Khơi mào WW-II tuyệt nhiên không phải là
"Hitler khát máu"
tự mình
đến
được quyền lực
Đức. WW-II là dự
án của các
đầu sỏ tài phiệt quốc tế,
các
ông chủ Anh-Mỹ.
Đó là
họ,
dựa vào các tổ chức của họ như
Cục dự trữ liên bang FED,
Ngân hàng Anh,
ngay sau WW-I
đã bắt
đầu chuẩn bị cho cuộc chiến tranh kế tiếp sẽ nổ ra ở qui mô
thế giới.
Kế hoạch chiến tranh mới chĩa mũi nhọn trực tiếp vào Nga,
(bởi tay sai cướp
đoạt nước Nga của họ:
Trotsky
đã thất bại).
Kế hoạch Daues và kế hoạch Young, thiết lập ngân hàng thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements - BIS), tuyên bố của Đức về đình chỉ chi trả bồi thường chiến tranh WW-I theo Hiệp ước hòa bình Paris và thỏa thuận ngầm của cựu đồng minh Nga với quyết định này, luồng đầu tư hùng mạnh từ nước ngoài bơm vào Third Reich, quân sự hóa nền kinh tế Đức bất chấp các điều kiện hòa bình của Hiệp ước Paris trở thành những sự kiện quan trọng chuẩn bị cho điều này.
Các nhân vật chính trong các hoạt động hậu trường của những ông chủ Anh-Mỹ là gia đình Rockefeller và Morgan, Montagu Norman (giám đốc Ngân hàng Anh), Hjalmar Schacht (giám đốc Reichsbank, bộ trưởng kinh tế Third Reich). Ý đồ chiến lược của Rockefeller và Morgan là khuất phục châu Âu về kinh tế và với sự giúp sức của việc bơm tín dụng nước ngoài và đầu tư vào Đức, đưa Nga trở lại trong lòng hệ thống tư bản quốc tế như thuộc địa.
Montagu Norman (1871-1950) đóng vai trò trung gian quan trọng giữa tư bản tài chính Mỹ và giới chính khách, kinh doanh Đức. Hjalmar Schacht được đặt vào vai tổ chức kinh
tế-quân sự cho phát xít Đức. Giữ chức năng che chắn cho các hoạt động bí mật
của những ông chủ là các chính khách
dạng Franklin Roosevelt, Nevill Chamberlain và Winston Churchill. Ở Đức, Hitler
cùng với Schacht là kẻ thi hành quan trọng cho những kế hoạch này. Lưu ý là 1
số nhà sử học đánh giá vai trò của Schacht trong việc điều hành, quản trị nước
Đức trong những năm WW-II cao hơn Hitler. Đơn giản trên hết, ông ta là nhân vật
không được biết đến rộng rãi.
Kế hoạch Daues được chấp thuận năm 1924,
ban đầu được các ông chủ Anh-Mỹ trù tính để khắc phục gánh nặng bồi thường WW-I
của Đức (mà theo đó Pháp đã nhận được hơn 1 nửa bồi thường một cách vô cùng đau
đớn khổ sở), đồng thời tạo ra nguồn tài chính hỗ trợ Đức từ Mỹ và Anh ở dạng
cho vay, viện cớ khôi phục kinh tế hồi phục nguồn bồi thường cho đầy đủ. Theo kế
hoạch Daues, các năm 1924-1929, Đức đã nhận từ Mỹ và Anh tương ứng 2,5 và 1,5 tỷ
USD. Theo thời giá hiện nay đó là số tiền
khổng lồ, xấp xỉ 1000 tỷ USD. Hjalmar Schacht vừa là đồng tác giả, vừa thực
hiện Daues, ông ta tổng kết kết quả triển khai kế hoạch này vào năm 1929 với sự
hài lòng thông báo rằng, "Nước Đức trong 5 năm nhận được các khoản
vay nước ngoài, nhiều như nước Mỹ đã nhận trong 40 năm trước WW-I"
(1). Kết quả, nước Đức bị đánh gục trong chiến tranh WW-I thì năm 1929 đã đứng vị
trí thứ 2 trên thế giới về sản lượng công nghiệp, họ đã vượt nước Anh.
Trong các năm thập kỷ 1930, quá
trình bơm tiền và đầu tư vào kinh tế Đức được tiếp tục. Nhằm mục đích này, theo
kế hoạch Young năm 1930, Nhà băng thanh toán quốc tế BIS đã được thiết lập ở Thụy
Sĩ (Basel). Mục đích chính của BIS là thanh toán bồi thường cho Đức thay mặt các
nước thắng WW-I. Nhưng thực sự là thông qua BIS, dòng tiền đã chảy ngược lại – từ
Mỹ và Anh sang Đức. Cho đến đầu 1930, nó đã biến hầu hết các công ty quan trọng
mức chiến lược của Đức thành sở hữu hay thuộc phần kiểm soát của tư bản Mỹ, một
số thuộc về nhà đầu tư Anh. Như thế, công nghiệp chế biến dầu mỏ của Đức và sản
xuất nhiên liệu tổng hợp từ than đá thuộc về công ty Mỹ "Standard Oil"
của Rockefeller – nó rất quan trọng để phục vụ chiến tranh. Công nghiệp hóa chất
cốt lõi, hãng I. G. Farbenindustri bị chuyển giao quyền kiểm soát sang tay nhà băng
Morgan. 40% mạng lưới điện thoại Đức và 30% cổ phần của hãng máy bay "Fokke-Woolf"
thuộc về công ty ITT của Mỹ. Công nghiệp điện và radio cốt lõi Đức, với những cái
tên quen thuộc "AEG", "Simens", "Osram" bị chuyển
giao quyền kiểm soát sang công ty Mỹ General Electric. Cả ITT và General Electric
đều nằm dưới trướng đế chế tài chính Morgan. Cuối cùng, 100% cổ phần của hãng Volksvagen
cũng thuộc về Mỹ, hãng Ford.
Trong cuộc chiến
6 ngày năm 1967, Israel làm tê liệt toàn bộ sân bay Arab bằng khí độc thần kinh
LSD
25 – nó được sản xuất từ các công ty hóa chất Đức.
Vào thời điểm Hitler nắm quyền lực
nước Đức, thì tư bản tài chính Mỹ đã nắm toàn bộ các ngành công nghiệp chiến
lược quan trọng Đức: chế biến dầu mỏ và sản xuất nhiên liệu tổng hợp từ than đá,
hóa chất, tự động hóa, hàng không, thiết bị điện và radio, phần lớn ngành cơ
khí (278 công ty). Ngoài ra, tư bản Mỹ cũng kiểm soát các nhà băng Đức hàng đầu:
"Deutsche Bank", "Dresdner Bank", Donat bank" và một loạt
các nhà băng khác (2).
***
Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Hitler được
phong làm Chancellor
của Third Reich. Trước đó, các ứng cử viên đã được các nhà băng nghiên cứu kỹ
lưỡng. Chủ tịch Hjalmar Schacht
của nhà băng Reichsbank vào mùa thu 1930 đã có chuyến công du vượt đại dương đến gặp “đối tác”
Mỹ để thảo luận chi tiết kế hoạch đưa Hitler lên quyền lực. Sau khi ứng cử viên
Hitler và kế hoạch xúc tiến chính trị của ông ta cuối cùng được các nhà băng Mỹ
phê chuẩn trong 1 cuộc họp bí mật. Schacht trở về Đức. Cả năm 1932 ông ta bận
rộn làm việc với các nhà băng Đức và các nhà công nghiệp, thúc giục họ ủng hộ Hitler
1 cách tuyệt đối. Với sự ủng hộ này, ngày 17 tháng 11 năm 1932, 17 nhà băng và
các nhà công nghiệp lớn đã viết thư gửi tổng thống Đức Hindenburg yêu cầu bổ nhiệm Hitler
làm Chancellor.
Hội nghị các nhà tài chính Đức cuối cùng trước bầu cử được tổ chức vào ngày 4
tháng 1 năm 1933 tại nhà của nhà băng nổi tiếng Đức Schroeder gần Cologne.
Trong suốt cả cuộc
đời cầm quyền, mặc dù nhiều lần lớn tiếng tuyên bố quốc hữu hóa tài sản ngoại
quốc, nhưng Hitler không bao giờ đụng vào đó 1 sợi lông. Hắn ta giả vờ, lừa lọc
tuyệt đối, 1 thủ đoạn mị dân ru ngủ người Đức.
Sau khi phe Xã hội dân tộc lên nắm
quyền, quan hệ tài chính-tín dụng và tương mại
giữa Đức và giới Anglo-Saxon được nâng tầm lên đỉnh cao chất lượng mới
Hitler ngay lập tức lại lớn tiếng không trả bồi thường
WW-I. Điều này tự nhiên đặt ra vấn về về khả năng trả nợ của Anh và Pháp với Mỹ
vì đã vay tín dụng trong thời kỳ WW-I, nhưng ở bên kia bờ đại dượng, tuyên bố
của Hitler được chấp nhận mà không có bất cứ sự phản đối nào. Vào tháng 5-1933 Schacht
đi Mỹ lần thứ kế tiếp. Ông ta gặp TT F. Roosevelt và các nhà băng lớn để ký
thỏa thuận nhận $1 tỷ tín dụng Mỹ. Tháng 6-1933, Schacht đến London đàm phán với Montagu Norman.
Mọi thứ suôn sẻ như thể chuyện cổ
tích: Anh Quốc đồng ý cho Third Reich vay thêm 2 tỷ đô la mà không đòi hỏi bất
cứ cái gì liên quan đến việc Đức đã dừng trả các khoản nợ trước kia cho Anh. Một
số nhà sử học tin rằng, 1 lý do quan trọng để các nhà băng Anh-Mỹ dễ dãi đến thế,
là Liên Xô trong năm 1932 đã kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và làm phương
Tây thấy bất ngờ với sự gia tăng sức mạnh kinh tế Xô Viết. Họ đã xây dựng và hoạt
động đến vài ngàn nhà máy, chủ yếu là công nghiệp nặng. Sự phụ thuộc của Liên Xô
vào nhập khẩu xe cộ và trang thiết bị đã tụt giảm mạnh sau vài năm. Viễn cảnh Liên
Xô bị bóp nghẹt kinh tế đã biến mất. Vậy nên tổng hành dinh chiến tranh WW-II cần
thêm tiền, nó đang được gấp rút dàn dựng, cuộc quân phiệt hóa dữ dội nước Đức bắt
đầu.
Sự dễ dãi của Mỹ đối với việc cho
Đức vay tín dụng cũng được giải thích là bởi hầu như khi Hitler lên nắm quyền ở
Đức cũng là lúc Franklin Roosevelt lên làm TT Mỹ. Ông ta cũng được chống lưng bởi
cùng các nhà băng Mỹ, những kẻ đã chống lưng cho Hitler. Kẻ làm TT mới không thể
nào lại không phê chuẩn hào phóng tín dụng cho chế độ mới ở Berlin. Bên cạnh
đó, nhiều người lưu ý, có rất nhiều tương đồng giữa "đường lối kinh tế mới"
của Roosevelt ở Mỹ và “chính sách kinh tế mới” của Hitler ở Third Reich. Không
có gì ngạc nhiên cả. Cùng 1 số kẻ, chủ yếu là giới tài chính Mỹ, đóng vai cố
vấn và phát triển chính sách kinh tế cho cả 2 quốc gia.
Tuy nhiên "đường lối kinh tế mới"
của Roosevelt bắt đầu trượt dốc sớm. Năm 1937, nước Mỹ 1 lần nữa lại rơi vào vực thẳm khủng hoảng, năm 1939 tỷ trọng
công nghiệp Mỹ chỉ đạt 33% (giữa khủng hoảng 1929-1933 là 19%). Đánh giá tình hình
Mỹ năm 1939, một trong số các cố vấn của Roosevelt là P. Taguell viết: "Năm
1939 chính phủ đã không giành được tiến bộ nào. Phía trước là biển lớn đang đến
ngày, Ba Lan bị xâm lược bởi Hitler. Sương mù có thể tan chỉ khi có là gió chiến
tranh. Mọi biện pháp khác ở chính quyền Roosevelt, sẽ không mang lại bất cứ kết
quả nào" (3).
Trong điều kiện như vậy, chỉ có chiến
tranh thế giới mới cứu được tư bản Mỹ. Năm 1939 các ông chủ tiền bạc, sử dụng mọi
điều khiển mà họ có thể, bắt đầu gây áp lực lên Hitler, yêu cầu hắn ta ngay lập
tức bắt đàu cuộc chiến lớn về phía đông.
***
(1) «История Великой Отечественной войны» в 6 томах, т. 1, с.
4.
(2) Р. Эпперсон. Невидимая
рука” (2-е изд.) - СПб, 1999, с. 294; “История Великой Отечественной войны” в 6
томах, т. 1, с. 34-35, “История Второй Мировой войны” в 12 томах, т. 1, с. 112,
183 и т. 2, с. 344.
(3)
P. Tuguell, The Democratic Roosvelt, A Biography of Franklin D. Roosvelt, New
York, 1957, p 477, “История Второй Мировой войны” в 12 томах, т. 2, с. 341.
***
Chúc mừng 70 năm chiến thắng phát xít Đức!
Chúc mừng 1000 năm chiến thắng chủ nô Zion cai trị phương Tây!
Chúc mừng thắng lợi trận chiến cuối cùng!