Các ông chủ Anh-Mỹ đã tổ chức WW-II (tiếp theo và hết)



Ngân hàng thanh toán quốc tế - BIS trở thành công cụ quan trọng của các ông chủ tài phiệt trong thời kỳ WW-II. Nó là tiền đồn châu Âu của giới tư bản Mỹ và đóng vai trò cầu nối giữa 2 giới tư bản Anglo-Saxon và Đức, nó còn là một thứ xuất cảng ngoại độc đáo của giới tư bản toàn cầu, và nó cũng tạo ra cho họ sự che chắn trước những làn gió chính trị, chiến tranh, cấm vận khác nhauMặc dù BIS cơ bản là ngân hàng thương mại công khai, nó lại được miễn trừ khỏi sự can thiệp của các chính phủ và thậm chí miễn thuế cả lúc chiến tranh và thời bình, cũng như được bảo đảm bởi hiệp ước quốc tế ký năm 1930 Hague.

Sáng lập chính của BIS là ngân hàng Cục dự trữ liên bang FED ở New York qua trung gian Morgan, giám đốc Ngân hàng Anh Montagu Norman, các nhà tài chính Đức Hjalmar Schacht và Walter Funk (người sau này thay thế Schacht trong vị trí chủ tịch ngân hàng Reichsbank ), và Emil Pul.

Trong số các sáng lập viên của BIS có ngân hàng TW Anh, Pháp, ý, Đức, Bỉ và một loạt các ngân hàng tư nhân, họ ký kết hiến chương cho BIS. FED tham gia tích cực vào việc thành lập BIS nhưng vì những lý do chính trị nên không làm sáng lập viên. Phía Mỹ ký hiến chương BIS có các nhà băng tư nhân Fyorst Neshnl Bank của New York, J. P. Morgan & Co. và Fyorst Neshnl Bank của Chicago tất cả họ đều nằm dưới đế chế Morgan. Nhật Bản cũng có đại diện là các ngân hàng tư nhân. Trong các năm 1931-1932, có 19 ngân hàng TW châu Âu tham gia liên kết với BIS. Chủ tịch BIS đầu tiên là người của dòng họ Rockefeller - Gates Makgarr. Năm 1933 ông ta thôi chức và thay thế là Leon Frezer, 1 người từ Mỹ và là thuộc hạ của Morgan. Trong các năm WW-II, làm chủ tịch BIS 1 lần nữa là người Mỹ Thomas Harrington Makkitrik.

Về việc BIS hoạt động như thế nào trong mối lợi ích của Third Reich thì đã được viết rất nhiều (4). Trong những năm chiến tranh, BIS đã tiến hành thanh toán hàng hóa cung cấp từ các nước khác nhau cho Đức, trong số đó có cả các nước là đối thủ chiến tranh của Đức. Sau sự kiện Pearl Harbour nhiều năm, BIS vẫn được đề cập trên tất cả các chỉ dẫn chính thống như ngân hàng-tin tức của FED Mỹ. Những năm chiến tranh, BIS nằm dưới quyền kiểm soát của phát xít, nhưng người Mỹ Thomas Harrington Makkitrik vẫn làm chủ tịch của nhà băng này. Trong khi trên khắp các mặt trận, binh lính bị giết chóc, còn ở Basel vẫn là các cuộc họp quản trị của BIS với sự tham gia của các nhà băng Đức, Nhật, Ý, Bỉ, Anh và Mỹ. Ở đây, trong "nhà băng xuất cảng ngoại" Thụy Sĩ, sự hiểu biết lẫn nhau bao trùm, ở đây công việc chung khẩn trương của các quốc gia đối đầu trên chiến trường vẫn trôi chảy.

Trong điều kiện chiến tranh, BIS trở thành nơi để vàng bạc phát xít Đức ăn cắp được từ các nước khác nhau luồn qua. Tháng 3 năm 1938, sau khi binh lính Hitler tiến vào Vienna, phần lớn vàng của Áo bị đánh cắp đã được chuyển đến tủ sắt của BIS. Vàng của NHTW Czech cũng như vậy, đó là số vàng trị giá 48 triệu đô la. Đó là lúc bắt đầu chiến tranh, còn sau đó vàng bắt đầu ồ ạt chảy vào BIS, nó là vàng Third Reich bòn rút trong các trại tập trung, cướp bóc của dân chúng các nước chiếm đóng (đồ trang sức, mũ miện, chế tác mỹ nghệ, etc). Chúng được gọi là vàng Nazi và thường được chế biến như nguyên liệu thành thỏi tiêu chuẩn và đem đến BIS, các nhà băng Thụy Sĩ khác hay đem ra khỏi biên giới châu Âu. Sau sự kiện Pearl Harbour, nghĩa là sau khi Mỹ tham chiến, theo nhà nghiên cứu Mỹ Ch. Hayem, Nazi đã đem đến BIS cất giữ 1 lượng vàng trị giá khoảng 378 triệu đô la.

Câu chuyện chiếm đoạt vàng của Czech bởi phát xít Đức với sự trợ giúp của BIS cần phải nói chi tiết hơn. Các chi tiết của chiến dịch quét dọn này về sau đã được giải mật 1 phần tài liệu lưu trữ bởi Ngân hàng Anh năm (5). Tháng 3 năm 1939 binh lính Hitler chiếm đóng Prague. Quân phát xít, đe dọa bằng vũ khí, yêu cầu giao nộp bảo vật quốc gia – vàng dự trữ giá trị 48 triệu đô la. Ban quản trị ngân hàng sợ hãi khai báo, vàng đã được chuyển đến BIS. Sau này người ta biết rõ, vàng ở Basel sau đó được đem đến cất giữ ở Ngân hàng Anh. Theo lệnh từ Berlin vàng được chuyển từ tài khoản Reichsbank sang BIS, và cuối cùng vàng vật lý nằm tại Ngân hàng Anh. Ngân hàng Anh bắt đầu thực hiện các hoạt động khác nhau với vàng theo lệnh đến từ Berlin (từ Reichsbank) đến BIS, sau đó chuyển tiếp đến London. Ở đây lộ ra sự cấu kết tay ba: nhà băng Reichsbank của Hitler, BIS và Ngân hàng Anh. Theo cách này, ở Anh năm 1939 bắt đầu nổ ra 1 vụ bê bối thực sự, bởi Ngân hàng Anh đã làm ăn với vàng của Czech, với các đội đến từ gold theo lệnh từ Berlin và Basel, mà không phải là từ chính phủ Czech. Đặc biệt, trong tháng 6 năm 1939, còn 3 tháng trước khi tuyên chiến giữa Đức và Anh, Ngân hàng Anh đã giúp Đức bán vàng lấy 440 nghìn bảng và chuyển số vàng dự trữ của Đức đến New York (Đức biết rõ trong trường hợp xâm lược Ba Lan, Mỹ không hề tuyên chiến). Ngân hàng Anh đã tiến hành chiến dịch bất hợp pháp với vàng của Czech có sự đồng thuận về đường lối của chính phủ Anh. Ttg Anh Nevill Chamberlain, bộ trưởng tài chính John Simon, các nhân vật cao cấp khác đã cuống hết cả lên và bắt đầu dối trá 1 cách miễn cường (bảo là, vàng đã được chuyển trả chủ nhân hợp pháp hay không giao trả Reichsbank). Chỉ khi các lưu trữ của Ngân hàng Anh được công bố gần đây mới thấy, các nhân vật hàng đầu trong chính phủ Anh đã lừa dối, che đậy cho mình, cho Ngân hàng Anh và BIS. Sự phối hợp hoạt động 1 cách tội lỗi của Ngân hàng Anh và BIS rõ ràng là nhờ Montagu Norman, giám đốc Ngân hàng Anh và tại vị qua suốt cả cuộc chiến tranh, cũng là kẻ không giấu diếm sự đồng cảm với phát xít.


Năm 1944, tại Hội nghị quốc tế ở Bretton-Woods (Mỹ) diễn ra cuộc bàn thảo các kế hoạch cho trật trự tài chính thế giới tương lai, câu hỏi về vai trò khó coi của BIS trong chiến tranh thế giới và việc làm của BIS với phát xít Đức bất ngờ nổi lên. Bỏ đi nhiều tình tiết, hội nghị này đã rất khó khăn nhưng cuối cùng đã thành công trong việc ra nghị quyết đóng cửa BIS (một loạt đại diện Mỹ và quan sát viên đã cố để ngăn cản nghị quyết như vậy). Nhưng các ông chủ đã làm ngơ nghị quyết của hội nghị và BIS vẫn hoạt động đến tận ngày nay. Không những thế nó còn mở rộng đến hàng chục quốc gia. Những hứa hẹn về công bố thông tin hoạt động BIS trong thời kỳ chiến tranh WW-II cũng không bao giờ được thực hiện, nó vẫn là bí mật và điều này đã giúp sức che đậy sự thật về WW-II đến tận ngày hôm nay (6).

Cuối cùng, cũng cần phải nói ít lời về vị giám đốc nhà băng Reichsbank, bộ trưởng kinh tế Third Reich Hjalmar Schacht (1877-1970). Hắn ta là nhân vật chủ chốt trong cỗ máy chiến tranh Third Reich, là đại diện toàn quyền và đặc biệt của giới tư bản Anh-Mỹ tạo Đức. Năm 1945, hắn bị đem ra tòa quân sự quốc tế Nuremberg, nhưng ngày 1 tháng 10 năm 1946, hắn được trắng án. Schacht bước ra khỏi Nuremberg như thể đã được tắm rửa toàn hoàn toàn sạch sẽ. Không những vậy, ít năm sau Schacht lại 1 lần nữa hành nghề nhà băng, hắn mở và đứng đầu Schacht GmbH tại Dusseldorf. Cũng như Hitler, vì lý do nào đó không rõ đã mất tích bí hiểm và không thể xuất hiện tại Nuremberghắn ta đã trốn thoát khỏi những tội lỗi vô cùng kinh tởm mà hắn cùng đồng bọn gây ra.

Dường như, chẳng có gì đáng chú ý, nhưng thực tế này 1 lần nữa giúp người ta hiểu, sắp đặt WW-II và một phần gặt hái của nó cho các ông chủ Anh-Mỹ và những kẻ chúng đại diện ở Đức. Cùng những gã chủ này ngày nay đang muốn lặp lại lịch sử WW-II nhưng với kết cục khác.

(4) См., например: Хайэм Ч. Торговля с врагом. — М.: Прогресс, 1985
(6) См.: В.Ю. Катасонов. Бреттон-Вудс: ключевое событие новейшей финансовой истории. – М.: Кислород, 2014 // Глава 5 «Бреттон-Вудс: приговор, который не был приведен в исполнение» (с.111-121).

Các ông chủ Anh-Mỹ đã tổ chức WW-II


Khơi mào WW-II tuyệt nhiên không phải là "Hitler khát máu" tự mình đến được quyền lực Đức. WW-II là dự án của các đầu sỏ tài phiệt quốc tế, các ông chủ Anh-Mỹ. Đó là họ, dựa vào các tổ chức của họ như Cục dự trữ liên bang FED, Ngân hàng Anh, ngay sau WW-I đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tranh kế tiếp sẽ nổ ra qui mô thế giới. Kế hoạch chiến tranh mới chĩa mũi nhọn trực tiếp vào Nga, (bởi tay sai cướp đoạt nước Nga của họ: Trotsky đã thất bại).

Kế hoạch Daues và kế hoạch Young, thiết lập ngân hàng thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements - BIS), tuyên bố của Đức về đình chỉ chi trả bồi thường chiến tranh WW-I theo Hiệp ước hòa bình Paris và thỏa thuận ngầm của cựu đồng minh Nga với quyết định này, luồng đầu tư hùng mạnh từ nước ngoài bơm vào Third Reich, quân sự hóa nền kinh tế Đức bất chấp các điều kiện hòa bình của Hiệp ước Paris trở thành những sự kiện quan trọng chuẩn bị cho điều này.

Các nhân vật chính trong các hoạt động hậu trường của những ông chủ Anh-Mỹ là gia đình Rockefeller và Morgan, Montagu Norman (giám đốc Ngân hàng Anh), Hjalmar Schacht (giám đốc Reichsbank, bộ trưởng kinh tế Third Reich). Ý đ chiến lược của Rockefeller và Morgan là khuất phục châu Âu về kinh tế và với sự giúp sức của việc bơm tín dụng nước ngoài và đầu tư vào Đức, đưa Nga trở lại trong lòng hệ thống tư bản quốc tế như thuộc địa.

Montagu Norman (1871-1950) đóng vai trò trung gian quan trọng giữa tư bản tài chính Mỹ và giới chính khách, kinh doanh Đức. Hjalmar Schacht được đặt vào vai tổ chức kinh tế-quân sự cho phát xít Đức. Giữ chức năng che chắn cho các hoạt động bí mật của những ông chủ  là các chính khách dạng Franklin Roosevelt, Nevill Chamberlain và Winston Churchill. Ở Đức, Hitler cùng với Schacht là kẻ thi hành quan trọng cho những kế hoạch này. Lưu ý là 1 số nhà sử học đánh giá vai trò của Schacht trong việc điều hành, quản trị nước Đức trong những năm WW-II cao hơn Hitler. Đơn giản trên hết, ông ta là nhân vật không được biết đến rộng rãi.

Kế hoạch Daues được chấp thuận năm 1924, ban đầu được các ông chủ Anh-Mỹ trù tính để khắc phục gánh nặng bồi thường WW-I của Đức (mà theo đó Pháp đã nhận được hơn 1 nửa bồi thường một cách vô cùng đau đớn khổ sở), đồng thời tạo ra nguồn tài chính hỗ trợ Đức từ Mỹ và Anh ở dạng cho vay, viện cớ khôi phục kinh tế hồi phục nguồn bồi thường cho đầy đủ. Theo kế hoạch Daues, các năm 1924-1929, Đức đã nhận từ Mỹ và Anh tương ứng 2,5 và 1,5 tỷ USD. Theo thời giá hiện nay đó là số tiền khổng lồ, xấp xỉ 1000 tỷ USD. Hjalmar Schacht vừa là đồng tác giả, vừa thực hiện Daues, ông ta tổng kết kết quả triển khai kế hoạch này vào năm 1929 với sự hài lòng thông báo rằng, "Nước Đức trong 5 năm nhận được các khoản vay nước ngoài, nhiều như nước Mỹ đã nhận trong 40 năm trước WW-I" (1). Kết quả, nước Đức bị đánh gục trong chiến tranh WW-I thì năm 1929 đã đứng vị trí thứ 2 trên thế giới về sản lượng công nghiệp, họ đã vượt nước Anh.

Trong các năm thập kỷ 1930, quá trình bơm tiền và đầu tư vào kinh tế Đức được tiếp tục. Nhằm mục đích này, theo kế hoạch Young năm 1930, Nhà băng thanh toán quốc tế BIS đã được thiết lập ở Thụy Sĩ (Basel). Mục đích chính của BIS là thanh toán bồi thường cho Đức thay mặt các nước thắng WW-I. Nhưng thực sự là thông qua BIS, dòng tiền đã chảy ngược lại – từ Mỹ và Anh sang Đức. Cho đến đầu 1930, nó đã biến hầu hết các công ty quan trọng mức chiến lược của Đức thành sở hữu hay thuộc phần kiểm soát của tư bản Mỹ, một số thuộc về nhà đầu tư Anh. Như thế, công nghiệp chế biến dầu mỏ của Đức và sản xuất nhiên liệu tổng hợp từ than đá thuộc về công ty Mỹ "Standard Oil" của Rockefeller – nó rất quan trọng để phục vụ chiến tranh. Công nghiệp hóa chất cốt lõi, hãng I. G. Farbenindustri bị chuyển giao quyền kiểm soát sang tay nhà băng Morgan. 40% mạng lưới điện thoại Đức và 30% cổ phần của hãng máy bay "Fokke-Woolf" thuộc về công ty ITT của Mỹ. Công nghiệp điện và radio cốt lõi Đức, với những cái tên quen thuộc "AEG", "Simens", "Osram" bị chuyển giao quyền kiểm soát sang công ty Mỹ General Electric. Cả ITT và General Electric đều nằm dưới trướng đế chế tài chính Morgan. Cuối cùng, 100% cổ phần của hãng Volksvagen cũng thuộc về Mỹ, hãng Ford. 

Trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Israel làm tê liệt toàn bộ sân bay Arab bằng khí độc thần kinh LSD 25 – nó được sản xuất từ các công ty hóa chất Đức.

Vào thời điểm Hitler nắm quyền lực nước Đức, thì tư bản tài chính Mỹ đã nắm toàn bộ các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng Đức: chế biến dầu mỏ và sản xuất nhiên liệu tổng hợp từ than đá, hóa chất, tự động hóa, hàng không, thiết bị điện và radio, phần lớn ngành cơ khí (278 công ty). Ngoài ra, tư bản Mỹ cũng kiểm soát các nhà băng Đức hàng đầu: "Deutsche Bank", "Dresdner Bank", Donat bank" và một loạt các nhà băng khác (2). 
***
Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Hitler được phong làm Chancellor của Third Reich. Trước đó, các ứng cử viên đã được các nhà băng nghiên cứu kỹ lưỡng. Chủ tịch  Hjalmar Schacht của nhà băng Reichsbank vào mùa thu 1930 đã có chuyến công du vượt đại dương đến gặp “đối tác” Mỹ để thảo luận chi tiết kế hoạch đưa Hitler lên quyền lực. Sau khi ứng cử viên Hitler và kế hoạch xúc tiến chính trị của ông ta cuối cùng được các nhà băng Mỹ phê chuẩn trong 1 cuộc họp bí mật. Schacht trở về Đức. Cả năm 1932 ông ta bận rộn làm việc với các nhà băng Đức và các nhà công nghiệp, thúc giục họ ủng hộ Hitler 1 cách tuyệt đối. Với sự ủng hộ này, ngày 17 tháng 11 năm 1932, 17 nhà băng và các nhà công nghiệp lớn đã viết thư gửi tổng thống Đức Hindenburg yêu cầu bổ nhiệm Hitler làm Chancellor. Hội nghị các nhà tài chính Đức cuối cùng trước bầu cử được tổ chức vào ngày 4 tháng 1 năm 1933 tại nhà của nhà băng nổi tiếng Đức Schroeder gần Cologne. 

Trong suốt cả cuộc đời cầm quyền, mặc dù nhiều lần lớn tiếng tuyên bố quốc hữu hóa tài sản ngoại quốc, nhưng Hitler không bao giờ đụng vào đó 1 sợi lông. Hắn ta giả vờ, lừa lọc tuyệt đối, 1 thủ đoạn mị dân ru ngủ người Đức.

Sau khi phe Xã hội dân tộc lên nắm quyền, quan hệ tài chính-tín dụng và tương mại  giữa Đức và giới Anglo-Saxon được nâng tầm lên đỉnh cao chất lượng mới

Hitler ngay lập tức lại lớn tiếng không trả bồi thường WW-I. Điều này tự nhiên đặt ra vấn về về khả năng trả nợ của Anh và Pháp với Mỹ vì đã vay tín dụng trong thời kỳ WW-I, nhưng ở bên kia bờ đại dượng, tuyên bố của Hitler được chấp nhận mà không có bất cứ sự phản đối nào. Vào tháng 5-1933 Schacht đi Mỹ lần thứ kế tiếp. Ông ta gặp TT F. Roosevelt và các nhà băng lớn để ký thỏa thuận nhận $1 tỷ tín dụng Mỹ. Tháng 6-1933, Schacht đến London đàm phán với Montagu Norman.

Mọi thứ suôn sẻ như thể chuyện cổ tích: Anh Quốc đồng ý cho Third Reich vay thêm 2 tỷ đô la mà không đòi hỏi bất cứ cái gì liên quan đến việc Đức đã dừng trả các khoản nợ trước kia cho Anh. Một số nhà sử học tin rằng, 1 lý do quan trọng để các nhà băng Anh-Mỹ dễ dãi đến thế, là Liên Xô trong năm 1932 đã kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và làm phương Tây thấy bất ngờ với sự gia tăng sức mạnh kinh tế Xô Viết. Họ đã xây dựng và hoạt động đến vài ngàn nhà máy, chủ yếu là công nghiệp nặng. Sự phụ thuộc của Liên Xô vào nhập khẩu xe cộ và trang thiết bị đã tụt giảm mạnh sau vài năm. Viễn cảnh Liên Xô bị bóp nghẹt kinh tế đã biến mất. Vậy nên tổng hành dinh chiến tranh WW-II cần thêm tiền, nó đang được gấp rút dàn dựng, cuộc quân phiệt hóa dữ dội nước Đức bắt đầu.

Sự dễ dãi của Mỹ đối với việc cho Đức vay tín dụng cũng được giải thích là bởi hầu như khi Hitler lên nắm quyền ở Đức cũng là lúc Franklin Roosevelt lên làm TT Mỹ. Ông ta cũng được chống lưng bởi cùng các nhà băng Mỹ, những kẻ đã chống lưng cho Hitler. Kẻ làm TT mới không thể nào lại không phê chuẩn hào phóng tín dụng cho chế độ mới ở Berlin. Bên cạnh đó, nhiều người lưu ý, có rất nhiều tương đồng giữa "đường lối kinh tế mới" của Roosevelt ở Mỹ và “chính sách kinh tế mới” của Hitler ở Third Reich. Không có gì ngạc nhiên cả. Cùng 1 số kẻ, chủ yếu là giới tài chính Mỹ, đóng vai cố vấn và phát triển chính sách kinh tế cho cả 2 quốc gia.

Tuy nhiên "đường lối kinh tế mới" của Roosevelt bắt đầu trượt dốc sớm. Năm 1937, nước Mỹ 1 lần nữa  lại rơi vào vực thẳm khủng hoảng, năm 1939 tỷ trọng công nghiệp Mỹ chỉ đạt 33% (giữa khủng hoảng 1929-1933 là 19%). Đánh giá tình hình Mỹ năm 1939, một trong số các cố vấn của Roosevelt là P. Taguell viết: "Năm 1939 chính phủ đã không giành được tiến bộ nào. Phía trước là biển lớn đang đến ngày, Ba Lan bị xâm lược bởi Hitler. Sương mù có thể tan chỉ khi có là gió chiến tranh. Mọi biện pháp khác ở chính quyền Roosevelt, sẽ không mang lại bất cứ kết quả nào" (3). 

Trong điều kiện như vậy, chỉ có chiến tranh thế giới mới cứu được tư bản Mỹ. Năm 1939 các ông chủ tiền bạc, sử dụng mọi điều khiển mà họ có thể, bắt đầu gây áp lực lên Hitler, yêu cầu hắn ta ngay lập tức bắt đàu cuộc chiến lớn về phía đông.

*** 
(1) «История Великой Отечественной войны» в 6 томах, т. 1, с. 4.
(2) Р. Эпперсон. Невидимая рука” (2-е изд.) - СПб, 1999, с. 294; “История Великой Отечественной войны” в 6 томах, т. 1, с. 34-35, “История Второй Мировой войны” в 12 томах, т. 1, с. 112, 183 и т. 2, с. 344.
(3) P. Tuguell, The Democratic Roosvelt, A Biography of Franklin D. Roosvelt, New York, 1957, p 477, “История Второй Мировой войны” в 12 томах, т. 2, с. 341.


***
Chúc mừng 70 năm chiến thắng phát xít Đức!
Chúc mừng 1000 năm chiến thắng chủ nô Zion cai trị phương Tây!
Chúc mừng thắng lợi trận chiến cuối cùng! 


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...