Vào tháng 8 năm 1991, GKChP gồm các thành
viên lực lượng vũ trang, an ninh… thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng nhằm bảo tồn
Liên Xô. Họ đã không thành công và bị buộc tội đảo chính, lật đổ.
Hầu hết tất cả các thành
viên chủ chốt của Ủy ban tình trạng khẩn cấp nhà nước - GKChP trong vụ việc 1991 đều đã qua đời. Tất cả họ, có những
người chấp nhận số phận bi thảm, có những người ra đi thanh thản, tất cả họ, những
người mặc quân phục đều được khôi phục danh hiệu và giải thưởng trong những năm
Vladimir Putin làm tổng thống, hoặc được chôn cất bằng các nghi lễ danh dự quân
đội, Đại úy Surovikin - chỉ huy tiểu đoàn của sư đoàn Taman, mà BMP đã giết chết
D. Komar, I. Krichevsky và V. Usov, những kẻ cố ngăn cản xe quân sự di chuyển đến
Nhà Trắng - đã có một sự nghiệp thăng tiến nhanh chóng: đến năm 2017, ông là Tổng
tư lệnh lực lượng vũ trụ-quân sự Nga, và kể từ năm 2021 được thăng hàm tướng theo
sắc lệnh của Tổng thống Vladimir Putin.
Dưới này là một số thành viên chủ chốt của Ủy ban Tình trạng khản cấp nhà nước - GKChP;
***
Oleg Baklanov (1932 - 2021)
Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng dưới thời TT Gorbachev, Ủy viên BCHTƯ CPSU, thành
viên GKChP.
Bị bắt, ở một năm rưỡi trong nhà tù SIZO Matrosskaya Tishina, năm 1994 ông được
ân xá. Làm Chủ tịch hội đồng quản trị của tập đoàn Rosobschemash, quản lý các
chương trình về tên lửa và công nghệ vũ trụ. Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị và Hợp
tác của Nhân dân Ukraine và Nga. Cố vấn cho Tổng giám đốc RSC Energia mang tên
S.P. Korolev.
|
|
Vladimir Kryuchkov (1924-2007)
Tướng quân đội, Chủ tịch KGB Liên Xô, Ủy viên BCHTƯ CPSU, thành viên GKChP.
Bị bắt, giam tại SIZO Matrosskaya Tishina, vào tháng 12 năm 1992, Kryuchkov được
tại ngoại và cấm xuất cảnh, năm 1994 được ân xá. Năm 1994 ông làm Chủ tịch Hội
đồng khoa học kỹ thuật dưới quyền giám đốc nhà hát kiêm nhà khoa học chính trị
Sergei Kurginyan. Từ giữa những năm 1990, ông là Chủ tịch Hội đồng quản trị của
Công ty CP Region thuộc AFK Sistema. Cuối những năm 90, ông là thành viên ban
tổ chức Phong trào ủng hộ quân đội, trong các năm 1998-1999 là Cố vấn cho Vladimir
Putin khi giữ chức Giám đốc FSB.
|
|
Valentin Pavlov (1937-2003)
Thủ tướng Liên Xô, Ủy viên BCHTƯ CPSU, thành viên GKChP.
Vào sáng ngày 19 tháng 8 1991, Pavlov được chẩn đoán ngộ độc rượu, ngày hôm sau
nhập viện tại Bệnh viện Lâm sàng Trung ương với chẩn đoán tăng huyết áp nguy
hiểm. Từ đó ông bị bắt và được chuyển đến SIZO Matrosskaya Tishina, sau điều
tra thì được trả tự do, đến năm 1994 được ân xá. Năm 1994-1995 – là Chủ tịch Chasprombank, 1996–1997 là
Cố vấn cho Promstroybank. Cả hai ngân
hàng đều bị thu hồi giấy phép vào nửa cuối những năm 1990.
|
|
Boris Pugo (1937-1991) Đại
tá, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô, Ủy viên Hội đồng An ninh Liên Xô, Ủy viên BCHTƯ
CPSU, thành viên GKChP.
Nghi án bị ám sát, nhưng được cho là tự sát ngày 22 tháng 8 năm 1991. Vợ Pugo là Valentina Pugo cũng
bị bắn.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Vasily Starodubtsev (1931
-2011) Đại biểu Hội đồng nhân dân Liên Xô, Chủ tịch Liên minh Nông dân Liên Xô,
lãnh đạo Liên đoàn Công nhân Nông nghiệp RSFSR, thành viên GKChP.
Bị bắt, giam giữ ở SIZO Matrosskaya Tishina, vào tháng 6 năm 1992 được trả tự
do vì lý do sức khỏe và không được xuất cảnh, đến năm 1994 được ân xá. Starodubtsev
là một trong những người sáng lập Đảng Nông dân Nga. Vào năm 1993-2001 là Thành
viên Hội đồng Liên bang Nga. Từ năm 1997 là Ủy viên BCHTƯ KPRF. Năm 1997-2005
làm Thống đốc Vùng Tula. Từ năm 2007 – đại biểu Duma trong thành phần KPRF. Thành
viên Hội đồng quản trị Quỹ hưu trí của công nhân nông nghiệp. Mất ngày 30 tháng 12 năm 2011;
|
|
|
|
Alexander Tizyakov (1926 -2019) Tổng giám
đốc Nhà máy chế tạo máy mang tên V.I. Kalinina, Phó chủ tịch Liên minh Khoa học
và Công nghiệp Liên Xô, Chủ tịch Hiệp hội các doanh nghiệp nhà nước và các hiệp
hội công nghiệp, xây dựng, giao thông và thông tin liên lạc của Liên Xô, thành
viên GKChP.
Bị bắt và giam giữ ở SIZO Matrosskaya Tishina,
năm 1994 được ân xá. Kể từ đầu những năm 2000 là người đồng sáng lập Antal CJSC
(chế tạo máy) và công ty bảo hiểm Severnaya Kazna, đồng thời là người sáng lập
Vidikon LLC và Fideliti. Ông làm lãnh đạo Ban giám đốc công ty đầu tư và ủy thác
"New Technologies". Cho đến cuối đời là Chủ tịch doanh nghiệp Nga-Kyrgyzstan
"Công nghệ", giám đốc khoa học của LLC "Science-93".
|
|
Dmitry Yazov (1923 - 2020) Nguyên soái, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, thành viên GKChP.
Ông Yazov bị bắt và bị giam giữ ở SIZO Matrosskaya Tishina, năm 1994 được ân xá.
Ông được bổ nhiệm làm cố vấn trưởng-cố vấn cho lãnh đạo Học viện Bộ Tổng tham
mưu. Cuối những năm 1990, ông làm cố vấn quân sự chính của Cục Hợp tác quân sự
quốc tế Bộ Quốc phòng. Từ năm 2006 đến 2020, ông công tác trong Tổng thanh tra
Bộ Quốc phòng LB Nga, cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Anatoly Serdyukov. Ông
qua đời ở tuổi 95 và là Nguyên soái Liên Xô cuối cùng, Tổng thống đương nhiệm
Vladimir Putin và Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Shoigu đã gửi lời chia buồn tới
vị tướng. Yazov được chôn cất với nghi lễ danh dự quân đội tại nghĩa trang tưởng
niệm nhà nước.
|
|
Gennady Yanaev (1937–2010) Phó Tổng thống
Liên Xô dưới quyền Gorbachev, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư BCHTƯ, Chủ tịch GKChP.
Bị bắt, giam giữ ở SIZO Matrosskaya Tishina, năm 1994 được ân xá. Ông từng là
cố vấn cho Ủy ban Cựu chiến binh và Người tàn tật của cơ quan nhà nước "Quê
hương và Danh dự", Chủ tịch Quỹ giúp đỡ đầu trẻ em khuyết tật. Năm 2002-2010
là Trưởng Khoa Lịch sử Quốc gia và Quan hệ Quốc tế của Học viện Du lịch Quốc tế
Nga.
|
|
Vladislav
Achalov (1945–2011) Đại tá, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, Đại biểu Hội đồng nhân dân RSFSR, thành viên Xô
Viết Tối cao Liên bang Nga.
Achalov không bị bắt trong vụ án GKChP, vì Hội đồng Xô Viết tối cao từ chối tước
quyền miễn trừ thứ trưởng của Achalov. Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1991, bị đình
chỉ chức vụ theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau đó ông được điều
động về lực lượng dự bị động viên. Tháng 8 năm 1992, ông trở thành lãnh đạo Trung
tâm phân tích dưới quyền Chủ tịch Xô Viết Tối cao LB Nga R. Khasbulatov. Năm 1993,
Achalov ủng hộ Xô Viết Tối cao và Khasbulatov trong cuộc binh biến rồi đầu hàng
vào ngày 4 tháng 10 khi Yeltsin tấn công vào Tòa Quốc hội và bị quản thúc cho
đến khi được ân xá năm 1994. Từ tháng 8 năm 1995, ông là đồng Chủ tịch Hội Sĩ
quan toàn Nga, cho đến năm 2000, ông là thành viên của ban tổ chức Phong trào
ủng hộ quân đội. Năm 1999, ông ứng cử vào Duma Quốc gia. Trong năm 2003–2011 Ông
từng là Chủ tịch Liên minh toàn Nga các Hiệp hội Cựu chiến binh Binh chủng dù
"Liên minh các binh sĩ Nhảy dù Nga".
|
|
|
|
|
|
Valery Boldin (1935–2006) trợ lý của Gorbachev,
trưởng phòng tổng hợp của BCHTƯ CPSU, tham mưu trưởng của Tổng thống Liên Xô Gorbachev.
Bị bắt, cho đến tháng 12 năm 1992 bị giam tại SIZO Matrosskaya Tishina, được tại
ngoại cấm xuất cảnh, được ân xá vào năm 1994. Từ năm 1994 cho đến khi chết là
cố vấn cho chủ tịch Ngân hàng Neftyanoy.
|
|
Valentin Varennikov (1923–2009) Tướng quân
đội, Tổng tư lệnh Lực lượng bộ binh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô.
Bị bắt, bị giam giữ tại SIZO Matrosskaya Tishina. Varennikov là người duy nhất
trong số tất cả các thành viên GKChP bị từ chối ân xá và bị đưa ra xét xử nhưng
được tuyên bố trắng án. Vào tháng 2 năm 1994, theo sắc lệnh của tổng thống, Varennikov
bị cách chức. Năm 1995, ông được bầu vào Duma Quốc gia, là Chủ tịch Ủy ban về
các vấn đề Cựu chiến binh. Năm 2003, ông được bầu lại vào Duma theo danh sách
của khối Rodina rồi làm Đồng chủ tịch của khối. Các năm 1997-2005 là Chủ tịch
Hiệp hội các Anh hùng Nga. Cho đến năm 2009, ông là cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng.
|
|
|
|
Vyacheslav Generalov (1946) Thiếu tướng KGB,
Phó Cục trưởng Cục 9 - Cơ quan An ninh KGB Liên Xô, Trưởng phòng An ninh cư trú
của Gorbachev tại Foros. Cuộc điều tra về vụ GKChP cho thấy việc "Trong khi
giữ Tổng thống Liên Xô Gorbachev tại Foros, Generalov vào ngày 19 tháng 8 đã đưa
ra các hạn chế bổ sung để loại trừ khả năng thoát khỏi bị cô lập".
Generalov bị bắt, được thả năm 1992 vì lý do sức khỏe. Năm 1993-1994 là cố vấn
tại Công ty AO Region thuộc tập đoàn tài chính AFK Sistema.
|
|
|
|
|
|
Viktor Grushko (1930-2001) Tướng KGB, Phó
Chủ tịch thứ nhất của KGB, đại biểu Đại hội lần thứ XXVIII của CPSU.
Grushko bị bắt, bị giam tại SIZO Matrosskaya Tishina, được thả vào tháng 12 năm
1991 vì lý do sức khỏe. Grushko viết cuốn hồi ký "Số phận của một tình báo"
(1997). Grushko bị lấy làm nguyên mẫu cho nhân vật chính của bộ phim tội phạm
kinh dị của Anh.
|
|
Pavel Grachev (1948 - 2012) Tư lệnh Lực lượng
Dù của Liên Xô, Anh hùng Liên Xô.
Theo lệnh từ GKChP, Grachev điều Lực lượng
Dù vào Mátxcơva, chuẩn bị cho lính dù tấn công vào Nhà Xô Viết Tối cao cùng với
lực lượng đặc nhiệm KGB và quân của Bộ Nội vụ. Grachev là một trong những tưởng
trở cờ quay ra ủng hộ Yeltsin và vào ngày 20 tháng 8, Grachev điều lính dù của
tướng Lebed đến hỗ trợ người của phe Yeltsin bảo vệ Nhà Trắng. Ngày 23 tháng 8
năm 1991, ông ta được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng RSFSR về các vấn
đề quốc phòng, sau đó là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô. Năm 1992-1996
là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng LB Nga. Grachev là một trong những người khởi xướng
cuộc chiến thứ nhất tại Chechnya với lời hứa chiếm Grozny trong 2 giờ. Grachev
nghỉ hưu năm 1996. Năm 1997-2007 là cố vấn cho Tổng giám đốc Rosoboronexport.
Từ năm 2007 đến nay - trưởng nhóm cố vấn cho Tổng giám đốc cho liên hiệp “Radiozavod
AC. Popov”.
|
|
|
|
|
|
Alexey Egorov (1953) Trung tá KGB, trợ lý cho
phó chủ tịch thứ nhất KGB. Thay mặt Kryuchkov, Egorov cùng với Thiếu tướng KGB Zhizhin
đã chuẩn bị hai báo cáo phân tích về việc đưa ra tình trạng khẩn cấp trong nước,
cũng như "Kế hoạch chi tiết về các biện pháp khẩn cấp khẩn cấp".
Egorov không bị buộc tội trong vụ án GKChP, từ 1992 đến 1994 làm việc trong công ty "Mikrodin", sau đó là
thành viên hội đồng quản trị của Ngân hàng RATO, ngân hàng này bị thu hồi giấy phép
năm 1997. Cho đến này, Egorov là Phó tổng giám đốc phụ trách PR của công ty luyện
kim "Severstal" của tỉ phú Alexei Mordashov (nhân vật số 2 trong danh
sách Forbes Nga). Egorov cũng là thành viên Hội đồng Quản trị Nhà trưng bày Tretyakov.
Chủ nhân của một bộ sưu tập điêu khắc và tranh vẽ bằng đồng khổng lồ..
|
|
|
|
|
|
Vladimir Zhizhin (1939 -2014) Thiếu tướng
Tình báo, Phó Trưởng Ban Giám đốc Chính thứ nhất (PGU) của KGB. Cùng với Trung
tá KGB Alexei Yegorov, Zhizhin đã chuẩn bị Tờ trình phân tích về vấn đề ban bố
tình trạng khẩn cấp trong nước.
Zhizhin không bị cáo buộc vụ GKChP, từ giữa những năm 1990 là Phó Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị Viện
Đánh giá và Phân tích Chiến lược (có giám đốc là Vagif Huseynov, cựu lãnh đạo
KGB của Azerbaijan). Cho đến khi nghỉ hưu, là trưởng bộ phận thông tin và phân
tích của RVO/OAO Zarubezhneft.
|
|
|
|
Viktor Karpukhin (1947–2003) Thiếu tướng KGB,
chỉ huy đơn vị chống khủng bố Alpha, Anh hùng Liên Xô.
Karpukhin bị cách chức Chỉ huy Nhóm “A” vào tháng 8 năm 1991. Còn ngày 27 tháng
12, ông đã viết một báo cáo và một ngày sau đó, vì bản báo cáo này, ông bị sa
thải khỏi KGB. Các năm 1991-1992, Karpukhin là lãnh đạo Cơ quan An ninh của TT
Kazakhstan N.A. Nazarbayev. Từ năm 1992, Karpukhin hoạt động kinh doanh thám tử
tư, là thành viên của Ủy ban Phòng Thương mại và Công nghiệp LB Nga về an ninh
của hoạt động doanh nhân. Ông thành lập và đứng đầu tổ chức phi lợi nhuận "Rosfond",
tham gia tích cực vào phong trào quốc tế của các cựu chiến binh chiến tranh Afghanistan.
|
|
Anatoly Lukyanov (1930 -2019) Chủ tịch Xô
viết tối cao Liên Xô, Ủy viên BCHTƯ CPSU.
Lukyanov bị bắt và cho đến tháng 12 năm 1992, bị giam giữ tại SIZO Matrosskaya
Tishina, sau đó được tại ngoại và cấm xuất cảnh, được ân xá vào năm 1994. Lukyanov
được bầu vào Duma Quốc gia với tư cách là một ứng cử viên độc lập các năm 1993,
1995 và 1999. Từ 1995 đến 2019 là Ủy viên BCHTƯ KPRF. Từ năm 2004 là Giáo sư Bộ
môn Hiến pháp và Luật thành phố, Khoa Luật, Đại học Tổng hợp Matxcova. M.V. Lomonosov.
|
|
Vladimir Medvedev (1937) Thiếu tướng KGB,
lãnh đạo bộ phận an ninh cá nhân của Gorbachev.
Sau sự kiện GKChP tháng 8, Medvedev bị cách
chức. Từ năm 1992 - Thành viên Hội Cựu chiến binh các cơ quan chính phủ "Devyatichi".
Năm 1992, ông làm Tổng giám đốc công ty an ninh tư nhân "Firma CENTER-K".
Từ năm 1996 - Cố vấn cho FSB và FSO RF.
|
|
Yuri Plekhanov (1930–2002) Trung tướng KGB, cục trưởng cục 9 - cơ quan an ninh KGB Liên Xô, thành viên Ban lãnh đạo KGB.
Plekhanov bị bắt, giam giữ tại SIZO Matrosskaya Tishina, được ân xá vào năm 1994. Plekhanov nghỉ hưu, và không thấy tham gia bất kỳ hoạt động công khai nào, chính trị hay kinh doanh. Năm 2002, vào ngày ông mất, theo sắc lệnh của V. Putin, Plekhanov được phục hồi cấp bậc và giải thưởng.
|
|
|
Sergei Surovikin (1966) Đại úy, tiểu đoàn trưởng của sư đoàn Taman, năm 1991 mới 25 tuổi. Surovikin trở nên nổi tiếng khắp cả nước với việc một trong những xe chiến đấu bộ binh của tiểu đoàn ông đã bắn chết 3 kẻ bảo vệ Nhà Trắng, trong toán dân cố ngăn cản sự di chuyển các phương tiện quân sự dọc theo tuyến đường Garden Ring là D. Komar, I. Krichevsky và V. Usov.
Surovikin tốt nghiệp loại xuất sắc tại Học viện Quân sự Frunze và Học viện Bộ Tổng tham mưu và phục vụ ở Yekaterinburg, Tajikistan và Mátxcơva, sau vụ Ủy ban khẩn cấp – GKChP, ông Surovikin tham gia chiến đấu ở Chechnya và được thăng hàm trung tướng và phó thứ nhất chỉ huy trưởng quân khu trung tâm vì có thành tích xuất sắc. Năm 2017, ông là Tổng tư lệnh Lực lượng Hàng không Vũ trụ LB Nga, từ năm 2021 là Tổng tư lệnh Lục quân. |
|
Oleg Shenin (1937–2009) Ủy viên BCT CPSU, đại biểu Hội đồng nhân dân Liên Xô.
Ông Sheninbị bắt, bị giam giữ hơn một năm tại SIZO Matrosskaya Tishina. Năm 1994, ông được ân xá. Từ năm 1993 đến năm 2001, ông là chủ tịch Hội đồng UPC-KPSS (Liên minh các Đảng Cộng sản - Đảng Cộng sản Liên Xô; tự coi mình là người kế nhiệm của CPSU). Năm 2004, sau khi chia tách đảng, ông trở thành chủ tịch của Đảng Cộng sản Liên Xô mới. Năm 2008, ông cố gắng tranh cử Tổng thống Nga, nhưng CEC từ chối đăng ký cho ông.
|
|
|
|
|
|