6 công ty Do Thái kiểm soát 96% truyền thông Mỹ

Quyền lực để tẩy não, lừa đảo, dối trá và đánh lạc hướng. Người Mỹ đang trả giá cho sự ngu đần tập thể. 

"Bạn biết rất rõ, và những người Mỹ ngu dốt cũng biết rõ như thế, rằng chúng ta kiểm soát chính phủ của họ, bất kể ai ngồi trong Nhà Trắng. Bạn thấy, tôi biết điều đó và bạn biết điều đó rằng không một TT Mỹ nào có thể ở vào vị trí thách thức chúng ta, ngay cả nếu chúng ta làm những việc không thể tưởng tượng được. Những gì họ (Mỹ) có thể làm đối với chúng ta? Chúng ta kiểm soát Quốc Hội, chúng ta kiểm soát các phương tiện truyền thông, chúng ta kiểm soát công nghiệp giải trí, và chúng ta kiểm soát tất cả mọi thứ ở Mỹ. Tại Mỹ, bạn có thể chỉ trích Chúa, nhưng bạn không thể chỉ trích Israel…" Tzipora Menache

Thực tế việc DT kiểm soát truyền thông Mỹ

Walt Disney là hãng truyền thông lớn nhất hiện nay. Chủ tịch và giám đốc điều hành là Michael Eisner, một DT. Đế chế Disney do một người được giới truyền thông mô tả là “đồng bóng” kiểm soát, kể cả một vài công ty sản xuất chương trình TV (Đài truyền hình Walt Disney, Touchstone Television, Đài Truyền hình Buena Vista), các mạng cáp của nó có 14 triệu thuê bao, và hai công ty sản xuất video. Cũng như các hãng phim ảnh, tập đoàn Walt Disney Picture, do Joe Roth DT cầm đầu, bao gồm Touchstone Pictures, Hollywood Pictures, và Caravan Pictures. Disney cũng sở hữu các hãng phim Miramax, do anh em DT Weinstein điều hành. Khi hãng Disney còn do gia đình không DT Disney quản lý trước khi bị Eisner nắm quyền kiểm soát năm 1984, nó là một hãng giải trí gia đình lớn và lành mạnh. Trong khi vẫn giữ các quyền lợi đối với Snow White, dưới trướng Eisner, Disney đã mở rộng sang lĩnh vực tình dục và bạo lực. Ngoài ra, nó còn có 225 chi nhánh tại Hoa Kỳ và một phần là chủ sở hữu của một số hãng truyền hình châu Âu. Chi nhánh cáp ABC, ESPN, do DTSteven Bornstein là chủ tịch và giám đốc điều hành. Tập đoàn Walt Disney cũng nắm phần hùn kiểm soát trong Lifetime Television và hãng cáp mạng Arts & Entertainment Network . ABC Radio Network sở hữu 11 trạm phát AM và 10 trạm FM, ngoài ra trong các thành phố lớn như New York, Washington, Los Angeles, có trên 3400 chi nhánh. Mặc dù chủ yếu là một công ty viễn thông, Capital Cities/ABC đã kiếm được hơn $1 tỷ trong lĩnh vực xuất bản năm 1994. Nó sở hữu 7 tờ báo ngày, ấn phẩm Fairchild, Chilton, và tập đoàn xuất bản Diversified. 

Time Warner, Inc, là kẻ có uy quyền lớn thứ 2 trong làng truyền thông thế giới. Vị chủ tịch hội đồng và CEO Gerald Levin, là một DT. HBO là công ty con của Time Warner là công ty có mạng cáp trả tiền lớn nhất nước Mỹ. Warner Music còn hơn là công ty ghi âm lớn nhất thế giới, với 50 thương hiệu, trong đó lớn nhất là Warner Brothers Records, do Danny Goldberg cầm đầu. Còn Stuart Hersch là chủ tịch của Warnervision, và công ty sản xuất video Warner Music. Goldberg và Hersch đều là DT. Warner Music là kẻ sáng lập ban đầu thể loại "Rap găng tơ/Gangsta rap". Mặc dù còn có sự tham gia của Interscope Records, hãng này đã giúp phổ biến cái thể loại trữ tình sinh động rõ ràng thúc giục người da đen có hành vi bạo lực chống người da trắng. Hơn nữa, ngoài âm nhạc và cáp mạng, Time Warner còn dính líu sâu vào lĩnh vực sản xuất phim (Warner Brothers Studio) và xuất bản. Bộ phận xuất bản của Time Warner do một chủ bút DT là Pearlstine Norman cầm đầu. Đó là nhà xuất bản tạp chí lớn nhất nước Mỹ (Time, Sports Illustrated, People, Fortune). Khi Ted Turner, một người không DT bỏ thầu mua CBS năm 1985, đã có náo loạn trong làng truyền thông cả nước Mỹ.

Ông Turner đã làm giàu trong lĩnh vực quảng cáo và sau đó đã xây dựng thành công mạng cáp truyền hình tin tức là CNN. Mặc dù ông Turner thuê một số DT làm việc trong những vị trí điều hành chủ chốt trong CNN và không bao giờ công khai đối đầu với quyền lợi DT, ông là một người có lòng tự trọng và cá tính mạnh, nhưng cũng được chủ tịch hãng CBS, William Paley (DT tên thật Palinsky) kính trọng, cũng như các thành phần DT bất trị khác ở CBS: kẻ buông súng lúc nào đó có thể quay súng chống lại họ. Hơn nữa, phóng viên DT Daniel Schorr, kẻ đã từng làm việc cho ông Turner, công khai kết tội ông chủ cũ của hắn có thành kiến cá nhân không ưa DT. Để chặn Turner tham gia thầu, ban điều hành CBS mời các tỉ phú DT Laurence Tisch, ông chủ các rạp chiếu phim, khách sạn, bảo hiểm, và thuốc lá đến mua lại 1 cách "thân thiện" công ty, từ 1986 đến 1995 Tisch là chủ tịch và Giám đốc điều hành của CBS, loại bỏ bất kỳ mối đe dọa ảnh hưởng không DT nào ở đây. Các nỗ lực của Turner để mua được một mạng lưới lớn đã bị Levin của Time Warner cản trở, hắn ta sở hữu gần 20% cổ phiếu CBS và có quyền phủ quyết vụ mua bán lớn. 

Viacom Inc, của DT Sumner Redstone (con của Murray Rothstein) là hãng truyền thông lớn thứ 3 Mỹ, có thu nhập $10 tỉ một năm. Viacom sản xuất và phân phối các chương trình truyền hình cho mạng cáp lớn hàng thứ 3, nó sở hữu 12 đài truyền hình và 12 đài phát thanh, nó còn sản xuất phim thông qua Paramount Pictures, do nữ DT Sherry Lansing nắm. Bộ phận xuất bản của nó gồm Prentice Hall, Simon&Schuster, và Pocket Books. Nó phân phối video qua hơn 4000 cửa hàng. Xếp Viacom tuyên bố rằng mình nổi tiếng, là nhà cung cấp dịch vụ chương trình cáp lớn nhất thế giới, qua các mạng lưới Showtime, MTV, Nickelodeon, và các mạng lưới khác. Kể từ năm 1989, MTV và Nickelodeon đã chiến thị phần ngày càng lớn trong giới khán giả truyền hình trẻ. 

Với top 3, và còn hơn cả lớn nhất trong tay DT, thật khó để tin rằng mức độ kiểm soát quá mức như thế là không có chủ tâm, nỗ lực có tính toán của giới DT từ trước. Còn những hãng truyền thông lớn khác thì sao? Số 4 trong danh sách là News Corporation của Rupert Murdoch, ông ta cũng sở hữu Fox Television và sở hữu và hãng phim 20th Century Fox. Murdoch không phải DT nhưng Peter Chermin, người đứng đầu hãng phim của Murdoch và cũng giám sát sản xuất truyền hình là DT. 

Số 5 là tập đoàn Sony Nhật Bản, có chi nhánh ở Mỹ là Sony Mỹ, có điều hành là Michael Schulhof, một DT. Alan Levine,1 DT khác nắm Sony Pictures. 

Hầu hết các hãng sản xuất phim và truyền hình không thuộc về các hãng lớn cũng do DT kiểm soát. Ví dụ, New World Entertainment, như một nhà phân tích truyền thông tiết lộ là "nhà sản xuất chương trình độc lập chủ yếu ở Mỹ," là sở hữu của Ronald Perelman, một DT. Công ty có tiếng khác và nhỏ hơn là Dreamworks SKG, hoàn toàn trong lĩnh vực ăn kiêng của DT. Dream Works được thành lập vào năm 1994 được ông trùm David Geffen, cựu chủ tịch Disney Pictures Jeffrey Katzenberg và đạo diễn Steven Spielberg quảng cáo rùm beng. Tất cả 3 kẻ này là DT. Công ty sản xuất phim, làm phim hoạt hình, chương trình truyền hình, và ghi âm. @ hãng sản xuất lớn khác, MCA và Universal Pictures, đều thuộc sở hữu của công ty Seagram Ltd. Chủ tịch và giám đốc điều hành của Seagram, thùng rượu khổng lồ, là Edgar Bronfman Jr., kẻ này chủ tịch Hội nghị DT thế giới. Người ta biết DT đã kiểm soát việc sản xuất và phân phối phim những ngày khởi đầu ngành công nghiệp điện ảnh trong thập kỷ đầu của thế kỷ 20. Họ vẫn kiểm soát nó cho đến ngày nay. 

Phim sản xuất từ 5 hãng phim lớn nói trên Disney, Warner Brothers, Sony, Paramount (Viacom), và Universal (Seagram)-chiếm 74% thu nhập ngành giải trí 8 tháng đầu tiên năm 1995. 3 mạng truyền hình cáp lớn nhất từng là ABC, CBS và NBC. Với sự hợp nhất của các đế chế truyền thông, cả ba đã không còn là thực thể độc lập. Trong khi hình thức là độc lập thì cả 3 đều nằm dưới sự kiểm soát của DT từ ngày khởi đầu của nó: ABC của Leonard Goldenson, CBS đầu tiên của William Paley và sau đó là của Lawrence Tisch, và NBC đầu tiên của David Sarnoff và sau đó của con trai ông ta Robert. 

Trong vài thập kỷ qua, các mạng lưới này đã bố trí đầy nhân viên DT từ trên xuống dưới, và cốt lõi DT của mạng lưới truyền hình đã không hề thay đổi khi các tập đoàn khác tiếp quản. Chất chuột chết hiện đầy trên TV, đặc biệt trong lĩnh vực tin tức truyền hình mùi chuột chết bốc lên khăm khẳm. Như đã nói, ABC là một phần của hãng Disney thuộc Eisner, và tất cả các nhà điều hành sản xuất của chương trình tin tức trong ABC là DT: Victor Neufeld (20-20), Bob Reichbloom (Good Morning America), và Rick Kaplan (World News Tonight). CBS đã được Westinghouse Electric mua gần đây. Tuy nhiên, kẻ DT tên là, Eric Ober do Lawrence Tisch bổ nhiệm vẫn còn nguyên chức chủ tịch của CBS News. Ở NBC, nay thuộc sở hữu của General Electric, chủ tịch NBC News là DT Andrew Lack, cũng như các DT khác: điều hành sản xuất Jeff Zucker (Today), Jeff Gralnick (NBC Nightly News), và Neal Shapiro (Dateline). 

Lĩnh vực truyền thông in ấn, sau tin tức truyền hình cũng khai mùi nước tiểu chuột, đặc biệt khẳm là các tờ báo ra hàng ngày. 60 triệu tờ báo được bán hàng ngày và được chia sẻ cho 1500 nhà xuất bản khác nhau. Ai đó có thể kết luận rằng, số lượng tuyệt đối các tờ báo khác nhau khắp nước Mỹ tạo ra sự bảo vệ an toàn trước nguy cơ bị DT thôn tính và bóp méo. Tuy nhiên, đó là sai lầm, có rất ít sự độc lập, ít cạnh tranh, và càng ít sự đóng góp cho những lợi ích của người Mỹ mà là một người theo dõi bình thường trông đợi.

Những ngày khi mà hầu hết các thành phố và ngay cả thị trấn có một vài tờ báo độc lập, sở hữu là dân địa phương quan hệ gần gũi với cộng đồng đã trôi qua. Ngày nay, hầu hết các tờ báo "địa phương" do một số ít kẻ của các hãng lớn sở hữu, những kẻ điều hành kiểm soát sống và làm việc xa hàng trăm hàng ngàn dặm. Thực tế là chỉ có khoảng 25% của 1500 tờ báo trên toàn nước Mỹ có sở hữu độc lập, phần còn lại thuộc về một chuỗi là chủ của nhiều tờ báo. Và trong số 25% đó chỉ có một số ít đếm trên đầu ngón tay là đủ lớn để duy trì đội ngũ nhân viên viết tin bài một cách độc lập bên ngoài cộng đồng của họ, phần còn lại phụ thuộc từ ít đến toàn bộ vào thông tin quốc tế và quốc gia của các hãng lớn khác. 

Trong các tờ báo ra hàng ngày của Mỹ, thì đế chế Newhouse của anh em DT Samuel và Donald còn hơn là một minh hoạ cho việc thiếu sự cạnh tranh thực sự: nó cũng đồng thời làm sáng tỏ sự thèm muốn vô độ của dân DT khi phơi bày cho tất cả các cơ quan ngôn luận thấy sự kiểm soát quan điểm mà qua đó chúng kìm kẹp chặt họ. Newhouses sở hữu 26 tờ báo hàng ngày, bao gồm một số tờ lớn và quan trọng, chẳng hạn như Cleveland Plain Dealer, Newark Star-Ledger, và New Orleans Times-Picayune; khối xuất bản sách thương mại lớn nhất đất nước, Random House với tất cả các các chi nhánh của nó; Newhouse Broadcasting gồm 12 trạm phát sóng và 87 hệ thống TV cáp, gồm cả một vài mạng cáp lớn nhất đất nước; Tờ Sunday supplement Parade, lưu hành hơn 22 triệu bản mỗi tuần; khoảng hai chục tạp chí, bao gồm New Yorker, Vogue, Madmoiselle, Glamour, Vanity Fair, Bride's, Gentlemen's Quarterly, Self, House&Garden, và tất cả các tạp chí khác toàn bộ của Conde Nast. Đế chế truyền thông DT này do Samuel Newhouse, một người nhập cư từ Nga sáng lập gần đây. Gia đình Newhouse đã ngốn ngấu biết bao nhiêu tờ báo khác nhiều đến mức nó gặp phải một thực tế là người đặt báo của nó không còn ủng hộ nó nữa, ngoài những kẻ đặt thuê quảng cáo ở nó. Nó thu lợi nhuận từ quảng cáo-không phải là một sự thay đổi nhỏ tự chủ từ người đọc-và chiếm phần lớn lương trả của chủ bút cùng lợi nhuận của chủ sở hữu. Bất cứ khi nào các nhà quảng cáo lớn trong một thành phố chọn ưu tiên làm ăn với một tờ báo hơn là những tờ khác, tờ báo được ưu ái sẽ phát đạt trong khi các đối thủ của nó sẽ chết. Kể từ đầu thế kỷ 20, khi đám DT hám lợi ở Mỹ trở thành một thế lực thống trị nền kinh tế, thì cũng nhanh chóng vững chắc lần lượt các tờ báo Mỹ rơi vào tay chúng, đi cùng sự suy tàn không thể đảo ngược của những tờ báo không DT-chủ yếu là do hậu quả của chính sách chọn lọc quảng cáo của các nhà buôn DT. Hơn nữa, ngay cả những tờ báo vẫn còn trong tay không DT sở hữu hay quản lý thì cũng tồn tại quá phụ thuộc vào lợi nhuận thu được từ quảng cáo của DT đến mức chính sách biên tập và đưa tin bị DT ép buộc trên qui mô lớn theo DT thích hay không thích. Nó đúng cho các tờ báo kinh doanh ở đâu đó rằng ai thổi sáo kẻ đó tạo ra giai điệu.

Ba tờ báo DT 

Tiêu diệt cạnh tranh và thiết lập độc quyền cục bộ phổ biến trong lĩnh vực tin tức và dư luận là biểu hiện của việc tăng cường kiểm soát báo chí toàn nước Mỹ của DT. Dẫn đến hậu hoạ DT có tiềm năng sử dụng báo chí như một công cụ phục vụ cho chính sách DT mà không có gì để chống lại, minh hoạ rõ ràng nhất là 3 tờ báo có uy thế và ảnh hưởng lớn nhất: New York Times, Wall Street Journal, và Washington Post. 3 tờ này thống trị thủ đô chính trị và tài chính Mỹ, là những tờ báo đặt ra xu hướng và nguyên tắc chỉ đạo cho gần như tất cả các tờ báo khác. Chúng là những kẻ quyết định những gì là tin tức được đăng và những gì thì không, từ cấp độ quốc gia đến cấp độ quốc tế. Chúng tạo ra tin tức, những kẻ khác chỉ đơn thuần là sao chép nó, và tất cả 3 tờ báo này đều nằm trong tay DT. New York Times thành lập 1851 bởi 2 người không DT Henry Raymond và George Jones. Sau khi họ chết, nó đã bị một trùm xuất bản DT mạnh là Adolph Ochs mua từ tài sản gia đình Jones năm 1896. cháu trai cả của Adolph Ochs là Arthur Ochs Sulzberger Jr, hiện là chủ báo và CEO. Điều hành biên tập là Max Frankel, và quản lý biên tập là Joseph Lelyveld. Cả hai đều là DT. Gia đình Sulzberger cũng sở hữu, thông qua hãng New York Times, 33 tờ báo khác, kể cả Boston Globe; 12 tờ tạp chí, kể cả tạp chí McCall’s and Family Circle có số phát hành hơn 5 triệu bản mỗi số; 7 đài phát thanh và truyền hình, hệ thống truyền hình cáp; 3 công ty xuất bản sách. Dịch vụ New York Times News truyền tải nội dung,hình ảnh, tin tức theo đường dây từ New York Times đến 506 tờ báo khác, các hãng tin tức, và các tạp chí. 

Tương tự như tầm quan trọng quốc gia là Washington Post, mà cách thành lập của nó "để lọt ra" từ đầu đến cuối tin tức các tổ chức chính phủ ở Washington, có chân bên những tin tức liên quan đến chính quyền liên bang. Washington Post, cũng như New York Times, có nguồn gốc không DT. 

Nó được Stilson Hutchins thành lập năm 1877, John McLean mua lại của Hutchins từ 1905, sau này là John McLean thừa kế. Trong tháng sáu 1933, tuy nhiên, vào lúc đỉnh điểm của sự mất giá, tờ báo buộc phải phá sản. Nó đã được Eugene Meyer mua tại cuộc đấu giá phá sản, Meyer là một DT nghành tài chính. Washington Post bây giờ do Katherine Meyer Graham, cháu gái của Eugene Meyer nắm. Bà ta cũng là cổ đông chính và chủ tịch hội đồng quản trị của hãng cùng tên Washington Post. Năm 1979, bà bổ nhiệm bà con trai Donald làm chủ tờ báo. Donald bây giờ cũng nắm trụ cột chủ tịch và CEO hãng Washington Post. Hãng Washington Post có một số công ty truyền thông khác nắm các tờ báo, truyền hình, tạp chí,đánh kể nhất là tạp chí 2 tuần 1 kỳ Newsweek. Tờ báo Wall Street Journal bán 1,8 triệu bản mỗi ngày trong tuần, là tờ báo ra hàng ngày lớn nhất nước Mỹ. Nó cũng là sở hữu của Dow Jones&Company một công ty New York xuất bản 24 tờ báo ngày khác và tờ báo tài chính hàng tuần khổ nhỏ Barron cũng như những tờ báo khác. Chủ tịch và CEO của Dow Jones là Peter Kann, một DT. 

Kann cũng giữ ghế chủ tịch và chủ tờ Wall Street Journal. Hầu hết các tờ báo lớn khác ở New York đều không nằm trong tay ai khác ngoài New York Times và Wall Street Journal. New York Daily News là của nhà bất động sản DT Mortimer B. Zuckerman. Village Voice là tài sản riêng của Leonard Stern, tỉ phú DT, chủ nhân hãng cung cấp phim Hartz Mountain.

Các hàng truyền thông khác 

Câu chuyện về các hãng truyền thông khác thì cũng tương tự như lĩnh vực truyền hình, phát thanh và báo chí. Để ý là, ví dụ như tạp chí tin tức. Chỉ có 3 tờ có tiếng tăm ở Mỹ: Time, Newsweek, U.S. News và World Report, với lượng phát hành hàng tuần 4,1 triệu bản và do các chi nhánh của Time Warner Communications xuất bản. CEO Time Warner Communications là DT Gerald Levin. Newsweek, như đã nói ở trên, do Washington Post xuất bản, dưới quyền nữ DT Katherine Graham Meyer. Lượng phát hành hàng tuần 3,2 triệu bản. U.S. News & World Report lượng phát hành 2,3 triệu bản/tuần, là của DT Mortimer Zuckerman, kiêm xuất bản. Zuckerman cũng sở hữu Atlantic Monthly, tờ New York khổ nhỏ và tờ Daily News lớn thứ 6 nước Mỹ. Trong số các nhà xuất bản sách lớn, DT cũng chiếm lĩnh tương tự. 3 trong số 6 nhà xuất bản lớn nhất ở Mỹ, theo nhà xuất bản Weekly là của DT hay do DT kiểm soát. Lớn nhất trong số 3 nhà này là Random House (với rất nhiều chi nhánh, bao gồm Crown Publishing), thứ 3 là Simon&Schuster, và số 6 là Time Warner Trade (bao gồm cả Warner Books and Little, Brown). Một nhà xuất bản đặc biệt quan trọng là Western Publishing. Mặc dù nó chỉ đứng hàng 12 về ui mô trong số các nhà xuất bản Mỹ, nhưng nó đứng đầu trong lĩnh vực sách trẻ em, với hơn 50% thị phần. Chủ tịch và giám đốc điều hành của nó là Richard Snyder, một DT vừa thay thế Richard Bernstein, cũng là DT.

Hậu quả của việc DT kiểm soát truyền thông 

Có những sự thật là DT đã kiểm soát truyền thông đại chúng Mỹ. Bất cứ ai bỏ ra vài giờ trong thư viện lớn đều có thể kiểm tra tính xác thực của việc này. Hy vọng rằng cái sự thực đó ít nhất cũng không làm phiền ai cả. Có nhóm thiểu số nào như DT chiếm 2% dân số Mỹ được phép nắm quyền lực to lớn như vậy? Chắc chắn là không và dân chúng mà niềm tin như được diễn tả trong Talmud, lại có quyền quyết định chúng ta sẽ đọc cái gì hay xem cái gì, ảnh hưởng của nhóm thiểu số quyền lực này định hình tư duy chúng ta cho phù hợp với lợi ích riêng Talmudic của chúng, lợi ích mà như chúng ta đã chứng tỏ là đi ngược lại lợi ích của đa số chúng ta. Bằng cách cho phép DT kiểm soát truyền thông giải trí và tin tức của chúng ta, chúng ta đang làm nhiều hơn là chỉ đơn thuần là trao cho họ uy lực quyết định lên hệ thống chính sách của chúng ta và kiểm soát toàn bộ chính phủ chúng ta; chúng ta cũng đang cho họ kiểm soát tâm hồn và trí tuệ con em của chúng ta, những người mà thái độ và ý tưởng bị khuôn hình theo truyền hình và phim DT nhiều hơn là cha mẹ của họ, trường học của họ, hay bất cứ ảnh hưởng nào khác của họ.

Do Thái hầu như kiểm soát toàn bộ truyền thông Mỹ

MORTIMER ZUCKERMAN, chủ sở hữu NY Daily News, US News &
World Report và chủ tịch Hội nghị các chủ tịch tổ chức Do Thái Mỹ lớn (Conference of Presidents
of Major Jewish American Organizations), đây là một trong những nhóm vận động lớn nhất.

LESLIE MOONVES, chủ tịch hãng truyền hình CBS, là cháu trai lớn của David Ben-Gurion, đồng chủ tịch với Norman Ornstein Hội đồng cố vấn các nhà sản xuất TV kỹ thuật số do Clinton bổ nhiệm.

JONATHAN MILLER CEO, chủ tịch AOL trong tập đoàn AOL-Time-Warner.

NEIL SHAPIRO, chủ tịch NBC News.

JEFF GASPIN, phó giám đốc điều hành chương trình NBC.

DAVID WESTIN, chủ tịch ABC News

SUMNER REDSTONE, CEO của Viacom, hãng truyền thông lớn trên TG gồm cáp TH Viacom cable, CBS và MTV toàn TG, công ty cho thuyê băng đĩa Blockbuster và Black Entertainment TV.

MICHAEL EISNER, ông chủ lớn của những hãng Walt Disney, Capitol Cities, ABC.

RUPERT MURDOCH, chủ của Fox TV, New York Post, London
Times, News of the World.

MEL KARMAZIN, chủ tịch CBS

DON HEWITT, giám đốc điều hành chương trình 60 phút của CBS

JEFF FAGER, giám đốc điều hành chương trình 60 phút II của CBS

DAVID POLTRACK, phó chủ tịch phụ trách điều hành, nghiên cứu và lập kế hoạch của CBS.

SANDY KRUSHOW, chủ tịch hãng Fox Entertainment.

LLOYD BRAUN, chủ tịch hãng ABC Entertainment

BARRY MEYER, chủ tịch hãng Warner Bros.

SHERRY LANSING. chủ tịch hãng Paramount Communications và chủ tịch tập đoàn Paramount Pictures' Motion Picture.

HARVEY WEINSTEIN, CEO của Miramax Films.

BRAD SIEGEL., chủ tịch Turner Entertainment.

PETER CHERNIN, chỉ huy số 2 trong tập đoàn Rupert Murdoch's
News, chủ của Fox TV.

MARTY PERETZ, chủ hãng xuất bản New Republic, hãng này công khai pro-Israel. Al Gore thừa nhận Marty như là cố vấn của ông ta.

ARTHUR O. SULZBERGER, JR., chủ của NY Times, Boston Globe và các nhà xuất bản khác.

WILLIAM SAFIRE, nhà bình luận của NYT.

TOM FRIEDMAN, nhà bình luận của NYT.

CHARLES KRAUTHAMMER, nhà bình luận của Washington Post. Được Reporting.com vinh danh, đây là trang chuyên theo dõi “chống Israel”.

RICHARD COHEN, nhà bình luận của Washington Post.

JEFF JACOBY, nhà bình luận của Boston Globe.

NORMAN ORNSTEIN, American Enterprise Inst., nhà bình luận thường xuyên của USA Today, phân tích tin tức của CBS, đồng chủ tịch với Leslie Moonves trong Hội đồng cố vấn các tài phiệt sản xuất truyền hình kỹ thuật số do Clinton bổ nhiệm.

ARIE FLEISCHER, thư ký báo Dubya.

STEPHEN EMERSON, các nhà truyền thông gọi là chuyên gia khủng bố nội địa.

DAVID SCHNEIDERMAN, sở hữu Village Voice và mạng lưới New Times hàng tuần.

DENNIS LEIBOWITZ, lãnh đạo hãng Act II Partners, chuyên về đầu tư mạo hiểm.

KENNETH POLLACK, chuyên gia phân tích CIA, giám đốc Trung tâm Saban về chính sách Trung Đông, chủ bút các bài xã luận trên NY Times, New Yorker.

BARRY DILLER, chủ tịch công ty USA Interactive, cựu chủ tịch Universal Entertainment.

KENNETH ROTH, giám đốc điều hành tổ chức theo dõi quyền con người (Human Rights Watch).

RICHARD LEIBNER, điều hành hãng tin N.S. Bienstock, là đại diện cho 600 hãng tin cá nhân như Dan Rather, Dianne Sawyer và Bill O'Reilly.

TERRY SEMEL, CEO của Yahoo, cựu chủ tịch Warner Bros.

MARK GOLIN, phó chủ tịch Creative Director, AOL

WARREN LIEBERFORD, Pres., Warner Bros. Home Video Div. AOL- TimeWarner.

JEFFREY ZUCKER, chủ tịch NBC Entertainment.

JACK MYERS, NBC, xếp .NYT 5.14.2.

SANDY GRUSHOW, chủ tịch Fox Entertainment.

GAIL BERMAN, chủ tịch Fox Entertainment.

STEPHEN SPIELBERG, đồng sở hữu Dreamworks.

JEFFREY KATZENBERG, đồng sở hữu Dreamworks.

DAVID GEFFEN, đồng sở hữu Dreamworks.

LLYOD BRAUN, chr tịch ABC Entertainment.

JORDAN LEVIN, chủ tịch Warner Bros. Entertainment.

MAX MUTCHNICK, nhà đồng sản xuất NBC's "Good Morning Miami".

DAVID KOHAN, nhà đồng sản xuất NBC's "Good Morning Miami".

HOWARD STRINGER, xếp Sony Corp. of America.

AMY PASCAL, chủ tịch Columbia Pictures.

JOEL KLEIN, chủ tịch và CEO của Bertelsmann's American.

ROBERT SILLERMAN, nhà sáng lập Clear Channel Communications.

BRIAN GRADEN, chủ tịch MTV entertainment.

IVAN SEIDENBERG, CEO của Verizon Communications.

WOLF BLITZER, chủ của CNN's Late Edition.

LARRY KING, chủ của Larry King Live.

TED KOPPEL, chủ của ABC's Nightline.

ANDREA KOPPEL, phóng viên CNN.

PAULA ZAHN, chủ chương trình CNN.

MIKE WALLACE, chủ chương trình CBS, 60 Minutes.

BARBARA WALTERS, chủ chương trình ABC's 20-20.

MICHAEL LEDEEN, chủ bút National Review.

BRUCE NUSSBAUM, chủ bút trang bình luận Business Week.

DONALD GRAHAM, chủ tịch và CEO của Newsweek và Washington Post, con của CATHERINE GRAHAM MEYER, cựu sở hữu của Washington Post.

HOWARD FINEMAN, xếp mục bình luận chính trị của Newsweek.

WILLIAM KRISTOL, chủ bút của Weekly Standard, giám đốc điều hành cho Project for a New American Century (PNAC).

RON ROSENTHAL, quản lý biên tập của San Francisco Chronicle.

PHIL BRONSTEIN, phụ trách điều hành San Francisco Chronicle.

RON OWENS, chủ Talk Show KGO (ABC-Capitol Cities, San Francisco).

JOHN ROTHMAN, chủ Talk Show KGO (ABC-Capitol Cities, San Francisco).

MICHAEL SAVAGE, chủ Talk Show KFSO (ABC-Capitol Cities, San Francisco) cung cấp cho 100 khách hàng.

MICHAEL MEDVED, chủ Talk Show 124 AM stations.

DENNIS PRAGER, chủ Talk Show toàn quốc được cung cấp từ LA. Ông ta treo cờ Israel ở nhà chứ không hề treo cờ Mỹ.

BEN WATTENBERG, Moderator của PBS Think Tank.

ANDREW LACK, chủ tịch của NBC.

DANIEL MENAKER, giám đốc điều hành của Harper Collins.

DAVID REZNIK, chủ bút tờ New Yorker.

NICHOLAS LEHMANN, cây viết của tờ New York.

HENRICK HERTZBERG, chủ bút của Talk of the Town trên tờ New Yorker.

SAMUEL NEWHOUSE JR, và DONALD NEWHOUSE sở hữu nhà xuất bản Newhouse, gồm 26 tờ báo trong 22 thành phố; nhóm tạp chí Conde Nast, gồm cả New Yorker; Parade, tờ Sunday; tạp chí American City Business, các tờ báo thương mại xuất bản trong hơn 30 thành phố lớn toàn nước Mỹ; có vốn trong các chương trình cáp và hệ thống dịch vụ cáp.

Tài phiệt Mỹ đứng đầu mọi cuộc chiến tranh!

Nước Mỹ non trẻ hơn 200 năm tuổi nhưng tham gia hơn 300 cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Nhiều chuyên gia cho rằng, chiến tranh là để làm giàu cho lái súng Mỹ. Họ nhầm lẫn nặng, chiến tranh là để làm giàu cho tài phiệt nhà băng Mỹ nhiều nhất.

Giới tài phiệt ngân hàng, khẳng định ảnh hưởng của họ trong các ngành công nghiệp bằng cách cung cấp dòng tín dụng cần thiết để sản xuất trong/ngoài nước, dân sự/quân sự. Trong trường hợp bán hàng quân sự, các chính phủ khác nhau mua thì phải trả trước/đặt cọc tại các ngân hàng bảo lãnh cho thương vụ. Các hãng định giá thì trông chờ vào sự hợp tác với các công ty sản xuất để cung cấp một dòng cam kết bảo lãnh quan trọng về tín dụng, và cân nhắc nó khi lượng giá vấn đề rủi ro của công ty. Lãi suất tín dụng lớn làm cho các công ty sản xuất thu được lợi nhuận thấp (nôm na là phải trả lãi quá nhiều) khi phải vay mượn tiền từ các tổ chức tài chính. 

Ngoài ra các tổ chức tài chính còn cung cấp dịch vụ tư vấn/cố vấn cho bộ phận tài chính các công ty công nghiệp để làm sao họ có thể tạo cán cân thu chi cho có hiệu quả nhất, làm sao để đầu tư tiền, tài sản của họ cho sinh lợi và cung cấp cho họ hiểu biết về việc mua bán, sát nhập, loại bỏ, liên doanh với các công ty khác, về rủi ro đầu tư mạo hiểm, về ngoại hối, và tạo điều kiện tiếp cận với thị trường vốn khi công ty muốn phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Các nhà băng cũng quản lý phần tài sản trả lương của các công ty và rốt cục là tất cả các nguồn tài chính cần thiết để hoàn thành dự án/công trình của các công ty. Điều hiển nhiên là các dịch vụ này không phải là miễn phí. 

Kẻ lớn nhất trong thị trường vũ khí là Boeing, không chỉ chế tạo máy bay dân sự, máy bay quân sự, hệ thống phòng thủ tên lửa, thông tin liên lạc vũ trụ, mà còn có các nhà băng đỡ đầu mà nhờ đó có thể cung cấp cho các khách hàng các giao dịch thương mại/tài chính của nó. Hơn 30 ngân hàng ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương đã nhận và gửi dịch vụ của họ cho Boeing. 

Northrop Grumman, làm ăn hoàn toàn trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng, nó được các ngân hàng sau cung cấp tài chính: Bank of America, JP Morgan Chase, Deutsche Bank (đứng thứ 27), Credit Suisse First Boston (đứng thứ 31), Lehman Brothers Holding (đứng thứ 83) và những nhà băng khác. 

Lockheed Martin, nhờ nhiều mối quan hệ có ảnh hưởng với chính phủ, nên là nhà thầu số 1 của các hợp đồng quốc phòng, Lockheed chế tạo F-16 và các loại máy bay chiến đấu, tên lửa Patriot, vệ tinh và một mảng các hệ thống khác. Một trong những kẻ bảo lãnh và là đại diện thân thuộc của Lockheed Martin: JP Morgan Chase. Morgan cung cấp bảo lãnh, bảo hiểm tài sản của nó ra khắp thế giới. 

Công ty Raytheon, một nhà sản xuất quân sự lớn khác được giúp đỡ bởi Citigroup, Bank of America, Credit Suisse First Boston, và JP Morgan Chase. 

General Dynamics, sản xuất xe bọc thép Stryker, xe tăng M1 Abrams và gần đây là MRAP (Mine Resistant Ambush Protected), nhận dịch vụ chủ yếu từ Bank of America và JP Morgan Chase. 

Giá trung bình của 1 máy bay chiến đấu trên thị trường là khoảng $80 triệu, ví dụ giá sản xuất F-35 (JSF) do Lockheed Martin chế tạo khoảng $50 triệu. Giá của Stryker khoảng $2 triệu. Giá xe tăng Abrams khoảng $4,3 triệu. Giá MRAP khoảng $2 triệu và cuối cùng giá 1 quả tên lửa Patriot khoảng $2 triệu. 

Đó là lý do tại sao chẳng hạn, Lockheed Martin, báo cáo dự kiến sẽ tăng 34% lợi nhuận quý II 2007, bởi Lockheed có thu nhập cao hơn từ máy bay chiến đấu và hệ thống điện tử, trong khi chỉ trả lương thấp hơn (International Business Times 2007). Thu nhập cả năm của Lockheed sẽ là $41,1 tỷ, nhờ chiến tranh Afghan, Iraq và những cuộc xung đột khắp thế giới. Và như Washington Post cho biết, còn bao nhiêu những công ty vũ khí khác khác thu lời từ những xác chết trên chiến trường. “General Dynamics tìm thấy lợi nhuận trên chiến trường” (2006).

Tướng Smedley Butler (1881 - 1940), marine nhiều công danh nhất trong lịch sử nước Mỹ, đã một lần đã viết rằng, chiến tranh là cái máy phản lực: "Lợi nhuận làm ăn thông thường ở Mỹ là 6, 8, 10 và đôi khi 20%. Nhưng trong chiến tranh lợi nhuận-ah! Đó là vấn đề khác, 20, 60, 100 và thậm chí cả 1800%. Khi một công ty sản xuất dân sự chuyển sang sản xuất quân sự, lợi nhuận của nó lên như pháo thăng thiên."


Không hẳn là chiến tranh, ví dụ chống khủng bố cũng đem đến lợi nhuận lớn cho những công ty này. Để lấy làm ví dụ, người ta đọc được qua tin tức, Lockheed Martin - nhà tài trợ chính của cuộc đảo chính Chile năm 1973 - được Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa tệ nạn (CDC-Disease Control and Prevention) chọn tiếp tục cung cấp hàng hỗ trợ cho Chi nhánh văn phòng phối hợp sẵn sàng chống khủng bố và phản ứng nhanh. Chỉ riêng phần thưởng này, 5 năm hợp đồng ước lượng giá đã là $135 triệu.


Gắn bó khăng khít với chiến tranh Iraq, là công ty Halliburton của ông phó diều hâu Cheney (xếp hạng 291) hay còn gọi là quí ngài điều hành “Biệt đội thần chết”, có tài sản $16,82 tỷ, được quyền tham gia vào việc thăm dò/sản xuất dầu khí và tái thiết Iraq sau khi chiếm đóng. Halliburton có quan hệ chặt chẽ với Hoàng gia Saudi và được bảo trợ bởi JP Morgan Chase, HSBC Mỹ, Bank USA, Royal Bank of Scotland và Citigroup như là đại diện quản trị. Citigroup điều hành ngân hàng Saudi-American (SAMBA) cho đến năm 2003, và ngầm điều khiển nó sau khi xâm lược Iraq. Thủ tướng Pakistan, Shaukat Aziz - được Tổng thống Musharraf bổ nhiệm - là giám đốc quản lý của SAMBA trong những năm 90. Đứng đầu cả Saudi Arabia và Pakistan trong việc thu lời từ cuộc chiến Iraq. 

Shaw Group là nhà cung cấp các hệ thống ống dẫn, kỹ thuật và dịch vụ xây dựng ở Iraq. Kết hợp với công ty quốc tế được bảo trợ này là Bank of America, JP Morgan Chase, Ngân hàng Hoàng gia Canada (thứ 77) và Ngân hàng Nova Scotia, Canada (hạng 127). 

Bechtel là một công ty kỹ thuật và xây dựng khổng lồ hoạt động tại Iraq, và được đỡ đầu chủ yếu là từ Bank of America và Export-Import Bank. Công ty này đã có và có quan hệ chặt chẽ với các chính quyền Mỹ khác nhau - cả cộng hòa và dân chủ - và cũng với gia đình hoàng gia Saudi. Riley Bechtel, chủ sở hữu chính của nó đã bổ nhiệm G. W. Bush làm cố vấn. 

Để chuẩn bị các cấp độ khác nhau cho chính phủ và công chúng trước các cuộc chiến tranh - tại Afghanistan và Iraq - những hãng quốc tế khổng lồ này sử dụng các Thùng ý tưởng (think-tanks) như Hội đồng Quan hệ đối ngoại, và trả rất nhiều tiền. Cũng như vậy, thường xảy ra là các quan chức nhận hối lộ và công chúng bị ném bom những bịa đặt dối trá hay giả mạo về nguy cơ gì đó qua các phương tiện truyền thông. 

Để tăng cường mối liên hệ giữa chính phủ, vốn đầu tư tài chính và cánh công nghiệp, trao đổi những kinh nghiệm và thủ đoạn giữa chúng với nhau, các quan chức cấp cao, các viên quản trị và điều hành được luân chuyển lên xuống liên tục từ các ngân hàng đến các ghế trong chính phủ đến các công ty và ngược lại. Ví dụ, 2 viên quản trị chính điều hành Bechtel sang làm ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng trong chính quyền Reagan. George Schultz, cựu chủ tịch Bechtel, cựu ngoại trưởng Mỹ là một kẻ ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến chống Iraq và cũng như thế, Dick Cheney “rời” Halliburton để làm phó tổng thống trong chính quyền G. W. Bush. Ví dụ khác, tháng 2-2001, Northrop thông báo rằng Lewis W. Coleman, cựu Chủ tịch chứng khoán LLC - Bank of America, trở thành thành viên của ban giám đốc Northrop. 

Và để nhấn mạnh giới tài phiệt đã làm thế nào để điều khiển chính phủ, ở đây chúng ta đã đề cập đến những gã tài chính khổng lồ như Citigroup – kẻ có số lớn tài sản đến từ vụ cướp bóc Ngân hàng TW Haiti - JP Morgan Chase và HSBC Holdings, kiểm soát Federal Reserve Cartel qua cổ phần của ngân hàng. 

Trong khi cuộc sống bình thường của dân chúng căng thẳng bởi tất cả các loại thuế, thì đặc biệt là những công ty khổng lồ này lại được giảm thuế lớn. Tham nhũng đã trở thành không thể kiềm chế được trong tất cả các lĩnh vực và ở mọi cấp độ của xã hội. Ví dụ trong việc buôn bán vũ khí quốc tế, khoảng $2,5 tỷ được chi trả như hối lộ. Vốn tài chính để mở mang đầu tư ra các thị trường mới bằng cách hối lộ lớn, nếu không phải bằng vũ lực tàn bạo. 

Trước đây, chính phủ Mỹ thông báo rằng họ sẽ cho phép bán khoảng $60 tỷ vũ khí cho Israel, Ai Cập, Ả Rập Saudi và vùng Vịnh với cái cớ mối đe dọa Iran, (ABC News). Trong cùng ngày đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hợp Quốc đã cáo buộc Saudi Arabia và đồng minh Mỹ trong khu vực, phá hoại nỗ lực kiềm chế bạo lực ở Iraq. Nói cách khác, điều quan trọng là kiếm tiền lớn và lớn hơn nữa từ lợi nhuận buôn bán vũ khí ngọt ngào, không có vấn đề gì với cuộc sống đắng cay của hàng triệu người Iraq và hàng ngàn người Mỹ đang sa lầy trong cuộc chiến Iraq. 

Có câu hỏi: những đồng tiền này đến từ đâu? Câu trả lời là - ngoại trừ trong trường hợp của Israel - những đồng tiền này đến từ việc bán rẻ tài nguyên thiên nhiên của các nước lạc hậu và vay mượn với lãi suất cao từ cùng các ngân hàng quốc tế, mà không bao giờ có thể trả được, vì tiền lãi ngày càng chồng chất lên tiền lãi. Và trong chủ đề ngân sách chính phủ Mỹ, đó là tiền của người nộp thuế mà thay vì được sử dụng cho các phúc lợi xã hội lại bị đem ra phục vụ cái mồm ngày càng tham lam của con quái vật chiến tranh. Khoảng 41% hay hơn ngân sách chính phủ Mỹ hàng năm, $650 tỷ đến với các cuộc chiến tranh. 

Mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ, và cánh công nghiệp tác động to lớn về mọi mặt đến xã hội và thiên nhiên. Chúng kéo xã hội đến bản năng động vật của chúng. Chúng phá hủy một quốc gia và cho vay tiền để xây dựng lại nó, một lần nữa phá hủy nó và lại xây dựng lại nó - thậm chí là trên giấy – tất cả chỉ để đạt được lợi nhuận sau lợi nhuận, vớ bẫm nhiều chiều, và quan trọng nhất là qua việc tăng cổ phần nắm giữ của chúng bằng cách thao túng cung-cầu của những hàng hóa đặc biệt như dầu mỏ. 

Một lần nữa trong trường hợp của Iraq, "Bộ trưởng Iraq sẽ có thể vay hàng tỷ đô la để mua nhiều trang thiết bị cần thiết từ các nhà cung cấp nước ngoài, nhưng chỉ được bằng cách thế chấp doanh thu dầu mỏ quốc gia qua ngân hàng được quản lý bởi 1 ngân hàng New York của nhà băng đa quốc gia JP Morgan Chase. (CorpWatch) 

Để đi đến kết luận, mối liên hệ giữa vốn đầu tư tài chính, chính phủ và giới công nghiệp có thể mô tả dưới tên TỔ HỢP TÀI CHÍNH-CÔNG NGHIỆP. Nhưng thuật ngữ này không phản ánh toàn bộ các khía cạnh của liên minh làm ăn này, bởi vì giới công nghiệp và chính phủ Mỹ, chính họ bị kiểm soát bởi các nguồn vốn tài chính hay giới tài phiệt. 

nguồn tham khảo từ Báo Anh: timesonline.co.uk

Những đại gia đình đang thống trị thế giới



Chỉ cần gõ cụm từ “The Large Families that rule the world” vào google, dễ tìm được hàng loạt trang cùng nói 1 chủ đề: kẻ nào đang thống trị thế giới ngày nay.

Một số người đã bắt đầu nhận ra rằng có những tập đoàn tài chính lớn đang thống trị thế giới. Không kể đến các mưu đồ chính trị, xung đột, các cuộc cách mạng và chiến tranh. Đó không phải là tình cờ. Tất cả mọi thứ đã được lên kế hoạch từ lâu.

Một số gọi nó là "thuyết âm mưu" hay New World Order. Dù sao, điều chính yếu để hiểu các sự kiện chính trị và kinh tế hiện nay là một hạt nhân hẹp các gia đình, những kẻ đã tích lũy được rất nhiều của cải và quyền lực.

Chúng ta đang nói về 6, 8 hoặc có thể 12 gia đình thực sự đang thống trị thế giới. Biết rằng điều đó là một bí ẩn khó làm sáng tỏ.

Chúng ta sẽ không xa sự thật bằng cách trích dẫn Goldman Sachs, Rockefellers, Loebs Kuh và Lehmans ở New York, Rothschild Paris và London, Warburgs của Hamburg, Paris và Lazards ở Israel, Moses Seifs ở Rome.

Nhiều người đã nghe nói về Nhóm Bilderberg, Khai sáng (Illuminati) hoặc Hội tam điểm. Nhưng tên của những gia đình, những kẻ đang vận hành thế giới này và kiểm soát các quốc gia, các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, NATO, WB hay IMF là gì?

Để cố gắng trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể bắt đầu với những điều đơn giản nhất: tóm tắt những nhà băng lớn nhất thế giới, và xem ai là cổ đông và ai đưa ra quyết định.

Các nhà băng lớn nhất thế giới hiện nay là: Bank of America, JP Morgan, Citigroup, Wells Fargo, Goldman Sachs và Morgan Stanley.

Bây giờ chúng ta xem xét các cổ đông của họ là ai.

Bank of America:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, FMR (Fidelity), Paulson, JP Morgan, T. Rowe, Capital World Investors, AXA, Bank of NY, Mellon.

JP Morgan:
State Street Corp., Vanguard Group, FMR, BlackRock, T. Rowe, AXA, Capital World Investor, Capital Research Global Investor, Northern Trust Corp. và Bank of Mellon.

Citigroup:
State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock, Paulson, FMR, Capital World Investor, JP Morgan, Northern Trust Corporation, Fairhome Capital Mgmt và Bank of NY Mellon.

Wells Fargo:
Berkshire Hathaway, FMR, State Street, Vanguard Group, Capital World Investors, BlackRock, Wellington Mgmt, AXA, T. Rowe và Davis Selected Advisers.

Chúng ta có thể thấy rằng có nhóm hạt nhân có mặt và lặp lại trong tất cả các nhà băng: State Street Corporation, Vanguard Group, BlackRock và FMR (Fidelity). Để tránh lặp lại tên của họ, bây giờ chúng ta sẽ gọi họ là "tứ đại gia".

Goldman Sachs:
"Tứ đại gia", Wellington, Capital World Investors, AXA, Massachusetts Financial Service và T. Rowe.

Morgan Stanley:
"Tứ đại gia", Mitsubishi UFJ, Franklin Resources, AXA, T. Rowe, Bank of NY Mellon e Jennison Associates. Rowe, Bank of NY Mellon và Jennison Associates.

Chúng ta có thể chỉ mới xác định tên của các cổ đông lớn. Để đi xa hơn, phải tìm hiểu về các cổ đông của những công ty này và các cổ đông của các ngân hàng lớn trên toàn thế giới.

Bank of NY Mellon:
Davis Selected, Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Dodge, Cox, Southeatern Asset Mgmt. và ... “tứ đại gia”.

State Street Corporation (1 trong 4 "tứ đại gia"):
Massachusetts Financial Services, Capital Research Global Investor, Barrow Hanley, GE, Putnam Investment và ... “tứ đại gia” (cổ đông của chính nó!).

BlackRock (1 trong 4 “tứ đại gia”):
PNC, Barclays e CIC.

Ai đứng sau PNC? FMR (Fidelity), BlackRock, State Street, v, v.
Và ai đứng sau Barclays? Là BlackRock.

Và chúng ta có thể mất nhiều giờ đi qua thiên đường thuế tại quần đảo Cayman, Monaco hoặc nơi cư trú hợp pháp của công ty Shell ở Liechtenstein. Một mạng lưới nơi các công ty luôn luôn là giống nhau, nhưng không bao giờ có tên của một đại gia.

Tóm lại: 8 công ty tài chính lớn nhất nước Mỹ (JP Morgan, Wells Fargo, Bank of America, Citigroup, Goldman Sachs, US Bancorp, Bank of New York Mellon và Morgan Stanley) được kiểm soát 100% bởi 10 cổ đông và chúng ta có 4 công ty luôn luôn hiện diện trong tất cả các quyết định: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity.

Ngoài ra, Cục Dự trữ liên bang Mỹ - FED (cũng là 1 nhà băng có tên gọi như vậy) bao gồm 12 nhà băng, được đại diện bởi một hội đồng quản trị 7 người, trong đó bao gồm các đại diện của "tứ đại gia", mà lần lượt có mặt trong tất cả các thực thể khác.

Tóm lại, FED được điều khiển bởi bốn công ty tư nhân lớn: BlackRock, State Street, Vanguard và Fidelity. Các công ty này kiểm soát chính sách tiền tệ của Mỹ (và thế giới), mà không có ai kiểm soát chúng hay có lựa chọn "dân chủ". Các công ty này làm ra và tham gia vào cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay trên toàn thế giới và để đạt được mục đích trở thành giàu có hơn.

Để kết thúc, hãy nhìn vào một số các công ty bị kiểm soát bởi nhóm "tứ đại gia" này:

Alcoa Inc.
Altria Group Inc.
American International Group Inc.
AT&T Inc.
Boeing Co.
Caterpillar Inc.
Coca-Cola Co.
DuPont & Co.
Exxon Mobil Corp.
General Electric Co.
General Motors Corporation
Hewlett-Packard Co.
Home Depot Inc.
Honeywell International Inc.
Intel Corp.
International Business Machines Corp
Johnson & Johnson
JP Morgan Chase & Co.
McDonald's Corp.
Merck & Co. Inc.
Microsoft Corp.
3M Co.
Pfizer Inc.
Procter & Gamble Co.
United Technologies Corp.
Verizon Communications Inc.
Wal-Mart Stores Inc.
Time Warner
Walt Disney
Viacom
Rupert Murdoch's News Corporation.,
CBS Corporation
NBC Universal

Cùng một "tứ đại gia" kiểm soát phần lớn các công ty châu Âu trên thị trường chứng khoán.

Ngoài ra, tất cả những kẻ điều hành các tổ chức tài chính lớn như Quĩ tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng Trung ương châu Âu - ECB và Ngân hàng Thế giới - WB, đã được "đào tạo" và vẫn là "nhân công" của "tứ đại gia", kẻ thành lập ra các tổ chức này.

Tên của các gia đình kiểm soát "tứ đại gia", không bao giờ xuất hiện. Nhưng chắc chắn là Do Thái.


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...