CNXH cho "tỷ phú vàng" hay cho ai?

"Hôm nay tôi trở thành thành viên của hàng ngũ Mason [1]. Tôi thấy sự giàu có và quyền lực mà họ có, thấy sức ảnh hưởng mà họ nắm giữ, và tôi thấy thích thú khi coi nghi lễ của họ, một số lớn người có thể hiến dâng mình cho thứ mà đôi khi có vẻ như là nghi lễ vô nghĩa và nhảm nhí không có nội dung và hồi kết. Ý tưởng chập chờn nhảy múa trước mắt, khi chẳng nắm bắt được cái gì, ít nhất là định hình 1 kế hoạch. Tại sao họ không xây dựng hội bí mật với chỉ 1 mục đích: mở rộng Đế chế Anh và chinh phục mọi nền văn minh thế giới vào dưới sự cái quản của nước Anh cùng với việc khôi phục Liên hiệp Mỹ để tạo ra chủng tộc Đế chế Anglo-Saxon duy nhất".

 

Những lời này được viết bởi Cecil John Rhodes trong sách "Thú nhận tín ngưỡng - Recognitions of Belief" năm 1877, ông ta vạch kế hoạch riêng của mình để gia nhập vào hội trật tự thế giới mới. Rhodes là thành viên Hội Fabian [2] Anh, hội này được chu cấp tài chính khổng lồ từ nhà công ty De Beers buôn bán kim cương có những mỏ lớn ở châu Phi và hiện chiếm 90% thị trường kim cương thế giới mà Rothschild hùn vốn và sở hữu còn Rhodes là người sáng lập. Hội Fabian được thuyết phục rằng, CNXH [3] toàn cầu là không thể tránh được và sẽ có 1 thời kỳ khó khăn, đau đớn để loài người chuyển sang Trật tự thế giới mới trong tương lai gần.

 

"Một số lượng không tính đếm được những người sẽ không thích Trật tự thế giới mới và chết khi chống lại nó. Khi chúng ta tiến hành thử nghiệm đánh giá hứa hẹn này, chúng ta cần chú ý đến thảm họa của gần như toàn bộ thế hệ bất bình, nhiều trong số đó trông lịch sự và đáng yêu". Đó là 1 đoạn của G. Wells, hội viên hội Fabian viết trong sách "New World Order".

 

Sứ mệnh công khai của hội XHCN Fabian là mở rộng Đế chế Anh ra toàn địa cầu dưới sự kiểm soát của Trật tự thế giới mới. Quá trình chuyển đổi sang một chính phủ thế giới duy nhất theo kế hoạch của những kẻ ủng hộ ý tưởng này sẽ được thực hiện dần dần, để không khơi dậy sự ngờ vực, để những ý tưởng thật sẽ được đưa ra công chúng cho đến khi nào hệ thống được thiết lập đầy đủ. Biểu tượng chính thức của hội này là một con đồi mồi, đại diện cho một sự thay đổi dần dần chậm chạp đến một chính phủ thế giới duy nhất và cần thiết, để công chúng sẽ không phẫn nộ. Fabian vẫn hoạt động tận ngày nay, dưới nhiều hình thức và cái vỏ mới.

 

Trước khi chết năm 1902, Rhodes đã quyên góp tài sản của mình, theo lệnh Rothschild lập quĩ chương trình học bổng tại ĐH Oxford Anh để hoàn thành ý tưởng của hội Fabian. Trong thế kỷ 20 qua, có 4600 thanh niên từ Anh, Mỹ và Đức học tập tại Oxford với tài trợ học bổng của Rhodes với mục đích làm quen với lý thuyết CNXH và Chính phủ thế giới, để rồi chúng kêu gọi hiện thực hóa mục đích này. Một số lượng trong số 4600 đó đang điều hành Chính phủ Mỹ, tòa án Mỹ, các cartel nhà băng quốc tế, ban quản trị các tập đoàn lớn, NGO, truyền thông, cả Liên hiệp quốc… Một số khác nắm các trường ĐH lớn ở EU, một số khác nữa trở thành thuyết khách trong cái gọi là “Hội nghị bàn tròn” quốc tế. Một nhân vật điển hình trong số đó là Bill Clinton.

 

Hội nghị bàn tròn là mô hình ngoại giao đàm phán hiện đại ngày nay. Hội nghị Paris 1973 là 1 điển hình của nó. Các bên tham gia ngồi quanh chiếc bàn đúng hình tròn trong phòng họp lớn. Tuy nhiên, ngoại trừ VN, số còn lại có thể gọi là “Nhóm bàn tròn”, 1 khái niệm rất không thông thường không chỉ có Mỹ, dù nhiều tổ chức và thành phần tham gia thì nhìn chung, vẫn là mô hình Fabian. Hội này đã là thành viên của những Hội nghị bàn tròn đầu tiên cho đến nay, còn tổ chức và thành phần thì dù nhiều, nhưng chủ yếu vẫn là những tổ chức được tạo ra và cung cấp tài chính từ những chủ nhân Trật tự thế giới mới – những đứa con đẻ của Khai sáng - Illuminati, hội kín của nhà Rothschild đầu thế kỷ 18. Dưới đây là các tổ chức của “Nhóm bàn tròn (tôi để nguyên tên tiếng Anh để ai đó tiện tra cứu):

 

1- The Royal Institute of International Affairs hay Chatham House (Viện Hoàng gia quan hệ quốc tế của Anh quốc) thành lập 1919;

2- Council on Foreign Relations (Hội đồng quan hệ quốc tế, phiên bản Mỹ của Viện quan hệ quốc tế Hoàng gia Anh) 1921;

3- United Nations (Liên hiệp quốc) thành lập sau WW-2 năm 1945, tiền thân là League of Nations (Hội quốc liên) thành lập sau WW-1 1920;

4- Bilderberg Club (Câu lạc bộ Bilderberg) 1954,

5- Roman Club (Câu lạc bộ Roma) 1968;

6- Tripartite commission (Ủy ban 3 bên), Rockefeller thành lập năm 1973;



Chỉ cần phân tích kỹ hoạt động của hội Fabian và những gì Rhodes tự thuật trong "Thú nhận tín ngưỡng” thì chúng ta thấy di sản ngày nay của “Hội nghị bàn tròn” giống như 1 phiên bản “Người đẹp và quái thú - Beauty and the Beast”. Bạn đừng hy vọng sắc đẹp sẽ thức tỉnh quái thú hay đánh thức lương tâm, hoặc giúp nó lột xác gì đó. Hãy hy vọng nhỏ bé và thực tế hơn: người đẹp kịp rời bàn trước khi bị quái thú xơi tái!

 

Cái CNXH khai hóa văn minh cho thuộc địa của thực dân Anh của Fabian rất ngược. Ngày nay nó ngược với chính quê nhà. Nếu sống ở Anh những thập kỷ trước, có lẽ bạn đã đọc dòng chữ quảng cáo dán đâu đó như trên bót điện thoại công cộng: "Cảm thấy nước ngoài như ở quê nhà!”. Giờ, khi bạn đứng ở thủ đô London thấy ngược lại. Mở TV, hay bật radio, chẳng hạn đài "Love Radio", trên đó các danh tiếng Hoàng gia đang cất giọng Anh nhưng tầm thường thô bỉ làm sao. Những gì bạn thấy sẽ ngược lại, “Ở nhà cảm thấy như nước ngoài”.

 

Đó là người Anh da trắng đã bị thuần hóa nửa thiên niên kỷ. Còn ở LX, mô hình ngoại lai đã gây sụp đổ đất nước sau chưa đầy 1 thế kỷ bởi nó không thích hợp với người Nga, không là ý chí nguyện vọng của họ mà còn nô dịch họ. Họ ghét bỏ nó, họ không chịu nô dịch thêm nữa, nó sụp đổ.

 

Vậy thì chúng xây “CNXH” như thế nào? Đó không phải là chúng lo lắng cho hạnh phúc của quần chúng hay tình hữu nghị của các dân tộc, không phải như chúng tự phong là “dân tộc được Chúa chọn” để được ca tụng như “lãnh tụ của giai cấp vô sản” hay để biện hộ cho hành động thú tính mấy thế kỷ qua.

 

Đó không phải là chúng dựng lên những cartel nghìn tỷ và những tập đoàn khổng lồ vì phúc lợi của dân chúng. Hai cuộc thế chiến tàn khốc và hàng chục cuộc xâm lược thế kỷ 20 là không thể bị nhầm lẫn. Cũng không thể nhầm lẫn chúng tiếp tục gây chiến nữa vì lợi ích của chúng, mục tiêu của chúng Trật tự thế giới mới. Mọi thứ đáng tiếc đang diễn biến theo đúng kế hoạch chúng đã vạch ra - NWO.

 

Nói cách khác: Thế giới này vẫn hoang dã gần như nguyên vẹn từ lúc nó được tạo ra. Mọi thứ vẫn nguyên như vậy, chia rẽ, chinh phục và bị chinh phục. Có những vì sao long lanh cao xa trên trời, bên trên đầu bạn, bạn ngắm nhìn nó và ước vọng, nhưng vĩnh viện không bao giờ với tới được – đó chỉ là ảo giác mơ mộng.

 

Cho đến khi nào còn chưa vực dậy Tinh thần dân tộc, khi đó sẽ còn những kẻ vô lại khoác áo CS ăn chơi sa đọa và sẵn sàng bán nước y chang chế độ xưa, Vấn đề còn lại là không có nhiều thời gian, cũng không thấy lực lượng. Dân tộc này đã nhiều lần đứng lên giành lấy độc lập tự do, chẳng nhẽ lần này số phận đã an bài?!

 

Ghi chú:

[1] Mason, hiệp hội thợ nề;

[2] Hội Fabian là một tổ chức XHCN lâu đời ở Anh quốc, hội này thành lập từ năm 1884 với mục đích đưa ra những ý tưởng Xã hội chủ nghĩa qua chủ trương Cải tổ và tiến dần. Công đảng Anh ngày nay vẫn mang ý tưởng XHCN của hội này. Hội Fabian ủng hộ chính sách mở rộng Đế chế Anh bằng chủ nghĩa thực dân cai trị thuộc địa để Đế quốc Anh văn minh tiến bộ khai hóa cho họ tiến lên CNXH.

[3] CNXH, trừ vài bộ lạc còn sót lại ở rừng rậm Amazon, loài người sống thành xã hội, thứ có rất nhiều mô hình và khái niệm khác nhau trời vực, từ triết gia Hy lạp Platon đến CNXH không tưởng Pháp cho đến quá độ lên CNCS gọi là CNXH Lenin.


Lịch sử bộ giáo pháp Leningrad – Khi kinh Torah được sùng bái thờ phụng?

 Đừng quên cuộc chiến tôn giáo hàng nghìn năm!

 

Chúng tôi đã viết về bản viết tay Leningrad, thứ xuất hiện lạ lùng Nga và về văn bản Bộ luật (qui tắc, codex) Sinai, thứ đã rơi trúng chúng tôi cũng không ít lạ lùng trong thế kỷ 19, khi Nga bước đầu buộc phải tiếp nhận kinh Cựu ước như sách thánh.

Việc tạo ra và và hoạt động mạnh của Hiệp hội Kinh thánh để xuất bản và phổ biến Cựu ước đã bị Nicholas I đàn áp, sau đó quá trình này đã bị hủy hoại trong 30 năm. Nhưng quá trình kích thích không thể dừng lại, và áp lực lên xã hội vẫn tiếp tục. Thế rồi thật bất ngờ, một bản thảo của Kinh thánh tiếng Do Thái, mà Firkovich tìm thấy xuất hiện ở Nga:

 

“Leningrad Codex là bản sao lâu đời nhất của văn bản Cựu Ước được bảo tồn đầy đủ bằng tiếng Do Thái. Và mặc dù có rất nhiều bản viết tay cũ có chứa các sách Kinh thánh hoặc các mẩu rời của chúng, nhưng không có bản thảo nào chứa toàn bộ Cựu ước. Bộ luật Leningrad được coi là một trong những phiên bản tốt nhất của văn bản Masoretic. Bản thảo được viết vào khoảng năm 1010 SCN, có thể là ở Cairo, và sau đó được bán cho Damascus. Từ giữa thế kỷ 19, nó đã nằm trong Thư viện Công cộng Nhà nước Nga. Saltykov-Shchedrin ở St. Petersburg. (…)

 

Bản viết tay thuộc về nhóm văn bản Do Thái gọi là Masoretic. (…)

Tầm quan trọng của Bộ luật Leningrad nằm ở chỗ ngày nay nó là cơ sở cho hầu hết các ấn bản Cựu ước được in bằng tiếng Do Thái (hoặc Kinh thánh tiếng Do Thái), vì nó là bản thảo cổ nhất chứa văn bản Masoretic được chấp nhận rộng rãi” (§1).

Abraham Samuilovich Firkovich (1786-1874) là một nhà văn và nhà khảo cổ học người Karaite. Năm 1839, một hiệp hội lịch sử và cổ vật được thành lập ở Odessa, và Firkovich được giao trọng trách sưu tập cổ vật Karaite. Sau hai năm lang thang ở Crimea, Caucasus, cũng như ở Palestine và Ai Cập, Firkovich đã biên soạn được một bộ sưu tập phong phú các cuốn sách cổ, bản thảo và bản khắc trên bia mộ, trong đó có bản viết tay đáng chú ý nhất của Cựu ước được tìm thấy ở Chufut-Kala.

Tất nhiên, khó để chứng minh bản thảo này được chế tác vào thế kỷ 11 mà không phải là đồ giả của thế kỷ 19, nhưng tuy nhiên, nó làm cơ sở cho hầu hết các ấn bản Cựu Ước đã in.

Không kém phần thú vị là câu chuyện về sự xuất hiện của Sinaiticus Codex ở Nga. Đây là lịch sử khám phá ra nó (§2):

“Năm 1844, khi đi tìm những bản thảo cổ, học giả trẻ người Đức Konstantin von Tischendorf đã đến tu viện St. Catherine trên núi Sinai. Ông là một người tìm kiếm không mệt mỏi các bản thảo cổ để khôi phục văn bản gốc của Kinh thánh Tân Ước. Trong một bức thư gửi cho vị hôn thê của mình, Tischendorf viết: "Tôi có mục tiêu thiêng liêng là tái tạo hình thức thực của văn bản Tân Ước". Trong tu viện St. Catherine lúc đó có ba thư viện, nằm trong ba phòng riêng biệt, và theo Tischendorf, có khoảng 500 bản thảo cổ. Tuy nhiên, ông viết trong nhật ký của mình rằng ông không tìm thấy bất cứ điều gì liên quan đến giai đoạn đầu hình thành văn bản Tân Ước.

Các sự kiện khác được các nhà viết tiểu sử dựng lại từ nhật ký của Tischendorf. Một ngày nọ, khi đang làm việc trong thư viện chính của tu viện, ông thấy một giỏ đựng đầy những tờ bản thảo cổ. Nhà khoa học đã xem xét các giấy tờ - đó là một bản sao cổ của Septuagits, được viết bằng một kiểu chữ đẹp. Một tu sĩ thủ thư đến gần và nói rằng đã đốt hai chiếc giỏ như vậy và cũng nên đốt những thứ bên trong giỏ này, Tischendorf đề nghị không nên làm như vậy, vì giá trị của bản thảo cổ.

Có 43 tờ trong giỏ và nhà khoa học tìm thấy thêm 86 tờ cùng bộ trong thư viện. Theo nội dung, đó là: sách của vị Vua thứ nhất, sách Tiên tri Jeremiah, sách Ezra và Nehemiah, sách Tiên tri Isaiah, sách Maccabean quyển 1 và 4. Trong tu viện, Tischendorf được phép lấy 43 tờ, sau đó ông đã xuất bản ở Đức. Codex được đặt tên là "Frederico-Augustin" để vinh danh Vua Sachsen, người đã bảo trợ cho nhà khoa học vào thời điểm đó. Sau đó, Tischendorf đến thăm Sinai hai lần nữa, lần thứ ba dưới sự bảo trợ của Nga, dẫn đến việc xuất bản văn bản hoàn chỉnh của bộ Sinaiticus Codex vào năm 1862 với tiêu đề “Codex Bibliorum Sinaiticus Petropolitanus”, được giải mã dưới sự bảo trợ của Sa hoàng Alexander II, chuyển về Châu Âu và xuất bản vì lợi ích và vinh hiến hơn cho giáo lý Chính thống giáo nhờ tác phẩm của Konstantin Tischendorf.

 

Có nhiều câu hỏi hơn câu trả lời ở đây, ví dụ, tại sao không đưa ra bản thảo đầu tiên? Tại sao bỗng nhiên Nga phải bảo trợ và giữ bản Codex? Vân vân.

Nhà khoa học bách khoa toàn thư N. A. Morozov, người có công trình trở thành cơ sở cho những người yêu thích lịch sử thay thế và niên đại mới, có quan điểm riêng về các hoạt động của Tischendorf. Tischendorf đã mang một bản chép tay Kinh thánh từ Sinai về và in nó vào năm 1862 như một tài liệu của thế kỷ thứ 4. Morozov cho là Tischendorf đã chuyển một cách đặc biệt các bản thảo đến thư viện Nga, nơi xa các trung tâm văn hóa châu Âu vào thời điểm đó, điều này gây khó khăn cho các nhà khoa học châu Âu khi để tham gia và vạch trần trò lừa đảo của ông ta. Morozov đã tự mình kiểm tra Sinaiticus Codex và thấy rằng (§3):

“Các tấm da của tài liệu này hoàn toàn không bị sờn ở các góc dưới, không dính nhờn và không bị vấy bẩn các ngón tay, giống như khi được sử dụng trong hàng nghìn năm để làm lễ bởi các tu sĩ Sinai, những người không khác gì tất cả những tu sĩ phương Đông, không phải lúc nào cũng ưa sạch sẽ. ... Trong khi các tấm da ở giữa lại hoàn toàn mới (theo nghĩa không bị hỏng và không bị bẩn), chỉ tất cả các tờ đầu tiên và cuối cùng bị rách ra và thậm chí bị mất... Tình trạng bên trong của tấm da bản Sinaiticus Codex với tôi dường như đặc biệt thú vị. Các tấm da của nó rất mỏng, được gia công hoàn hảo và điều nổi bật nhất là vẫn giữ được độ mềm dẻo của chúng, hoàn toàn không bị trở nên giòn (như dấu vết thời gian)! Và tình trạng này rất quan trọng để xác định chúng là cổ vật.

Khi chúng tôi gặp vấn đề với các tài liệu đã thực sự tồn tại cả nghìn năm, ngay cả trong điều kiện khí hậu tốt nhất, thì thông thường, chỉ cần chạm nhẹ vào tấm da của chúng, chúng sẽ bị vỡ vụn ra thành những mảnh nhỏ, như thể chúng tôi chạm vào tro của một cuốn sách, không thể không nhận thấy sự mủn rữa do tác động của oxy trong khí quyển... Tình trạng hoàn hảo của các tấm da bên trong Sinaiticus Codex khi mà các dấu vết rõ ràng là do xử lý bất cẩn của các tu sĩ, người đã xé rách mối buộc của nó và làm rách các tấm da bên ngoài, chỉ có nghĩa bản viết tay này được đem đến cho họ từ một ai đó ưa thích các bản mẫu tôn giáo là cổ vào thời điểm đó, khi mà các mẫu mới đã được sử dụng, tức là sau thế kỷ thứ 10. Bên trong nó không bị hư hỏng khi đọc liên tục, có lẽ chính xác là vì họ đã mất thói quen đọc một pháp thư như vậy và thích bút pháp mới hơn. Chỉ từ đó, bản thảo được lưu giữ ở Sinai cho đến khi Tischendorf tìm thấy nó ở đó.

Morozov cũng có ý kiến về bản Leningrad Codex do Firkovich tìm thấy:

“Tôi đã xem xét tài liệu của cuốn sách này và đi đến kết luận tương tự về chất lượng của nó cũng như cuốn Sinaiticus Codex mà tôi đã có ý kiến: các tấm da của nó quá mềm dẻo so khác thường với thời cổ đại”.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tin vào Tischendorf và sự chân thành trong hành vi của ông ta, vì ông ta đặt mục đích tìm kiếm một cuốn Tân Ước đích thực? Điều xảy ra là thế này: không có Tân Ước đích thực vào thời điểm đó? Hóa ra không phải vậy. Một nhà khoa học trẻ vào giữa thế kỷ 19 đã tìm hiểu vấn đề này và đưa ra kết luận (hoặc ai đó gợi ý), không có bản viết tay xác thực của Tân Ước ở châu Âu, nhưng chắc chắn có ở Sinai. Nhưng các tác giả của dự án Kinh thánh vốn đã ít quan tâm đến Tân Ước, còn khi có thể sử dụng nhà khoa học có thiện chí cho mục đích riêng của họ, thì điều này đã nhanh chóng thành hiện thực. Việc tìm kiếm Tân Ước đã dẫn đến một kết quả hơi khác: tìm thấy Cựu Ước trong sọt đựng rác.

Và tại sao các tu sĩ lại ném bản thảo vào sọt rác? Không có cách nào giải thích hơn là họ mù chữ.

Tu viện St. Catherine, mặc dù nằm ở Ai Cập, là tu viện Chính thống giáo và các tu sĩ Hy Lạp sống ở đó. Nếu họ vứt bỏ bản viết tay Cựu Ước, thì điều này có nghĩa là vào thời điểm đó bản viết tay này vẫn chưa thuộc về các văn bản Thánh kinh.

Tạp chí Pravoslavnoye Obozreniye (§4) số 9 năm 1862 đã xuất bản một bài viết: “Thông báo kỳ lạ của Simonides (§5) về Sinaiticus Codex”, mang lại một số điều rõ ràng cho vấn đề này. Hãy xem nó đầy đủ.

“Có một thông báo kỳ lạ trên tờ báo tiếng Anh “Guardian” về Sinaiticus Codex. Nó thuộc về Simonides nổi tiếng, một nhà nghiên cứu chữ cổ và buôn bán các bản thảo cổ đáng ngờ; họ viết rằng bản Code do Tischendorf phát hiện không thuộc thế kỷ thứ 4, mà là vào năm 1839 SCN, và được viết bởi chính ông ta! “Vào cuối năm 1839, ông ta nói, chú của tôi, tu viện trưởng St. Panteleimon tử vì đạo ở Athos, Benedict, muốn mang một món quà xứng đáng cho Hoàng đế Nga Nicholas I vì những gì ông ấy đã quyên góp cho tu viện”.

 

Vì không có một đồ vật nào có thể coi là tử tế cho mục đích này, ông ta đã nghe lời khuyên của Procopius và tu sĩ Pavel người Nga, và họ quyết định rằng tốt nhất là nên viết Cựu ước và Tân ước, giống như các bản mẫu cũ, với chữ viết tay trên tấm da. Bản sao này, cùng với các đoạn trong "Bảy tông đồ"; Barnabas, Hermas, Clement of Rome, Ignatius, Polycarp, Papias và Dionysius Areopagite, được đóng bìa lộng lẫy, được dùng làm quà tặng nhà nước, thông qua một bàn tay thân thiện.

Họ đề nghị Dionysius, thư ký của tu viện, bắt tay vào công việc; nhưng ông ta không chịu thấy khó cho mình. Kết quả là, tôi quyết định tự mình thực hiện nó, vì người chú thân yêu của tôi, rõ ràng, rất mong muốn điều này. Khi so sánh các bản thảo quan trọng nhất được lưu giữ Athos, tôi bắt đầu luyện tập các thủ pháp chữ viết tu viện cũ, còn người chú uyên bác của tôi đã so sánh bản copy Moscow của cả hai bản Di huấn (nó được xuất bản bởi anh em nổi tiếng Zosimas và tặng cho người Hy Lạp) với một số bản thảo cũ, đã được sửa lỗi của nó trên cơ sở những bản cuối cùng khỏi nhiều sai sót và giao cho tôi để chép lại.

Với hai bản Di huấn đã được sửa lỗi này (tuy nhiên, cách viết cũ vẫn được giữ lại), tôi không có đủ da tấm, và với sự cho phép của Benedict, tôi đã lấy từ thư viện của tu viện một quyển sách rất dày, gần như chưa viết, trong đó các tấm da được bảo quản rất tốt và rất phù hợp cho công việc. Cuốn sách này rõ ràng đã được làm bởi thư ký hoặc trụ trì tu viện, trước vài thế kỷ, cho những mục đích đặc biệt; trên đó có dòng chữ "tuyển tập những lời khen ngợi" và trên một tờ là một bài phát biểu ngắn, đã bị hư hỏng do thời gian. Tôi lấy đi tấm da có bài phát biểu cũng như một số tờ khác bị hư hỏng, và bắt đầu làm việc. Đầu tiên, tôi chép Cựu ước và Tân ước, sau đó là thông điệp của Banaba và phần đầu của Hermas.

Tôi tạm gác các sáng tác còn lại còn lại, vì các tấm da của tôi đã hết sạch. Sau đó là tổn thất nặng nề đối với tôi, cái chết của chú tôi, tôi quyết định giao tác phẩm của mình cho người đóng gáy sách của tu viện, để ông đóng bản thảo trong những tấm bìa da, vì tôi đã tách các tấm da cho tiện làm, và khi ông ấy đóng gáy, cuốn sách thuộc quyền sở hữu của tôi. Một thời gian sau, khi tái định cư ở Constantinople, tôi đã cho các Thượng phụ Anfimus và Constantius xem tác phẩm và giải thích cho họ biết mục đích của nó. Konstanty tự mình cầm lấy nó, xem xét và yêu cầu tôi giao nó cho thư viện của tu viện Sinai, để họ hoàn thành cho tôi. Ngay sau đó, theo yêu cầu của cả hai Giáo trưởng, tôi đã vinh dự nhận được sự bảo trợ của Nữ bá tước lừng lẫy Etleng và anh trai của bà A. S. Sturdza; nhưng trước khi lên đường đến Odessa, tôi lại một lần nữa đến đảo Antigone thăm Constantius và cuối cùng giải thích lời hứa chuyển bản thảo đến thư viện của tu viện Sinai. Nhưng Giáo trưởng đi vắng và tôi đã để lại cho ông ấy một cái túi với lá thư. Khi trở về, ông đã viết một bức thư như sau cho tôi (bức thư nói rằng bản thảo đã được chấp nhận). Khi nhận được bức thư này, tôi lại đến thăm Giáo trưởng, ông cho tôi những lời khuyên có ích của người cha mà gửi thư cho Sturdza; Tôi trở lại Constantinople, và từ đó đến Odessa vào tháng 11 năm 1841.

 

Trở lại Constantinople năm 1846, tôi ngay lập tức đến Antigone để thăm Constantius và trao cho ông ấy một gói lớn các bản viết tay. Ông ấy đã tiếp đón tôi với lòng nhân từ lớn, và chúng tôi đã nói về nhiều điều và, trong số những điều khác, là về bản thảo của tôi; ông ấy thông báo với tôi rằng cách đây một thời gian ông ấy đã gửi nó đến Sinai. Năm 1852, tôi xem một bản thảo ở Sinai và hỏi người thủ thư làm cách nào mà tu viện có được nó? Nhưng ông ta dường như không biết vấn đề gì cả, và tôi cũng không nói với anh ta điều gì. Khi kiểm tra bản thảo, tôi thấy nó có vẻ cũ hơn nhiều so với mong đợi. Lời hiến tặng cho Hoàng đế Nicholas ở đầu cuốn đã bị xé bỏ. Sau đó, tôi bắt đầu nghiên cứu ngữ văn của mình, vì có rất nhiều bản thảo quý giá trong thư viện mà tôi muốn xem qua. Trong số những thứ tìm thấy, có linh mục chăn cừu của Hermas, Phúc âm Matthew và bức thư gây tranh cãi của Aristaeus gửi Philoctetes; tất cả chúng đều được viết trên giấy cói Ai Cập từ thế kỷ thứ nhất. Tôi đã thông báo cho Constantius và người rửa tội của tôi là Callistratus ở Alexandria về tất cả những điều này.

Đây là một tường trình ngắn gọn và rõ ràng về giáo pháp của Simonides, bản mà giáo sư Tischendorf ở Sinai đã cầm đi, tôi không biết tại sao; sau đó nó được gửi đến St. Petersburg và phát hành ở đó với tiêu đề Sinaiticus Codex. Khi nhìn bản chụp của Tischendorf cho ông Newton ở Liverpool lần đầu tiên 2 năm trước, tôi lập tức nhận ra ngay tác phẩm của mình và ngay lập tức thông báo cho ông Newton về nó”.

Simonides kết luận bằng cách chỉ ra một số nhân chứng sống, những người đã nhìn thấy và thậm chí đọc lại đoạn codex; ông ta giải thích rằng những sửa đổi trong bản viết tay một phần thuộc về chú Benedict, một phần thuộc về Dionysius, người một lần nữa muốn viết lại codex, và là người nắm các ký hiệu thư pháp. Ông ta cam kết chứng minh tất cả điều này một cách chi tiết. Bản thân Simonides cũng đánh một số dấu hiệu ở lề và trong tiêu đề để chỉ ra các bản thảo mà ông đã biến thể từ đó. Nhưng Tischendorf đã phát minh ra những giả thuyết kỳ lạ nhất để giải thích những dấu hiệu này. Simonides nhớ rất rõ hai vị trí trong bản thảo, mặc dù ông ta đã không gặp lại nó trong vài năm, chỉ điều này thôi đã có thể chứng minh tác giả của bản thảo này là ai.

Trong câu trả lời của mình, Tischendorf, như người ta mong đợi, cáo buộc Simonides là bịp bợm. Bài báo đã dẫn bên trên xác nhận kết luận của Morozov về tính cổ xưa của các bản thảo được tìm thấy trong tu viện St. Catherine, và xác nhận kiến giải của ông rằng đó là giả. Năm 1933, Sinaiticus Codex ban đầu được bán ở Anh với giá 100.000 rúp, điều này khiến các nhà nghiên cứu trong nước gần như không thể làm việc với nó, kể cả việc trả lời câu hỏi về niên đại chính xác của nó. Điều này rất quan trọng liên quan đến việc giải quyết vấn đề "không tìm thấy để kết thúc"...

Dưới đây là một số trích dẫn trong câu chuyện “Tischendorf trong tìm kiếm Tân Ước Chân chính” (§6):

“Ngay cả trước khi được thụ phong, ông ấy đã đặt mục tiêu chắc chắn cho mình là chứng minh tính xác thực của kinh Phúc âm và khôi phục văn bản Phúc âm thiêng đầu tiên”.

 “Giờ đây, ông coi việc tập trung vào các văn bản liên quan đến 5 thế kỷ đầu của Chính thống giáo là nhiệm vụ quan trọng nhất. Ông lập luận một cách thuyết phục rằng chỉ bằng cách này, mới có thể tiếp cận văn bản cổ hơn Tân ước Byzantine đã được chính thức "phê duyệt", mà ông coi đó chẳng qua là một phiên bản giả mạo, phái sinh”.

 

"… Những gì phiên bản đầu tiên còn giữ cho chúng ta biết về lời gốc của các sứ đồ?"

“Tuy nhiên, Tischendorf vẫn quyết định xem xét kỹ hơn các bản thảo. Trước mặt ông là những trang giấy da viết bằng chữ thư pháp, mỗi trang có bốn cột văn bản. Đó là bản sao Cựu ước Hy Lạp - bản "Septuagint", xét theo phong cách viết, nó tỏ ra với Tischendorf dường như là bản cổ xưa nhất mà ông từng thấy: “Tôi đã nghiên cứu tất cả các bản viết tay Hy Lạp cổ nhất trong các thư viện châu Âu, và nghiên cứu chúng một cách kỹ lưỡng nhất, với mục đích đặt nền móng cho một nền cổ tự học Hy Lạp mới”. Một số trong số chúng, chẳng hạn như một phần của Kinh thánh Vatican, tôi đã sao chép bằng chính tay của mình. Có lẽ không ai xa lạ với cách viết chữ Hy Lạp cổ đại như tôi. Và tôi chưa thấy bất kỳ bản thảo nào có thể được coi là cổ hơn những tấm da Sinai này”.

“Tuy nhiên, vì ông bị tước mất phương tiện riêng, không giống như bất kỳ quý tộc Anh nào, và không có sự hỗ trợ đắc lực của Bảo tàng Anh, ông phải tìm những người có cùng chí hướng và những người bảo trợ hào phóng”.

Và những người bảo trợ này đã được tìm thấy, với những người cùng chí hướng, "các chủ ngân hàng của Frankfurt và Geneva cũng đến để giúp đỡ", như chính ông ấy đã viết cho hôn thê của mình.

 

Sau khi xem xét các tài liệu được trình bày, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy rằng vào giữa thế kỷ 19, họ không tin vào tính xác thực của các văn bản Tân Ước. Điều này phù hợp với phiên bản của chúng tôi. Tischendorf, với sự chất phác của mình, hy vọng sẽ tìm thấy các phiên bản cũ hơn của sách kinh Phúc âm và đã thực hiện một hành trình đến những địa điểm trong Kinh thánh vì mục đích này, tuy nhiên, lần đầu tiên không thành công. Sau đó, đột nhiên, với tài trợ của các chủ ngân hàng, Tischendorf lên đường đi du lịch và tìm thấy trong thùng rác của tu viện không phải Tân ước, mà là Cựu ước. Tischendorf đã mang một cách gian lận những bản thảo này sang châu Âu (các tu sĩ của tu viện Thánh Catherine ở Sinai có thái độ tiêu cực đối với các hoạt động của Tischendorf, khi họ tìm thấy một biên lai, trong đó Tischendorf hứa sẽ trả lại các bản thảo) và giao chúng cho hoàng đế Nga, vào đúng thời điểm, khi Cựu Ước được dịch sang tiếng Nga ở Nga.

Nhưng để làm cho mọi thứ trông tự nhiên, hoàng đế Nga đã liên hệ trước với vấn đề này. Alexander II đã liên lạc thông qua Bộ trưởng Bộ Giáo dục Công Abraham Norov. Tischendorf đã viết một bức thư cho Avraam Norov, trong đó ông nêu ra những thành tựu của mình trong việc phát hiện ra các bản thảo bị thất lạc và mời người Nga tham gia tìm kiếm các bản thảo liên quan đến lĩnh vực văn học Hy Lạp và lịch sử Byzantine. Bản thân Norov thích du lịch và thậm chí đã viết một cuốn sách về nó (họ biết ai hành động), vì vậy ông ta đã chuyển sang Học viện Hoàng gia ở St. Petersburg. Tuy nhiên, các giáo sĩ Nga không tin con chiên đạo Tin lành Tischendorf của Đức. Vào thời điểm đó, Abraham Norov đã trở thành một cựu bộ trưởng, nhưng vẫn không nguôi ngoai. Đây là trích dẫn từ Sinaiticus Codex (§7):

 

“Tuy nhiên, cựu bộ trưởng vẫn cố tiếp cận với gia đình hoàng gia và lôi kéo anh trai của nhà vua Constantine về phía mình. Một thời gian, nữ hoàng Maria Alexandrovna và nữ hậu góa cùng tham gia vào một âm mưu nhỏ. ... một lệnh ban ra cung cấp cho Tischendorf các khoản tiền cần thiết (bao gồm cả chi phí đi lại và một khoản đáng kể cho việc mua lại). Tất cả những thứ này đã được sứ thần đế quốc ở Dresden trao cho Tischendorf bằng tiền vàng của Nga. Tiền đã được chuyển mà không có bất kỳ cam kết nào bằng văn bản. Họ thậm chí còn không yêu cầu biên lai từ Tischendorf”.

Sau một thời gian, các bản thảo, và sau đó là các bản dịch của chúng, đã được chính hoàng đế chấp nhận, như thế ông đã tham gia vào quá trình này một cách xảo quyệt và cảm thấy mình là kẻ tòng phạm trong vấn đề này. Ấn bản đầu tiên được thực hiện với kiểu chữ trang trọng dưới sự hướng dẫn của chính Tischendorf, với chi phí của Hoàng đế Alexander Nikolayevich vào năm 1862, tại St. Petersburg.

Do đó, một sự giả mạo khác đã xuất hiện ở Nga, nâng từ sự thiếu hiểu biết lên hàng "cổ vật lịch sử", đóng vai trò trao quyền lực cho Cựu Ước và biến nó thành một cuốn sách thiêng liêng.

 

(Về đầu trang)

Chú thích:

-------------------------
(§1) - Дм. Юревич. Лениградский кодекс и его значение.  http://www.sinai.spb.ru/ot/lencodex/lencodex.html.

.
(§2) - Иерей Максим Фионин. ИСТОРИЯ ОТКРЫТИЯ СИНАЙСКОГО КОДЕКСА.
(http://www.mitropolia-spb.ru/).

(§3) - Н. А. Морозов. «Пророки», doverchiv.narod.ru.

(§4) - Журнал «Православное обозрение» за 1862 г. № 9, «Заметки православного обозрения», декабрь 1862, Рубрика: «Заграничные заметки», стр. 162 — 166. rapidshare.com.

(§5) - Палеограф и продавец древних рукописей.

(§6) - «Тишендорф в поисках подлинного Нового завета», www.biblicalstudies.ru.

(§7) - См. «Синайский кодекс», www.biblicalstudies.ru.

 


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...