Hiển thị các bài đăng có nhãn Stalin. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Stalin. Hiển thị tất cả bài đăng

Tiết lộ của một nhà ngoại giao Mỹ về Stalin và Liên Xô!

Joseph Davies: Nếu không loại bỏ Đạo quân thứ 5, Liên Xô đã phải chịu thất bại tan nát trước Hitler;
Joseph Davies và J. Stalin

Có bài viết này ở đây, vào lúc này là do các sự kiện đang xảy ra ở châu Âu làm gợi nhớ lại mốt quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô vào thời điểm trước và sau Thế chiến 2.
Cũng có một cuốn sách của 2 người Mỹ về Liên Xô, các ông Michael Sayers và Albert Kahn và thật ra, tiểu sử và dòng họ của 2 người này cũng khá thú vị, còn cuốn sách của họ có tên: "Cuộc chiến bí mật chống lại nước Nga Xô Viết", hay cái tên tiếng Anh: “The Great Conspiracy. The Secret War Against Soviet Russia”.
Nhà ngoại giao người Mỹ Joseph Davies có cuốn sách khác: "Sứ mệnh tới Mátxcơva” (Mission to Moscow | download). Tác giả của cuốn sách, người mà vào các năm 1936-38 là Đại sứ tại Liên Xô. Cuốn sách "Mission to Moscow" của Davies được xuất bản ở Mỹ cách đây đúng 80 năm, vào năm 1942.
Cụm từ “Soviet Russia” trong cuốn sách thậm chí còn là rất khác thường tận ngày nay. Cái lên Liên Xô, hay Xô Viết chung chung phổ biến hơn. Tại sao vậy, có lẽ cần giải thích ở một bài khác.
Cuốn sách gồm lời tựa của tác giả và chín phần: 1. Bắt đầu Sứ mệnh; 2. Washington và các nước phương Đông; 3. Thanh trừng trong Hồng quân; 4. Nước Nga qua con mắt các láng giềng; 5. Thanh trừng nhằm vào Bukharin; 6. Mátxcơva nghe tiếng trống trận; 7. Đỉnh cao nhiệm vụ; 8. Tóm tắt các sự kiện; 9. Thành quả của nhiệm vụ. Cuốn sách kết thúc với phần phụ lục mở rộng do chính J. Davies biên soạn và chứa đựng nội dung các văn bản, tài liệu tham khảo, các báo cáo quan trọng của đại sứ.

Joseph Davies sinh năm 1876. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách luật sư. Đầu những năm 1930, ông đã nổi tiếng trong Đảng Dân chủ khi đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công chiến dịch tranh cử tổng thống của Woodrow Wilson. Sau đó, Davies bắt đầu được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Năm 1913-1915, là ủy viên chính phủ phụ trách giám sát các tập đoàn; các năm 1915-1918 là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, ông là cố vấn kinh tế của Tổng thống Wilson. Sau Thế chiến 1, Davies trở lại với nghề luật một lần nữa.
Davies đã làm quen với Franklin Roosevelt năm 1933, và Roosevelt trở thành chủ nhân của Nhà Trắng (nhiệm kỳ 1933-45), Roosevelt đã tham khảo ý kiến của Davies về nhiều vấn đề. Cũng năm 1933, Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Liên Xô là William Bullitt. Quan hệ của Bullitt với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác là bình thường, nhưng thông tin về Liên Xô mà Bullitt gửi về Washington lại khá tiêu cực. Còn TT Roosevelt có mong muốn xích lại gần hơn với Liên Xô, đặc biệt là khi Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Và Roosevelt quyết định bổ nhiệm Davies làm đại sứ tại Matxcova, mặc dù lúc đó không có kinh nghiệm về ngoại giao.
Được bổ nhiệm làm đại sứ vào tháng 8 năm 1936, J. Davies đã góp phần hoàn tất các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại giữa Liên Xô và Mỹ. Gần hai năm Davies ở Liên Xô đã khiến ông tin tưởng chắc rằng chính phủ Anh và Pháp đã mắc sai lầm lớn khi xoa dịu Hitler và cố gắng cô lập Liên Xô. Đồng thời, Davies thấy Stalin đã tỉnh táo trong việc đánh giá tình hình thế giới, chuẩn bị cho một cuộc đối đầu gần như không thể tránh khỏi với Hitler. Trong cuốn sách, Davies trình bày chi tiết về sự chuẩn bị này.
- Thứ nhất, phát triển nhanh chóng của công nghiệp (công nghiệp hóa 10 năm trước Thế chiến 2).
- Thứ hai, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Liên Xô (huấn luyện quân sự, tăng số lượng biên chế, nâng cao chất lượng vũ khí và trang thiết bị quân sự).
- Thứ ba, thanh lọc Đạo quân thứ 5 (trong bộ máy quản lý nhà nước, lực lượng vũ trang, trong nền kinh tế quốc dân).

Davies đặc biệt chú ý đến tuyến thứ ba “thanh lọc Đạo quân thứ 5” trong quá trình chuẩn bị chiến tranh của Stalin. Đại sứ Mỹ đã có mặt tại hầu hết các phiên tòa ở Mátxcơva năm 1937-38. Là một luật sư có kinh nghiệm dày dặn, Davies ghi nhận tính không hoàn hảo của các phiên tòa ở Mátxcơva và xác nhận tội trạng của các bị cáo. Trong cuốn sách, Davies tường thuật nhiều sắc thái thú vị liên quan đến những bị cáo trong các phiên tòa như Nikolai Bukharin, Mikhail Tomsky, Grigory Zinoviev, Alexei Rykov, Lev Kamenev, Yuri Pyatakov, Christian Rakovsky, Nikolai Krestinsky, Arkady Rozengolts, Grigory Grinko, Grigory Sokolnikov, Karl Radek và những kẻ khác. Ông quan tâm nhiều đến "phe đối lập ngầm" trong Lực lượng vũ trang Liên Xô. Nhân vật chính ở đây là Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky. Các nhân vật khác của đội quân ngầm: V. Putna, I. Yakir, I. Uborevich, R. Eideman, A. Kork, B. Feldman, V. Primakov. Adolf Hitler, vào trước chiến tranh đã tạo ra đạo quân thứ 5 ở tất cả các nước châu Âu và sử dụng chúng để tìm cách chinh phục những nước này một cách nhanh chóng, đôi khi không cần bắn một phát súng nào. Liên Xô cũng có đạo quân thứ 5 như vậy. Nhưng sau vụ ám sát M. Kirov năm 1934, Stalin bắt đầu công cuộc thanh lọc có hệ thống, đến cuối năm 1938 thì cơ bản hoàn thành.
Davies liên tục lặp lại rằng nếu không loại bỏ đạo quân thứ 5, Liên Xô sẽ phải chịu thất bại nặng nề trước Hitler.
Davies viết về những quan sát của mình với các sự kiện diễn ra ở Liên Xô không chỉ trong nhật ký mà còn trong các thông điệp do Ngoại trưởng Cordell Hull gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Một số thông điệp đã được gửi đến F. Roosevelt. Vào mùa hè năm 1938, Davies được triệu hồi từ Mátxcơva và bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bỉ và Đặc phái viên tại Luxembourg, và vào tháng 1 năm 1940, ông làm Trợ lý Đặc biệt cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Sự nghiệp ngoại giao của Davies chấm dứt vào tháng 11 năm 1940, theo nguyện vọng, ông được cho thôi việc tại Bộ Ngoại giao. Năm 1941, Davies được đặt vào vị trí lãnh đạo Ủy ban của Tổng thống nhằm thống nhất các hoạt động của tất cả các tổ chức về vấn đề hỗ trợ đồng minh trong chiến tranh.
Thật khó để không đánh giá rất cao vai trò của Davies trong việc đưa Mỹ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn trước và sau Thế chiến 2 cũng như thời kỳ cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bùng nổ. Davies đã thuyết phục được cả Cordell Hull và Franklin Roosevelt rằng Liên Xô không những không phải là kẻ thù của Mỹ mà ngược lại, có thể và nên trở thành đồng minh chính của Mỹ trong chiến tranh thế giới. Dựa trên kiến thức sâu rộng của mình về Liên Xô, cựu đại sứ Davies, chỉ 2 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố rằng: "Thế giới sẽ ngạc nhiên về quy mô của cuộc kháng chiến mà Nga sẽ tiến hành”. Ở Mỹ, có rất nhiều giới ủng hộ Hitler một cách công khai và bí mật, cũng như giới chống Liên Xô công khai và bí mật. Davies không ngần ngại gọi giới này là Đạo quân thứ năm (fifth column) của nước Mỹ. Ông nói rằng: "Chính phủ Xô Viết không tìm cách áp đặt ý chí của họ lên các dân tộc khác mà chỉ chống lại Hitler và những kẻ muốn nô dịch nhân loại". Davies đã phát biểu trên báo chí, trên đài phát thanh, tại nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi người Mỹ từ bỏ thành kiến với Liên Xô và cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô. Ông kiên quyết yêu cầu mở mặt trận thứ hai. Sau đó, ông trở thành thành viên của phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Potsdam năm 1945 (với cấp bậc đại sứ).
Davies đã có hai cuộc gặp gỡ với Stalin. Cuộc gặp đầu tiên diễn ra vào đêm trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ đại sứ tại Mátxcơva vào tháng 6 năm 1938. Nhà ngoại giao Mỹ kể chi tiết cuộc trò chuyện của ông với Stalin trong một báo cáo gửi cho Ngoại trưởng Mỹ. Báo cáo này đã được giải mật và đưa vào phần bổ sung của cuốn sách. Cuộc gặp thứ hai, diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đó là một chuyến của Davies đến Mátxcơva, mang theo theo một thông điệp đặc biệt từ Roosevelt gửi đến IV Stalin.
Vào cuối mùa xuân năm 1943, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ bị nguội lạnh. Nguyên nhân là do phương Tây trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai chống phát-xít. J. Davies đã thảo luận vấn đề này với Roosevelt, và tổng thống đã giao cho ông đứng đầu với nhiệm vụ mới, gặp Stalin và thuyết phục rằng Mỹ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy của Liên Xô và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ sau chiến tranh. Davies mang đã chuyển về một thông điệp riêng cho Roosevelt (Bản dịch thư của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Stalin với các Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Văn bản số 83 ngày 5 tháng 5 năm 1943). Nhưng sức thuyết phục chính để Mỹ duy trì các mối quan hệ đồng minh thậm chí không phải là thông điệp dành cho Roosevelt, mà là bộ phim mà Davies, cùng với tổng thống Mỹ, đã tặng cho Stalin.
Bộ phim này có cũng tên với cuốn sách của ông, "Mission to Moscow". Bộ phim ra đời một năm sau cuốn sách. Đó là một dự án được TT Roosevelt ủng hộ. Phim thuộc thể loại nửa hư cấu, nửa tài liệu. Hầu hết phần tài liệu là những gì liên quan đến công việc của đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cũng như ông Davies. Ở Mỹ, bộ phim đã được hàng triệu người Mỹ theo dõi, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố thiện cảm của "tầng lớp thống nhất Mỹ" dành cho nước Nga Xô Viết. Nói không quá, nếu không có bộ phim này, Mặt trận thứ hai chống phát-xít ở phương Tây có lẽ đã không được mở ra sau này.
Gửi bộ phim, Roosevelt đã rất hy vọng rằng Stalin sau khi xem phim có thể cảm thấy “tâm trạng thân Mỹ”. Stalin ngay lập tức đã xem bộ phim và quả thực rất ấn tượng. Davies viết cho Harry Warner: "Nguyên soái Stalin và tất cả những người có mặt tại buổi chiếu đều đánh giá cao những hình ảnh". Năm 1943, bộ phim được phát hành cho hệ thống phân phối phim của Liên Xô và cũng rất được khán giả Liên Xô yêu thích. Bộ phim "Mission to Moscow" đặc biệt thành công bên ngoài Mỹ, ở Liên Xô ở Anh và Trung Quốc.
Ngay sau khi bộ phim được phát hành tại Mỹ, một bản sao của nó cũng đã được đưa đến boongke của Hitler. Trùm tuyên truyền quốc xã Goebbels đã viết một mục về điều này trong nhật ký của mình vào tháng 5 năm 1943. Hắn ta cũng nhận được thông tin về chuyến đi của Davies đến Mátxcơva, và đã gọi ông Davies là "cái phòng khách của Bolshevik", một loại người "nguy hiểm" và ra lệnh cho báo chí Đức tuyên truyền tẩy chay cuốn sách và tác giả của nó.
Sau Thế chiến 2, ông Davies tiếp tục làm việc để duy trì mối quan hệ Xô-Mỹ, mối quan hệ mà khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, Washington bắt đầu có chủ ý làm sụp đổ. Davies là một trong những người tổ chức và là chủ tịch danh dự của Hội đồng quốc gia về tình hữu nghị Mỹ-Xô. Trong một bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng: "Trong số tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, sẽ không có ai trung thành, kiên định hơn trong việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình vĩnh viễn hơn là nhân dân Liên Xô”. Cho đến cuối đời (ông mất ngày 9 tháng 5 năm 1958), J. Davies, bất chấp các cuộc tấn công liên tục từ giới chống Liên Xô thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, vẫn là một người bạn thực sự của đất nước Liên Xô.
PS: bên trên có cụm từ "tầng lớp thống nhất Mỹ". Cần giải thích thêm là nước Mỹ nhiều phe phái, ngay cả giới chính trị gia cũng có nhiều đường lối, quan điểm khác nhau. Do đó, không có sự thống nhất như một tầng lớp. Vì thế mà đặt cụm từ này trong ngoặc kép. Vấn đề là Stalin, nếu như không tận dụng được sự ủng hộ của giới chính khách mà Roosevelt là đại diện, nếu như coi nước Mỹ là đối thủ, là kẻ thù, thì cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sẽ khó khăn, ác liệt hơn nhiều. Chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, trong đó cây giáo dài hơn, súng đạn nhiều hơn là thiệt hại, tổn thất ít hơn, là cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Hình ảnh bên dưới là một minh chứng cho điều này. Quan điểm của Truman, TT kế nhiệm đã rất khác. Đó là sự trục lợi, là chủ nghĩa cơ hội. Về phía mình, Liên Xô nhận được 1 khẩu súng trong Lend-lease cũng đã bớt đi 1 khẩu cho phát-xít. Súng có lởm, nhưng giá trị là gấp đôi.
Cũng cần nói thêm rằng, KKE gây chiến ở Hy Lạp và giấc mộng Đại Nam tư của Tito cũng là một phần nguyên nhân của Chiến tranh lạnh.

Truman: "Nếu chúng ta thấy Đức đang thắng thì chúng ta phải
giúp Nga và nếu Nga đang thắng thì chúng ta phải giúp Đức và
đấy là cách để họ giết nhau nhiều nhất có thể,..."


Có một tin buồn và một tin vui!


Tin buồn, chúng ta đang chứng kiến hệ thống chính trị gây ra tai họa như thế nào trong phòng chống dịch, thấy cả loạt đỏ lòe đỏ loẹt cương quyết ủng hộ phát xít. Nó gợi nhớ CNCS đã hèn hạ như thế nào trong Chiến tranh Vệ quốc và lão Stalin xưa làm thịt cả mấy triệu CS, làm tê liệt hàng chục đảng CS mà bác Hít vẫn kiếm được 7 triệu CS cầm súng chống Nga.

Tin vui! Có gì vui? Chả có gì vui ngoài 5 ông phó cựu Ttg Nga đã chạy ra nước ngoài. Không có tên 5 ông này trong danh sách tịch thu tài sản, du thuyền, dinh thự đâu. Vấn đề là ở đó. Trong nước Nga, thêm 5 ông nữa vừa từ chối nhiệm vụ. Cụ thể là:
- Thống đốc vùng Tomsk, Sergei Zhvachkin.
- Thống đốc vùng Kirov, Igor Vasiliev.
- Thống đốc vùng Ryazan, Nikolai Lyubimov.
- Thống đốc vùng Saratov, Valery Radaev.
- Người thứ 5, Thống đốc Mari El, Alexander Evstifeev.
Cái tên Mari El nghe quá lạ, nhưng nó là Cộng hòa Mari El nằm gần Kazan.
Nếu có gì còn vui thì đó là còn chút an ủi: Chính trị nào cũng thối và thực sự là vấn nạn của mọi nhà nước, mọi xã hội tiến bộ. Có chăng sắc đỏ làm con bệnh thối thêm trầm kha nặng nề mà thôi. Tiến thân trong hệ thống chính trị chỉ tạo ra hàng ngũ vừa bẩn vừa đểu, cả cái Nghị trường EU nay sẵn sàng hiến tế cả châu Âu để đổi lấy cái gì?
Còn chức danh Thống đốc vùng!? Đừng lạ, trong một báo cáo gần đây, xứ ta cũng nói đến vùng, trước hết là vùng kinh tế, hoặc sát nhập các tỉnh, tổ chức lại các đơn vị hành chính. Nếu vùng có vị trí pháp lý cao hơn tỉnh như Nga! Thì điều gì sẽ xảy ra?
Nó sẽ tước quyền của “Hàng trăm ông vua” như lời Phó Ttg Trần Phương than thở. Sự tập trung kinh tế sẽ tốt hơn, trật tự hơn. Đó là một bước vô hiệu hóa tán quyền. Như một ví dụ, dự án Cao tốc quốc gia đi mua đất của tỉnh, tỉnh không bán, TƯ đành chịu. Ơ hay, tỉnh là gì nhỉ! Muốn làm Vương quốc chứ gì.
Còn chuyện 5 ông Thống đốc từ chức thì lý do lý trấu như bên dưới, đã từng đăng trong HPG.
***
Hệ thống chính trị LX vào giai đoạn cuối đã đến chỗ láo hết mức, những thằng học thuộc lòng được 3 trang sách Marx dịch bậy lại đòi trèo lên cành cao để làm lãnh tụ! Kỹ trị chống Đảng trị thì không mới, chính Stalin đã dày công thiết lập một hệ thống như vậy và nhờ đó duy nhất Stalin là người có được sự thành công.
Không còn có thể núp trong chuyên chính hay đảng để ăn chơi, quan chức ở Nga bị phơi mình trực diện với pháp luật. Vì vậy, ko ngạc nhiên khi các vụ bê bối, tham nhũng bị phanh phui rất nhiều.
Luật về quyền lực công đã được Duma xem xét trong lần đọc thứ hai. Theo luật này, ngành dọc chuyên môn mạnh hơn, được trao nhiều quyền hơn và đặt một số thứ thành thứ yếu. Thống đốc các bang trở thành những nhân vật kỹ thuật, vẫn có tự do hành động nhưng họ sẽ phải điều phối nhóm của họ với Điện Kremlin, các cơ quan Kremlin cũng có có thể tham gia giải quyết các vấn đề của CQ địa phương và bầu cử hội đồng lập pháp theo danh sách đảng có thể bị hủy bỏ nếu có vấn đề, còn các ứng viên không đảng phái vẫn có thể tham gia. Mặt khác, những đổi mới này không tạo ra nhiều xáo trộn mà chỉ củng cố trạng thái đã được thiết lập sẵn.
Đó là một thiết kế chính trị theo kỹ trị.
Sự đổi mới đáng chú ý nhất là đề xuất hủy bỏ các cuộc bầu cử vào các cơ quan lập pháp khu vực dựa trên danh sách đảng. Vấn đề này gây tranh cãi rất dài tại Duma trong lần đọc thứ hai và không mang lại bất kỳ thay đổi lớn nào và còn tiếp tục tranh cãi. Đảng có thể giúp người của đảng tranh cử, nhưng không thể nhân danh đảng tranh cử.
Đó là tiếp tục một thực tế đã từng được đặt tên “Quyền lực thẳng đứng” của Putin. Hay quyền lực ngành dọc. Tổng thống Nga có thể cách chức thống đốc nếu để mất tín nhiệm, điều này đã xảy ra. Một ví dụ liên hệ: Khi vị chủ tịch thành phố lớn nọ quá yếu kém trong công tác phòng chống dịch, không những bất tuân chỉ đạo từ TƯ lại còn mượn bình phong cố vấn Fulbright để đi con đường khác. Ông ta đã bị mất chức. Nhưng thiếu một hệ thống kỹ trị giỏi chuyên môn đã để lại hậu quả tai hại trong phòng chống cv19 vào lúc này.
Tuy nhiên, không một thiết kế nào là hoàn hảo. Quyền lực tập trung vào TƯ thì cũng có thể bị lạm dụng từ TƯ cho các mục đích cá nhân hay cảm tính. Gợi ý rằng chức vụ thống đốc có thể thay đổi trong vòng 5 năm tới đã trở thành một trong những điểm luận gay gắt nhất, nhưng cuối cùng nó không được phản ánh trong dự luật. Nhiều ý kiến cho rằng, các thống đốc hiện đang trở thành một trong những vị trí quan chức khó bảo vệ nhất - nếu lý do cụ thể được yêu cầu để phải ra khỏi bất kỳ chức vụ nào cấp dưới, thì thống đốc hay người đứng đầu khu vực cũng có thể bị cách chức với lý do "mất niềm tin" trừu tượng. Dù vậy, Chủ tịch Duma, người của EP Vyacheslav Volodin lưu ý rằng một biện pháp như vậy là cần thiết trong trường hợp thống đốc trở thành một kẻ vô tích sự. Tuy nhiên, không hành động cũng nên được thể hiện trong một số trường hợp. Rất khó để thông qua những thay đổi cơ bản trong hệ thống quản trị khu vực.
Dự luật mới sẽ thực sự củng cố tình hình hiện nay. Một nhà phân tích chính trị nêu quan điểm: Trên thực tế, chúng ta nói về hệ thống quản tri đang vận hành. Chỉ là luật hiện nay không bao quát được tất cả các cảnh báo cho thống đốc khi họ vướng vào những vấn đề không được nêu trong luật. Bây giờ các chức năng được quy định và trên thực tế, hệ thống kỹ trị khu vực đang được sửa chữa. Không có gì là không tốt trong đó. Trong những ngày gần đây, một số thống đốc đã công khai nói rằng họ muốn từ bỏ.
Dự luật mới cũng sẽ buộc các thống đốc sẽ phải phối hợp với TƯ để bổ nhiệm một số trưởng bộ phận khu vực. Điều này sẽ loại bỏ tình trạng ô dù phe cánh nhưng cũng mất tính độc lập thậm chí là khó thiết lập đội ngũ riêng, ekip của mình nếu không có sự kiểm soát từ bên ngoài. Nhưng với thực tế tình hình, quy định này thậm chí là hữu ích, vì nó cản trở phe cánh che chắn cho nhau, còn năng lực chuyên môn của các bộ trưởng khu vực sẽ bị các chuyên gia bên ngoài kiểm soát.
Nhà xã hội học Roman Alekhin nêu một ví dụ: “Các bộ trưởng y tế (của vùng) được đề cử. Họ đến Moskva với một bản đặc cách. Điều đầu tiên ông ta cần làm là vượt qua một bài kiểm tra lớn để đánh giá năng lực. Nếu đạt điểm thì đi gặp Bộ trưởng Y tế liên bang Murashko để phỏng vấn, có lẽ sau này một thứ trưởng chuyên trách sẽ phỏng vấn. Họ sẽ trải qua một tuần thực tập, làm quen với lãnh đạo các ban quan trọng của TƯ trong ngành, để sau này có thể làm việc với họ. Mức độ chuyên nghiệp của các Bộ trưởng khu vực chắc chắn sẽ tăng lên. Còn bây giờ thì chẳng có sự kiểm soát nào cả. Có một vị Thái tử ở khu vực quyết định ai sẽ được giao quản lý những gì, mà đôi khi lại chẳng liên quan gì đến năng lực".
Một yếu tố khác có lợi cho các vùng và các bộ ở địa phương là chỉ khoảng một nửa ngân sách của ngành dọc đến từ quỹ địa phương, phần còn lại được cung cấp thông qua các dự án nhà nước hoặc chương trình mua sắm đặc biệt, được tài trợ từ TƯ.
Nhưng liệu chế độ liên bang - федерализм có suy tàn cùng với việc hủy bỏ các cuộc bầu cử theo danh sách đảng? Điều này còn phải chờ dự luật được thông qua và triển khai luật trong thực tế. Nhưng viễn cảnh thấy được là sự sao chép mô hình Nghị viện thu nhỏ qua lá phiếu vào các địa phương sẽ chấm dứt khi biên chế hoàn toàn từ các ứng cử viên hàng đầu. Đảng cử và lá phiếu tượng trưng không đáp ứng được trước những tình huống mới có nhiều vấn đề, chẳng hạn như chống dịch cv19, hay vấn đề thiên tai, bão lũ.
Nhà khoa học chính trị khác, ông Galyamov thì cho rằng, đảng cầm quyền EP đã không còn giữ được uy tín như những năm 2000, thì luật mới thay thế hệ thống bầu cử theo danh sách đảng đề cử bằng danh sách ứng cử viên có chuyên môn là hợp lý.
Sự suy thoái của các tổ chức đảng cũng không có gì mới. Có thể thấy rõ điều này ở Nga trong các cuộc bầu cử vào Cơ quan Hành chính Nhà nước gần đây. Các vị trí được bầu thường theo nhóm lợi ích và chịu ảnh hưởng của giới tài phiệt. Dự luật hiện tại, dù có thành hay không thì cũng là sự thừa nhận hệ thống đảng trị đang "chết" và các nhà chức trách liên bang sẽ không làm được gì với nó trong tương lai gần. Nhưng các tinh hoa địa phương, nắm khoa học kỹ thuật và ngành nghề chuyên môn sẽ được củng cố, họ sẽ không mất vị trí của mình trong hệ thống kỹ trị, không bị lệ thuộc vào một ông thống đốc hay bộ trưởng địa phương nào đó được bầu theo hệ thống chính trị mà chẳng hiểu biết gì về kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp hay khoa học kỹ thuật nói chung. Đối với các doanh nhân làm ăn và hoạt động theo nghề nghiệp cũng vậy, dự luật này là một tín hiệu tích cực, họ không phải trả tiền cho các quan chức chính trị để được yên ổn làm ăn hay để vượt qua cả rừng luật lệ quan liêu trì trệ và mơ hồ dưới những khẩu hiệu chính trị cũ kỹ kiểu: chuyên chính vô sản, bảo vệ chế độ, phò Mác Lê ngoại bang, ngoại tộc, v, v.
Cuối cùng, với tất cả những tranh cãi hay tuyên bố đẹp đẽ từ nghị trường Duma, chỉ đơn giản là củng cố hệ thống kỹ trị sẽ loại bỏ những vị trí đảng trị của các lực lượng chính trị. Đó cũng là vấn đề xưa cũ: sự thịnh vượng của một đất nước đến từ lao động sản xuất và kinh doanh, không đến từ những khẩu hiệu chính trị sáo rỗng bất kể màu sắc đỏ vàng xanh gì. Một cú nhấp chuột ở Điện Kremlin sẽ loại bỏ những kẻ vô công rồi nghề ngồi tụng thánh kinh Mác-Lê là rất tốt, rất cần vào lúc này.
Năm nọ có tỉnh ồn ào cái tin các cô giáo được quan chức Cọng sản điều đi hầu rượu. Mới đây cô giáo ở Quốc Oai được làm chủ nhiệm trở lại hay mới nhất, anh gì ở CôCô… tất cả là ví dụ của ngành dọc chuyên môn bị ngành ngang chính trị đè nghiến đến méo mó biến dạng. Giáo viên là nghề cần coi trọng đạo đức. Các cô giáo bị điều đi hầu rượu mà không dám trái lệnh bởi đó là công ăn việc làm, là sự nghiệp cả đời của các cô. Nhưng theo ngành ngang chính trị, bọn quan lại đã nắm sinh mệnh các cô. Trái ý, chúng tuyên hết biên chế hay viện cớ luân chuyển cán bộ điều các cô lên rừng rú rồi cả thanh xuân không về được thì ế chống sập mặt.
Chỉ cần khoác cái mác lý tưởng CS, lãnh tụ, lãnh đạo phá hoại nhưng cứ nuôi cả bầy đĩ bút la liếm đến bóng lộn! Đó là một thứ giáo phái tà đạo mang tên CNCS. # với trò vớt bèo làm màu nửa triệu cò tung hô là ví dụ điển hình, chẳng kẻ nào biết hắn ngồi chỗ nào là chỗ đó nát be nát bét.
Ngang dọc thế nào thì lấy lại ví dụ anh thợ điện của Huy Phúc. Cả nước giỏi lắm vài trăm ka, lại phân tán khắp nơi. Nếu bầu bán theo ngang, có khi liền mấy khóa chẳng có ai được bầu. Vậy thì quyết sách về năng lượng, về điện lực sẽ ra sao khi nằm trong tay những kẻ không có chuyên môn? Vì thế mới có khái niệm “đại biểu chuyên trách” để đảm bảo tính chuyên môn cho 1 tổ chức như QH. Anh thợ điện có thể là đảng viên, thậm chí là lãnh đạo đảng, nhưng đó là vấn đề phụ, gọi anh ta đúng tên là anh thợ điện theo chuyên môn là ngành điện. Stalin từng có một hệ thống như vậy, ở đó, nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ giỏi chuyên môn được trọng dụng, vẫn có thể có chức vụ đảng, nhưng chỉ là thứ yếu.
Năm 1941, những toán thám báo Đức đầu tiên đã tiến vào rừng Khimki ở ngoại ô Moskva, chỉ còn cách trung tâm 23km. Chúng trèo lên ngọn cây thông là có thể nhìn thấy ngôi sao đỏ trên nóc Điện Kremlin qua ống nhòm. Lúc đó mà còn chờ họp Đảng, ra nghị quyết nữa thì quá muộn. Hệ thống kỹ trị trong quân sự 1 chỉ huy sẽ ứng phó linh hoạt, nhanh nhạy.

Cuối cùng, cả thế giới này có mỗi đồng chí V. Putin đang củng cố "Chuyên chính vô sản", rõ quá phải không!?

Nguồn: HPG;

Chính sách nhà nước của Stalin những năm 1920-1930

 Chính sách nhà nước của Stalin và giải pháp cho "câu hỏi Nga" của Liên Xô trong những năm 1920-1930.

Nga, Rus - bất cứ nơi nào tôi qua ...

Vì tất cả những đau khổ và trận chiến

Tôi yêu Người, nước Nga, sự cổ kính

Những khu rừng, nghĩa trang và lời cầu nguyện,

Tôi yêu những túp lều và những bông hoa,

Và bầu trời, nắng hè oi ả,

lời thì thầm của rặng liễu đứng bên bờ,

Tôi yêu mãi, cho đến khi vĩnh hằng yên nghỉ...

N. Rubtsov

Sự ra đời của một nhà nước về cơ bản là đa quốc gia kiểu mới - Liên bang Xô viết, đã trở thành một dấu mốc quan trọng không chỉ đối với nước Nga mà còn đối với lịch sử thế giới. Nhưng thời gian trôi qua, rõ ràng là việc thành lập Liên Xô vào năm 1922 đã không giải quyết được tất cả các vấn đề dân tộc ở nhà nước Xô Viết. Không thể khắc phục được chúng với việc thông qua Hiến pháp năm 1924.

Câu hỏi "ngữ hệ Tuyếc" rất gay gắt. Ngay cả trong khi thảo luận về các cách thức thành lập Liên Xô, chủ nghĩa dân tộc đã bộc lộ rõ ​​nét trong giới lãnh đạo của một số nước cộng hòa "Hồi giáo". Do đó, một nhân vật dân ủy nổi bật, Sultan-Galiev đã đòi nâng tầm tự trị của các cộng hòa liên minh lên ngang hàng với Nga. Tranh luận đã diễn ra, trước hết, là về CH XHCN Xô viết tự trị Turkestan, bao gồm trong nó lãnh thổ của Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan và Turkmenistan. Sau đó, ông ta đưa ra kế hoạch thành lập 4 nước cộng hòa trên lãnh thổ Nga, trên thực tế, chúng mang đặc điểm Pan-Turkic: liên bang các nước cộng hòa Ural-Volga, liên bang All-Caucasian, cộng hòa Kazakhstan và... cái gọi là cộng hòa Turan bao gồm 4 nước Trung Á. Năm 1923, một cuộc họp đặc biệt của BCHTƯ với các quan chức cấp cao của các nước cộng hòa dân tộc chỉ trích lập trường của Sultan-Galiyev. Nhưng ngay cả sau này, vào cuối thời kỳ NEP, một số quan chức Tatar và Crimea vẫn bị kết tội có liên hệ với phong trào Pan- Turkic và Thổ Nhĩ Kỳ.

Có sự căng thẳng liên tục diễn ra trong kế hoạch bảo toàn nhà nước liên minh ở Ukraine. Ở đây trong những năm 20, giới gọi là "ukapists" – là các đảng viên Cộng sản Ukraine một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản khác đã hoạt động. Không phải mọi thứ diễn ra suôn sẻ trong chính sách mà giới chức chính thức của Ukraine thuộc Liên Xô theo đuổi. Cũng có sự thái quá của quần chúng liên quan đến cái gọi là "Ukraine hóa". Nguồn gốc của nó là từ những nhân vật Ukraine như nhà văn và nhà thơ Mykola Khvylevoy, Mikhail Volobuev, ủy viên BCHTƯ Ukraine Oleksandr Shumsky. Hệ tư tưởng của họ dựa trên quan niệm lịch sử của M. S. Grushevsky, một lãnh đạo tư sản Rada UkraineÔng ta là nhà sử học trốn sang Áo quay trở về Liên Xô năm 1924 rồi được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Ukraine, và năm 1929 - Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Sự khởi đầu của chính sách "Ukraine hóa" thực tế diễn ra vào năm 1925. Một số bài báo của Khvylovy đã đóng vai trò như tín hiệu ép buộc. Đề cập đến các quyết định của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Nga, ông ta nhấn mạnh vào "Korenizatsia” - một chiến dịch chính trị và văn hóa nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa chính quyền trung ương, các nước cộng hòa và điều chỉnh bộ máy nhà nước. Trên thực tế, cũng có nghĩa là cuộc di cư hàng loạt của hàng nghìn chuyên gia có trình độ, biết chữ, mà Nga là quê hương ngôn ngữ của họ. Không giới hạn bản thân điều này, Khvylovy nhấn mạnh rằng không thể "tập trung hóa" nếu không có quá trình Ukraine hóa các thành phố nói chung. Ông ta lập luận rằng chỉ có "tiểu thị dân Nga, kẻ có gan ngồi lên việc Ukraine hóa này... là kẻ “nghiến răng” nghiên cứu “ngôn ngữ của chónày? Là kẻ hét lên Matxcơva: "Cứu tôi với!". Trong khi đó 90% dân số thành thị của Ukraine vào thời điểm đó là người Nga. Cả hệ thống y tế, giáo dục, kinh tế đô thị, văn hóa và khoa học, và cuối cùng là - công nghiệp đã hỗ trợ họ."

Các kế hoạch trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Ukraine thậm chí còn đi xa hơn. Họ nhắm vào trung tâm của sự thống nhất Nga-Ukraine - là nền văn hóa chung của hai dân tộc Slavic có mối quan hệ chính thống. Khéo léo bắt chước môi trường chính trị lúc bấy giờ và khéo léo tung hứng vốn từ vựng chủ nghĩa Marx, Khvylovy ngoan cố tuyên truyền ý tưởng của mình: “Không nên nhầm lẫn liên minh chính trị của chúng ta với Nga và văn học”. Ông ta kích động, “người Ba Lan sẽ không bao giờ Mickiewicz (nhà thơ) nếu họ không chấm dứt tập trung vào nghệ thuật Nga. Thực tế là văn học Nga đã đè nặng lên chúng ta trong nhiều thế kỷ như vị thế ông chủ, làm chúng ta quen với tâm lý bắt chước của nô lệ... Ý tưởng giai cấp vô sản chúng ta đã được biến đến ngay cả khi không có nghệ thuật ở Matxcova. Hãy cho chúng tôi suy nghĩ của riêng mình! Hãy rời bỏ Matxcova! "

Một phần cán bộ của BCHTƯ Ukraine, do Shumsky đứng đầu, không chỉ ủng hộ chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa mà còn liên tục yêu cầu lãnh đạo chính phủ đẩy mạnh chính sách cưỡng bức Ukraine hóa. Không phải ở đâu, mà ở cơ quan trung ương, BCHTƯ Đảng Ukraine, tạp chí "Bolshevik Ukraine" năm 1928 – đăng bài báo của nhà kinh tế M. Volobuev "Về các vấn đề của nền kinh tế Ukraine". Trong đó lập luận rằng chế độ Tsarism ở Ukraine, theo đuổi chính sách thuộc địa, cướp đi các nguồn lực kinh tế của họ. Còn hiện nay, dưới quyền lực của Liên Xô - vị tác giả lập luận, Ukraine nên phát triển trong ranh giới nền kinh tế quốc gia độc lập một cách tự nhiên của mình. Từ những giả định lý thuyết này, các kết luận chính trị cũng được rút ra: theo M. Volobuev, kế hoạch "phân vùng kinh tế Liên Xô" do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước liên minh xây dựng theo đề án và với sự tham gia của các chuyên gia Nga Sa hoàng đế quốc cũ - hoàn toàn không quan tâm đến lợi ích nền kinh tế quốc gia các "thuộc địa cũ của Nga".

Rất nhanh chóng, quan điểm của Shumsky được phần lớn giới cộng sản miền Tây Ukraine ủng hộ, họ tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Ba Lan và hoàn toàn có thiện cảm với Trotsky. Chính Trotsky là kẻ ủng hộ quyết liệt việc Ukraine ly khai. Trong Bản tin phản đối do ông ta xuất bản ở nước ngoài đã đăng một số bài về vấn đề này. Một trong số đó, Trotsky viết: Nhưng nền độc lập của một nước Ukraine thống nhất đồng nghĩa với việc tách Ukraine Xô viết ra khỏi Liên Xô, “những người bạn” của Điện Kremlin đồng thanh thốt lên. - Có gì ghê gớm ở đây? - chúng tôi phản đối, về phần mình. Sự kính sợ thần thánh trước các biên giới nhà nước là xa lạ đối với chúng tôi. Chúng tôi không đứng trên lập trường của “khối thống nhất và không thể chia cắt”. Cần phải nói thêm rằng Trotsky đã phát triển và bảo vệ những quan điểm này của mình trong thời kỳ đó.

Như trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, xương sống của phong trào ly khai Ukraine là ở sự hỗ trợ từ Đức, quốc gia này quan tâm đến việc chia cắt đất nước Nga. Sau hiệp ước Munich và trên thực tế Tiệp Khắc bị giải thể, một tổ chức bù nhìn đã xuất hiện – là cộng hòa Carpathian Ukraine độc lập. Sự xuất hiện của nó đã tạo tiền đề cho tất cả những ý tưởng thiết lập một "Ukraine vĩ đại" thông qua việc chia cắt Cộng hòa XHCN Xô viết Ukraine ra khỏi Liên Xô. Với sự tán đồng thực tế của những kế hoạch sâu rộng này, Trotsky và phe ông ta ở Liên Xô đã lên tiếng ngay trước khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, họ giải thích điều này là bởi sự thất vọng của những người lao động Ukraine trong "điện Kremlin". Có đáng để nói thêm rằng trong các bài viết của ông ta về chủ đề này, Trotsky đã không đưa ra bất kỳ câu trả lời nào về những gì sẽ xảy ra đối với người Nga, những người chiếm 30% đến 40% ở Ukraine? Và điều này bất chấp cả thực tế là ông ta nhận thức rõ ràng rằng, giai cấp tư sản theo chủ nghĩa dân tộc sẽ tận dụng thành quả của phong trào vì "Ukraine vĩ đại", và nhà nước Ukraine mới rất có thể sẽ là phiên bản thứ hai của một nước Ba Lan độc lập, nơi một trong những các chế độ phát xít ở Châu Âu được thiết lập sớm nhất - Chế độ độc tài của Pilsudski ...

Như vậy, chúng ta thấy rằng tất cả những vấn đề tồn tại ở thời điểm đó, bằng cách này hay cách khác, đều dẫn đến câu hỏi chưa được giải đáp của Nga. Đối với giới sử học trước đây, khái niệm như vậy không tồn tại. Cùng với điều đó, người dân Nga cảm thấy sự bất công sâu sắc đối với chính họ. Cơ sở để theo đuổi chính sách này nằm ở lý thuyết đáng ngờ từ mọi quan điểm về "thực dân-nhân dân", được tuyên là Nga. Theo "lý thuyết" này, người Nga phải trả giá cho sự áp bức các dân tộc bản địa bởi chủ nghĩa Tsarism.

Một bước ngoặt trong cách tiếp cận giải pháp cho câu hỏi Nga chỉ được lên kế hoạch vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Vào thời điểm đó, đất nước đang chuyển sang giai đoạn hiện đại hóa một cách bắt buộc, khi mối đe dọa từ bên ngoài ngày càng gia tăng. Trong hoàn cảnh như vậy, nếu không đánh thức tiềm năng sáng tạo của dân tộc lớn nhất Liên Xô để phát triển, thì sự tồn tại của chính nhà nước Liên Xô trở thành điều không tưởng.

Bước ngoặt đặc biệt bắt nguồn từ việc thành lập Liên đoàn Nhà văn Liên Xô. Đại hội thành lập được tổ chức từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1934 tại Mátxcơva. N. Bukharin thay mặt ban lãnh đạo Đảng đọc báo cáo. Nội dung phát biểu của ông ta được Stalin kiểm soát cẩn thận. Do đó, các điều khoản, các vấn đề đưa ra trong đó có thể được coi là sự thay đổi định hướng của Đảng. Bukharin bắt đầu bài phát biểu của mình bằng cách tuyên bố rằng ban lãnh đạo đảng hiểu thơ ca là một trong những bộ phận quan trọng nhất của mặt trận tư tưởng và chủ đề báo cáo của ông ta về sáng tác thơ ca ở Liên Xô. Nhưng khi bắt đầu trình bày những câu hỏi cụ thể về sự phát triển của thơ ca, Bukharin đã đưa ra một điều kiện cơ bản

"Tôi cần nói trước - tôi không thể đưa ra một bức tranh toàn cảnh... về sự sáng tác thơ ca của đất nước chúng ta nói chung. Tôi không xem xét ở đây những nền văn học dân tộc lớn đang phát triển của chúng ta, thơ ca của chúng ta bằng ngôn ngữ dân tộc. Tôi chỉ xem xét thơ Nga."

Còn sau đó, tất nhiên Bukharin đã nhiều lần rào đón rằng ông ta không coi thường thơ dân tộc, rằng ông ta không nói về nó chỉ vì ông không biết thổ ngữ. Trong những lời xin lỗi nồng nàn của mình, ông ta thậm chí còn hứa sẽ học tiếng Uzbek và Tajik. Nhưng thực tế vẫn là: diễn giả chính thức của giới lãnh đạo đất nước đã dành bài phát biểu của mình cho thơ Nga. Nó bao gồm các trích dẫn từ Gumilyov, Blok, Yesenin, Bryusov. Tổng hợp những kết quả trái ngược nhau của Đại hội Nhà văn toàn Liên hiệp lần thứ nhất, chúng ta có thể nói rằng đang có sự kiên quyết hướng tới sự hồi sinh các quy luật cổ điển của nghệ thuật Nga.

Chính sách xã hội cũng đã có những thay đổi. Kể từ năm 1931, sự truy nã các chuyên gia không thuộc Đảng đã bị hạn chế bằng một quyết định bí mật. Kể từ đây, theo lời của Stalin, bắt đầu được thực hiện một "chính sách thu hút và chăm sóc" các nhân viên kỹ thuậtNgày 27 tháng 5 năm 1934, công bố lệnh ân xá và khôi phục một phần các quyền của "kulaks" trước đây. Vào giữa những năm 30, bãi bỏ những hạn chế xã hội trong lĩnh vực giáo dục đối với những người thuộc giai cấp thống trị cũ. Các luật khôi phục quyền thừa kế và quyền sở hữu tài sản theo di chúc được thông qua. Tất cả điều những này cũng có nghĩa là những thay đổi quan trọng trong giải pháp cho câu hỏi dân tộc, vì giới trí thức không theo đảng, giai cấp nông dân và các tầng lớp khác được nhận quyền chính trị mới tạo và tạo thành nền tảng của các đại diện cho dân tộc Nga.

Nhiều bước đi khác cũng đã được thực hiện trong việc giải quyết "câu hỏi Nga". Nghị quyết BCHTƯ ngày 20 tháng 4 năm 1936 là một như thế, Nghị quyết này bãi bỏ các hạn chế người Cossacks phục vụ trong Hồng quân. Sau đó, một lệnh của Bộ Quốc phòng do K. Voroshilov ban hành về các đơn vị Cossack chuyên nghiệp và theo lãnh thổ. Một số đặc quyền trước đây của người Cossacks cũng được khôi phục, bao gồm cả đồng phục Cossack. Tháng 9 năm 1935, báo chí Liên Xô đăng một sắc lệnh của chính phủ về việc khôi phục hệ thống cấp bậc quân hàm trước đây trong Hồng quân.

Song song với các quá trình này, một số trật tự và thể chế của Nga trước đây đã có sự khôi phục. Đạo đức truyền thống Nga có sự phục hồi dần dần, quyền của chủ nghĩa yêu nước Nga xuất hiện trở lại. Chương trình giảng dạy đang được điều chỉnh nghiêm túc, trong đó, sau hơn một thập kỷ che đậy quá khứ lịch sử của đất nước, việc nghiên cứu Lịch sử yêu nước quay trở lại. Cái gọi là "trường học Pokrovsky" bị chỉ trích gay gắt vì mang tính chất bài Nga trong việc trình bày các sự kiện trong quá khứ. Khái niệm lịch sử của Grushevsky, chia rẽ người dân Nga và Ukraine bị chỉ trích nặng nề. Mặt khác, sau nhiều thập kỷ bị đàn áp, các nhà sử học-nhà nước được phục hồi quyền của họ: Gauthier, Tarle, Platonov. Các tác phẩm văn học khắc họa người dân Nga và quá khứ của họ một cách thiếu tôn trọng đã bị phê phán một cách công bằng.

Các thay đổi cũng diễn ra ở cấp độ hộ gia đình. Theo nhà triết học di cư người Nga G. Fedotov, điều này được thể hiện ở việc cấm phá thai, thiết lập tôn ti trật tự gia đình và quy tắc đạo đức mới, dựa trên cơ sở là nền nếp và tuân thủ các chuẩn mực xã hội quy định. Theo đó, bản chất của cộng đồng mà một công dân Liên Xô phải xác định chính mình, cũng thay đổi. Nếu trước đây cộng đồng như vậy là giai cấp công nhân hay đảng, thì bây giờ là “dân tộc, quê hương, tổ quốcđược tuyên bố là thiêng liêng.


Trong bài này, bài chỉ dành cho những người quan sát không chú ý rằng, việc định hướng lại chính trị nhà nước trong văn bản Hiến pháp Liên Xô mới năm 1936 đã gây bất ngờ. Tất nhiên, người ta không thể nói rằng bước ngoặt này là không thể đảo ngược và đột ngột. Bản chất chủ nghĩa quốc tế của Liên Xô vẫn không thay đổi. Không có sự bác bỏ các biểu tượng hoặc thuật ngữ của thời kỳ Xô Viết. Biểu tượng con đại bàng hai đầu đã không quay trở lại chỗ quen thuộc trên những ngọn tháp của chúng Điện Kremlin. Lợi ích của tất cả các dân tộc Liên Xô đều được tính đến như trước đây. Nhưng điều mới mẻ chính là lợi ích của tất cả các dân tộc đã được tính đến trên thực tế - tức là gồm cả người Nga. Và trên hết, bản năng nhà nước của dân tộc Nga xây dựng đất nước đã được tính đến. Hiến pháp của Liên bang Xô Viết năm 1936, trước hết, là Hiến pháp của một quốc gia duy nhất.

Vì một lý do nào đó, khoa học lịch sử tồn tại ở Liên Xô, và ngay cả các nhà khoa học ở phương Tây, đã bỏ qua thực tế không bình thường nàyĐó là nói về thực tế thông qua "Hiến pháp Stalin", bản chất của liên bang đã âm thầm thay đổi. Nếu trước đó Liên bang Xô Viết trên thực tế, là Hiệp ước, thì bây giờ nó đã trở thành Lập hiến. Trong Hiến pháp cũ của Liên Xô năm 1924, văn bản bắt đầu bằng tuyên bố về việc thành lập Liên Xô và Hiệp ước Liên minh. Văn bản của "Hiến pháp Stalin" không còn tham chiếu đến tài liệu này. Như vậy, chúng đã mất đi quyền lực của mình. Liên Xô trở thành một quốc gia duy nhất.

Theo Hiến pháp mới 1936, cấu trúc nhà nước cũng thay đổi. Thay vì Đại hội toàn thể Xô viết, là lưỡng viện Ủy ban chấp hành TƯ Xô viết và Đoàn Chủ tịch của nó. Hiến pháp mới quy định thành lập Xô viết tối cao và Đoàn chủ tịch của Xô viết tối cao. Nếu như trước đây các cơ quan cao nhất được thành lập theo cơ chế ủy quyền thì nay các cơ quan này được bầu ra trên cơ sở đầu phiếu, bình đẳng, bỏ phiếu kín trực tiếp. Do đó, các cơ quan quyền lực cao nhất không còn bị kìm hãm bởi giới chức cầm quyền địa phương và có thể phản ánh lợi ích quốc gia. Quyền lực cũng được phân phối theo một cách mới giữa trung tâm liên minh và các nước cộng hòa.

Đồng thời, Hiến pháp năm 1936 đã không trở thành bước cuối cùng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Liên Xô. Không nghi ngờ gì, Hiến pháp mới đã củng cố sự thống nhất lãnh thổ và toàn vẹn nhà nước của Liên Xô. Nhưng thực tế xấu xa trong quá khứ, khi câu hỏi dân tộc được quyết định hoàn toàn dựa trên sự tổn hại của cộng hòa lớn nhất - RSFSR không được khắc phục. Một lần nữa, những thiện cảm về địa chính trị của các nhà lãnh đạo lại được thể hiện để làm phương hại đến lợi ích nhà nước của người dân Nga. Đặc biệt, theo Hiến pháp mới, nước cộng hòa tự trị Kazakhstan được trao quy chế của một nước cộng hòa liên hiệp. Vấn đề tương tự đã được quyết định với Kyrgyzstan. Tổng cộng, theo nhiều ước tính khác nhau, RSFSR đã mất khoảng 1/4 lãnh thổ và khoảng 10% tiềm năng công nghiệp. Tuy nhiên, những biến đổi này không thể thấy được, rõ ràng bao gồm cả tiêu cực. Bằng cách củng cố và mở rộng quyền của các dân tộc trong thành phần Liên Xô, chính phủ đã cắt đứt nền tảng của nhiều loại phần tử ly khai và chủ nghĩa dân tộc, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa sô vanh cường quốc.

 

Nói chung, với việc thông qua "Hiến pháp Stalin" vào đầu những năm 30 đã ấn định sự "phục hồi sống" cho người dân Nga. Sự thay đổi ý thức hệ đã trở nên rõ ràng và hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Một ví dụ về điều này thậm chí có thể là những sự kiện dường như không quan trọng như việc xuất bản những cuốn sách tương tự như tập sách nhỏ "RSFSR - Cộng hòa XHCN Liên bang Xô viết Nga", được xuất bản dưới sự biên tập của A. Leontiev và N. Mikhailov. Do "Nhà xuất bản Văn học Chính trị Nhà nước" phát hành vào năm 1938, nó được dành cho các cuộc bầu cử vào Xô Viết Tối cao được tổ chức vào năm 1937 theo Hiến pháp mới, đồng thời nó phục vụ như một chiến dịch bầu cử cho các cuộc bầu cử tương tự sắp tới ở Nga.

Trong cuốn sách này, RSFSR đã được tuyên bố một cách công khai là "hàng đầu trong số các bình đẳng" mà không có bất kỳ yêu cầu nào phải ăn năn về nó. Mặc dù thành ngữ cổ điển "Rus vĩ đại" vẫn không được sử dụng, và phải là "nhân dân Nga vĩ đại", nghĩa là phải mang một số sắc thái ý thức hệ, nhưng có thể coi là một sự tương tự. Đặc biệt, họ đã viết rằng RSFSR chiếm vị trí hàng đầu ở Liên Xô và là hàng đầu trong số các cộng hòa bình đẳng. Nga được coi là một cộng hòa cung cấp tới 70% tổng sản phẩm của Liên Xô. Trong lĩnh vực cơ khí (chỉ tiêu quan trọng nhất trong các năm kế hoạch 5 năm đầu tiên), con số này đạt 4/5 của cả Liên Xô.

Điều này mới hoàn toàn mới so với sự kích động của những năm 20. Trong đó cũng nói về chính người dân Nga. Cuốn sách viết “Nhân dân Nga anh hùng trong nhiều thế kỷ đã đứng đầu cuộc đấu tranh cách mạng của tất cả các dân tộc trên đất nước chúng ta, họ đã chỉ ra cho tất cả các dân tộc khác con đường đúng đắn nhất đi đến thắng lợi”. Sách nhấn mạnh rằng sự trỗi dậy của các nền kinh tế tự trị và các nước cộng hòa khác trong liên minh chỉ có thể thực hiện được nhờ vào việc chuyển giao các nguồn lực kinh tế từ Nga, như họ đã nói khi đó – là với sự giúp đỡ vô tư của người Nga cho các dân tộc anh em. Tất nhiên, các giá trị mới của chủ nghĩa Marx cũng được nói đến theo một cách nào đó. Nhưng cách nó được trình bày có thể làm say mê (và thực sự đã làm được) những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn nhất: "Đỉnh cao của văn hóa Nga - chủ nghĩa Lênin đồng thời là đỉnh cao của tất cả nền văn hóa thế giới". Trên thực tế, đó là tuyên bố văn hóa Nga - nền văn hóa tiên tiến nhất trên thế giới.

Tập tài liệu này cũng chứa một cái nhìn tổng quan về địa chính trị (theo nghĩa đen của từ này) về tình hình dọc theo chu vi biên giới của RSFSR: "Biên giới của RSFSR không đồng nhất. Ở phía nam, các nước cộng hòa thuộc Liên minh tiếp giáp với RSFSR... Đây là đặc điểm của tình bạn và tình anh em, là đặc điểm của tình đoàn kết máu thịt không thể tách rời. Trên thế giới này không có biên giới nào khác như vậy. Nó không tách rời mà ràng buộc, thắt chặt" (điều này được giải thích với tham khảo đến Hiến pháp). Và xa hơn nữa: Ở phía tây và phía đông, chúng ta có biên giới khác. Tại đây biên giới của RSFSR trùng với biên giới của Liên Xô. Nó ngăn cách đất nước Xô Viết hạnh phúc với thế giới tư bản.

Cụm từ sau đây của cuốn sách nhỏ nghe có vẻ rõ ràng: Theo Hiến pháp của Liên Xô, mỗi nước trong số mười một nước cộng hòa Liên minh có quyền ly khai khỏi Liên minh bất cứ khi nào họ muốn, nhưng không có cộng hòa nào trong Liên minh rời khỏi Liên . Như Stalin đã tuyên bố trong cuộc thảo luận về dự thảo Hiến pháp, các nước cộng hòa Liên Xô là "những nước được hình thành hoàn chỉnh và chịu đựng mọi thử thách của một nhà nước xã hội chủ nghĩa đa sắc tộc, sức mạnh của nhà nước này có thể được bất kỳ quốc gia nào ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ghen tị."

Tất cả điều này kết thúc với những phản ánh về chủ đề hiến pháp của RSFSR "được phát triển trên cơ sở và tuân thủ hoàn toàn" Hiến pháp năm 1936, và do đó "giống như Hiến pháp Stalin" là "dân chủ nhất trên thế giới".

Trên thực tế, Hiến pháp Stalin" đã trở thành hiện thân lập pháp tổng hợp chủ nghĩa Bolshev và tư tưởng dân tộc Nga, mà N.A. Berdyaev đã viết trong cuốn sách triết học "Nguồn gốc và ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản Nga":

"Người dân Nga đã không coi ý tưởng Cứu thế của họ về Matxcơva là Rome thứ ba. Cuộc ly giáo vào thế kỷ 17 đã phát hiện ra rằng vương quốc Matxcơva không phải là Rome thứ ba... Và rồi một sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra trong số phận của người dân Nga. Thay vì La Mã thứ ba, Nga đã thực hành Quốc tế thứ ba và nhiều đặc điểm của La mã thứ ba đã chuyển sang Quốc tế thứ ba. Quốc tế thứ ba cũng là một vương quốc thiêng liêng và cũng dựa trên đức tin chính thống. Phương Tây hiểu biết rất kém rằng Quốc tế thứ ba không phải là một Quốc tế, mà là một ý tưởng nhà nước của Nga. Đây là một sự biến đổi của chủ nghĩa Cứu thế Nga. Những người cộng sản phương Tây... bằng cách gia nhập Quốc tế thứ ba, họ tham gia cùng nhân dân Nga và thực hiện thiên chức Cứu thế của họ. Tôi đã nghe một người cộng sản Pháp nói trong cuộc họp của những người cộng sản Pháp: "Marx nói rằng giai cấp công nhân không có tổ quốc, điều đó đã từng đúng, nhưng bây giờ điều đó không còn đúng nữa, họ có tổ quốc – đó là Nga, đó là Matxcova, và những người lao động cần phải bảo vệ quê Tổ quốc của mình."

Điều này chính là nhờ việc thông qua hiến pháp mới của Liên Xô năm 1936 đã giúp củng cố và phát triển những quá trình bắt đầu phát triển vào cuối những năm 1920. Cơ sở kinh tế mới của đất nước đã cho một cái nhìn mới mẻ về vai trò của người dân Nga trong quá trình hiện đại hóa kinh tế và xã hội diễn ra ở Liên Xô. Vai trò của những người tập trung và những người thống nhất được thể hiện rõ ràng hơn. Hiến pháp đã trở thành một bảo đảm rằng những thay đổi đã diễn ra là không thể đảo ngược. Có lẽ, đây chính xác là ý nghĩa lâu dài của Hiến pháp năm 1936 đối với giải pháp cho câu hỏi Nga ở Nga – Liên Xô khi đó.

 

Sự phát triển hơn nữa của xã hội Xô Viết cho thấy sự điều chỉnh đường lối là kịp thời. Ngay cả các đối thủ chính trị của Stalin cũng công nhận rằng loại bỏ chủ nghĩa hư vô đối với các giá trị lịch sử của nhân dân Nga là một thành phần quan trọng trong việc bảo đảm chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Nhưng tầm quan trọng của việc giải quyết câu hỏi Nga không thể vì thế mà giảm điTổ chức đa quốc gia không gian Nga đã hình thành trong nhiều thế kỷ và trở thành cực quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng trên thế giới. Bất chấp sự suy yếu tạm thời của Nga, nước Nga chắc chắn vẫn sẽ đóng vai trò lịch sử của họ như một cường quốc cung cấp giải pháp tinh thần thay thế cho sự bế tắc mà phương Tây và nhân loại ngày nay nhận thấy khi có nguy cơ hủy diệt toàn bộ thế giới.

 

Trích từ tư liệu Nga;

Xem thêm: Stalin nói về sự cuồng tín chủ nghĩa dân tộc Ukraine





Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...