Hiển thị các bài đăng có nhãn Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Liên Xô. Hiển thị tất cả bài đăng

Tiết lộ của một nhà ngoại giao Mỹ về Stalin và Liên Xô!

Joseph Davies: Nếu không loại bỏ Đạo quân thứ 5, Liên Xô đã phải chịu thất bại tan nát trước Hitler;
Joseph Davies và J. Stalin

Có bài viết này ở đây, vào lúc này là do các sự kiện đang xảy ra ở châu Âu làm gợi nhớ lại mốt quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô vào thời điểm trước và sau Thế chiến 2.
Cũng có một cuốn sách của 2 người Mỹ về Liên Xô, các ông Michael Sayers và Albert Kahn và thật ra, tiểu sử và dòng họ của 2 người này cũng khá thú vị, còn cuốn sách của họ có tên: "Cuộc chiến bí mật chống lại nước Nga Xô Viết", hay cái tên tiếng Anh: “The Great Conspiracy. The Secret War Against Soviet Russia”.
Nhà ngoại giao người Mỹ Joseph Davies có cuốn sách khác: "Sứ mệnh tới Mátxcơva” (Mission to Moscow | download). Tác giả của cuốn sách, người mà vào các năm 1936-38 là Đại sứ tại Liên Xô. Cuốn sách "Mission to Moscow" của Davies được xuất bản ở Mỹ cách đây đúng 80 năm, vào năm 1942.
Cụm từ “Soviet Russia” trong cuốn sách thậm chí còn là rất khác thường tận ngày nay. Cái lên Liên Xô, hay Xô Viết chung chung phổ biến hơn. Tại sao vậy, có lẽ cần giải thích ở một bài khác.
Cuốn sách gồm lời tựa của tác giả và chín phần: 1. Bắt đầu Sứ mệnh; 2. Washington và các nước phương Đông; 3. Thanh trừng trong Hồng quân; 4. Nước Nga qua con mắt các láng giềng; 5. Thanh trừng nhằm vào Bukharin; 6. Mátxcơva nghe tiếng trống trận; 7. Đỉnh cao nhiệm vụ; 8. Tóm tắt các sự kiện; 9. Thành quả của nhiệm vụ. Cuốn sách kết thúc với phần phụ lục mở rộng do chính J. Davies biên soạn và chứa đựng nội dung các văn bản, tài liệu tham khảo, các báo cáo quan trọng của đại sứ.

Joseph Davies sinh năm 1876. Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách luật sư. Đầu những năm 1930, ông đã nổi tiếng trong Đảng Dân chủ khi đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công chiến dịch tranh cử tổng thống của Woodrow Wilson. Sau đó, Davies bắt đầu được bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng. Năm 1913-1915, là ủy viên chính phủ phụ trách giám sát các tập đoàn; các năm 1915-1918 là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Trong Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, ông là cố vấn kinh tế của Tổng thống Wilson. Sau Thế chiến 1, Davies trở lại với nghề luật một lần nữa.
Davies đã làm quen với Franklin Roosevelt năm 1933, và Roosevelt trở thành chủ nhân của Nhà Trắng (nhiệm kỳ 1933-45), Roosevelt đã tham khảo ý kiến của Davies về nhiều vấn đề. Cũng năm 1933, Mỹ khôi phục quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Liên Xô là William Bullitt. Quan hệ của Bullitt với Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác là bình thường, nhưng thông tin về Liên Xô mà Bullitt gửi về Washington lại khá tiêu cực. Còn TT Roosevelt có mong muốn xích lại gần hơn với Liên Xô, đặc biệt là khi Đảng Quốc xã lên nắm quyền ở Đức. Và Roosevelt quyết định bổ nhiệm Davies làm đại sứ tại Matxcova, mặc dù lúc đó không có kinh nghiệm về ngoại giao.
Được bổ nhiệm làm đại sứ vào tháng 8 năm 1936, J. Davies đã góp phần hoàn tất các cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại giữa Liên Xô và Mỹ. Gần hai năm Davies ở Liên Xô đã khiến ông tin tưởng chắc rằng chính phủ Anh và Pháp đã mắc sai lầm lớn khi xoa dịu Hitler và cố gắng cô lập Liên Xô. Đồng thời, Davies thấy Stalin đã tỉnh táo trong việc đánh giá tình hình thế giới, chuẩn bị cho một cuộc đối đầu gần như không thể tránh khỏi với Hitler. Trong cuốn sách, Davies trình bày chi tiết về sự chuẩn bị này.
- Thứ nhất, phát triển nhanh chóng của công nghiệp (công nghiệp hóa 10 năm trước Thế chiến 2).
- Thứ hai, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang Liên Xô (huấn luyện quân sự, tăng số lượng biên chế, nâng cao chất lượng vũ khí và trang thiết bị quân sự).
- Thứ ba, thanh lọc Đạo quân thứ 5 (trong bộ máy quản lý nhà nước, lực lượng vũ trang, trong nền kinh tế quốc dân).

Davies đặc biệt chú ý đến tuyến thứ ba “thanh lọc Đạo quân thứ 5” trong quá trình chuẩn bị chiến tranh của Stalin. Đại sứ Mỹ đã có mặt tại hầu hết các phiên tòa ở Mátxcơva năm 1937-38. Là một luật sư có kinh nghiệm dày dặn, Davies ghi nhận tính không hoàn hảo của các phiên tòa ở Mátxcơva và xác nhận tội trạng của các bị cáo. Trong cuốn sách, Davies tường thuật nhiều sắc thái thú vị liên quan đến những bị cáo trong các phiên tòa như Nikolai Bukharin, Mikhail Tomsky, Grigory Zinoviev, Alexei Rykov, Lev Kamenev, Yuri Pyatakov, Christian Rakovsky, Nikolai Krestinsky, Arkady Rozengolts, Grigory Grinko, Grigory Sokolnikov, Karl Radek và những kẻ khác. Ông quan tâm nhiều đến "phe đối lập ngầm" trong Lực lượng vũ trang Liên Xô. Nhân vật chính ở đây là Nguyên soái Mikhail Tukhachevsky. Các nhân vật khác của đội quân ngầm: V. Putna, I. Yakir, I. Uborevich, R. Eideman, A. Kork, B. Feldman, V. Primakov. Adolf Hitler, vào trước chiến tranh đã tạo ra đạo quân thứ 5 ở tất cả các nước châu Âu và sử dụng chúng để tìm cách chinh phục những nước này một cách nhanh chóng, đôi khi không cần bắn một phát súng nào. Liên Xô cũng có đạo quân thứ 5 như vậy. Nhưng sau vụ ám sát M. Kirov năm 1934, Stalin bắt đầu công cuộc thanh lọc có hệ thống, đến cuối năm 1938 thì cơ bản hoàn thành.
Davies liên tục lặp lại rằng nếu không loại bỏ đạo quân thứ 5, Liên Xô sẽ phải chịu thất bại nặng nề trước Hitler.
Davies viết về những quan sát của mình với các sự kiện diễn ra ở Liên Xô không chỉ trong nhật ký mà còn trong các thông điệp do Ngoại trưởng Cordell Hull gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Một số thông điệp đã được gửi đến F. Roosevelt. Vào mùa hè năm 1938, Davies được triệu hồi từ Mátxcơva và bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ tại Bỉ và Đặc phái viên tại Luxembourg, và vào tháng 1 năm 1940, ông làm Trợ lý Đặc biệt cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Sự nghiệp ngoại giao của Davies chấm dứt vào tháng 11 năm 1940, theo nguyện vọng, ông được cho thôi việc tại Bộ Ngoại giao. Năm 1941, Davies được đặt vào vị trí lãnh đạo Ủy ban của Tổng thống nhằm thống nhất các hoạt động của tất cả các tổ chức về vấn đề hỗ trợ đồng minh trong chiến tranh.
Thật khó để không đánh giá rất cao vai trò của Davies trong việc đưa Mỹ và Liên Xô xích lại gần nhau hơn trước và sau Thế chiến 2 cũng như thời kỳ cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bùng nổ. Davies đã thuyết phục được cả Cordell Hull và Franklin Roosevelt rằng Liên Xô không những không phải là kẻ thù của Mỹ mà ngược lại, có thể và nên trở thành đồng minh chính của Mỹ trong chiến tranh thế giới. Dựa trên kiến thức sâu rộng của mình về Liên Xô, cựu đại sứ Davies, chỉ 2 ngày sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố rằng: "Thế giới sẽ ngạc nhiên về quy mô của cuộc kháng chiến mà Nga sẽ tiến hành”. Ở Mỹ, có rất nhiều giới ủng hộ Hitler một cách công khai và bí mật, cũng như giới chống Liên Xô công khai và bí mật. Davies không ngần ngại gọi giới này là Đạo quân thứ năm (fifth column) của nước Mỹ. Ông nói rằng: "Chính phủ Xô Viết không tìm cách áp đặt ý chí của họ lên các dân tộc khác mà chỉ chống lại Hitler và những kẻ muốn nô dịch nhân loại". Davies đã phát biểu trên báo chí, trên đài phát thanh, tại nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi người Mỹ từ bỏ thành kiến với Liên Xô và cung cấp hỗ trợ cho Liên Xô. Ông kiên quyết yêu cầu mở mặt trận thứ hai. Sau đó, ông trở thành thành viên của phái đoàn Mỹ tại Hội nghị Potsdam năm 1945 (với cấp bậc đại sứ).
Davies đã có hai cuộc gặp gỡ với Stalin. Cuộc gặp đầu tiên diễn ra vào đêm trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ đại sứ tại Mátxcơva vào tháng 6 năm 1938. Nhà ngoại giao Mỹ kể chi tiết cuộc trò chuyện của ông với Stalin trong một báo cáo gửi cho Ngoại trưởng Mỹ. Báo cáo này đã được giải mật và đưa vào phần bổ sung của cuốn sách. Cuộc gặp thứ hai, diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đó là một chuyến của Davies đến Mátxcơva, mang theo theo một thông điệp đặc biệt từ Roosevelt gửi đến IV Stalin.
Vào cuối mùa xuân năm 1943, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ bị nguội lạnh. Nguyên nhân là do phương Tây trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai chống phát-xít. J. Davies đã thảo luận vấn đề này với Roosevelt, và tổng thống đã giao cho ông đứng đầu với nhiệm vụ mới, gặp Stalin và thuyết phục rằng Mỹ vẫn là một đồng minh đáng tin cậy của Liên Xô và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ sau chiến tranh. Davies mang đã chuyển về một thông điệp riêng cho Roosevelt (Bản dịch thư của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô – Stalin với các Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945. Văn bản số 83 ngày 5 tháng 5 năm 1943). Nhưng sức thuyết phục chính để Mỹ duy trì các mối quan hệ đồng minh thậm chí không phải là thông điệp dành cho Roosevelt, mà là bộ phim mà Davies, cùng với tổng thống Mỹ, đã tặng cho Stalin.
Bộ phim này có cũng tên với cuốn sách của ông, "Mission to Moscow". Bộ phim ra đời một năm sau cuốn sách. Đó là một dự án được TT Roosevelt ủng hộ. Phim thuộc thể loại nửa hư cấu, nửa tài liệu. Hầu hết phần tài liệu là những gì liên quan đến công việc của đại sứ quán Mỹ tại Mátxcơva cũng như ông Davies. Ở Mỹ, bộ phim đã được hàng triệu người Mỹ theo dõi, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố thiện cảm của "tầng lớp thống nhất Mỹ" dành cho nước Nga Xô Viết. Nói không quá, nếu không có bộ phim này, Mặt trận thứ hai chống phát-xít ở phương Tây có lẽ đã không được mở ra sau này.
Gửi bộ phim, Roosevelt đã rất hy vọng rằng Stalin sau khi xem phim có thể cảm thấy “tâm trạng thân Mỹ”. Stalin ngay lập tức đã xem bộ phim và quả thực rất ấn tượng. Davies viết cho Harry Warner: "Nguyên soái Stalin và tất cả những người có mặt tại buổi chiếu đều đánh giá cao những hình ảnh". Năm 1943, bộ phim được phát hành cho hệ thống phân phối phim của Liên Xô và cũng rất được khán giả Liên Xô yêu thích. Bộ phim "Mission to Moscow" đặc biệt thành công bên ngoài Mỹ, ở Liên Xô ở Anh và Trung Quốc.
Ngay sau khi bộ phim được phát hành tại Mỹ, một bản sao của nó cũng đã được đưa đến boongke của Hitler. Trùm tuyên truyền quốc xã Goebbels đã viết một mục về điều này trong nhật ký của mình vào tháng 5 năm 1943. Hắn ta cũng nhận được thông tin về chuyến đi của Davies đến Mátxcơva, và đã gọi ông Davies là "cái phòng khách của Bolshevik", một loại người "nguy hiểm" và ra lệnh cho báo chí Đức tuyên truyền tẩy chay cuốn sách và tác giả của nó.
Sau Thế chiến 2, ông Davies tiếp tục làm việc để duy trì mối quan hệ Xô-Mỹ, mối quan hệ mà khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, Washington bắt đầu có chủ ý làm sụp đổ. Davies là một trong những người tổ chức và là chủ tịch danh dự của Hội đồng quốc gia về tình hữu nghị Mỹ-Xô. Trong một bài phát biểu của mình, ông tuyên bố rằng: "Trong số tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc, sẽ không có ai trung thành, kiên định hơn trong việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình vĩnh viễn hơn là nhân dân Liên Xô”. Cho đến cuối đời (ông mất ngày 9 tháng 5 năm 1958), J. Davies, bất chấp các cuộc tấn công liên tục từ giới chống Liên Xô thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, vẫn là một người bạn thực sự của đất nước Liên Xô.
PS: bên trên có cụm từ "tầng lớp thống nhất Mỹ". Cần giải thích thêm là nước Mỹ nhiều phe phái, ngay cả giới chính trị gia cũng có nhiều đường lối, quan điểm khác nhau. Do đó, không có sự thống nhất như một tầng lớp. Vì thế mà đặt cụm từ này trong ngoặc kép. Vấn đề là Stalin, nếu như không tận dụng được sự ủng hộ của giới chính khách mà Roosevelt là đại diện, nếu như coi nước Mỹ là đối thủ, là kẻ thù, thì cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại sẽ khó khăn, ác liệt hơn nhiều. Chiến tranh là một hoàn cảnh đặc biệt, trong đó cây giáo dài hơn, súng đạn nhiều hơn là thiệt hại, tổn thất ít hơn, là cơ hội chiến thắng nhiều hơn. Hình ảnh bên dưới là một minh chứng cho điều này. Quan điểm của Truman, TT kế nhiệm đã rất khác. Đó là sự trục lợi, là chủ nghĩa cơ hội. Về phía mình, Liên Xô nhận được 1 khẩu súng trong Lend-lease cũng đã bớt đi 1 khẩu cho phát-xít. Súng có lởm, nhưng giá trị là gấp đôi.
Cũng cần nói thêm rằng, KKE gây chiến ở Hy Lạp và giấc mộng Đại Nam tư của Tito cũng là một phần nguyên nhân của Chiến tranh lạnh.

Truman: "Nếu chúng ta thấy Đức đang thắng thì chúng ta phải
giúp Nga và nếu Nga đang thắng thì chúng ta phải giúp Đức và
đấy là cách để họ giết nhau nhiều nhất có thể,..."


Chính sách nhà nước của Stalin những năm 1920-1930

 Chính sách nhà nước của Stalin và giải pháp cho "câu hỏi Nga" của Liên Xô trong những năm 1920-1930.

Nga, Rus - bất cứ nơi nào tôi qua ...

Vì tất cả những đau khổ và trận chiến

Tôi yêu Người, nước Nga, sự cổ kính

Những khu rừng, nghĩa trang và lời cầu nguyện,

Tôi yêu những túp lều và những bông hoa,

Và bầu trời, nắng hè oi ả,

lời thì thầm của rặng liễu đứng bên bờ,

Tôi yêu mãi, cho đến khi vĩnh hằng yên nghỉ...

N. Rubtsov

Sự ra đời của một nhà nước về cơ bản là đa quốc gia kiểu mới - Liên bang Xô viết, đã trở thành một dấu mốc quan trọng không chỉ đối với nước Nga mà còn đối với lịch sử thế giới. Nhưng thời gian trôi qua, rõ ràng là việc thành lập Liên Xô vào năm 1922 đã không giải quyết được tất cả các vấn đề dân tộc ở nhà nước Xô Viết. Không thể khắc phục được chúng với việc thông qua Hiến pháp năm 1924.

Câu hỏi "ngữ hệ Tuyếc" rất gay gắt. Ngay cả trong khi thảo luận về các cách thức thành lập Liên Xô, chủ nghĩa dân tộc đã bộc lộ rõ ​​nét trong giới lãnh đạo của một số nước cộng hòa "Hồi giáo". Do đó, một nhân vật dân ủy nổi bật, Sultan-Galiev đã đòi nâng tầm tự trị của các cộng hòa liên minh lên ngang hàng với Nga. Tranh luận đã diễn ra, trước hết, là về CH XHCN Xô viết tự trị Turkestan, bao gồm trong nó lãnh thổ của Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan và Turkmenistan. Sau đó, ông ta đưa ra kế hoạch thành lập 4 nước cộng hòa trên lãnh thổ Nga, trên thực tế, chúng mang đặc điểm Pan-Turkic: liên bang các nước cộng hòa Ural-Volga, liên bang All-Caucasian, cộng hòa Kazakhstan và... cái gọi là cộng hòa Turan bao gồm 4 nước Trung Á. Năm 1923, một cuộc họp đặc biệt của BCHTƯ với các quan chức cấp cao của các nước cộng hòa dân tộc chỉ trích lập trường của Sultan-Galiyev. Nhưng ngay cả sau này, vào cuối thời kỳ NEP, một số quan chức Tatar và Crimea vẫn bị kết tội có liên hệ với phong trào Pan- Turkic và Thổ Nhĩ Kỳ.

Có sự căng thẳng liên tục diễn ra trong kế hoạch bảo toàn nhà nước liên minh ở Ukraine. Ở đây trong những năm 20, giới gọi là "ukapists" – là các đảng viên Cộng sản Ukraine một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa và tiểu tư sản khác đã hoạt động. Không phải mọi thứ diễn ra suôn sẻ trong chính sách mà giới chức chính thức của Ukraine thuộc Liên Xô theo đuổi. Cũng có sự thái quá của quần chúng liên quan đến cái gọi là "Ukraine hóa". Nguồn gốc của nó là từ những nhân vật Ukraine như nhà văn và nhà thơ Mykola Khvylevoy, Mikhail Volobuev, ủy viên BCHTƯ Ukraine Oleksandr Shumsky. Hệ tư tưởng của họ dựa trên quan niệm lịch sử của M. S. Grushevsky, một lãnh đạo tư sản Rada UkraineÔng ta là nhà sử học trốn sang Áo quay trở về Liên Xô năm 1924 rồi được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Ukraine, và năm 1929 - Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Sự khởi đầu của chính sách "Ukraine hóa" thực tế diễn ra vào năm 1925. Một số bài báo của Khvylovy đã đóng vai trò như tín hiệu ép buộc. Đề cập đến các quyết định của Đại hội XII của Đảng Cộng sản Nga, ông ta nhấn mạnh vào "Korenizatsia” - một chiến dịch chính trị và văn hóa nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa chính quyền trung ương, các nước cộng hòa và điều chỉnh bộ máy nhà nước. Trên thực tế, cũng có nghĩa là cuộc di cư hàng loạt của hàng nghìn chuyên gia có trình độ, biết chữ, mà Nga là quê hương ngôn ngữ của họ. Không giới hạn bản thân điều này, Khvylovy nhấn mạnh rằng không thể "tập trung hóa" nếu không có quá trình Ukraine hóa các thành phố nói chung. Ông ta lập luận rằng chỉ có "tiểu thị dân Nga, kẻ có gan ngồi lên việc Ukraine hóa này... là kẻ “nghiến răng” nghiên cứu “ngôn ngữ của chónày? Là kẻ hét lên Matxcơva: "Cứu tôi với!". Trong khi đó 90% dân số thành thị của Ukraine vào thời điểm đó là người Nga. Cả hệ thống y tế, giáo dục, kinh tế đô thị, văn hóa và khoa học, và cuối cùng là - công nghiệp đã hỗ trợ họ."

Các kế hoạch trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Ukraine thậm chí còn đi xa hơn. Họ nhắm vào trung tâm của sự thống nhất Nga-Ukraine - là nền văn hóa chung của hai dân tộc Slavic có mối quan hệ chính thống. Khéo léo bắt chước môi trường chính trị lúc bấy giờ và khéo léo tung hứng vốn từ vựng chủ nghĩa Marx, Khvylovy ngoan cố tuyên truyền ý tưởng của mình: “Không nên nhầm lẫn liên minh chính trị của chúng ta với Nga và văn học”. Ông ta kích động, “người Ba Lan sẽ không bao giờ Mickiewicz (nhà thơ) nếu họ không chấm dứt tập trung vào nghệ thuật Nga. Thực tế là văn học Nga đã đè nặng lên chúng ta trong nhiều thế kỷ như vị thế ông chủ, làm chúng ta quen với tâm lý bắt chước của nô lệ... Ý tưởng giai cấp vô sản chúng ta đã được biến đến ngay cả khi không có nghệ thuật ở Matxcova. Hãy cho chúng tôi suy nghĩ của riêng mình! Hãy rời bỏ Matxcova! "

Một phần cán bộ của BCHTƯ Ukraine, do Shumsky đứng đầu, không chỉ ủng hộ chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa mà còn liên tục yêu cầu lãnh đạo chính phủ đẩy mạnh chính sách cưỡng bức Ukraine hóa. Không phải ở đâu, mà ở cơ quan trung ương, BCHTƯ Đảng Ukraine, tạp chí "Bolshevik Ukraine" năm 1928 – đăng bài báo của nhà kinh tế M. Volobuev "Về các vấn đề của nền kinh tế Ukraine". Trong đó lập luận rằng chế độ Tsarism ở Ukraine, theo đuổi chính sách thuộc địa, cướp đi các nguồn lực kinh tế của họ. Còn hiện nay, dưới quyền lực của Liên Xô - vị tác giả lập luận, Ukraine nên phát triển trong ranh giới nền kinh tế quốc gia độc lập một cách tự nhiên của mình. Từ những giả định lý thuyết này, các kết luận chính trị cũng được rút ra: theo M. Volobuev, kế hoạch "phân vùng kinh tế Liên Xô" do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước liên minh xây dựng theo đề án và với sự tham gia của các chuyên gia Nga Sa hoàng đế quốc cũ - hoàn toàn không quan tâm đến lợi ích nền kinh tế quốc gia các "thuộc địa cũ của Nga".

Rất nhanh chóng, quan điểm của Shumsky được phần lớn giới cộng sản miền Tây Ukraine ủng hộ, họ tổ chức hoạt động trên lãnh thổ Ba Lan và hoàn toàn có thiện cảm với Trotsky. Chính Trotsky là kẻ ủng hộ quyết liệt việc Ukraine ly khai. Trong Bản tin phản đối do ông ta xuất bản ở nước ngoài đã đăng một số bài về vấn đề này. Một trong số đó, Trotsky viết: Nhưng nền độc lập của một nước Ukraine thống nhất đồng nghĩa với việc tách Ukraine Xô viết ra khỏi Liên Xô, “những người bạn” của Điện Kremlin đồng thanh thốt lên. - Có gì ghê gớm ở đây? - chúng tôi phản đối, về phần mình. Sự kính sợ thần thánh trước các biên giới nhà nước là xa lạ đối với chúng tôi. Chúng tôi không đứng trên lập trường của “khối thống nhất và không thể chia cắt”. Cần phải nói thêm rằng Trotsky đã phát triển và bảo vệ những quan điểm này của mình trong thời kỳ đó.

Như trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, xương sống của phong trào ly khai Ukraine là ở sự hỗ trợ từ Đức, quốc gia này quan tâm đến việc chia cắt đất nước Nga. Sau hiệp ước Munich và trên thực tế Tiệp Khắc bị giải thể, một tổ chức bù nhìn đã xuất hiện – là cộng hòa Carpathian Ukraine độc lập. Sự xuất hiện của nó đã tạo tiền đề cho tất cả những ý tưởng thiết lập một "Ukraine vĩ đại" thông qua việc chia cắt Cộng hòa XHCN Xô viết Ukraine ra khỏi Liên Xô. Với sự tán đồng thực tế của những kế hoạch sâu rộng này, Trotsky và phe ông ta ở Liên Xô đã lên tiếng ngay trước khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, họ giải thích điều này là bởi sự thất vọng của những người lao động Ukraine trong "điện Kremlin". Có đáng để nói thêm rằng trong các bài viết của ông ta về chủ đề này, Trotsky đã không đưa ra bất kỳ câu trả lời nào về những gì sẽ xảy ra đối với người Nga, những người chiếm 30% đến 40% ở Ukraine? Và điều này bất chấp cả thực tế là ông ta nhận thức rõ ràng rằng, giai cấp tư sản theo chủ nghĩa dân tộc sẽ tận dụng thành quả của phong trào vì "Ukraine vĩ đại", và nhà nước Ukraine mới rất có thể sẽ là phiên bản thứ hai của một nước Ba Lan độc lập, nơi một trong những các chế độ phát xít ở Châu Âu được thiết lập sớm nhất - Chế độ độc tài của Pilsudski ...

Như vậy, chúng ta thấy rằng tất cả những vấn đề tồn tại ở thời điểm đó, bằng cách này hay cách khác, đều dẫn đến câu hỏi chưa được giải đáp của Nga. Đối với giới sử học trước đây, khái niệm như vậy không tồn tại. Cùng với điều đó, người dân Nga cảm thấy sự bất công sâu sắc đối với chính họ. Cơ sở để theo đuổi chính sách này nằm ở lý thuyết đáng ngờ từ mọi quan điểm về "thực dân-nhân dân", được tuyên là Nga. Theo "lý thuyết" này, người Nga phải trả giá cho sự áp bức các dân tộc bản địa bởi chủ nghĩa Tsarism.

Một bước ngoặt trong cách tiếp cận giải pháp cho câu hỏi Nga chỉ được lên kế hoạch vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Vào thời điểm đó, đất nước đang chuyển sang giai đoạn hiện đại hóa một cách bắt buộc, khi mối đe dọa từ bên ngoài ngày càng gia tăng. Trong hoàn cảnh như vậy, nếu không đánh thức tiềm năng sáng tạo của dân tộc lớn nhất Liên Xô để phát triển, thì sự tồn tại của chính nhà nước Liên Xô trở thành điều không tưởng.

Bước ngoặt đặc biệt bắt nguồn từ việc thành lập Liên đoàn Nhà văn Liên Xô. Đại hội thành lập được tổ chức từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1934 tại Mátxcơva. N. Bukharin thay mặt ban lãnh đạo Đảng đọc báo cáo. Nội dung phát biểu của ông ta được Stalin kiểm soát cẩn thận. Do đó, các điều khoản, các vấn đề đưa ra trong đó có thể được coi là sự thay đổi định hướng của Đảng. Bukharin bắt đầu bài phát biểu của mình bằng cách tuyên bố rằng ban lãnh đạo đảng hiểu thơ ca là một trong những bộ phận quan trọng nhất của mặt trận tư tưởng và chủ đề báo cáo của ông ta về sáng tác thơ ca ở Liên Xô. Nhưng khi bắt đầu trình bày những câu hỏi cụ thể về sự phát triển của thơ ca, Bukharin đã đưa ra một điều kiện cơ bản

"Tôi cần nói trước - tôi không thể đưa ra một bức tranh toàn cảnh... về sự sáng tác thơ ca của đất nước chúng ta nói chung. Tôi không xem xét ở đây những nền văn học dân tộc lớn đang phát triển của chúng ta, thơ ca của chúng ta bằng ngôn ngữ dân tộc. Tôi chỉ xem xét thơ Nga."

Còn sau đó, tất nhiên Bukharin đã nhiều lần rào đón rằng ông ta không coi thường thơ dân tộc, rằng ông ta không nói về nó chỉ vì ông không biết thổ ngữ. Trong những lời xin lỗi nồng nàn của mình, ông ta thậm chí còn hứa sẽ học tiếng Uzbek và Tajik. Nhưng thực tế vẫn là: diễn giả chính thức của giới lãnh đạo đất nước đã dành bài phát biểu của mình cho thơ Nga. Nó bao gồm các trích dẫn từ Gumilyov, Blok, Yesenin, Bryusov. Tổng hợp những kết quả trái ngược nhau của Đại hội Nhà văn toàn Liên hiệp lần thứ nhất, chúng ta có thể nói rằng đang có sự kiên quyết hướng tới sự hồi sinh các quy luật cổ điển của nghệ thuật Nga.

Chính sách xã hội cũng đã có những thay đổi. Kể từ năm 1931, sự truy nã các chuyên gia không thuộc Đảng đã bị hạn chế bằng một quyết định bí mật. Kể từ đây, theo lời của Stalin, bắt đầu được thực hiện một "chính sách thu hút và chăm sóc" các nhân viên kỹ thuậtNgày 27 tháng 5 năm 1934, công bố lệnh ân xá và khôi phục một phần các quyền của "kulaks" trước đây. Vào giữa những năm 30, bãi bỏ những hạn chế xã hội trong lĩnh vực giáo dục đối với những người thuộc giai cấp thống trị cũ. Các luật khôi phục quyền thừa kế và quyền sở hữu tài sản theo di chúc được thông qua. Tất cả điều những này cũng có nghĩa là những thay đổi quan trọng trong giải pháp cho câu hỏi dân tộc, vì giới trí thức không theo đảng, giai cấp nông dân và các tầng lớp khác được nhận quyền chính trị mới tạo và tạo thành nền tảng của các đại diện cho dân tộc Nga.

Nhiều bước đi khác cũng đã được thực hiện trong việc giải quyết "câu hỏi Nga". Nghị quyết BCHTƯ ngày 20 tháng 4 năm 1936 là một như thế, Nghị quyết này bãi bỏ các hạn chế người Cossacks phục vụ trong Hồng quân. Sau đó, một lệnh của Bộ Quốc phòng do K. Voroshilov ban hành về các đơn vị Cossack chuyên nghiệp và theo lãnh thổ. Một số đặc quyền trước đây của người Cossacks cũng được khôi phục, bao gồm cả đồng phục Cossack. Tháng 9 năm 1935, báo chí Liên Xô đăng một sắc lệnh của chính phủ về việc khôi phục hệ thống cấp bậc quân hàm trước đây trong Hồng quân.

Song song với các quá trình này, một số trật tự và thể chế của Nga trước đây đã có sự khôi phục. Đạo đức truyền thống Nga có sự phục hồi dần dần, quyền của chủ nghĩa yêu nước Nga xuất hiện trở lại. Chương trình giảng dạy đang được điều chỉnh nghiêm túc, trong đó, sau hơn một thập kỷ che đậy quá khứ lịch sử của đất nước, việc nghiên cứu Lịch sử yêu nước quay trở lại. Cái gọi là "trường học Pokrovsky" bị chỉ trích gay gắt vì mang tính chất bài Nga trong việc trình bày các sự kiện trong quá khứ. Khái niệm lịch sử của Grushevsky, chia rẽ người dân Nga và Ukraine bị chỉ trích nặng nề. Mặt khác, sau nhiều thập kỷ bị đàn áp, các nhà sử học-nhà nước được phục hồi quyền của họ: Gauthier, Tarle, Platonov. Các tác phẩm văn học khắc họa người dân Nga và quá khứ của họ một cách thiếu tôn trọng đã bị phê phán một cách công bằng.

Các thay đổi cũng diễn ra ở cấp độ hộ gia đình. Theo nhà triết học di cư người Nga G. Fedotov, điều này được thể hiện ở việc cấm phá thai, thiết lập tôn ti trật tự gia đình và quy tắc đạo đức mới, dựa trên cơ sở là nền nếp và tuân thủ các chuẩn mực xã hội quy định. Theo đó, bản chất của cộng đồng mà một công dân Liên Xô phải xác định chính mình, cũng thay đổi. Nếu trước đây cộng đồng như vậy là giai cấp công nhân hay đảng, thì bây giờ là “dân tộc, quê hương, tổ quốcđược tuyên bố là thiêng liêng.


Trong bài này, bài chỉ dành cho những người quan sát không chú ý rằng, việc định hướng lại chính trị nhà nước trong văn bản Hiến pháp Liên Xô mới năm 1936 đã gây bất ngờ. Tất nhiên, người ta không thể nói rằng bước ngoặt này là không thể đảo ngược và đột ngột. Bản chất chủ nghĩa quốc tế của Liên Xô vẫn không thay đổi. Không có sự bác bỏ các biểu tượng hoặc thuật ngữ của thời kỳ Xô Viết. Biểu tượng con đại bàng hai đầu đã không quay trở lại chỗ quen thuộc trên những ngọn tháp của chúng Điện Kremlin. Lợi ích của tất cả các dân tộc Liên Xô đều được tính đến như trước đây. Nhưng điều mới mẻ chính là lợi ích của tất cả các dân tộc đã được tính đến trên thực tế - tức là gồm cả người Nga. Và trên hết, bản năng nhà nước của dân tộc Nga xây dựng đất nước đã được tính đến. Hiến pháp của Liên bang Xô Viết năm 1936, trước hết, là Hiến pháp của một quốc gia duy nhất.

Vì một lý do nào đó, khoa học lịch sử tồn tại ở Liên Xô, và ngay cả các nhà khoa học ở phương Tây, đã bỏ qua thực tế không bình thường nàyĐó là nói về thực tế thông qua "Hiến pháp Stalin", bản chất của liên bang đã âm thầm thay đổi. Nếu trước đó Liên bang Xô Viết trên thực tế, là Hiệp ước, thì bây giờ nó đã trở thành Lập hiến. Trong Hiến pháp cũ của Liên Xô năm 1924, văn bản bắt đầu bằng tuyên bố về việc thành lập Liên Xô và Hiệp ước Liên minh. Văn bản của "Hiến pháp Stalin" không còn tham chiếu đến tài liệu này. Như vậy, chúng đã mất đi quyền lực của mình. Liên Xô trở thành một quốc gia duy nhất.

Theo Hiến pháp mới 1936, cấu trúc nhà nước cũng thay đổi. Thay vì Đại hội toàn thể Xô viết, là lưỡng viện Ủy ban chấp hành TƯ Xô viết và Đoàn Chủ tịch của nó. Hiến pháp mới quy định thành lập Xô viết tối cao và Đoàn chủ tịch của Xô viết tối cao. Nếu như trước đây các cơ quan cao nhất được thành lập theo cơ chế ủy quyền thì nay các cơ quan này được bầu ra trên cơ sở đầu phiếu, bình đẳng, bỏ phiếu kín trực tiếp. Do đó, các cơ quan quyền lực cao nhất không còn bị kìm hãm bởi giới chức cầm quyền địa phương và có thể phản ánh lợi ích quốc gia. Quyền lực cũng được phân phối theo một cách mới giữa trung tâm liên minh và các nước cộng hòa.

Đồng thời, Hiến pháp năm 1936 đã không trở thành bước cuối cùng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Liên Xô. Không nghi ngờ gì, Hiến pháp mới đã củng cố sự thống nhất lãnh thổ và toàn vẹn nhà nước của Liên Xô. Nhưng thực tế xấu xa trong quá khứ, khi câu hỏi dân tộc được quyết định hoàn toàn dựa trên sự tổn hại của cộng hòa lớn nhất - RSFSR không được khắc phục. Một lần nữa, những thiện cảm về địa chính trị của các nhà lãnh đạo lại được thể hiện để làm phương hại đến lợi ích nhà nước của người dân Nga. Đặc biệt, theo Hiến pháp mới, nước cộng hòa tự trị Kazakhstan được trao quy chế của một nước cộng hòa liên hiệp. Vấn đề tương tự đã được quyết định với Kyrgyzstan. Tổng cộng, theo nhiều ước tính khác nhau, RSFSR đã mất khoảng 1/4 lãnh thổ và khoảng 10% tiềm năng công nghiệp. Tuy nhiên, những biến đổi này không thể thấy được, rõ ràng bao gồm cả tiêu cực. Bằng cách củng cố và mở rộng quyền của các dân tộc trong thành phần Liên Xô, chính phủ đã cắt đứt nền tảng của nhiều loại phần tử ly khai và chủ nghĩa dân tộc, bao gồm cả những người theo chủ nghĩa sô vanh cường quốc.

 

Nói chung, với việc thông qua "Hiến pháp Stalin" vào đầu những năm 30 đã ấn định sự "phục hồi sống" cho người dân Nga. Sự thay đổi ý thức hệ đã trở nên rõ ràng và hiển nhiên đối với tất cả mọi người. Một ví dụ về điều này thậm chí có thể là những sự kiện dường như không quan trọng như việc xuất bản những cuốn sách tương tự như tập sách nhỏ "RSFSR - Cộng hòa XHCN Liên bang Xô viết Nga", được xuất bản dưới sự biên tập của A. Leontiev và N. Mikhailov. Do "Nhà xuất bản Văn học Chính trị Nhà nước" phát hành vào năm 1938, nó được dành cho các cuộc bầu cử vào Xô Viết Tối cao được tổ chức vào năm 1937 theo Hiến pháp mới, đồng thời nó phục vụ như một chiến dịch bầu cử cho các cuộc bầu cử tương tự sắp tới ở Nga.

Trong cuốn sách này, RSFSR đã được tuyên bố một cách công khai là "hàng đầu trong số các bình đẳng" mà không có bất kỳ yêu cầu nào phải ăn năn về nó. Mặc dù thành ngữ cổ điển "Rus vĩ đại" vẫn không được sử dụng, và phải là "nhân dân Nga vĩ đại", nghĩa là phải mang một số sắc thái ý thức hệ, nhưng có thể coi là một sự tương tự. Đặc biệt, họ đã viết rằng RSFSR chiếm vị trí hàng đầu ở Liên Xô và là hàng đầu trong số các cộng hòa bình đẳng. Nga được coi là một cộng hòa cung cấp tới 70% tổng sản phẩm của Liên Xô. Trong lĩnh vực cơ khí (chỉ tiêu quan trọng nhất trong các năm kế hoạch 5 năm đầu tiên), con số này đạt 4/5 của cả Liên Xô.

Điều này mới hoàn toàn mới so với sự kích động của những năm 20. Trong đó cũng nói về chính người dân Nga. Cuốn sách viết “Nhân dân Nga anh hùng trong nhiều thế kỷ đã đứng đầu cuộc đấu tranh cách mạng của tất cả các dân tộc trên đất nước chúng ta, họ đã chỉ ra cho tất cả các dân tộc khác con đường đúng đắn nhất đi đến thắng lợi”. Sách nhấn mạnh rằng sự trỗi dậy của các nền kinh tế tự trị và các nước cộng hòa khác trong liên minh chỉ có thể thực hiện được nhờ vào việc chuyển giao các nguồn lực kinh tế từ Nga, như họ đã nói khi đó – là với sự giúp đỡ vô tư của người Nga cho các dân tộc anh em. Tất nhiên, các giá trị mới của chủ nghĩa Marx cũng được nói đến theo một cách nào đó. Nhưng cách nó được trình bày có thể làm say mê (và thực sự đã làm được) những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn nhất: "Đỉnh cao của văn hóa Nga - chủ nghĩa Lênin đồng thời là đỉnh cao của tất cả nền văn hóa thế giới". Trên thực tế, đó là tuyên bố văn hóa Nga - nền văn hóa tiên tiến nhất trên thế giới.

Tập tài liệu này cũng chứa một cái nhìn tổng quan về địa chính trị (theo nghĩa đen của từ này) về tình hình dọc theo chu vi biên giới của RSFSR: "Biên giới của RSFSR không đồng nhất. Ở phía nam, các nước cộng hòa thuộc Liên minh tiếp giáp với RSFSR... Đây là đặc điểm của tình bạn và tình anh em, là đặc điểm của tình đoàn kết máu thịt không thể tách rời. Trên thế giới này không có biên giới nào khác như vậy. Nó không tách rời mà ràng buộc, thắt chặt" (điều này được giải thích với tham khảo đến Hiến pháp). Và xa hơn nữa: Ở phía tây và phía đông, chúng ta có biên giới khác. Tại đây biên giới của RSFSR trùng với biên giới của Liên Xô. Nó ngăn cách đất nước Xô Viết hạnh phúc với thế giới tư bản.

Cụm từ sau đây của cuốn sách nhỏ nghe có vẻ rõ ràng: Theo Hiến pháp của Liên Xô, mỗi nước trong số mười một nước cộng hòa Liên minh có quyền ly khai khỏi Liên minh bất cứ khi nào họ muốn, nhưng không có cộng hòa nào trong Liên minh rời khỏi Liên . Như Stalin đã tuyên bố trong cuộc thảo luận về dự thảo Hiến pháp, các nước cộng hòa Liên Xô là "những nước được hình thành hoàn chỉnh và chịu đựng mọi thử thách của một nhà nước xã hội chủ nghĩa đa sắc tộc, sức mạnh của nhà nước này có thể được bất kỳ quốc gia nào ở bất kỳ nơi nào trên thế giới ghen tị."

Tất cả điều này kết thúc với những phản ánh về chủ đề hiến pháp của RSFSR "được phát triển trên cơ sở và tuân thủ hoàn toàn" Hiến pháp năm 1936, và do đó "giống như Hiến pháp Stalin" là "dân chủ nhất trên thế giới".

Trên thực tế, Hiến pháp Stalin" đã trở thành hiện thân lập pháp tổng hợp chủ nghĩa Bolshev và tư tưởng dân tộc Nga, mà N.A. Berdyaev đã viết trong cuốn sách triết học "Nguồn gốc và ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản Nga":

"Người dân Nga đã không coi ý tưởng Cứu thế của họ về Matxcơva là Rome thứ ba. Cuộc ly giáo vào thế kỷ 17 đã phát hiện ra rằng vương quốc Matxcơva không phải là Rome thứ ba... Và rồi một sự kiện đáng kinh ngạc đã xảy ra trong số phận của người dân Nga. Thay vì La Mã thứ ba, Nga đã thực hành Quốc tế thứ ba và nhiều đặc điểm của La mã thứ ba đã chuyển sang Quốc tế thứ ba. Quốc tế thứ ba cũng là một vương quốc thiêng liêng và cũng dựa trên đức tin chính thống. Phương Tây hiểu biết rất kém rằng Quốc tế thứ ba không phải là một Quốc tế, mà là một ý tưởng nhà nước của Nga. Đây là một sự biến đổi của chủ nghĩa Cứu thế Nga. Những người cộng sản phương Tây... bằng cách gia nhập Quốc tế thứ ba, họ tham gia cùng nhân dân Nga và thực hiện thiên chức Cứu thế của họ. Tôi đã nghe một người cộng sản Pháp nói trong cuộc họp của những người cộng sản Pháp: "Marx nói rằng giai cấp công nhân không có tổ quốc, điều đó đã từng đúng, nhưng bây giờ điều đó không còn đúng nữa, họ có tổ quốc – đó là Nga, đó là Matxcova, và những người lao động cần phải bảo vệ quê Tổ quốc của mình."

Điều này chính là nhờ việc thông qua hiến pháp mới của Liên Xô năm 1936 đã giúp củng cố và phát triển những quá trình bắt đầu phát triển vào cuối những năm 1920. Cơ sở kinh tế mới của đất nước đã cho một cái nhìn mới mẻ về vai trò của người dân Nga trong quá trình hiện đại hóa kinh tế và xã hội diễn ra ở Liên Xô. Vai trò của những người tập trung và những người thống nhất được thể hiện rõ ràng hơn. Hiến pháp đã trở thành một bảo đảm rằng những thay đổi đã diễn ra là không thể đảo ngược. Có lẽ, đây chính xác là ý nghĩa lâu dài của Hiến pháp năm 1936 đối với giải pháp cho câu hỏi Nga ở Nga – Liên Xô khi đó.

 

Sự phát triển hơn nữa của xã hội Xô Viết cho thấy sự điều chỉnh đường lối là kịp thời. Ngay cả các đối thủ chính trị của Stalin cũng công nhận rằng loại bỏ chủ nghĩa hư vô đối với các giá trị lịch sử của nhân dân Nga là một thành phần quan trọng trong việc bảo đảm chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Nhưng tầm quan trọng của việc giải quyết câu hỏi Nga không thể vì thế mà giảm điTổ chức đa quốc gia không gian Nga đã hình thành trong nhiều thế kỷ và trở thành cực quan trọng trong việc đảm bảo sự cân bằng trên thế giới. Bất chấp sự suy yếu tạm thời của Nga, nước Nga chắc chắn vẫn sẽ đóng vai trò lịch sử của họ như một cường quốc cung cấp giải pháp tinh thần thay thế cho sự bế tắc mà phương Tây và nhân loại ngày nay nhận thấy khi có nguy cơ hủy diệt toàn bộ thế giới.

 

Trích từ tư liệu Nga;

Xem thêm: Stalin nói về sự cuồng tín chủ nghĩa dân tộc Ukraine





Stalin nói về sự cuồng tín chủ nghĩa dân tộc Ukraine

 Hay Bài học lịch sử đã bị lãng quên”, ông nói về chủ nghĩa dân tộc Ukraine, chính xác hơn theo ngôn ngữ thời này là sự cuồng tín chủ nghĩa dân tộc (CTDT). Nhìn chung, bất cứ cuồng tín cái gì cũng đều có thể gây hại và nguy hiểm. Stalin: 

“Không, chúng ta đang làm điều đúng đắn khi trừng phạt nghiêm khắc những kẻ CTDT mọi hoa văn màu sắc. Chúng là những kẻ trợ thủ tốt nhất cho kẻ thù của chúng ta và kẻ thù tồi tệ nhất của chính dân tộc của chúng. Rốt cuộc, ước mơ ấp ủ của những kẻ CTDT là chia tách Liên Xô thành các quốc gia “dân tộc” riêng biệt, và sau đó nó sẽ trở thành miếng mồi ngon dễ dàng cho kẻ thù. Phần lớn các dân tộc sinh sống tại Liên bang Xô Viết sẽ bị tiêu diệt về mặt thể xác, trong khi phần còn lại sẽ biến thành nô lệ ngu ngốc và khốn khổ của những kẻ chinh phạt.

Không phải ngẫu nhiên mà những kẻ phản bội đáng khinh bỉ của nhân dân Ukraine - những kẻ cầm đầu phe CTDT Ukraine, tất cả những gã thợ xay, bọn Konovalets, Bandera đều đã nhận nhiệm vụ từ tình báo Đức để kích động lòng căm thù người Nga giữa những người Ukraine - những người cũng là người Nga, và để tìm cách tách Ukraine ra khỏi Liên Xô. Cùng một bài ca cũ thời cổ đại từ thời Đế chế La Mã: chia rẽ và chinh phục.


Người Anh đặc biệt thành công trong việc kích động lòng căm thù dân tộc và kích động một số dân tộc chống lại những dân tộc khác. Nhờ những chiến thuật như vậy, nhờ mua chuộc những kẻ lãnh đạo đáng thương và thối nát của nhiều dân tộc khác nhau, hòn đảo tư bản Anh quốc trở thành công xưởng đầu tiên trên thế giới, chỉ có quy mô khá nhỏ béđã chiếm đoạt được những vùng lãnh thổ rộng lớn, nô dịch và cướp đi sinh mạng của nhiều dân tộc trên thế giới, tạo nên một "Đại Đế chế Anh, trong đó, như người Anh tự hào nói, mặt trời không bao giờ lặn.

Trò này đối với chúng ta, khi chúng ta còn sống sẽ không hiệu quả. Vì vậy, thật là vô ích khi những kẻ ngu ngốc theo Hitler gọi Liên Xô là “ngôi nhà của những quân bài”, là thứ được cho là sẽ tan rã ngay từ lần kiểm tra nghiêm túc đầu tiên, chúng tin tưởng vào sự mong manh của tình hữu nghị giữa các dân tộc sinh sống trên đất nước chúng ta ngày nay, chúng hy vọng họ sẽ cãi vã nhau. Trong trường hợp Đức tấn công Liên Xô, những người thuộc các dân tộc khác nhau đang sinh sống trên đất nước chúng ta sẽ bảo vệ nó, họ không hề tiếc mạng sống của họ, như Tổ quốc thân yêu của họ.

Tuy nhiên, không nên coi thường những kẻ CTDT. Nếu chúng được phép hành động mà không bị trừng phạt, chúng s đem đến rất nhiều rắc rối. Đó là lý do tại sao phải giam giữ chúng trong xích sắt, để chúng không được phép phá hoại sự thống nhất của Liên Xô.

Trích từ: I. V. Stalin - Toàn tập. Tập 15, Cuộc trò chuyện với A.S. Yakovlev ngày 26 tháng 3 năm 1941, trang 17”;




“Vậy cậu muốn gì?” của Kochetov và sự phân hủy xã hội Cộng sản

 Sự phân hủy ấy đến từ những kẻ tự xưng là lãnh tụ Cộng sản qua một vài suy nghĩ về tác phẩm của V. Kochetov;

Tiểu sử ngắn. Vsevolod Anisimovich Kochetov

Tóm tắt "Vậy cậu muốn gì?"

Kochetov viết về Liên Xô"Chủ nghĩa Stalin"

Điều gì khiến nomenklatura sợ hãi? 

Vấn đề liên hệ giữa khoa học và nghệ thuật

Gia đình lớn

Lời kết

 


 

Nhà văn Liên Xô Vsevolod Kochetov (1912 - 1973) đã viết cuốn tiểu thuyết "Чего же ты хочешь?"Vào năm 1969, tận ngày nay nó vẫn gây ra phản ứng trái chiều trong xã hội, vì thực tế trong cuốn tiểu thuyết, ông thừa nhận rằng xã hội Liên Xô đang suy tàn mà nguyên nhân hoàn toàn khác với tuyên truyền.

 

Kochetov nói rất thật rằng, giới cầm bút chỉ là những kẻ tuyên truyền cơ hội phục vụ cho bất kỳ chính phủ nào, và xã hội Liên Xô cũng vậy khi ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với tuyên truyền của phương Tây, vào thời điểm đang phát triển mạnh.

Ông Kochetov nhận ra rất sớm mọi thứ sẽ đi đến đâu. Và với tác phẩm, về nguyên tắc, ông đã dự đoán được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Thật không may, dự báo của ông khá chính xác, điều mà đất nước Liên Xô sau này đã cảm nhận được một cách đầy đủ. Đáng chú ý, Kochetov chắc chắn là một người cộng sản chân thành, người phản đối de-Stalin ngay từ đầuNgay tư đầu, ông đã biết giới chức đảng CPSU tìm cách loại bỏ chủ nghĩa Stalin là tìm cái chết cho chính mình. Ngày hôm nay, điều này là rõ ràng.

Nhưng vào năm 1969, khi cuốn tiểu thuyết này của ông đăng trên tạp chí “Văn học tháng 10, sự tranh luận gay gắt sôi động xung quanh nó. Lượng người đọc rất đông, họ xếp hàng trước các ki-ốt, toàn bộ số bản in gần như được bán hết ngay lập tức. Họ đọc ngấu nghiến, truyền tay nhau từ người này sang người khác.

Giới bồi bút chế độ, những kẻ “kiếm ăn quanh cái máng cám" – lời Khrushchev phát ốm với họ, họ dè bỉu Kochetov là tác giả vô danh và cuốn tiểu thuyết của ông chỉ là dạng sách “Samizdat” nhan nhản lúc bấy giờ.

Tiểu sử ngắn.  Vsevolod Anisimovich Kochetov


Xét theo quan điểm, Nhà văn Xô Viết Nga Kochetov thuộc về giới trí thức bảo thủ ủng hộ Liên Xô.

Vsevolod Kochetov sinh ngày 4 tháng 2 năm 1912 tại thành phố Novgorod, trong một gia đình đông con. Ông đã trải qua thời thơ ấu của mình ở Novgorod, nơi theo học cho đến năm 15 tuổi. Những ký ức về quê hương, về thời thơ ấu của ông có thể thấy được trong các tác phẩm: “Начало песни”, “Молодость с нами”, “Угол падения”, “Секретарь обкома”, “Чего же ты хочешь?”, “Молнии бьют по вершинам”

Năm 1927, Kochetov buộc phải rời Novgorod đến Leningrad theo người anh trai. Năm 1931, tại Leningrad, Kochetov tốt nghiệp trường kỹ thuật nông nghiệp, làm nhà nông học trong làng vài năm và vài năm khác ở một xưởng đóng tàu.

Từ năm 1938, ông bắt đầu làm báo, phóng viên cho tờ Leningradskaya Pravda. Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945, ông là nhà báo của các tờ tin tức Mặt trận Leningrad.


Kochetov được công nhận như nhà văn với cuốn tiểu thuyết Zhurbiny được xuất bản vào năm 1952. Cuốn sách viết về gia đình 3 thế hệ người công nhân đóng tàu được tái bản hơn 20 lần với số lượng lớn, được chuyển thể thành bộ phim Gia đình lớn đề cập ở dưới.

Các năm 1953-1955, ông là thư ký của Liên hiệp các nhà văn Leningrad. Các năm 1955-1959 ông là tổng biên tập tờ báo văn học Literaturnaya Gazeta. Từ năm 1961 - chủ bút của tạp chí "Tháng Mười" một tờ báo mang khuynh hướng bảo thủ xung đột với tờ cấp tiến "Thế giới mới" của chủ bút Tvardovsky.

 

Vào ngày 4 tháng 11 năm 1973, Kochetov tự sát tại căn nhà gỗ của mình ở Peredelkino, ông tự bắn mình bằng một khẩu súng. Theo một số tin, ông không chịu đựng nổi cơn đau ung thư nên đã tìm đến cái chết.

 

Năm 1975, theo quyết định của Ủy ban khu vực Novgorod, một trong những con đường của thành phố được đặt theo tên của V.A. Kochetov. Năm 1977, Buổi đọc Kochetov đầu tiên được tổ chức tại Novgorod. Kể từ đó, ở Novgorod, cứ 5 năm một lần, vào ngày sinh nhật của nhà văn lại tổ chức gặp mặt, hội thảo về tác phẩm của ông. Năm 1984, một bức tượng bán thân bằng đá granit được dựng lên để tưởng nhớ V.A. Kochetov.

 


Tóm tắt "Vậy cậu muốn gì?" và các phản ứng, phản ánh của nó trong thời đại ngày nay


Nội dung cuốn thiểu thuyết không quá phức tạp. Một nhóm các đặc vụ nước ngoài có ảnh hưởng được cử đến Liên Xô với nhiệm vụ vỏ bọc biên soạn một cuốn album nghệ thuật Nga, nhưng trên thực tế - tiến hành các hoạt động phá hoại và lật đổ, không phải bằng rìu hay giá treo cổ, mà bằng tuyên truyền hay "những kẻ phá hoại ý thức hệ" như lời nhà văn Sholokhov.

Và những “kẻ phá hoại”, hay tác nhân gây ảnh hưởng, than ôi, sau này hóa ra không chỉ thuộc nhóm các nhà báo theo chủ nghĩa tự do Korotichi, mà sau này nó được biết đến nhiều nhất - ngay cả trong con người của nhà tư tưởng học chính của CPSU, Alexander Yakovlev.

Thực tế, đây là lực lượng tấn công thời Chiến tranh Lạnh. Họ đến để tha hóa, làm hư hỏng xã hội Xô Viết. Kẻ thù, sau khi bị đánh bại trên các chiến trường, đã chuẩn bị giáng một đòn hiểm ác từ phía sau. Ở đó, họ chạm trán với đủ các tầng lớp xã hội Liên Xô, từ những người yêu nước cho đến các nhà bất đồng chính kiến ​​khác nhau, những kẻ tự nguyện hoặc vô tình hỗ trợ, cộng tác với các điệp viên của phương Tây. 

 

Bộ tứ, nhóm điệp viên cũng là những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết trên lái một chiếc xe van đi xuyên qua Liên Xô. Một là Portia Brown nữ người Mỹ gốc Nga mắt xanh, một gái điếm nhân viên CIA và chuyên gia về văn học Nga. Một là Eugene Ross, một người Mỹ gốc Nga khác, cựu lính mũ nồi xanh đóng vai nhiếp ảnh gia. Một nữa có tên Uwe Klauberg, cựu sĩ quan SS trong vai một giáo sư đáng kính về khoa học thần bí, và nhà phê bình nghệ thuật. Cuối cùng, một người Ý, cựu người Nga lưu vong từng hợp tác với phát xít Umberto Caradonna.

 

Kochetov tự đặt mình vào trong tác phẩm dưới tên nhà văn Bulatov, người phản ứng gay gắt "sự phân hủy xã hội Xô Viết bởi văn hóa giả tạo và tuyên truyền của phương Tây".

Khi tác phẩm ra đời, có cái gọi là "giới trí thức Matxcơva mới" phản ứng gay gắt chống cuốn sách. Họ viết những lời vu khống nhằm vào tác giả, và thậm chí họ viết cả thư tập thể gửi tới BCHTƯ CPSU đòi cấm cuốn sách. Một số kẻ khác thì viết những bản sách nhái khó nghe: Zinovy ​​Paperny "Anh gáy cái gì?" và Sergei Smirnov "Anh cười cái gì?". 

Bên kia bờ đại dương, tờ The New York Times nhận xét:

“V. Kochetov, biên tập viên của tạp chí bảo thủ chính ở Liên Xô đã viết một cuốn tiểu thuyết mới, trong đó các nhân vật nhìn lại thời kỳ Stalin một cách yêu quí, còn những kẻ phản diện là giới tự do chủ nghĩa của Liên Xô, đã bị những tư tưởng và hàng hóa phương Tây làm cho hư hỏng và là những kẻ chống những người theo chủ nghĩa Stalin”.

 

Chống và xúc phạm Kochetov còn có nhà văn, thần tượng tự do chủ nghĩa của giới “trí thức sáng tạo” Tvardovsky, là tổng biên tập của tờ Novy Mir, cũng là nhà thơ và tác giả của cuốn sách “Vasily Terkin” nổi tiếng. Ông ta viết: “Một lời kêu gọi rành mạch cho những hành động mạnh dạn và dứt khoát để vạch trần và loại bỏ nhữngcá nhân, tức là những người thuộc giới trí thức dám nghĩ dám làm, dám mơ về dân chủ, v,v, Đây không còn là văn học, thậm chí không phải là cái xấu - đây là hình thức tuyên truyền văn đẳng công khai những tâm trạng và "ý tưởng" yếu ớt nhất được chấp nhận và tán dương".

 

Một kẻ chống nhà nước, bất đồng chính kiến ​​Roy Medvedev gọi cuốn tiểu thuyết của Kochetov là "tố cáo" và viết rằng ông ta gây ra "sự phẫn nộ của đa số giới trí thức Matxcova và nhiều người cộng sản phương Tây"20 đại diện của giới trí thức (đặc biệt là các viện sĩ Roald Sagdeev, Lev Artsimovich và Arkady Migdal) đã ký một lá thư gửi Brezhnev phản đối việc xuất bản cuốn "tiểu thuyết ngu dân". 

Tuy nhiên, nhà văn nổi tiếng Mikhail Sholokhov đã đứng ra bảo vệ Kochetov, ông Sholokhov viết: “Đối với tôi, không cần thiết phải đánh Kochetov. Ông ấy đã cố gắng làm một việc quan trọng và cần thiết, vạch trần sự xâm nhập của những kẻ phá hoại ý thức hệ vào xã hội của chúng ta với một cuốn sách nhỏ.


Nếu thực sự từng sống ở Liên Xô những năm 60 cho đến khi sụp đổ thập kỷ 90, thì sẽ phải kinh ngạc vì nhận ra chính những gì Kochetov viết một cách hư cấu trong tiểu thuyết lại là sự thật. Ông gần như là người duy nhất vào thời điểm đó, đã nhìn thấy trước, đã cảnh báo một điều hệ trọng trong cuốn tiểu thuyết của mình.

Những gì gọi là tự do dân chủ, lối sống, văn hóa và "các giá trị phổ quát" phương Tây đã hấp dẫn, đã mê muội giới chức Liên Xô, đã làm họ ảo tưởng và cuối cùng, chính những ảo tưởng này, thể hiện một cách cụ thể ở Gorbachev và phe nhóm của ông ta đã dẫn đến sụp đổ Liên Xô.

Trên các trang của cuốn tiểu thuyết, cựu sĩ quan SS Klauberg, kẻ được đào tạo lại với tư cách là một "nhà phê bình nghệ thuật" nói“Hóa ra là vào năm 41, người Đức không biết rõ về người Nga, về hệ thống cộng sản của họ. Bây giờ các lực lượng mạnh nhất của thế giới này đã hợp sức chống lại họ. Tất cả kinh nghiệm trong quá khứ đang được nghiên cứu, đúc kết lại, và những gì không thể xảy ra cách đây 1/4 thế kỷ phải được thực hiện ngay bây giờ, trong những năm không xa

 

Kochetov viết về Liên Xô"Chủ nghĩa Stalin"



Trong “Vậy cậu muốn gì?” của V. Kochetov có rất nhiều đoạn trích tập trung vào các chiến thuật chống Liên Xô, Một khi Stalin bị coi thường sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể xoay chuyển thế giới cộng sản là một đoạn như vậy. Chúng ta phải phá hủy Liên Xô, nếu không, họ sẽ tiêu diệt chúng ta.

Người Đức trong nhân vật Klauberg đã làm tất cả để đánh bại Nga, bom đạn và chiến tranh, tuy nhiên, không phải người Nga, mà là người Đức đã bị đánh bại. Họ hy vọng vào sự vượt trội của chủ nghĩa Quốc xã, vào sức mạnh bom đạn, họ tin người kulaks, như cách Bolsheviks gọi những nông dân giàu có sẽ nổi dậyhọ dựa vào sắc dân lưu vong như Lenin và băng đảng Dân chủ-xã hội? Bolsheviks, Trotskyists, Mensheviks, tất cả đã không còn.

Chiến tranh như mọi khi, là phương pháp cùng đường bế tắc của chính trị. Tiêu diệt một triệu, mười triệu sẽ chống lại với sự quyết tâm gấp ba. Nhưng những bộ óc giỏi nhất của phương Tây đã nghiên cứu và sử dụng một phương sách mới để xóa bỏ nền tảng CNXH và trước hết là nhà nước Nga. Phương sách này do chủ nghĩa phát xít phát minh ra: “Stalin bị coi thường sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể xoay chuyển thế giới cộng sản.

Chiến tranh thế giới không đánh bại được thì có sách lược mới: Bây giờ chúng ta có tổng huy động các lực lượng gây Chiến tranh lạnh căng thẳng. Chúng ta đã sử dụng cách bóc mẽ Stalin đặc biệt tài tình, điều này đòi hỏi tuyên truyền của hàng trăm đài phát thanh, hàng nghìn ấn phẩm, hàng nghìn hàng nghìn tuyên truyền viên, hàng triệu triệu, hàng trăm triệu đô la.

 

Đúng, chủ nghĩa Stalin bị chối bỏ làm niềm tin vào CNCS lung lay, những gì tốt đẹp nhất trong 30 năm xây dựng XHCN dưới sự lãnh đạo của ông ấy bị nghi ngờ, bị chối bỏ. Nó là cơ sở để quay trở lại con đường Cộng sản bệnh hoạn của Lenin, Trotsky và Bolsheviks trước đây. Nước Nga vẫn còn đầy rẫy những kẻ cuồng tín. Họ vừa già, vừa trung, vừa trẻ, họ sẽ không còn tin tưởng vào bất cứ điều gì thực tế, trở thành một người theo chủ nghĩa Stalin là có tội? Bản thân Stalin không phải là một nhà Mácxít, không phải nhà cách mạng, không phải Bolshevik. Chỉ là một cá nhân được quá sùng bái, đó là tất cả những gì viết nguệch ngoạc, thô thiển về chủ đề này.

 

Tại sao Kochetov hiểu rằng sau khi Stalin ra đi, sự tồn tại của Liên sẽ chấm dứt? Bởi vì trước hết, Kochetov là một nhà tư tưởng, ông hiểu quyền lực chính trị hiện tại đang dẫn đến điều gì. Ông viết về nó với một phong cách nghệ thuật, để có thể hình dung ra số phận tương lai của Xô Viết, và tất cả những ông viết hóa ra là chính xác. Nhưng Kochetov vẫn là một trong những người cộng sản trung thành, ngay cả khi phải cầm súng, để bảo vệ quan điểm của mình.

Ông đã nhiều lần bị cấm xuất bản, thậm chí cả những kẻ tự xưng "bảo vệ các quyền tự do" của con người, hét to lên điều đó trên các khán đài, các diễn đàn cũng chống lại ông, ví như nhà văn Solzhenitsyn, kẻ như con rối trong tay của phương Tây. Còn Kochetov khác, ông hiểu đâu là ranh giới và dừng lại, ông không thể phản bội quan điểm của mình, ông chỉ mang sự thật đến với xã hội hiện tại của chúng ta.

Điểm lại ai, tổ chức nào tận ngày nay vẫn cố phải xuyên tạc, bóp méo, bôi đen Stalin? Đảng Cộng sản Liên Xô đóng vai trò số 1, phương Tây số 2.

 

Tại sao lại có sự đồng điệu, song trùng lợi ích như vậy? Vì Đảng Cộng sản Liên Xô là con đẻ của CNTB! Chính xác là con đẻ, nó được lập ra để tiêu diệt đối thủ của CNTB - nước Nga độc lập, hùng mạnh chống CNTB. Lenin cuối cùng cũng theo CNTB bằng Tân kinh tế-NEP, Lenin không đưa ra mô hình CNXH nào, ngay trước ngày 7 tháng 11, ông ta xổ toẹt ra CNXH là CNTB nhà nước. Lenin thiết lập Liên Xô theo mô hình Liên hiệp các bang Mỹ. Di sản Lenin để lại (Lenin toàn tập) không có bất cứ chống đế quốc nào cụ thể, ông ta chỉ nhằm mọi thù hận vào người Nga, nước Nga. Nếu thực sự là lãnh tụ như được ca ngợi, ông ta đã phải chỉ ra kẻ thù chính của Liên Xô là 2 đế quốc Anh-Mỹ đứng sau Đức Phát xít, đã phải dự báo trước về WW-2. 

Lenin và các thuộc hạ của ông ta là đám tu sĩ áo chùng tụng Kinh thánh Mác xít còn đảng là một dàn hợp xướng hát thánh ca – Stalin mỉa mai như vậy. CPSU chống Stalin vì hai di huấn giả tạo của chủ nghĩa Mác: Lịch sử do quần chúng viết và chuyên chính vô sản. Cả 2 phủ nhận vai trò cá nhân, nhân vật lịch sử đã làm nên những bước tiến lớn lao, nổi bật trong lịch sử. Ở Việt Nam thế kỷ gần đây có 2 người như vậy. Đó là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Xét lại lịch sử là đặc sản riêng có của CNCS.

 

Điều gì khiến nomenklatura sợ hãi? 


Cuốn tiểu thuyết "Vậy cậu muốn gì?" như một vũ khí chống lại phương Tây và những kẻ theo chủ nghĩa tự do. Nó từng được đăng, nhưng rồi bị cấm. Năm 1989, các tác phẩm của Kochetov được xuất bản trở lại nhưng cuốn tiểu thuyết "Vậy cậu muốn gì?" vẫn bị cấm vì kiểm duyệt không cho phép.

Thực tế Kochetov là một người đứng đầu văn học cổ điển, lãnh đạo Liên đoàn các nhà văn Liên Xô, Tổng biên tập đầu tiên của tờ báo văn học - Literaturnaya Gazeta, sau đó là tờ Tháng 10, nhưng ông vẫn không theo hệ thống. Thời hậu Khrushchev, Brezhnev, quá trình phục hồi chậm chạp của Stalin đã bắt đầu, nhưng không đến mức có thể viết trực tiếp “Stalin tốt”. Xung quanh ông là cả quân đoàn tự do chủ nghĩa từ văn đàn "Thế giới mới" được giới quan chức đảng o bế, khuyến khích. Ông đã chiến đấu những trận khó khăn trên mọi mặt trận, trong đó là mặt trận văn hóa, ông chỉ trích chính phủ Liên Xô đối với chính sách văn hóa mặc dù thận trọng.

Nhưng tại sao nomenklatura lại chống cuốn tiểu thuyết này? Trong khi họ ngầm ủng hộ A. Solzhenitsyn với những cuốn sách bôi nhọ Stalin, bôi nhọ chính họ?Thực ra, vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước, ba tạp chí làm phiền giới tinh hoa đảng nhất là Novy Mir, Molodaya Gvardiya và Oktyabr (Новый мир, Молодая гвардия, và Октябрь).


Ở Việt Nam, cho đến lúc này rất ít ai biết đến cái tên Kochetov, còn Solzhenitsyn thì lại rất nổi tiếng. Ông ta - Solzhenitsyn là một kẻ ngoan cố theo đuổi đường lối tự do và đấu tranh để được chính quyền cho phép xuất bản các tiểu thuyết đầy tham vọng. Ông thầy giáo làng không thể viết “Quần đảo ngục tù” nếu không được ai đó tuồn cho tư liệu bảo mật (khá giống Osin với "Bên thắng cuộc"). Cùng thời với “Vậy cậu muốn gì?” của Kochetov là 2 cuốn sách của Solzhenitsyn “Khu vực ung thư” và “Trong giới chóp bu” (Cancer Ward và In the First Circle)

 

Một cuộc đấu tranh khác ủng hộ việc quay trở lại lối sống gia trưởng, tuyên bố những người chỉ trích như Viktor Chalmaev và Mikhail Lobanov là các nhà tư tưởng của họ. Và lực lượng thứ ba là Kochetov với tờ "Tháng Mười" chiến đấu cho sự trong sáng của lý tưởng cộng sản. Nhưng ở đây, bộ máy đảng phản đối. Tại sao?

Bởi vì, theo giới chức đảng, ông đã đi quá xa.

Kochetov không chỉ đả kích giới tự do chủ nghĩa, mà còn tác động mạnh giới pochvennik (thợ đất-một trào lưu văn học). Theo ý kiến ​​của ông, giới sáng tạo như Ilya Glazunov và Vladimir Soloukhin là những kẻ trả gậy và mang lại tác hại không nhỏ cho xã hội hơn là tiến bộ. Một bộ phận đáng kể trong bộ máy đảng cũng không ủng hộ Glazunov hay Soloukhin, và nói chung là sẵn sàng gần như cấm cả làng.

Vậy tại sao khi đó P. Demichev (Bí thư Ban Tuyên giáo TƯ, sau là Bộ trưởng Bộ Văn hóa) nói trong giới hẹp quan chức là cuốn sách này chống đảng? Điều gì không phù hợp với cá nhân ông ta? Có thể là những chỉ trích đối với chủ nghĩa cộng sản châu Âu đã thể hiện trong cuốn tiểu thuyết và đặc biệt là Roger Garaudy (1913-2012, nhà chính trị, nhà khoa học, nhà triết học, nhà văn, nhà công luận, nhà lý luận Mácxít, nhà hoạt động đảng cộng sản người Pháp).

Vì vậy, vào cuối những năm 60, Garaudy không còn khơi dậy được thiện cảm của bất cứ ai trong BCT. Hoặc Demichev không thích những hy vọng mà Kochetov đặt vào giai cấp công nhân Liên Xô? Dù sao, CPSU cũng chính thức tuyên bố giai cấp công nhân là đội quân tiên phong của mình.

 

Demichev, có vẻ như không sợ hãi trước những tố giác của giới tự do chủ nghĩa và các nhà hoạt động pochvennik, và chắc chắn ông ta cũng không trước những lời chỉ trích của giới theo CNCS châu Âu. Ông ta sợ một điều gì đó hoàn toàn khác. Dù vô tình hay cố ý, Kochetov đã xoáy vào bộ máy đảng, nomenklatura sợ nêu lên chủ đề nguy hiểm nhất là sự thoái hóa của tầng lớp cao cấp và bộ máy quan liêu trong đảng. Đây là điều đã đánh động Ban bí thư của BCHTƯ CPSU.

Không phải ngẫu nhiên mà đích thân Demichev theo dõi phản ứng của giới trí thức thủ đô với cuốn tiểu thuyết “Vậy cậu muốn gì?”. Konstantin Katushev, một Bí thư khác của BCHTƯ, kẻ có tác động lớn để điều chuyển Andropov sang KGB giám sát liên lạc với các đảng cộng sản và công nhân của các nước XHCN, quan tâm đến thái độ đối với cuốn sách của Kochetov ở phương Tây.

Cũng cần lưu ý đến một sự kiện khác ở đây. Sự xuất hiện bản in phần thứ ba của cuốn tiểu thuyết "Vậy cậu muốn gì?" trùng với việc Solzhenitsyn bị loại khỏi Liên đoàn các nhà văn Liên Xô. Ban lãnh đạo đảng sợ rằng các lực lượng cánh tả ở châu Âu sẽ rút ra một kết luận sâu xa từ hai sự kiện này với việc Liên Xô quay trở lại chính sách biệt lập và khôi phục chủ nghĩa Stalin. Brezhnev không muốn đẩy hoàn toàn phương Tây ra khỏi Matxcơva khi vẫn chưa hiểu hết phản ứng gay gắt của châu Âu trước việc Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968.

Vào ngày 4 tháng 3 năm 1970, lãnh đạo Glavlit P. Romanov đã gửi cho Katushev một bản tóm tắt các thông điệp của phóng viên nước ngoài, trong đó có những nhận xét bấn loạn về tác phẩm của Kochetov (RGANI, f. 5, op. 62, d. 678, pp. 1 –9).

 

Và chỉ Stevens từ Newsday là không thổi phồng sự nguy hiểm của tiểu thuyết Kochetov. Ông hiểu rằng tương lai mối quan hệ Liên Xô-Châu Âu không phụ thuộc vào ai và những gì đã nói ở trong nhà bếp, mà phụ thuộc vào giới tinh hoa cầm quyền. Về vấn đề này, ông không quan tâm đến ý kiến ​​của cá nhân là viện sĩ hay nghệ sĩ, mà là ai ở vị trí của giới lãnh đạo Liên Xô. Và sau đó các giới chức đã làm rõ rằng không phải tất cả các quan điểm của Kochetov đều gần gũi với họ. Ông Stevens nhấn mạnh: “Chế độ khá lạnh nhạt với tác phẩm của ông ấy".

Đối với giới cầm quyền cấp cao Xô Viết, một điều khác rất quan trọng: tất cả giới phóng viên nước ngoài đều ghi nhận thái độ chống tự do của tác giả tiểu thuyết của Kochetov trong các hội đoàn của họ, cũng như sự thèm muốn của tác giả đối với chủ nghĩa Stalin và thái độ từ chối CNCS châu Âu. Ý kiến ​​chung của các nhà báo phương Tây làm việc tại Moscow được Doder, một nhân viên của United Press International, bày tỏ. Ông này lưu ý rằng ấn tượng với cuốn sách của Kochetov.

“Được viết chỉ để đưa vào dạng văn học theo quyết định được đưa ra tại Hội nghị Trung ương tháng 4 nhằm tăng cường đấu tranh làm trong sạch về tư tưởng. Kochetov và tạp chí của ông được coi là những phát ngôn nổi bật nhất của chủ nghĩa bảo thủ.

 

Các nhà tư tưởng chính trong CPSU cũng đồng ý một phần với điều này. Họ không tranh luận vthực tế rằng Kochetov luôn luôn có quan điểm bảo thủ cực đoan.

Một điều gì đó thú vị khác trong bản tóm tắt của Glavlit là không ai trong số những người nước ngoài đề cập nghiêm túc đến chủ đề cực kỳ quan trọng về sự thoái hóa của nomenklatura do Kochetov nêu ra. Và hóa ra nó nằm trong tay của giới cầm quyền cao cấp. Theo các nhà phê bình phương Tây, cuộc đấu tranh tư tưởng không tăng thêm với các nhân vật mạnh trong tiểu thuyết, mà điều này sớm làm suy giảm sự quan tâm đến tác phẩm của Kochetov. Ảnh hưởng đến tâm trí bị suy yếuthế cuốn tiểu thuyết không còn mang bất kỳ mối đe dọa nào đối với giới lãnh đạo Liên Xô.

Tuy nhiên, để đề phòng, BCHTƯ đã ra lệnh im lặng và không gây ồn ào với cuốn sách của Kochetov. Hơn nữa, ai dám thả nổi sự trào phúng chua cay trong cuốn tiểu thuyết "Vậy cậu muốn gì?", bí thư thứ nhất Thành ủy Matxcơva đã vội vàng khai trừ nhà phê bình văn học Zinovy ​​Paperny ra khỏi đảng. Và tất cả chỉ vì Kochetov vẫn được các nhà cầm quyền cần đến.

 

Thật vậy, phần lớn nhờ cuốn tiểu thuyết của ông, giới bảo vệ đã giải phóng gần hết cả hơi thở bất mãn và bình tĩnh trở lại mà không đi xa hơn. Kết quả là, "sự ổn định" tạm thời được bảo toàn. Giới tinh hoa cầm quyền cần điều gì khác?

Một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ đó. "Vậy cậu muốn gì?" cho đến nay vẫn bị che giấu, chỉ gần đây nó được xuất bản trở lại bởi Roman-Gazeta. Nhưng nó có rất nhiều mối liên hệ với hiện tại. Rốt cuộc, bộ máy đảng gây ảnh hưởng đến nó đã không còn tồn tại. Nhưng vẫn còn cái khác, một cái khác đã xuất hiện - bộ máy quan liêu nhà nước bureaucracy. Và bộ máy này vận hành xã hội hiện tại như thế nào? Khi họ cũng đã thoái hóa như cỗ máy đảng nomenklatura. Chắc rằng, cuốn tiểu thuyết của Kochetov vẫn có hiệu ứng.

Trên thực tế, Kochetov đã đề cập đến vấn đề kết thúc quyền lực Liên Xô sau cái chết của Stalin, khi mà có lẽ chính ông cũng không thật hiểu, hoặc hiểu nhưng ít nhất là cũng không trực tiếp nói về nó một cách ẩn ý, như một sự lách luật để được xuất bản. Trên thực tế, giới chủ nghĩa Lenin-Trotsky đã quay trở lại cai trị đất nước sau cái chết của Stalin và đây là khởi đầu cho sự suy thoái của Liên Xô, cuối cùng là kết thúc bằng sự sụp đổ nhà nước. Tất cả đều được thực hiện bởi những kẻ theo chủ nghĩa Marx-Lenin-Trotsky liên minh với giới tự do chủ nghĩa và các nhóm chính trị khác nhau.

Vấn đề liên hệ giữa khoa học và nghệ thuật

Một cách khách quan, Liên Xô bước vào thời kỳ 1930-50 phát triển với tốc độ nhanh về mọi mặt, trong đó có các mặt văn hoá và khoa học-kỹ thuật. Tuy nhiên, văn hóa nói chung và các bộ phận cấu thành của nó - khoa học và giáo dục – vẫn có một khiếm khuyết nghiêm trọng: chúng không thể đảm bảo sự độc lập của nhà nước trên các ưu tiên cao nhất. Thực tế là toàn bộ tổ hợp triết học và khoa học xã hội, tâm lý học đã bị bóp méo dưới sức ép của chủ nghĩa Mác, do đó, nhiều lĩnh vực khoa học-kỹ thuật như sinh học và y học hay máy tình và công nghệ thông tin đi vào ngõ cụt.

Do sự đa dạng văn hóa, tri thức cho đến đặc điểm mỗi cá nhân bị chối bỏ. Tổ hợp khoa học về con người và xã hội ở Liên Xô, mối bất hòa giữa họ và sự sáng tạo nghệ thuật trong tất cả các loại hình nghệ thuật là không thể tránh khỏi dù không được thừa nhận. Tuy nhiên, mối bất hòa này đóng một vai trò tích cực trong xã hội theo chủ nghĩa đám đông gọi là văn hóa tầng lớp dưới, văn hóa giai cấp vô sản, thì nghệ thuật đi trước sự phát triển của khoa học và những người làm nghệ thuật dự đoán được điều gì đó chưa được khám phá trong khoa học.

 


Bởi thế, không hiểu có sự không dung hòa giữa sáng tạo nghệ thuật và khoa học triết-xã hội, thì không thể hiểu phong cách sáng tạo nghệ thuật được gọi là “hiện thực XHCN” là gì một đại diện của nó, trong số đó là V. Kochetovcũng không thể hiểu được thực chất và vai trò của cái gọi là “chủ nghĩa tiên phong-hiện đại” trong tất cả những biểu hiện của nó, được thời đại của thời kỳ quá độ từ thời tiền khởi nghĩa kế thừa.

Từ thời đại trước, Liên Xô đã nhận được một di sản nghệ thuật nhất định. Đã có sự thay đổi, trước hết, nó kết thúc nghệ thuật mang tinh thần vô hạn được tạo ra bởi văn hóa tôn giáo và hình thành một xu hướng hư vô được gọi là "chủ nghĩa hiện thực phê phán".

Một xu hướng khác của thời kỳ trước và sau cách mạng là "chủ nghĩa tiên phong-avangard", cùng với việc tìm kiếm các hình thức và cách thức mới để thể hiện ý nghĩa cuộc sống, chứa đựng thành tố đau đớn về mặt tinh thần và đạo đức - một biểu hiện của sự mê sảng như cái chết lâm sàng của tinh thần. Những kẻ ốm yếu tinh thần, thiểu năng trí tuệ hoặc tham vọng bệnh hoạn nhưng muốn trở nên nổi tiếng.

Trong thời kỳ khủng hoảng xã hội ấy, “chủ nghĩa tiên phong” được thể hiện phần lớn bằng các tác phẩm thấp kém về đạo đức và tinh thần hoặc chủ nghĩa sa đọa. Điều này cũng đúng cho đại đa số các "kiệt tác" của giới theo "chủ nghĩa tiên phong" thời tiền và hậu cách mạng.

 

Trong lịch sử, đã từng xảy ra hiện tượng giới sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực phê phán hoặc cố để tìm cách chết hoặc gia nhập "tầng lớp tinh hoa" sáng tạo. Việc các nghệ sĩ của xu hướng này sống sót sau cách mạng từ chối chính phủ mới không chỉ do bị hắt hủi hay sợ bị đàn áp, mà ở nhiều khía cạnh còn là do không muốn đánh mất địa vị “tinh hoa-bề trên”, một số đã thắng trong cuộc vật lộn bảo tồn địa vị, một số biến thái và một số khác đơn giản hơn là di cư ra nước ngoài (I.A. Bunin, I.E. Repin, A.M. Gorky).

Khi xã hội Liên Xô ổn định, một số họ đồng ý trở về quê hương. Ở đây, những người trở về tiếp tục làm việc với cách này hay cách khác (A.N. Tolstoy, A.M. Gorky). A. Tolstoy là nhà văn hiện thực XHCN tích cực, còn A.M. Gorky được cho là người sáng lập và hiện thân của chủ nghĩa hiện thực XHCN có uy tín, mặc dù ông rất thất bại vì theo đuổi chủ nghĩa hư vô hơn là chủ nghĩa hiện thực.


Còn những người khác đã chết ở nước ngoài (I.E. Repin, I.A. Bunin), họ không muốn trở về quê hương và dùng khả năng sáng tạo hoặc uy tín của họ để "phục vụ chế độ" (như họ nghĩ) bởi vì chế độ là Bolsheviks và Marxists.

Nhưng như thế cũng là từ chối đóng góp sức sáng tạo của họ cho nhân dân, cho đất nước. Rất khó để lựa chọn. Còn xu hướng bảo thủ văn hóa như ông Kochetov, về mặt ý thức hệ là những người theo chủ nghĩa Cộng sản nguyên gốc, và về mặt nghệ thuật, đó là tất cả các loại chủ nghĩa tiên phong trừu tượng.

Nói cách khác, ở họ không có xung đột giữa khoa học xã hội và nghệ thuật. Nhưng có một cuộc xung đột giữa lý tưởng Cộng sản và thực tiễn đời sống, do đó họ muốn tìm kiếm những hình thức và phương tiện mới để thể hiện ý nghĩa của đời sống trong nghệ thuật, họ khao khát tương lai và cũng không tồn tại được trong môi trường này, một ví dụ điển hình như vậy là V. Mayakovsky, kẻ trong những năm trước cách mạng đã nổi tiếng như một nhà tiên phong tương lai, sau cách mạng được Hội nhà văn Liên Xô và các hội nghệ thuật săn đón vồ vập như một nghệ sĩ cách mạng tiêu biểu và cuối cùng đã tự kết liều cuộc đời đau khổ bi ai với một viên đạn.

 

Trước các dấu hiệu giống như nhau giữa phe đối lập chính trị Bolsheviks trong CPSU (b), do Bronstein-Trotsky cầm đầu và giới văn sĩ trường phái nghệ thuật tiên phong-avangard hậu cách mạng, ban lãnh đạo Liên Xô, đứng đầu là I.V. Stalin đã không nhầm, mặc dù nhiều nghệ sĩ lúc bấy giờ và tận bây giờ vẫn không hiểu và không hiểu được lý do của việc họ bị bác bỏ chủ nghĩa tiên phong và tại sao các mục tiêu của việc trừng trị lại nhằm vào họ.

Gia đình lớn

Năm 1954, bộ phim Đại gia đình (Большая семья) được công chiếu trên màn ảnh Liên Xô, Iosif Kheifits đạo diễn dựa trên cuốn tiểu thuyết của Vsevolod Kochetov, cuốn tiểu thuyết này là "Zhurbiny- Журбины" xuất bản năm 1952.

Phim kể về đại gia đình Zhurbins nghề đóng tàu cha truyền con nối. Ba thế hệ sống cùng nhau: ông nội Matvey, ông bố Ilya Matveyevich, bốn con trai của Ilya Matveyevich (Viktor, Kostya, Anton và Alexei), cô con gái út Antonina.


Con trai thứ Anton đến Leningrad để giới thiệu một phương pháp lắp ráp tàu mới, con trai cả Viktor, một bậc thầy chế tạo mô hình tàu tương lai, đang cố gắng thiết kế một loại máy vạn năng để làm mô hình.

Cậu con trai út Alexei, với tính cách phức tạp nổi bật trải qua những thăng trầm khó khăn nhất trong cốt truyện: anh ly thân với gia đình, định kết hôn, nhưng cô gái yêu dấu của anh là Katya rơi vào tay quản lý câu lạc bộ, hắn ta bỏ cô khi phát hiện ra rằng cô đã mang thai. Alexei tìm thấy sức mạnh để tha thứ cho cô và mang cô trở về với một đứa con nhỏ.

Lida, vợ của Viktor, ra khỏi gia đình Zhurbin khi cảm thấy mình như một người xa lạ trong một gia đình mà cả cuộc đời gắn liền với việc đóng tàu. tổ chức lại sản xuất, nhiều gia đình hội viên phải chuyển đổi ngành nghề, còn ông bố Ilya Zhurbin phải cố học những kiến ​​thức đại số cơ bản để theo kịp những người khác, ông cãi cọ với người bạn cũ của ông chủ Basmanov, người tin rằng thời đại của họ đã trôi qua.

 


Đại gia đình là bộ phim truyện cuối cùng, hiếm có trong điện ảnh Liên Xô khắc họa rộng chủ đề giai cấp công nhân trên cái nền kế thừa và liên tục của các thế hệ, cũng như chủ đề vai trò đặc biệt của giai cấp vô sản trong lịch sử. Sợi chỉ đỏ trong phim là ý tưởng về niềm tự hào của người lao động, qua những phát ngôn của họ là ông bố Ilya Zhurbin.

Cảnh trong phim, ông nội Matvey mắng lão giám đốc vì lão ta có 2 chiếc ô tô và gọi thợ làm tóc đến văn phòng làm việc là tiên đoán liên quan đến nomenklatura thời Brezhnev và Gorbachev.


Sau này, những sử thi trung thực và có phần thô lậu như vậy trong thời kỳ Stalin được thay thế bằng "phim làm màu", đặc điểm của phim Liên Xô những năm 1970. 

là một sự khác biệt - một nền văn minh toàn cầu mới đang đến, nền đạo đức và nghệ thuật hiện thực XHCN trong những tác phẩm xuất sắc nhất thể hiện trong khung cảnh của thế giới công nghệ nửa đầu thế kỷ 20.

Về thực chất, cổ động cho hạnh phúc cá nhân, điều thực sự có thể thực hiện được cũng đều phải được thực hiện trong cuộc sống bằng chính công việc của con người, luân lý và đạo đức của họ - là một thứ không phù hợp với đầu óc biến thái của những kẻ tố cáo nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực XHCN nói chung thời Xô Viết, và thời đại Stalin nói riêng.

cổ động cho hạnh phúc về bản chất mang tính xây dựng và nhiều hơn nhiều so với tất cả các vụ tàn sát trong phim Hollywood. Bạo lực, khiêu dâm và ma quỷ được phát trên truyền hình hàng ngày của người Mỹ không gì khác ngoài kích động trước những thảm họa và những bất hạnh phải chịu đựng. Thực tế này đã được các nhà tội phạm học Mỹ biết đến từ lâu, vì trong tất cả các số liệu thống kê tội phạm, một phần của việc này là bắt chước có ý thức các nhân vật phản diện trên màn ảnh và các anh hùng trong phim, bị các tình tiết của kịch bản đưa vào ngõ ngách. Cũng có một phần sự bắt trước vô thức (cá nhân và tập thể) lối sống kinh dị trên màn ảnh do hậu quả kích thích tâm lý của các nhân vật và môi trường xã hội bằng các bộ phim.

 

Trong thời đại chủ nghĩa Stalin, xã hội chịu ảnh hưởng của nghệ thuật "chủ nghĩa hiện thực phê phán", trước hết cho thấy con người bình thường sống trong điều kiện của đám đông - "chủ nghĩa tinh hoa" là tồi tệ như thế nào; và cũng dưới ảnh hưởng của nghệ thuật "hiện thực XHCN", chỉ ra cách thức xây dựng mối quan hệ giữa con người với nhau trong đời sống hàng ngày, và làm thế nào để mọi người làm việc tận tâm đều sống hạnh phúc.

Vẫn còn một câu hỏi khác liên quan đến bản chất của hiện thực XHCN, đó là nó đi ngược lại những tư tưởng của chủ nghĩa Mác về cái gọi là "chủ nghĩa vô sản quốc tế" và "cách mạng thế giới" như thế nào, hay tại sao lại xuất hiện những bộ phim như "Peter I", "Alexander Nevsky", "Ivan Grozny mà sau này không có nữa?


Một trong những ý kiến ​​phổ biến là ngay sau khi “mùi chiên” (nhận thức mối đe dọa chiến tranh với Đức Quốc xã), Stalin ngay lập tức quên đi K. Marx, "chủ nghĩa vô sản quốc tế ""cách mạng thế giới" hay "xã hội vô giai cấp". Stalin bỏ đi những vỏ bọc tư tưởng khác cho chế độ độc tài cá nhân và quyết định tái tạo những hình thức nghệ thuật với chủ đề yêu nước mà ông cần để duy trì uy quyền cá nhân của mình.


Nhưng thực tế là I.V. Stalin được dẫn dắt không phải bởi tình cảnh ngắn hạn, mà bởi một chiến lược chính trị lâu dài, và quyền lực của ông không phải là quyền lực vì cá nhân, như nhiều kẻ trước đây và hiện nay mường tượng. Những bộ phim nói trên cũng không phải là những bộ phim về “tinh hoa đế chế” - những lãnh tụ anh minh yêu nước và có công lao to lớn lập quốc trong lịch sử với tinh thần “Đức tin, Sa hoàng và Tổ quốc” cũng như chủ quyền nhà nước và uy quyền của Đấng tối cao.

Tất cả chỉ là giới lãnh đạo CPSU hậu Stalin bị ám ảnh bới lý tưởng chủ nghĩa Mác và sự sinh tồn của chính mình mà vô cớ hành quyết những thần dân trung thành và ân xá cho những kẻ phản bội.

Đây là những bộ phim kể về quá trình xây dựng nền văn minh Nga trong các thời kỳ trước đây và về những sai lầm đã mắc phải trong quá trình xây dựng sau này, mà họ đã phải trả giá bằng máu và cuộc sống bất hạnh của nhiều thế hệ. Nói cách khác, bản chất của sáng tạo nghệ thuật trung thực theo phong cách của cái gọi là "chủ nghĩa hiện thực XHCN" là ở khát vọng khách quan về một tương lai chính đáng.

Và thời đại của chủ nghĩa Stalin là thời đại mà xu hướng sáng tạo nghệ thuật này lần đầu tiên trong lịch sử nhận được sự ủng hộ có chủ đích của nhà nước. Sự hỗ trợ cấp nhà nước có hiệu quả trong chừng mực thiện chí và hiểu biết về các vấn đề và triển vọng của một xã hội, nơi các lãnh đạo có thể trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào việc hình thành và hỗ trợ cho sáng tạo nghệ thuật.


Cũng là vì nhờ những kiệt tác nghệ thuật hiện thực XHCN mà sau này, Liên Xô không chết ngay sau cái chết của Stalin, sống sót thêm gần nửa thế kỷ nữa, trải qua Khrushchev xét lại, Bezhnev trì trệ, và Gorbachev-perestroika cải cách quay lại CNTB những năm 1990.

Chính nghệ thuật hiện thực XHCN khắc phục được mối bất hòa giữa tính khoa học và tính sáng tạo nghệ thuật trong xã hội. Thành tựu cuối cùng và cao nhất của chủ nghĩa hiện thực XHCN là tác phẩm khoa học viễn tưởng “Giờ của bò đực – Час быка” của Ivan Antonovich Efremov.

Trong tiểu thuyết này, mối bất hòa giữa khoa học và nghệ thuật vẫn chưa được khắc phục, nhưng thú vị ở chỗ, Ivan Efremov đã trực tiếp tiếp cận đến ranh giới, sau khi vượt qua nó, mối bất hòa không còn tồn tại và không thể có. Đây có thể trở thành một sự kiện mang ý nghĩa toàn cầu: khi cuốn tiểu thuyết được xuất bản và trở nên phổ biến rộng rãi, đạo diễn điện ảnh người Mỹ Stanley Kubrick, tác giả của những bộ phim nổi tiếng và ăn khách  như Spartacus và Star Odyssey 2001 đã muốn dựng thành phim.


Nhưng các chức vụ đảng cũng không thích tác giả Ivan Efremov và chuyện của ông. Cỗ máy nomenklatura với ám ảnh tâm thần đã kiên quyết phản đối ý định của Stanley Kubrick nó đã không thể được thực hiện. Tất cả hậu thế chúng ta mắc nợ nghệ thuật hiện thực XHCN.


Lời kết

Trên thực tế, V. Kochetov đã cảm nhận được quá trình phân rã của xã hội Xô Viết đang diễn ra như thế nào, rất rõ khi đó nhưng thế hệ của ông không thể hiểu được chủ nghĩa Mác mà họ biết "trên hết", đã dẫn dắt họ đi đến chỗ hiểu sai về các quy trình, các điều kiện nhân-quả của lịch sử, nó gây hậu quả sụp đổ tất yếu khó có thể tránh được nếu không từ bỏ Mác đúng như Stalin đã viết trong “Những vấn đề của CNXH…” và đọc trong Đại hội cuối cùng khi còn sống rằng: “Chúng ta phải từ bỏ một số yếu tố của chủ nghĩa Mác, gắn giả tạo vào đời sống xã hội chúng ta...”.

Bên cạnh đó, kiến ​​thức nông cạn hời hợt về chủ nghĩa Mác đi kèm với niềm tin tín điều tôn giáo rằng chủ nghĩa Mác đúng ở cả ba nguồn gốc, ba bộ phận cấu thành của nó (triết học, học thuyết về CNXH, kinh tế chính trị), và trên hết là triết học, kinh tế chính trị, với tư cách là cơ sở khoa học của CNXH và CNCS là yếu tố tai họa. Chủ nghĩa Mác, trước hết là tôn giáo mang đậm Du đa giáo cải biên từ kinh thánh Cựu ước.

Trên thực tế, những nước ít Mác nhất không hoặc ít gặp vấn đề như Liên Xô, Triều Tiên từ bỏ Mác-Lênin từ những năm 1950, Trung Quốc có cái lõi dân tộc tính lâu đời và những gì Đặng Tiểu Bình làm là khá giống Stalin thập kỷ 1930 dù khác nhau bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế xã hội.

Nếu không đi sâu vào bản chất triết học và kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác, thì không thể chống lại chủ nghĩa tâm lý, chủ nghĩa giáo điều, niềm tin tôn giáo và những mục đích tốt đẹp giả tạo của nó và những tố cáo bất công (dù có thật) trong thời đại thì mường tượng về chủ nghĩa Stalin, hay tập trung huy động trí tuệ và nguồn lực đất nước trên cơ sở truyền thống văn hóa và lịch sử là không thể.

 

Để giải phóng mình khỏi sự giam cầm của chủ nghĩa Mác, chỉ cần đặt mình vào vị trí phải giải quyết các vấn đề của đất nước trên cơ sở chủ nghĩa Mác trong thực tế: sau đó sẽ thấy được tất cả, câu hỏi triết học - “không đúng thế là vô nghĩa về mặt quản trị, bản thân nền kinh tế chính trị tự nó hạch toán, rằng lược đồ trao đổi sản phẩm sản xuất giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân không thể bị thu gọn thành phân khu thứ nhất và thứ hai của chủ nghĩa Mác.

Hay cũng có thể nhìn lại các tiên đề của chủ nghĩa Mác, chỉ cần một tiên đề cơ bản sai là toàn bộ học thuyết, chủ nghĩa Mác không còn chỗ đứng. Làm thế nào để giai cấp vô sản nghèo đói thất học lại có thể làm chủ số phận mình, đất nước mình? Cách mạng công nghiệp, máy móc thay thế sức người có nghĩa, động lực phát triển là trí não con người thay vì cơ bắp thuần túy. Do đó, trí thức phải là bộ phận tiên phong trong lực lượng sản xuất, giai cấp vô sản là phân khúc lạc hậu, bị đào thải trong chính CNTB hay bất cứ chủ nghĩa nào khác. Bộ phận này đói khát, nổi loạn, lật đổ triền miên, liên tục trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, nói như Mác và không như Mác, họ luôn luôn là động lực của mọi cuộc cách mạng lật đổ.


Hay tiên đề giá trị hàng hóa duy nhất do lao động tạo ra, nó sai, rất sai. Giá trị hàng hóa trước hết mang tính chất tự nhiên, vốn có, lao động chỉ đóng góp một phần, có thể lớn hay nhỏ trong đó. Trí thức càng phát triển, càng nhiều vật chất trong tự nhiên trở nên có giá trị hàng hóa. Ví dụ: nước Pháp phát triển hơn Việt Nam vào thế kỷ XVII, than đá đối với họ là hàng hóa có giá trị, còn ở Việt Nam bị coi là vô dụng, là đá có ma, vứt bỏ chỏng chơ, thậm chí tránh xa nó. Ví dụ khác, Nga ngày nay đang vận hành lò phản ứng neutron nhanh bằng công nghệ mới với nhiên liệu Uranium-238. Trong tự nhiên, nhiên liệu Uranium-235 đang sử dụng chỉ chiếm trung bình 0,7% quặng tự nhiên. Hàng triệu tấn Uranium-238 bị thải bỏ trong quá trình làm giàu sẽ trở thành nhiên liệu hạt nhân và có giá trị hàng hóa.


Thế nhưng hầu như không ai trong số những người được gọi là cộng sản hay theo cộng sản hiểu được điều này - hầu như tất cả họ đều coi chủ nghĩa Mác là đủ, đủ để tiến thân, để gây dựng công danh sự nghiệp. Họ bày tỏ (rất nhiều giả tạo) ủng hộ sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và tin tưởng (rất nhiều mù quáng) vào các nhà lãnh đạo của đảng này hay đảng kia. Cũng như đám đông giai cấp vô sản tin theo CNCS trên cơ sở chủ nghĩa Mác, chỉ cần nghe tất cả là tài sản chung, mình có phần, được hưởng là đủ. Điều này làm cho giới lãnh đạo ấu trí, bệnh hoạn có đủ cơ sở để chăn dắt đám đông đặt niềm tin vào họ. Cũng họ bị chăn dắt như cha già Mose của Mác chăn các con chiên đến miền Đất hứa! cách đây đã hơn hai ngàn năm.


Điều này cũng giải thích sự trở lại thành công của chủ nghĩa Trotkyism – luôn luôn sai, luôn luôn trái gọi là cánh tả tại Đại hội XXXXII của CPSU, nó vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết cho tình yêu vô hồn “tự do-dân chủ phương Tây” của những năm 60, những đầu bếp chính trị CPSU nấu món gì cũng hỏng, không độc hại thì cũng thập cẩm tả pí lù lộn tùng phèo, còn dân chúng thì một số say sưa hát thánh ca chủ nghĩa Mác, một số tỉnh ra nổi cơn thịnh nộ rồi trở thành bất đồng chính kiến. Cuối cùng, Gorbachev xuất hiện như một tất yếu để vứt bỏ những món ăn cộng sản này vào thùng rác lịch sử, ông ta giải quyết sự trì trệ bảo thủ, sự cùng đường bế tắc này rất thành công. Nhưng thành công perestroika của ông ta năm 1985 đồng nghĩa với sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991.

Không còn có thể giả vờ được mãi chủ nghĩa Marx-Lenin là độc tôn đúng đắn, đảng lúc nào cũng là anh minh sáng suốt. Vsevolod Kochetov là một trong số rất ít trí thức Nga nhìn ra tất cả những điều này, từ thập kỷ 1960.

Trước đó, Stalin gọi nomenklatura của CPSU là "đẳng cấp đáng nguyền rủa", ông đã phải trả giá vì điều này. 

Chúng ta biết tất cả quá muộn!




 

 

 

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...