng cách ấy bôi nhọ danh tiếng hai kẻ thù lớn nhất của Israel bằng tâm trí của những kẻ có nhu cầu thuyết phục rằng, Mỹ và Israel phải đối mặt với cùng một kẻ thù chung.

Trò bẩn!

Không phải ai trong giới truyền thông cũng ngây thơ về âm mưu thủ đoạn của Israel. Viết trên tờ Guardian trước phiên tòa xét xử hai người Lybia, nhà báo Mỹ kỳ cựu Russell Warren Howe, trong một bài viết tuyệt vời có tiêu đề "Nếu họ vô tội? - Whatif they are innocent?" phân tích rằng, cho dù chính phủ Iran hay khủng bố Palestin thì tình báo Israel là thủ phạm nhiều khả năng hơn. Howe kết luận: "Ngay cả khi Megrahi và Fhima bị tìm thấy là có tội trong những cáo buộc nghiêm trọng nhất, thì vẫn sẽ là một nhu cầu cho cuộc điều tra mới: để quyết định vai trò chính có thể của Israel là gì trong vụ giết người hàng loạt và lừa dối chính ân nhân của họ, là Mỹ". Howe cho là, ngay cả khi người Libya, hoặc người Ả Rập khác, đã thực sự đặt bom, họ có thể vẫn bị lừa làm như vậy bởi các gián điệp Israel.

Điều thú vị, Howe trích dẫn một tài liệu tham khảo trong sách của Gordon Thomas về Mossad, điệp viên Gideon, một nhân viên Mossad đóng tại London, lại xuất hiện ở Lockerbie vào buổi sáng sau vụ rơi máy bay để dàn xếp loại bỏ va li từ khỏi hiện trường vụ án. Chiếc va li này, người ta nói thuộc về đại úy Charles McKee, một sĩ quan DIA và là người đã chết trong chuyến bay, nó sau đó được đem trở lại "trống rỗng và không bị hư hại."

Hơn nữa, ý tưởng về trách nhiệm của Libya, Howe lưu ý, dường như có nguồn gốc từ Israel. Một lần nữa, ông trích dẫn Thomas, theo đó nói rằng một nguồn tại LAP, là đơn vị chiến tranh tâm lý Mossad, xác nhận với ông rằng "trong vòng vài giờ của vụ tai nạn, nhân viên tại LAP đã liên lạc điện thoại với giới truyền thông, thúc giục họ công bố công khai rằng đây là "bằng chứng không thể chối cãi, Libya, qua cơ quan tình báo Jamahirya, là có tội."

Đó cũng có thể là Mossad đánh lạc hướng, Howe nghi ngờ, để xui khiến chính phủ Mỹ tin rằng Libya có tội. Một ngày sau khi vụ đánh bom Lockerbie, tình báo Mỹ chặn tin nhắn vô tuyến từ Tripoli đến văn phòng chính phủ Libya ở Berlin nói rằng một cách ấn tượng, "Nhiệm vụ đã hoàn thành - mission accomplished". Có ít nhất 2 điều giả mạo trong tin nhắn như thế: một là văn phòng ở Berlin đã biết từ lâu về vụ đánh bom qua TV, không cần phải đọc tin nhắn. Hai là người Arab, không nói kiểu Mỹ “mission accomplished”.

Hai năm trước, một tin nhắn chặn được nhắn tương tự đã làm Ronald Reagan ra lệnh không kích Libya, giết chết hơn một trăm người, bao gồm cả con gái nuôi hai tuổi của Qaddafi. Nhưng tin nhắn đã bị làm giả bởi Israel, theo Victor Ostrovsky, một cựu sĩ quan Mossad, kẻ mô tả hoạt động trong “Mặt khác của dối lừa - The Other Side of Deception”, tiết lộ thứ hai viết về Mossad sau khi rời bỏ phục vụ.

Hoạt động Trojan bắt đầu vào tháng 2 năm 1986 khi Mossad bí mật cài đặt thiết bị truyền thông gọi là "Trojan" vào một căn hộ ở Tripoli. Trojan nhận tin nhắn bởi LAP của Mossad trên 1 tần số sóng và tự động truyền chúng đi trên một tần số khác được sử dụng bởi chính phủ Libya. "Sử dụng Trojan" Ostrovsky viết, "Mossad đã cố gắng để làm cho nó có vẻ là một chuỗi dài các đơn đặt hàng khủng bố được chuyển đến các đại sứ quán Libya khác nhau trên thế giới." Tình báo Mỹ, như dự đoán bởi Israel, đã chặn tin nhắn giả, và tin vào chúng như là xác thực - đặc biệt là sau khi nhận được xác nhận từ Mossad.

Trong 1 tuần khi Trojan được cài đặt, hai lính Mỹ đã thiệt mạng trong một vụ nổ tại La Belle, hộp đêm thường xuyên của lính Mỹ ở Tây Berlin. Với giả định rằng Libya phải chịu trách nhiệm, chín ngày sau đó Mỹ trút 60 tấn bom xuống Tripoli và Benghazi. Có ít ngờ vực rằng người Mỹ đã bị lừa vào cuộc "trả đũa" bởi Israel, kẻ lẩn tránh đã phải trừng phạt Qaddafi vì ủng hộ Tổ chức Giải phóng Palestine, và tiếp tục xa lánh Mỹ từ thế giới Ả Rập.

Không phải tất cả người Mỹ đều không biết gì về âm mưu của Israel. Ý kiến ​​về thiên hướng lừa lọc của cơ quan tình báo Israel, Andrew Killgore, cựu đại sứ Mỹ ở Qatar, viết trong báo cáo của Washington về vấn đề Trung Đông, "Đặc sản Mossad là thủ đoạn bẩn thỉu... phương pháp hoạt động của họ luôn luôn giống nhau: chơi trò bẩn nhưng làm cho nó có vẻ như ai đó khác đã làm điều đó."

Như là một phần của bất kỳ cuộc điều tra mới nào để xác minh có hoặc không vụ đánh bom Lockerbie là một trò bẩn khác trong “thủ đoạn bẩn” của Mossad, các nhà điều tra có thể muốn phỏng vấn Issac Yeffet, cựu giám đốc an ninh của hãng hàng không Israel El Al, người vào năm 1986 là ủy nhiệm của Pan Am để khảo sát an ninh tại một số sân bay trên thế giới. Khi Killgore, trong một bài viết riêng cho Washington Report, nhận xét gợi ý: "Yeffet có lẽ đã thành công trong việc duy trì an ninh hoàn hảo cho El Al tại sân bay Ben-Gurion. Nhưng những nỗ lực của ông tại sân bay Heathrow ở London, một trong những sân bay khảo sát cho Pan Am, mà với nó ông và các nhân viên của mình có đầy đủ sự kiểm soát, cũng thất bại để cứu Pan Am 103."

Vẫn bảo vệ sự vô tội của mình, Megrahi nói với các phóng viên khi phóng thích: "Sự thật không bao giờ chết!" Đó có thể là như vậy. Nhưng khi mà các phương tiện truyền thông phương Tây vẫn tiếp tục tin rằng chỉ có kẻ thù của Israel mới làm nổ tung máy bay dân sự, sự thật về Lockerbie sẽ không bao giờ bị phơi bày.

Chuyến bay 103 Pan Am Lockerbie P2

Lockerbie là thất bại chết chóc của công lý

Có nhiều bằng chứng chứng tỏ Megrahi vô tội. Tuy nhiên, điều tra và tòa án đã không xem xét đến. Họ không quan tâm, họ chỉ cần một con dê tế thần để làm dịu áp lực dư luận và an ủi các thân nhân người thiệt mạng.

Jim Swire, người có con gái là Flora chết trên chuyến bay Pan Am 103, tin rằng vụ xét xử Megrahi là "một trong những nhầm lẫn trầm trọng nhất của công lý trong lịch sử".

Bằng chứng được phát hiện bởi gia đình các nạn nhân, và các nhà báo John Ashton, Ian Ferguson và Paul Foot, đã luôn cho thấy Megrahi vô tội và rằng Megrahi đã bị dàn dựng để che đậy những gì thực sự xảy ra.


Phiên bản chính thức của các sự kiện là gì?

Megrahi bị buộc tội âm mưu cùng 1 người Libya khác đặt một quả bom trong chiếc vali, được xếp lên chuyến bay từ Malta đến Frankfurt, nơi nó được chuyển đến trong một chuyến bay tới sân bay Heathrow và lên máy bay Pan Am 103.

Quả bom được cho là giấu trong chiếc radio-cassette hiệu Toshiba.

Nó được cho là có một thiết bị hẹn giờ để kích nổ, thiết bị này do một công ty Thụy sĩ cung cấp cho cơ quan tình báo Libya. Công ty này làm ăn chung với một công ty Libya, nơi mà Megrahi có liên hệ.

Megrahi đồng thời cũng bị cáo buộc đã mua những bộ quần áo trong va li bom từ một cửa hàng ở Malta vào tháng 12 năm 1988.

Thậm chí là người ta đã không thèm kiểm tra các bằng chứng.


Bắt đầu có giấu diếm?

Bóp méo tin tức đã xảy ra ngay trong vòng nửa giờ sau tai nạn và bằng chứng quan trọng đã bị giữ kín.

Nhân viên cảnh sát và những người tình nguyện tìm kiếm nói về việc các điệp viên Mỹ đã đưa đi một số thứ khỏi hiện trường.

Tại sao các nhân chứng quan trọng lại được CIA trả tiền?

Nhân chứng công tố nổi bật trong vụ án, Abdul Majid Giaka, đã bị lộ trong phiên tòa là một kẻ kỳ quặc có động cơ kiếm tiền từ CIA. Nhưng tòa án bác bỏ điều này.

Một nhân chứng quan trọng khác, nhân viên bán hàng Tony Gauci, làm chứng rằng Megrahi đã mua quần áo ở Malta, mà số quần áo này đã được tìm thấy cùng với quả bom, thì chính Gauci đã đưa ra bằng chứng mâu thuẫn.


Có lúc Gauci nói ông ta cho rằng người đàn ông mua quần áo đã già và cao hơn Megrahi, việc mua bán diễn ra tại một thời điểm khi mà Megrahi lại có bằng chứng ngoại phạm.

Gauci đã chọn ra Megrahi trong một hàng người, nhưng chỉ sau khi được cho xem bức ảnh của nghi phạm 4 ngày trước đó.

Gauci đã được Mỹ trả 1,2 triệu bảng vì bằng chứng của mình dù nhiều lời khai mâu thuẫn của ông ta đã được bỏ đi.

Đồng phạm của Megrahi, Lamin Khalifah Fhimah, được tha bổng, làm xói mòn tội danh mà người ta cho là ông ta đã âm mưu với kẻ khác để đánh bom máy bay.

Ai đã tìm thấy những bằng chứng quan trọng?

Cầu nối trung tâm của vụ án chống lại Megrahi là mối tương quan giữa bộ hẹn giờ của quả bom được cho là đã bán cho các nhà chức trách Libya và một mảnh nhỏ của bảng mạch được tìm thấy gần Lockerbie.

Nhưng ai là kẻ tìm thấy mảnh bảng mạch và mạch và khi nào?

Không ai thấy cái mảnh có đồng này được tìm thấy khi nào. Có quan điểm cho rằng một cựu sĩ quan cảnh sát cấp cao giấu tên của Scotland nói rằng ông ta đã bỏ cái mảnh mạch này vào hiện trường theo lệnh của CIA.

Một phiên bản khác nói bằng chứng này được tìm thấy bởi một nhân viên Scotland giấu tên làm việc bên ngoài Lockerbie và tìm thấy "vào một buổi sáng mù sương đầu tháng 4" năm 1989.

Tuy nhiên, có người nói nó được tìm thấy "lúc nào đó vào năm 1990" trong một "mảnh áo bị cháy" bởi chuyên gia pháp lý Thomas Thurman của FBI.

Trợ lý giám đốc của phòng thí nghiệm pháp lý FBI cho biết các nhà chức trách Anh tìm thấy mảnh vơc cả năm trước khi Thurman nhận nó.

Và ai đã xác định cái mảnh mạch này là 1 bộ hẹn giờ?

Một số người nói là Thomas Thurman, người khác là một "cựu chuyên gia phân tích của CIA", nhưng cũng có người khác nói nhà khoa học pháp lý quân đội, tiến sĩ Thomas Hayes – kẻ là trung tâm của cuộc điều tra vụ bỏ tù oan sai Maguire Seven những năm 1970.

Vì vậy, mối liên hệ quan trọng để dẫn dắt tới Libya - và đến với Megrahi như thế - là được thực hiện vào tháng 4 năm 1989, hoặc trong tháng 6, tháng 8, tháng 10 hoặc tháng 11 năm 1990 tùy thuộc vào sở thích của bạn.


Làm thế nào để quả bom lên máy bay?

Các chuyên gia đã liên tục tranh cãi về lý do chính rằng quả bom đã được đưa lên chuyến bay trung chuyển tại Malta và được chuyển đi 2 lần - tại Frankfurt và tại sân bay Heathrow.

Một số tin rằng quả bom đã được đặt lên máy bay tại sân bay Heathrow.

Trường hợp chống án đầu tiên cho Megrahi năm 2002 đã nghe bằng chứng từ một người bảo vệ an ninh sân bay Heathrow, báo cáo về 1 chỗ bị đập vỡ ở gần nhà kho nơi mà sau đó cùng ngày, hành lý cho máy bay Pan Am được chuyển đi.

Vị giám đốc quản lý hành lý khách hàng tại sân bay Heathrow, John Bedford, khai rằng mình nhìn thấy hai cái va li đã được chất thêm vào thùng để lên chuyến bay 103.

Vụ nổ xảy đã ra tại chính nơi để những hành lý này, bên trên 1 lớp hành lý mà Bedford đã đóng gói vào thùng.

Nhưng còn một khả năng khác rất sốc về cách bom đã được đưa lên máy bay.

Các phần tử bên trong CIA vào thời điểm này đang cho phép giới con buôn Trung Đông vận chuyển ma túy sang Mỹ để đối lấy sự giúp đỡ trong việc giải thoát con tin Mỹ.

Một số nguồn tin, gồm cả giới điều tra bảo hiểm của Pan Am, tin rằng điều này đã xảy ra trên chuyến bay 103.

Nếu như vậy, hành lý với các loại ma túy sẽ được bảo vệ bởi tình báo Mỹ. Hạn chế an ninh và kiểm tra hành lý thông thường sẽ bị gỡ bỏ.

Điều này được củng cố bởi thực tế là hai lượng lớn những thứ dường như là heroin đã được tìm thấy tại hiện trường - một trên sân golf Lockerbie và cái khác trong một chiếc vali được phát hiện bởi một người nông dân ở vài vài dặm về phía đông. Những sau đó chúng đã biến mất.


Có một nhóm các sĩ quan Mỹ thuộc Cơ quan Tình báo quân sự (DIA) trên chuyến bay Pan Am, đứng đầu là đại tá Charles McKee, trở về sau nhiệm vụ giải cứu con tin thất bại ở Lebanon.

Người ta nói rằng McKee đã lên kế hoạch để tố cáo vụ lừa đảo về ma túy khi trở về Washington.


Loại bom nào được sử dụng?

Nguyên nhân chính thức vụ nổ được cho là liên quan đến một quả bom có bộ hẹn giờ thông thường đã thực hiện một hành trình phức tạp qua các sân bay ở Malta, Frankfurt và London, nó được đặt để làm nổ máy bay vào phút thứ 38 của chuyến hành trình thứ ba.

Một số nhà bình luận cho rằng dường như có khả năng hơn là quả bom đã được điều khiển bằng công tắc áp suất – nó có thể đã phát nổ giữa phút thứ 32 và 42 của chuyến bay.

Bằng chứng cho điều này xuất phát từ điều tra ban đầu vào vụ đánh bom.


Đường hướng của Anh và Mỹ, của cơ quan tình báo ngay sau vụ tấn công là đánh bom được thực hiện không phải bởi người Libya, mà bởi một nhóm có trụ sở ở Syria.


Nhóm này đã được thuê bởi Iran để trả thù việc bắn hạ một máy bay dân sự của họ bởi một tàu chiến Mỹ vào mùa hè năm 1988.

Trong những tháng trước vụ đánh bom có một nhóm kết hợp với chỉ huy Mặt trận Giải phóng Nhân dân Palestine đã bị bắt giữ ở Frankfurt, Đức.


Lãnh đạo của nhóm này là Ahmed Jibril, người được bảo vệ bởi chính phủ Syria.


Các nhà điều tra đã không nghi ngờ gì rằng những quả bom được tìm thấy trong cuộc đột kích ở Frankfurt nhằm vào nhóm này, là được thiết kế để làm nổ tung máy bay.


Chúng được trang bị công tắc áp suất, đóng gói bên trong chiếc cassette Toshiba và ít nhất 1 trong số chúng đã không được thu hồi.


Kẻ bị kết tội chế tạo bom, Marwan Khreesat, đã được miễn trừ truy tố vì vụ đánh bom Lockerbie.



Chính sách ngoại giao phương Tây đóng vai gì?

Ngay sau vụ đánh bom Lockerbie, các cáo buộc chống lại nhóm này là phù hợp với chính sách ngoại giao Anh – Mỹ.

Cả hai đã cắt đứt quan hệ với Syria. Cuộc chiến giữa Iraq và Iran đã kết thúc vào mùa hè năm 1988 với Anh và Mỹ đứng về phía Iraq.

Nhưng sự liên kết chính trị này sớm thay đổi. Tháng 4 năm 1989 quan chức cao cấp trong CQ George Bush khuyến khích Margaret Thatcher không tiếp tục theo đuổi điều tra mối liên quan Syria-Iran.

Một năm sau đó, quân đội Mỹ và Anh chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào lực lượng chiếm đóng của Saddam Hussein tại Kuwait.

Liên minh rất cần quân đội từ quốc gia Ả Rập và Iran duy trì sự trung lập. Binh lính được tạo điều kiện 1 cách thuận lợi từ Syria.

khi liên minh chính trị trong khu vực đã thay đổi, cuộc điều tra chính thức vào thảm họa Lockerbie, do đó cũng cần thay đổi.

Tháng 11 năm 1991, chính phủ Anh và Mỹ thông cáo rằng Megrahi và Fhimah bị buộc tội âm mưu đánh bom làm rơi Pan Am 103.

Libya đã phải giao nộp Megrahi để xét xử sau khi kháng cự một số năm - với điều kiện dỡ bỏ lệnh trừng phạt, làm họ chịu tổn hại đến 30 tỷ USD.

Còn khi phương Tây muốn đưa Libya trở lại vào vòng tay ngoại giao và lòng mong mỏi của các hãng dầu phương Tây kiếm tiền ở đất nước này hội tụ, đã có một tái định hướng xa hơn về quan hệ để đảm bảo thương mại thuận lợi.

Đó là bối cảnh mà trong đó Megrahi đã được thả vì "lý do nhân đạo".

Đã có sự che đậy?

Đại diện thân nhân Anh của các nạn nhân Lockerbie,  gồm cả Martin Cadman, đã gặp Ủy ban của TT Mỹ về an ninh hàng không và khủng bố vào năm 1990.

Cadman nói: "Sau những gì đã có chúng tôi cần phải có lời, khi cuộc gặp đã đến lúc chia tay, và chúng tôi đi ra cửa. Khi đến đó, tôi thấy mình đang nói chuyện với 2 thành viên của ủy ban - Tôi nghĩ rằng họ là thượng nghị sĩ.

"Một trong số họ nói: "Chính phủ của các ông và chính phủ của chúng tôi biết cái gì đã xảy ra tại Lockerbie. Nhưng họ không nói để ông biết." "



Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...