Do Thái hầu như kiểm soát toàn bộ truyền thông Mỹ

MORTIMER ZUCKERMAN, chủ sở hữu NY Daily News, US News &
World Report và chủ tịch Hội nghị các chủ tịch tổ chức Do Thái Mỹ lớn (Conference of Presidents
of Major Jewish American Organizations), đây là một trong những nhóm vận động lớn nhất.

LESLIE MOONVES, chủ tịch hãng truyền hình CBS, là cháu trai lớn của David Ben-Gurion, đồng chủ tịch với Norman Ornstein Hội đồng cố vấn các nhà sản xuất TV kỹ thuật số do Clinton bổ nhiệm.

JONATHAN MILLER CEO, chủ tịch AOL trong tập đoàn AOL-Time-Warner.

NEIL SHAPIRO, chủ tịch NBC News.

JEFF GASPIN, phó giám đốc điều hành chương trình NBC.

DAVID WESTIN, chủ tịch ABC News

SUMNER REDSTONE, CEO của Viacom, hãng truyền thông lớn trên TG gồm cáp TH Viacom cable, CBS và MTV toàn TG, công ty cho thuyê băng đĩa Blockbuster và Black Entertainment TV.

MICHAEL EISNER, ông chủ lớn của những hãng Walt Disney, Capitol Cities, ABC.

RUPERT MURDOCH, chủ của Fox TV, New York Post, London
Times, News of the World.

MEL KARMAZIN, chủ tịch CBS

DON HEWITT, giám đốc điều hành chương trình 60 phút của CBS

JEFF FAGER, giám đốc điều hành chương trình 60 phút II của CBS

DAVID POLTRACK, phó chủ tịch phụ trách điều hành, nghiên cứu và lập kế hoạch của CBS.

SANDY KRUSHOW, chủ tịch hãng Fox Entertainment.

LLOYD BRAUN, chủ tịch hãng ABC Entertainment

BARRY MEYER, chủ tịch hãng Warner Bros.

SHERRY LANSING. chủ tịch hãng Paramount Communications và chủ tịch tập đoàn Paramount Pictures' Motion Picture.

HARVEY WEINSTEIN, CEO của Miramax Films.

BRAD SIEGEL., chủ tịch Turner Entertainment.

PETER CHERNIN, chỉ huy số 2 trong tập đoàn Rupert Murdoch's
News, chủ của Fox TV.

MARTY PERETZ, chủ hãng xuất bản New Republic, hãng này công khai pro-Israel. Al Gore thừa nhận Marty như là cố vấn của ông ta.

ARTHUR O. SULZBERGER, JR., chủ của NY Times, Boston Globe và các nhà xuất bản khác.

WILLIAM SAFIRE, nhà bình luận của NYT.

TOM FRIEDMAN, nhà bình luận của NYT.

CHARLES KRAUTHAMMER, nhà bình luận của Washington Post. Được Reporting.com vinh danh, đây là trang chuyên theo dõi “chống Israel”.

RICHARD COHEN, nhà bình luận của Washington Post.

JEFF JACOBY, nhà bình luận của Boston Globe.

NORMAN ORNSTEIN, American Enterprise Inst., nhà bình luận thường xuyên của USA Today, phân tích tin tức của CBS, đồng chủ tịch với Leslie Moonves trong Hội đồng cố vấn các tài phiệt sản xuất truyền hình kỹ thuật số do Clinton bổ nhiệm.

ARIE FLEISCHER, thư ký báo Dubya.

STEPHEN EMERSON, các nhà truyền thông gọi là chuyên gia khủng bố nội địa.

DAVID SCHNEIDERMAN, sở hữu Village Voice và mạng lưới New Times hàng tuần.

DENNIS LEIBOWITZ, lãnh đạo hãng Act II Partners, chuyên về đầu tư mạo hiểm.

KENNETH POLLACK, chuyên gia phân tích CIA, giám đốc Trung tâm Saban về chính sách Trung Đông, chủ bút các bài xã luận trên NY Times, New Yorker.

BARRY DILLER, chủ tịch công ty USA Interactive, cựu chủ tịch Universal Entertainment.

KENNETH ROTH, giám đốc điều hành tổ chức theo dõi quyền con người (Human Rights Watch).

RICHARD LEIBNER, điều hành hãng tin N.S. Bienstock, là đại diện cho 600 hãng tin cá nhân như Dan Rather, Dianne Sawyer và Bill O'Reilly.

TERRY SEMEL, CEO của Yahoo, cựu chủ tịch Warner Bros.

MARK GOLIN, phó chủ tịch Creative Director, AOL

WARREN LIEBERFORD, Pres., Warner Bros. Home Video Div. AOL- TimeWarner.

JEFFREY ZUCKER, chủ tịch NBC Entertainment.

JACK MYERS, NBC, xếp .NYT 5.14.2.

SANDY GRUSHOW, chủ tịch Fox Entertainment.

GAIL BERMAN, chủ tịch Fox Entertainment.

STEPHEN SPIELBERG, đồng sở hữu Dreamworks.

JEFFREY KATZENBERG, đồng sở hữu Dreamworks.

DAVID GEFFEN, đồng sở hữu Dreamworks.

LLYOD BRAUN, chr tịch ABC Entertainment.

JORDAN LEVIN, chủ tịch Warner Bros. Entertainment.

MAX MUTCHNICK, nhà đồng sản xuất NBC's "Good Morning Miami".

DAVID KOHAN, nhà đồng sản xuất NBC's "Good Morning Miami".

HOWARD STRINGER, xếp Sony Corp. of America.

AMY PASCAL, chủ tịch Columbia Pictures.

JOEL KLEIN, chủ tịch và CEO của Bertelsmann's American.

ROBERT SILLERMAN, nhà sáng lập Clear Channel Communications.

BRIAN GRADEN, chủ tịch MTV entertainment.

IVAN SEIDENBERG, CEO của Verizon Communications.

WOLF BLITZER, chủ của CNN's Late Edition.

LARRY KING, chủ của Larry King Live.

TED KOPPEL, chủ của ABC's Nightline.

ANDREA KOPPEL, phóng viên CNN.

PAULA ZAHN, chủ chương trình CNN.

MIKE WALLACE, chủ chương trình CBS, 60 Minutes.

BARBARA WALTERS, chủ chương trình ABC's 20-20.

MICHAEL LEDEEN, chủ bút National Review.

BRUCE NUSSBAUM, chủ bút trang bình luận Business Week.

DONALD GRAHAM, chủ tịch và CEO của Newsweek và Washington Post, con của CATHERINE GRAHAM MEYER, cựu sở hữu của Washington Post.

HOWARD FINEMAN, xếp mục bình luận chính trị của Newsweek.

WILLIAM KRISTOL, chủ bút của Weekly Standard, giám đốc điều hành cho Project for a New American Century (PNAC).

RON ROSENTHAL, quản lý biên tập của San Francisco Chronicle.

PHIL BRONSTEIN, phụ trách điều hành San Francisco Chronicle.

RON OWENS, chủ Talk Show KGO (ABC-Capitol Cities, San Francisco).

JOHN ROTHMAN, chủ Talk Show KGO (ABC-Capitol Cities, San Francisco).

MICHAEL SAVAGE, chủ Talk Show KFSO (ABC-Capitol Cities, San Francisco) cung cấp cho 100 khách hàng.

MICHAEL MEDVED, chủ Talk Show 124 AM stations.

DENNIS PRAGER, chủ Talk Show toàn quốc được cung cấp từ LA. Ông ta treo cờ Israel ở nhà chứ không hề treo cờ Mỹ.

BEN WATTENBERG, Moderator của PBS Think Tank.

ANDREW LACK, chủ tịch của NBC.

DANIEL MENAKER, giám đốc điều hành của Harper Collins.

DAVID REZNIK, chủ bút tờ New Yorker.

NICHOLAS LEHMANN, cây viết của tờ New York.

HENRICK HERTZBERG, chủ bút của Talk of the Town trên tờ New Yorker.

SAMUEL NEWHOUSE JR, và DONALD NEWHOUSE sở hữu nhà xuất bản Newhouse, gồm 26 tờ báo trong 22 thành phố; nhóm tạp chí Conde Nast, gồm cả New Yorker; Parade, tờ Sunday; tạp chí American City Business, các tờ báo thương mại xuất bản trong hơn 30 thành phố lớn toàn nước Mỹ; có vốn trong các chương trình cáp và hệ thống dịch vụ cáp.

Tài phiệt Mỹ đứng đầu mọi cuộc chiến tranh!

Nước Mỹ non trẻ hơn 200 năm tuổi nhưng tham gia hơn 300 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Nhiều chuyên gia cho rằng, chiến tranh là để làm giàu cho lái súng Mỹ. Họ nhầm lẫn nặng, chiến tranh là để làm giàu cho tài phiệt nhà băng Mỹ nhiều nhất.

Giới tài phiệt ngân hàng, khẳng định ảnh hưởng của họ trong các ngành công nghiệp bằng cách cung cấp dòng tín dụng cần thiết để sản xuất trong/ngoài nước, dân sự/quân sự. Trong trường hợp bán hàng quân sự, các chính phủ khác nhau mua thì phải trả trước/đặt cọc tại các ngân hàng bảo lãnh cho thương vụ. Các hãng định giá thì trông chờ vào sự hợp tác với các công ty sản xuất để cung cấp một dòng cam kết bảo lãnh quan trọng về tín dụng, và cân nhắc nó khi lượng giá vấn đề rủi ro của công ty. Lãi suất tín dụng lớn làm cho các công ty sản xuất thu được lợi nhuận thấp (nôm na là phải trả lãi quá nhiều) khi phải vay mượn tiền từ các tổ chức tài chính. 

Ngoài ra các tổ chức tài chính còn cung cấp dịch vụ tư vấn/cố vấn cho bộ phận tài chính các công ty công nghiệp để làm sao họ có thể tạo cán cân thu chi cho có hiệu quả nhất, làm sao để đầu tư tiền, tài sản của họ cho sinh lợi và cung cấp cho họ hiểu biết về việc mua bán, sát nhập, loại bỏ, liên doanh với các công ty khác, về rủi ro đầu tư mạo hiểm, về ngoại hối, và tạo điều kiện tiếp cận với thị trường vốn khi công ty muốn phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các nhà băng cũng quản lý phần tài sản trả lương của các công ty và rốt cục là tất cả các nguồn tài chính cần thiết để hoàn thành dự án/công trình của các công ty. Điều hiển nhiên là các dịch vụ này không phải là miễn phí. 

Kẻ lớn nhất trong thị trường vũ khí là Boeing, không chỉ chế tạo máy bay dân sự, máy bay quân sự, hệ thống phòng thủ tên lửa, thông tin liên lạc vũ trụ, mà còn có các nhà băng đỡ đầu mà nhờ đó có thể cung cấp cho các khách hàng các giao dịch thương mại/tài chính của nó. Hơn 30 ngân hàng ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương đã nhận và gửi dịch vụ của họ cho Boeing. 

Northrop Grumman, làm ăn hoàn toàn trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, nó được các ngân hàng sau cung cấp tài chính: Bank of America, JP Morgan Chase, Deutsche Bank (đứng thứ 27), Credit Suisse First Boston (đứng thứ 31), Lehman Brothers Holding (đứng thứ 83) và những nhà băng khác. 

Lockheed Martin, nhờ nhiều mối quan hệ có ảnh hưởng với chính phủ, nên là nhà thầu số 1 của các hợp đồng quốc phòng, Lockheed chế tạo F-16 và các loại máy bay chiến đấu, tên lửa Patriot, vệ tinh và một mảng các hệ thống khác. Một trong những kẻ bảo lãnh và là đại diện thân thuộc của Lockheed Martin: JP Morgan Chase. Morgan cung cấp bảo lãnh, bảo hiểm tài sản của nó ra khắp thế giới. 

Công ty Raytheon, một nhà sản xuất quân sự lớn khác được giúp đỡ bởi Citigroup, Bank of America, Credit Suisse First Boston, và JP Morgan Chase. 

General Dynamics, sản xuất xe bọc thép Stryker, xe tăng M1 Abrams và gần đây là MRAP (Mine Resistant Ambush Protected), nhận dịch vụ chủ yếu từ Bank of America và JP Morgan Chase. 

Giá trung bình của 1 máy bay chiến đấu trên thị trường là khoảng $80 triệu, ví dụ giá sản xuất F-35 (JSF) do Lockheed Martin chế tạo khoảng $50 triệu. Giá của Stryker khoảng $2 triệu. Giá xe tăng Abrams khoảng $4,3 triệu. Giá MRAP khoảng $2 triệu và cuối cùng giá 1 quả tên lửa Patriot khoảng $2 triệu. 

Đó là lý do tại sao chẳng hạn, Lockheed Martin, báo cáo dự kiến sẽ tăng 34% lợi nhuận quý II 2007, bởi Lockheed có thu nhập cao hơn từ máy bay chiến đấu và hệ thống điện tử, trong khi chỉ trả lương thấp hơn (International Business Times 2007). Thu nhập cả năm của Lockheed sẽ là $41,1 tỷ, nhờ chiến tranh Afghan, Iraq và những cuộc xung đột khắp thế giới. Và như Washington Post cho biết, còn bao nhiêu những công ty vũ khí khác khác thu lời từ những xác chết trên chiến trường. “General Dynamics tìm thấy lợi nhuận trên chiến trường” (2006).

Tướng Smedley Butler (1881 - 1940), marine nhiều công danh nhất trong lịch sử nước Mỹ, đã một lần đã viết rằng, chiến tranh là cái máy phản lực: "Lợi nhuận làm ăn thông thường ở Mỹ là 6, 8, 10 và đôi khi 20%. Nhưng trong chiến tranh lợi nhuận-ah! Đó là vấn đề khác, 20, 60, 100 và thậm chí cả 1800%. Khi một công ty sản xuất dân sự chuyển sang sản xuất quân sự, lợi nhuận của nó lên như pháo thăng thiên."


Không hẳn là chiến tranh, ví dụ chống khủng bố cũng đem đến lợi nhuận lớn cho những công ty này. Để lấy làm ví dụ, người ta đọc được qua tin tức, Lockheed Martin - nhà tài trợ chính của cuộc đảo chính Chile năm 1973 - được Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa tệ nạn (CDC-Disease Control and Prevention) chọn tiếp tục cung cấp hàng hỗ trợ cho Chi nhánh văn phòng phối hợp sẵn sàng chống khủng bố và phản ứng nhanh. Chỉ riêng phần thưởng này, 5 năm hợp đồng ước lượng giá đã là $135 triệu.


Gắn bó khăng khít với chiến tranh Iraq, là công ty Halliburton của ông phó diều hâu Cheney (xếp hạng 291) hay còn gọi là quí ngài điều hành “Biệt đội thần chết”, có tài sản $16,82 tỷ, được quyền tham gia vào việc thăm dò/sản xuất dầu khí và tái thiết Iraq sau khi chiếm đóng. Halliburton có quan hệ chặt chẽ với Hoàng gia Saudi và được bảo trợ bởi JP Morgan Chase, HSBC Mỹ, Bank USA, Royal Bank of Scotland và Citigroup như là đại diện quản trị. Citigroup điều hành ngân hàng Saudi-American (SAMBA) cho đến năm 2003, và ngầm điều khiển nó sau khi xâm lược Iraq. Thủ tướng Pakistan, Shaukat Aziz - được Tổng thống Musharraf bổ nhiệm - là giám đốc quản lý của SAMBA trong những năm 90. Đứng đầu cả Saudi Arabia và Pakistan trong việc thu lời từ cuộc chiến Iraq. 

Shaw Group là nhà cung cấp các hệ thống ống dẫn, kỹ thuật và dịch vụ xây dựng ở Iraq. Kết hợp với công ty quốc tế được bảo trợ này là Bank of America, JP Morgan Chase, Ngân hàng Hoàng gia Canada (thứ 77) và Ngân hàng Nova Scotia, Canada (hạng 127). 

Bechtel là một công ty kỹ thuật và xây dựng khổng lồ hoạt động tại Iraq, và được đỡ đầu chủ yếu là từ Bank of America và Export-Import Bank. Công ty này đã có và có quan hệ chặt chẽ với các chính quyền Mỹ khác nhau - cả cộng hòa và dân chủ - và cũng với gia đình hoàng gia Saudi. Riley Bechtel, chủ sở hữu chính của nó đã bổ nhiệm G. W. Bush làm cố vấn. 

Để chuẩn bị các cấp độ khác nhau cho chính phủ và công chúng trước các cuộc chiến tranh - tại Afghanistan và Iraq - những hãng quốc tế khổng lồ này sử dụng các Thùng ý tưởng (think-tanks) như Hội đồng Quan hệ đối ngoại, và trả rất nhiều tiền. Cũng như vậy, thường xảy ra là các quan chức nhận hối lộ và công chúng bị ném bom những bịa đặt dối trá hay giả mạo về nguy cơ gì đó qua các phương tiện truyền thông. 

Để tăng cường mối liên hệ giữa chính phủ, vốn đầu tư tài chính và cánh công nghiệp, trao đổi những kinh nghiệm và thủ đoạn giữa chúng với nhau, các quan chức cấp cao, các viên quản trị và điều hành được luân chuyển lên xuống liên tục từ các ngân hàng đến các ghế trong chính phủ đến các công ty và ngược lại. Ví dụ, 2 viên quản trị chính điều hành Bechtel sang làm ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng trong chính quyền Reagan. George Schultz, cựu chủ tịch Bechtel, cựu ngoại trưởng Mỹ là một kẻ ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến chống Iraq và cũng như thế, Dick Cheney “rời” Halliburton để làm phó tổng thống trong chính quyền G. W. Bush. Ví dụ khác, tháng 2-2001, Northrop thông báo rằng Lewis W. Coleman, cựu Chủ tịch chứng khoán LLC - Bank of America, trở thành thành viên của ban giám đốc Northrop. 

Và để nhấn mạnh giới tài phiệt đã làm thế nào để điều khiển chính phủ, ở đây chúng ta đã đề cập đến những gã tài chính khổng lồ như Citigroup – kẻ có số lớn tài sản đến từ vụ cướp bóc Ngân hàng TW Haiti - JP Morgan Chase và HSBC Holdings, kiểm soát Federal Reserve Cartel qua cổ phần của ngân hàng. 

Trong khi cuộc sống bình thường của dân chúng căng thẳng bởi tất cả các loại thuế, thì đặc biệt là những công ty khổng lồ này lại được giảm thuế lớn. Tham nhũng đã trở thành không thể kiềm chế được trong tất cả các lĩnh vực và ở mọi cấp độ của xã hội. Ví dụ trong việc buôn bán vũ khí quốc tế, khoảng $2,5 tỷ được chi trả như hối lộ. Vốn tài chính để mở mang đầu tư ra các thị trường mới bằng cách hối lộ lớn, nếu không phải bằng vũ lực tàn bạo. 

Trước đây, chính phủ Mỹ thông báo rằng họ sẽ cho phép bán khoảng $60 tỷ vũ khí cho Israel, Ai Cập, Ả Rập Saudi và vùng Vịnh với cái cớ mối đe dọa Iran, (ABC News). Trong cùng ngày đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hợp Quốc đã cáo buộc Saudi Arabia và đồng minh Mỹ trong khu vực, phá hoại nỗ lực kiềm chế bạo lực ở Iraq. Nói cách khác, điều quan trọng là kiếm tiền lớn và lớn hơn nữa từ lợi nhuận buôn bán vũ khí ngọt ngào, không có vấn đề gì với cuộc sống đắng cay của hàng triệu người Iraq và hàng ngàn người Mỹ đang sa lầy trong cuộc chiến Iraq. 

Có câu hỏi: những đồng tiền này đến từ đâu? Câu trả lời là - ngoại trừ trong trường hợp của Israel - những đồng tiền này đến từ việc bán rẻ tài nguyên thiên nhiên của các nước lạc hậu và vay mượn với lãi suất cao từ cùng các ngân hàng quốc tế, mà không bao giờ có thể trả được, vì tiền lãi ngày càng chồng chất lên tiền lãi. Và trong chủ đề ngân sách chính phủ Mỹ, đó là tiền của người nộp thuế mà thay vì được sử dụng cho các phúc lợi xã hội lại bị đem ra phục vụ cái mồm ngày càng tham lam của con quái vật chiến tranh. Khoảng 41% hay hơn ngân sách chính phủ Mỹ hàng năm, $650 tỷ đến với các cuộc chiến tranh. 

Mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ, và cánh công nghiệp tác động to lớn về mọi mặt đến xã hội và thiên nhiên. Chúng kéo xã hội đến bản năng động vật của chúng. Chúng phá hủy một quốc gia và cho vay tiền để xây dựng lại nó, một lần nữa phá hủy nó và lại xây dựng lại nó - thậm chí là trên giấy – tất cả chỉ để đạt được lợi nhuận sau lợi nhuận, vớ bẫm nhiều chiều, và quan trọng nhất là qua việc tăng cổ phần nắm giữ của chúng bằng cách thao túng cung-cầu của những hàng hóa đặc biệt như dầu mỏ. 

Một lần nữa trong trường hợp của Iraq, "Bộ trưởng Iraq sẽ có thể vay hàng tỷ đô la để mua nhiều trang thiết bị cần thiết từ các nhà cung cấp nước ngoài, nhưng chỉ được bằng cách thế chấp doanh thu dầu mỏ quốc gia qua ngân hàng được quản lý bởi 1 ngân hàng New York của nhà băng đa quốc gia JP Morgan Chase. (CorpWatch) 

Để đi đến kết luận, mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ và giới công nghiệp có thể mô tả dưới tên TỔ HỢP TÀI CHÍNH-CÔNG NGHIỆP. Nhưng thuật ngữ này không phản ánh toàn bộ các khía cạnh của liên minh làm ăn này, bởi vì giới công nghiệp và chính phủ Mỹ, chính họ bị kiểm soát bởi các nguồn vốn tài chính hay giới tài phiệt. 

nguồn tham khảo từ Báo Anh: timesonline.co.uk

Những đại gia đình đang thống trị thế giới



Chỉ cần gõ cụm từ “The Large Families that rule the world” vào google, dễ tìm được hàng loạt trang cùng nói 1 chủ đề: kẻ nào đang thống trị thế giới ngày nay.

Một số người đã bắt đầu nhận ra rằng có những tập đoàn tài chính lớn đang thống trị thế giới. Không kể đến các mưu đồ chính trị, xung đột, các cuộc cách mạng và chiến tranh. Đó không phải là tình cờ. Tất cả mọi thứ đã được lên kế hoạch từ lâu.

Một số gọi nó là "thuyết âm mưu" hay New World Order. Dù sao, điều chính yếu để hiểu các sự kiện chính trị và kinh tế hiện nay là một hạt nhân hẹp các gia đình, những kẻ đã tích lũy được rất nhiều của cải và quyền lực.

Chúng ta đang nói về 6, 8 hoặc có thể 12 gia đình thực sự đang thống trị thế giới. Biết rằng điều đó là một bí ẩn khó làm sáng tỏ.

Chúng ta sẽ không xa sự thật bằng cách trích dẫn Goldman Sachs, Rockefellers, Loebs Kuh và Lehmans ở New York, Rothschild Paris và London, Warburgs của Hamburg, Paris và Lazards ở Israel, Moses Seifs ở Rome.

Nhiều người đã nghe nói về Nhóm Bilderberg, Khai sáng (Illuminati) hoặc Hội tam điểm. Nhưng tên của những gia đình, những kẻ đang vận hành thế giới này và kiểm soát các quốc gia, các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, NATO, WB hay IMF là gì?

Để cố gắng trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể bắt đầu với những điều đơn giản nhất: tóm tắt những nhà băng lớn nhất thế giới, và xem ai là cổ đông và ai đưa ra quyết định.

Các nhà băng lớn nhất thế giới hiện nay là: Bank of America, JP Morgan, Citigroup, Wells Fargo, Goldman Sachs và Morgan Stanley.

Bây giờ chúng ta xem xét các cổ đông của họ là ai.

Bank of America:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, FMR (Fidelity), Paulson, JP Morgan, T. Rowe, Capital World Investors, AXA, Bank of NY, Mellon.

JP Morgan:
State Street Corp., Vanguard Group, FMR, BlackRock, T. Rowe, AXA, Capital World Investor, Capital Research Global Investor, Northern Trust Corp. và Bank of Mellon.

Citigroup:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, Paulson, FMR, Capital World Investor, JP Morgan, Northern Trust Corporation, Fairhome Capital Mgmt và Bank of NY Mellon.

Wells Fargo:
Berkshire Hathaway, FMR, State Street, Vanguard Group, Capital World Investors, BlackRock, Wellington Mgmt, AXA, T. Rowe và Davis Selected Advisers.

Chúng ta có thể thấy rằng có nhóm hạt nhân có mặt và lặp lại trong tất cả các nhà băng: State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock và FMR (Fidelity). Để tránh lặp lại tên của họ, bây giờ chúng ta sẽ gọi họ là "tứ đại gia".

Goldman Sachs:
"Tứ đại gia", Wellington, Capital World Investors, AXA, Massachusetts Financial Service và T. Rowe.

Morgan Stanley:
"Tứ đại gia", Mitsubishi UFJ, Franklin Resources, AXA, T. Rowe, Bank of NY Mellon e Jennison Associates. Rowe, Bank of NY Mellon và Jennison Associates.

Chúng ta có thể chỉ mới xác định tên của các cổ đông lớn. Để đi xa hơn, phải tìm hiểu về các cổ đông của những công ty này và các cổ đông của các ngân hàng lớn trên toàn thế giới.

Bank of NY Mellon:
Davis Selected, Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Dodge, Cox, Southeatern Asset Mgmt. và ... “tứ đại gia”.

State Street Corporation (1 trong 4 "tứ đại gia"):
Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Barrow Hanley, GE, Putnam Investment và ... “tứ đại gia” (cổ đông của chính nó!).

BlackRock (1 trong 4 “tứ đại gia”):
PNC, Barclays e CIC.

Ai đứng sau PNC? FMR (Fidelity), BlackRock, State Street, v, v.
Và ai đứng sau Barclays? Là BlackRock.

Và chúng ta có thể mất nhiều giờ đi qua thiên đường thuế tại quần đảo Cayman, Monaco hoặc nơi cư trú hợp pháp của công ty Shell ở Liechtenstein. Một mạng lưới nơi các công ty luôn luôn là giống nhau, nhưng không bao giờ có tên của một đại gia.

Tóm lại: 8 công ty tài chính lớn nhất nước Mỹ (JP Morgan, Wells Fargo, Bank of America, Citigroup, Goldman Sachs, US Bancorp, Bank of New York Mellon và Morgan Stanley) được kiểm soát 100% bởi 10 cổ đông và chúng ta có 4 công ty luôn luôn hiện diện trong tất cả các quyết định: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity.

Ngoài ra, Cục Dự trữ liên bang Mỹ - FED (cũng là 1 nhà băng có tên gọi như vậy) bao gồm 12 nhà băng, được đại diện bởi một hội đồng quản trị 7 người, trong đó bao gồm các đại diện của "tứ đại gia", mà lần lượt có mặt trong tất cả các thực thể khác.

Tóm lại, FED được điều khiển bởi bốn công ty tư nhân lớn: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity. Các công ty này kiểm soát chính sách tiền tệ của Mỹ (và thế giới), mà không có ai kiểm soát chúng hay có lựa chọn "dân chủ". Các công ty này làm ra và tham gia vào cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên toàn thế giới và để đạt được mục đích trở thành giàu có hơn.

Để kết thúc, hãy nhìn vào một số các công ty bị kiểm soát bởi nhóm "tứ đại gia" này:

Alcoa Inc.
Altria Group Inc.
American International Group Inc.
AT&T Inc.
Boeing Co.
Caterpillar Inc.
Coca-Cola Co.
DuPont & Co.
Exxon Mobil Corp.
General Electric Co.
General Motors Corporation
Hewlett-Packard Co.
Home Depot Inc.
Honeywell International Inc.
Intel Corp.
International Business Machines Corp
Johnson & Johnson
JP Morgan Chase & Co.
McDonald's Corp.
Merck & Co. Inc.
Microsoft Corp.
3M Co.
Pfizer Inc.
Procter & Gamble Co.
United Technologies Corp.
Verizon Communications Inc.
Wal-Mart Stores Inc.
Time Warner
Walt Disney
Viacom
Rupert Murdoch's News Corporation.,
CBS Corporation
NBC Universal

Cùng một "tứ đại gia" kiểm soát phần lớn các công ty châu Âu trên thị trường chứng khoán.

Ngoài ra, tất cả những kẻ điều hành các tổ chức tài chính lớn như Quĩ tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng Trung ương châu Âu - ECB và Ngân hàng Thế giới - WB, đã được "đào tạo" và vẫn là "nhân công" của "tứ đại gia", kẻ thành lập ra các tổ chức này.

Tên của các gia đình kiểm soát "tứ đại gia", không bao giờ xuất hiện. Nhưng chắc chắn là Do Thái.


Federal Reserve Cartel

Tại sao người Mỹ hoàn toàn không biết gì đến Federal Reserve Bank “của họ”?


Có những vấn đề rất lớn về Mỹ mà hầu hết người Mỹ lại không hề hay biết gì. Ví dụ, người Mỹ tưởng Federal Reserve Bank Cartel là "của họ"!

Federal Reserve Bank Cartel – Cục dự trữ Liên bang không hề là Ngân hàng dự trữ TW của Mỹ. Cartel này là ngân hàng tư nhân của Do Thái, cụ thể, qua các khâu khớp và đầu mối trung gian, kẻ sở hữu cuối cùng và lớn nhất vẫn là nhà Do Thái Rothschild.

Chỉ có 1 lý do, nước Mỹ bị Do Thái kiểm soát toàn bộ! Trong khi Do Thái chỉ chiếm 2,2% dân số Mỹ.

Việc tổng thống Mỹ bổ nhiệm chủ tịch Federal Reserve Bank chỉ là hình thức. TT Obama bổ nhiệm Janet Yellen làm chủ tịch mới của Cartel này, thay thế Ben Bernanke. Không đáng ngạc nhiên khi Yellen là Do Thái, tiếp tục một truyền thống lâu đời kể từ ngày lập Ban quản trị Cartel.

Vậy thì, cái gì làm cho người Do Thái lại đặc biệt để có thể vận hành định chế tài chính lớn nhất và quan trọng nhất Mỹ và thế giới này? Có phải vì họ thông minh? Hay họ tài giỏi để làm cái công việc tuyệt vời là kiểm soát nền kinh tế, nắm mọi tài khoản và giao dịch tiền tệ? Hay chỉ đơn giản là Do Thái có xu hướng thuê hay đề xướng Do Thái khác vào các vị trí quan trọng đối với mục đích kiểm soát kinh tế từ Cartel này?

Câu trả lời đơn giản là KHÔNG!

Chính phủ Mỹ đã vay nợ khổng lồ, chủ yếu từ các nhà băng Do Thái. Điều này được truyền thông Mỹ giải thích là may mắn, người Mỹ vay nợ của chính người Mỹ! Tất nhiên, chỉ cần Cartel này không cho vay, là chính phủ Mỹ đóng cửa, nước Mỹ sụp đổ. Vì vậy, chính phủ Mỹ ngoan ngoãn vâng lời các ông chủ Do Thái là điều quá dễ để hiểu.

Điều rõ ràng là các Cartel này, kể từ khủng hoảng năm 2008 đã tung ra $2,9 nghìn tỷ bởi một hệ thống gọi là "nới lỏng tiền tệ" (Quantitative Easing) hay mỗi năm in thêm $1000 tỷ, đó đơn giản chỉ là in tiền! Ngay cả các gói cứu trợ các nhà băng Do Thái đang sắp sụp đổ lúc đó cũng lại là tiền của người đóng thuế Mỹ. 

Lẽ ra $2,9 nghìn tỷ đó có thể được dùng để giải quyết vô số những vấn đề nội bộ nước Mỹ, chẳng hạn như vấn đề đói nghèo, hay chăm sóc sức khỏe, tạo thêm công ăn việc làm… Nhưng không! Chúng được đưa vào các nhà băng Do Thái kiểm soát trong hệ thống Federal Reserve Cartel. Chính Cartel này cũng không thể trình bày hầu hết số tiền đó ở đâu? Thế nào là Kinh tế thị trường! mà Mỹ vẫn rao giảng? Không thân những cô thợ may khắp thế giới còng lưng đạp máy khâu 12 tiếng mỗi ngày để nhận đồng công rẻ mạt 5 đô la! Gần 50 triệu người Mỹ nhận tem phiếu mua thực phẩm, họ thuộc diện nghèo đói, không có khả năng mua thức ăn đủ cho chính mình và gia đình. Nhưng trớ trêu thay, mỗi một cái tem phiếu, mỗi một thẻ tín dụng vay nợ phát hành, các nhà băng Do Thái đều ăn lãi ở đó.

Vì vậy, câu hỏi là bao lâu nữa người Mỹ sẽ đưa vụ biển thủ khổng lồ này ra ánh sáng? Họ có thể đổ tội cho ai? Khi cuối cùng họ là kẻ phải trả những món nợ khổng lồ. 

Có lẽ là không bao giờ!

Chủ tịch đầu tiên của Federal Reserve Cartel: Charles Sumner Hamlin, dân Do Thái.

Thứ hai, William Proctor Gould Harding Do Thái.
Thứ ba, Daniel Richard Crissinger gốc Do Thái. Cũng là một Tam điểm nổi tiếng nhất.
Thứ tư, Roy Archibald Young Do Thái.
Thứ năm, Eugene Isaac Meyer Do Thái, cũng là chủ tịch đầu tiên của World Bank.
Thứ sáu, Eugene Robert Black Do Thái.
Thứ 7, 8, 9, 11 là ngoại lệ không Do Thái.
Thứ mười, Arthur Frank Burns Do Thái.
Thứ mười hai, Paul Adolph Volcker gốc Do Thái.
Thứ mười ba, Alan Greenspan Do Thái.
Thứ mười bốn, Ben Bernanke Do Thái.
Thứ 15, đương kim Janet Yellen Do Thái.


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...