NGHỀ BƯNG BÔ THỜI NAY! - P1

Sự việc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) phối hợp với Tổ chức USAID (Mỹ) tổ chức hội thảo “Việt Nam lẽ ra phải có mức thu nhập trên 7.000 USD/người” gần đây ở Hà Nội được các báo mạng như thanh niên, một thế giới… đưa tin rầm rộ. VTV phát trên bản tin thời sự, và tối hôm qua (3/8) vời cả các chiên da đăng đàn tranh luận hùng hồn.

$7000 với kinh tế mở, thị trường tự do?


Điều ngạc nhiên là một vị chuyên gia USAID, Olin McGill lại đưa ra nhận định lẽ ra với “chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh” thu nhập bình quân đầu người ở VN lại chỉ là 1.400 USD/năm. Bởi  theo ông, ở vị trí “xếp hạng môi trường cạnh tranh” 99/189 nền kinh tế, bình quân thu nhập ở VN lẽ ra phải ở mức trên 7.000 USD/người. (nguồn thanh niên).

Đành rằng mấy năm gần đây, cùng chung khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế VN có nhiều dấu hiệu suy giảm, thậm chí ảm đạm và thu nhập hay GDP vẫn ở nhóm các nước nghèo.

Nhưng kinh tế là phạm trù trừu tượng. Người ta đo lường đánh giá bằng nhiều chỉ số như GDP (tổng sản phẩm quốc nội),  GNI (Thu nhập quốc dân), business environment index (chỉ số môi trường kinh doanh), Global Competitiveness index (chỉ số cạnh tranh toàn cầu),  PCI (chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh)…

GDP và GNI còn được tính cho đầu người, trong đó GNI có thể hiểu là GDP cộng trừ thu nhập bên ngoài: lãi vay, cổ tức, tín dụng, lãi sản xuất kinh doanh ở người nước chuyển về, hay ví như tiền của lao động xuất khẩu gửi về nước.

Bài báo thanh niên gọi chỉ số của vị chiên da nọ là “xếp hạng môi trường cạnh tranh”, nhưng qua các con số Việt Nam thứ 99/189, Malaysia và Georgia tương ứng 6 và 8/189, cùng các chỉ số phụ đề cập đến, thì rõ ràng không hề là chỉ số “xếp hạng môi trường cạnh tranh”, mà là Chỉ số thuận lợi hoạt động kinh doanh của WB, tên tiếng Anh: Ease of doing business index (EDB). Có thể tham khảo 2 nguồn wiki ở đâyở đây.

Vì GDP và GNI là quen thuộc, chúng ta phải điểm qua EDB, qua các chỉ số con của nó:

* Khởi sự doanh nghiệp: thủ tục pháp lý, thời gian, chi phí và vốn tối thiểu để mở doanh nghiệp mới.
* Lấy giấy phép kinh doanh: thủ tục pháp lý, thời gian và chi phí để xây dựng cơ sở doanh nghiệp.
* Mua điện năng – thủ tục, thời gian và chi phí cần thiết để doanh nghiệp có được điện năng cố định đến cơ sở doanh nghiệp mới.
* Đăng ký quyền sở hữu: thủ tục, thời gian và chi phí đăng ký tài sản thương mại hợp pháp.
* Nhận tín dụng - hiệu lực của các quyền hợp pháp, độ mở thông tin tín dụng.
* Bảo hộ nhà đầu tư: mức độ tiết lộ, mức độ trách nhiệm nhà quản trị và dễ dàng cho cổ đông tố tụng.
* Nghĩa vụ thuế: các khoản thuế phải trả, chi phí thời gian mỗi năm cho thủ tục hành chính thanh toán thuế, tỉ lệ thuế phải trả so với tổng số lợi nhuận ròng.
* Ngoại thương - số lượng giấy tờ, thời gian và chi phí cần thiết để xuất nhập khẩu.
* Hiệu lực hợp đồng - thủ tục, thời gian và chi phí để đòi thanh toán nợ.
* Chấm dứt kinh doanh - thời gian, chi phí và tỷ lệ thu hồi (%) theo thủ tục phá sản.

Như đã nói, người ta đo lường kinh tế bằng hàng trăm thông số, có một số thông số là có liên quan với nhau. Nhưng theo cách hiểu thông thường, GNI phụ thuộc vào năng suất lao động, độ cần cù siêng năng, trình độ tay nghề của lao động, tài nguyên thiên nhiên, ưu đãi địa lý, mức độ phát triển của 1 quốc gia, v, v. Vậy nên thật  ngạc nhiên khi EDB với các tiêu chí như trên lại có liên hệ hay ràng buộc tuyến tính với GNI để từ đó các chiên da tâm đắc lẽ ra EDB của VN là 99/189 thì GNI phải là 7000 đô la/người.

Có lẽ đây là phát minh mới của các chiên da USAID? Năm sau có lẽ họ giật giải Nobel kinh tế chăng?

Vậy thì vẽ biểu đồ GNI per capita, PPP (current international $) của WB. Hình 1 là 30 nước đứng đầu chỉ số EDB, hình 2 là các nước từ 90 đến 120, trong đó có VN.



Có thể nhìn thấy ngay, thay vì một đỉnh giảm đều theo chỉ số EDB, người ta được 2 biểu đồ lộn xộn, thăng giáng không theo 1 quy luật “thuận lợi kinh doanh” nào cả. Nhưng lại có thể giải thích được bằng cách khác. Thí dụ:

- Na-uy (9), UAE (23), Nga (92) nhiều dầu mỏ. Nhóm các nước đã phát triển gồm Nhật, Hà Lan, Thụy điển, Úc có EDB 27-30.

- Singapore (số 1 EDB) lợi thế địa lý thương mại, với cơ hội phát triển trời cho từ chiến tranh Việt Nam.

- Phillipines (109) có GDP thấp nhưng GNI của họ ($7820) cao hơn VN vì thu nhập xuất khẩu lao động rất lớn.

- Namibia (98) đứng ngay trước VN, đất nước này rộng lớn, dân cư thưa thớt chỉ 2 triệu người và xuất khẩu kim cương, vàng, bạc, uranium.

- Palau (100) đứng ngay sau VN là 1 quốc đảo bé tẹo, đánh cá và du lịch.

Điều lạ lùng kỳ dị là 2 nước Malaysia và Gruzia được các chiên da tấm tắc khen như tấm gương sáng láng, có EDB đứng 6 và 8, là 2 quốc gia GNI lọt thỏm trong top 30 EDB có thu nhập cao. Tương tự như vậy là các nhược tiểu Đông Âu. Nhưng các vị vẫn nhất mực hùng hồn một qui luật tưởng tượng tương thích nào đó của 2 chỉ số này. Tại sao họ không sang Malaysia và Gruzia để thuyết giảng 2 nước này phải thu nhập bình quân 35 nghìn đô la?

Và như để củng cố thêm cho luận điệu bi ai của mình, các vị này cố lấy GNI thông thường của VN là 1.400 USD/năm, thực ra, tính theo PPP của chính WB, GNI-PPP của VN đã là $5030.  

Cần thừa nhận, chúng ta đã cải cách, đã mở cửa, nhưng vẫn đang đứng ở nhóm các quốc gia thu nhập thấp, và các tiêu chí theo EDB còn nhiều yếu kém, thủ tục nhiêu khê rườm rà, nguồn điện, bảo vệ nhà đầu tư, thành lập doanh nghiệp, nộp thuế… Đó đây nhiều công chức nhũng nhiễu vòi vĩnh... đã từng được đề cập nhiều, cũng đã nhiều nỗ lực cải cách.

Đó là những điểm yếu người ta biết cả. Liệu có cần chiên da USAID chỉ bảo? 7000 đô la có phải là tất yếu? Khi mà đang trong thời kỳ chuyển đổi, đa số nông dân vẫn làm nông nghiệp thủ công-năng suất thấp và vẫn đang nhọc nhằn vật lộn với khó khăn cải cách.

Đúng hơn, 7000 đô la là miếng mồi mới, được USAID mắc vào cái lưỡi câu để nhử cải cách mới, thay đổi thể chế mới, mở toang thị trường tự do, kinh tế tự do… Những ngôn từ hoàn toàn quen thuộc được quân đoàn “dân chủ” và một số kẻ có chức sắc kêu gọi dư luận gần đây.

Những thứ đó không có gì lạ. Nó nằm trong nghị sự tư nhân hóa, tự do hóa và toàn cầu hóa của Mỹ. Còn phương pháp: chiếm lấy nó và lái nó đi theo hướng Mỹ ưa thích.

(Phần tiếp theo: USAID là ai?)


George Soros thừa nhận bỏ vốn vào khủng hoảng Ukraina

Trong cuộc phỏng vấn gần đây, George Soros nói với phóng viên Fareed Zakaria của CNN rằng, ông ta  chịu trách nhiệm việc thiết lập quỹ ở Ukraina để cuối cùng góp phần vào việc lật đổ nhà lãnh đạo được bầu của đất nước và cái cắm một chính quyền quân sự được lựa chọn cẩn thận bởi Bộ Ngoại giao Mỹ.

Zakaria hỏi Soros: "Đầu tiên ở Ukraina, một trong các điều mà nhiều người công nhận về ông là ở chỗ ông đã làm cuộc cách mạng năm 1989 tài trợ nhiều hoạt động bất đồng chính kiến​​, các nhóm xã hội dân sự ở Đông Âu và Ba Lan, Cộng hòa Séc. Ông đang làm những điều tương tự ở Ukraina? "

Soros trả lời: "Vâng, tôi đã lập quỹ ở Ukraina trước khi Ukraina khi trở thành độc lập với Nga. Và quỹ đã hoạt động kể từ đó và đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện hiện nay ".

Người ta biết rõ, mặc dù truyền thông bị cấm đề cập đến, Soros đã làm việc chặt chẽ với USAID (Cơ quan Mỹ phát triển quốc tế), NAD (Quỹ Quốc gia bảo trợ Dân chủ, hiện đang làm công việc mà trước đây được giao cho CIA), IRI (Viện Cộng hòa quốc tế), NDIIA (Viện Dân chủ Quốc gia về các vấn đề quốc tế), Freedom House, và Viện Albert Einstein để kích hoạt một loạt các cuộc cách mạng màu ở Đông Âu và Trung Á sau sự sụp đổ của Liên Xô.


William F. Jasper viết: "Nhiều trong số những kẻ tham gia các cuộc biểu tình 'EuroMaidan' ở Kiev là thành viên của các tổ chức NGO Soros tài trợ và/hoặc được đào tạo bởi cùng các NGO đó trong nhiều cuộc hội thảo và hội nghị được tài trợ bởi Quỹ Phục hưng Quốc tế do Soros bảo trợ (International Renaissance Foundation - IRF), cùng các Viện Xã hội mở khác nhau, các quỹ IRF, được lập và tài trợ bởi Soros, Ông ta tự hào rằng nó đã được "cấp vốn nhiều hơn bất kỳ tổ chức tài trợ nào khác" để “chuyển đổi dân chủ” Ukraina".


Sự biến đổi này dẫn đến chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát xít kiểm soát các tổ chức an ninh của Ukraina. Vào tháng 4, điều này đã được công bố bởi Andri Parubi và các thủ lĩnh đảo chính khác làm việc với FBI và CIA để đánh bại và giết hại những người ly khai phản đối chính phủ quân phiệt được dàn dựng bởi Victoria Nuland và Bộ Ngoại giao Mỹ. Parubi là kẻ sáng lập của đảng xã hội quốc gia ở Ukraina và hiện là ông chủ của Hội đồng Quốc phòng và An ninh quốc gia Ukraina.

Bây giờ thì Petro Poroshenko, "ông vua sô cô la" làm TT Ukraina, nỗ lực để quét sạch mọi đối lập ở miền đông Ukraina đang nở rộ. Poroshenko là một lựa chọn gần như hoàn hảo cho bộ máy EU và giới toàn cầu hóa. Hắn từng ngồi trong Hội đồng Ngân hàng Quốc gia Ukraina và hợp tác với IMF, Wall Street và Ủy ban châu Âu.

Poroshenko và đám thủ lĩnh đảo chính tháng 2 đang giết hại thường dân ở Donetsk như nỗ lực tiếp tục trục xuất và nhổ tận gốc "chiến binh thân Nga" và "khủng bố", tức là, những người đấu tranh vũ trang đứng lên chống lại những kẻ thi hành Right Sector mà có lẽ đi cùng với lính đánh thuê Mỹ và sự giúp sức của CIA. Thường dân đồng thời cũng là nạn nhân "nổi loạn" bị cầm giữ ở Slovyansk và lân cận Kramatorsk khi trả đũa chống lại bạo lực của chính quyền quân sự Kiev.

Phản ứng quân sự với đặc trưng phát xít quá mức của nó, bao gồm cả đốt cháy một cách khủng bố tòa nhà Công đoàn ở Odessa bằng cách "nổi loạn ủng hộ chế độ" (nghĩa là Right Sector bán quân sự), có thể trực tiếp là bởi sự khuyến khích của George Soros và sự nhúng tay của Bộ Ngoại giao Mỹ, các NGO khác nhau (đó là, trên thực tế, chính phủ và mặt trận của Wall Street), cùng USAID, NED, và Freedom House, v v. 


Sau khi giết người và trục xuất những ai phản đối Quí ông IMF trong chính phủ và nhân dân Ukraina, Nga có thể thấy nhiều khiêu khích hơn nữa, đặc biệt là bây giờ khi mà họ đã đi quá khỏi chỗ hỗ trợ lực lượng phản kháng. Giới tài phiệt bề trên và những kẻ cộng tác EU của chúng đã xác định làm giảm thiểu và cuối cùng loại bỏ bất kỳ thách thức nào của Nga và các nước BRICS khi những quốc gia này có bước tiến chống lại nghị sự tài chính tự do mới.

Wayne Madsen đã viết gần đây: "Xây dựng lực lượng không quân và bộ binh NATO dọc theo biên giới Nga ở Đông Âu và chuyến đi gây ảnh hưởng của Obama đến châu Á có một mục đích duy nhất: Đấng cai trị - kẻ ra lệnh cách xử sự để những con rối chính trị của nó ở Washington, London, Paris, Brussels, Berlin và các thủ đô chư hầu khác - đã quyết định đập vỡ BRICS - khối sức mạnh tài chính mới nổi bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi."


Chuyến bay 103 Pan Am Lockerbie P3

Lừa dối về Lockerbie

“Bằng cách dối lừa, chúng ta sẽ gây chiến” – khẩu hiệu của Mossad, tình báo Israel

Cờ giả Lockerbie đã làm mất uy tín người Hồi giáo nghiêm trọng, củng cố thêm niềm tin rằng "Hồi giáo" và "khủng bố" hầu như đồng nghĩa, nó diễn ra ngay trước vụ 11/9 ít năm. Nhưng nhìn lại, những ai ở phương Tây biết về câu chuyện này, đều là chủ yếu từ truyền thông: TV, báo chí mà không phải từ những bằng chứng thực sự.

Thực sự, vụ Pan Am 103 là mô hình lừa dối điển hình nhằm mưu đồ chính trị sâu xa.

Abdelbaset al-Megrahi ra tù và được chào đón bằng cả một rừng cờ hoa như một người anh hùng ở Libya gây ra phản ứng trái ngược ở phương Tây. Trong khi các báo tin tức nghiêm túc ghi nhận những phản ứng giận dữ của Barack Obama, Gordon Brown và những người khác về những gì xuất hiện để được chào đón như một anh hùng thực khó coi với một tên khủng bố bị kết tội, họ đã quên không đề cập đến là Libya ăn mừng việc thả một đồng hương mà họ tin rằng đã bị bỏ tù sai 8 năm. Cũng bỏ qua mọi dấu hiệu mà các nhà quan sát đã nêu về vụ án Megrahi mà theo đó dường như là anh ta vô tội.

Robert Black, giáo sư luật Edinburgh là kiến trúc sư của vụ xét xử tại Camp Zeist Hà Lan, nói rằng "không có tòa án có lý nào để có thể kết án Megrahi dựa trên các bằng chứng", ông gọi kết án anh ta năm 2001 là "một sự phẫn nộ và hoàn toàn và tuyệt đối". Hans Kochler, quan sát viên của Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm tại phiên tòa, nói rằng "không hề có một mảnh tang vật nào kết nối hai bị cáo với tội phạm", và lên án phán quyết của tòa án như một "sự sai lầm ngoạn mục của công lý." Tiến sĩ Jim Swire, người có con gái Flora (đã nói ở bài trước) là một trong 270 thiệt mạng trên máy bay, bác bỏ vụ kiện của công tố chống lại Megrahi, ông gọi đó là "chuyện của bò và gà".

Theo đó "chuyện của bò và gà", Megrahi, người đứng đầu an ninh hàng không Libya (Arab Airlines-LAA), âm mưu với Lamin Khalifa Fhima, người làm quản lý LAA ở Malta (đã được tuyên bố trắng án), đặt một quả bom va li lên chuyến bay từ Malta đến Frankfurt. Tại Frankfurt, vali bom được chuyển sang chuyến bay khác đến Heathrow ở London. Sau đó, trong sân bay Heathrow, nó được chuyển một lần nữa lên chiếc máy bay xấu số Pan Am 103 đến New York.

Nhưng kịch bản này là đáng ngờ chứ không hợp lý, những người Libya sẽ phải có một đức tin quá thể lắm vào độ tin cậy của việc vận chuyển hành lý trong hai sân bay bận rộn nhất châu Âu trong thời kỳ bận rộn nhất của năm. Ít lạc quan hơn, sẽ là kẻ đánh bom đặt va li lên máy bay ở London. Nhen nhóm lên sự nghi ngờ rằng đó thực sự là những gì đã xảy ra, cảnh sát điều tra được nói bởi an ninh sân bay Heathrow rằng khu vực lưu trữ hành lý Pan Am đã bị đột nhập vào đêm của vụ đánh bom.

Báo cáo về hiện tượng bị đột nhập tại sân bay Heathrow là một phần của 600 trang chứng cứ mới và bằng chứng đã bị cố tình bỏ qua để bảo vệ Megrahi và khiếu nại buộc tội, năm 2007, Ủy ban đánh giá án hình sự Scotland, sau cuộc điều tra ba năm, đề nghị thả anh ta.

Nhưng trước khi khiếu nại có thể được nghe đến, thì Megrahi đã được thả vì bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối, một thuận tiện để tha thứ cho những bối rối của tất cả những kẻ can dự với niềm tin không rõ ràng của mình. Câu hỏi khó xử và đáng kể hơn, trong trường hợp có thể Megrahi được tuyên bố trắng án, ai là kẻ thực sự đã đặt bom, và tại sao?

Hồi giáo không ngừng tồi tệ

Nhiều trong số những người nghi ngờ trách nhiệm của Libya trong vụ đánh bom Lockerbie, có lẽ không thấy ngạc nhiên trong hoàn cảnh hiện nay, có xu hướng nghi ngờ các quốc gia Hồi giáo dính líu. Lý thuyết phổ biến nhất là Iran thuê Mặt trận Nhân dân Giải phóng Palestine có cơ sở ở Syria - Tổng chỉ huy (PFLP-GC) do Ahmed Gibril đứng đầu trả thù cho "tai nạn" bắn máy bay của họ từ tàu sân bay USS Vincennes ngày 03 tháng 7 năm 1988, chuyến bay Iran Air Flight 655 đã giết chết tất cả 288 hành khách.

Những người khác tin rằng Abu Nidal, kẻ lập nhóm khủng bố khét tiếng “Tháng chín đen”, có thể đã dính líu. Nếu họ nói đúng, nó đặt ra câu hỏi đáng lo ngại về việc ai là kẻ cuối cùng phải chịu trách nhiệm về hành động tàn ác Lockerbie. Trong cuốn tiểu sử về Nidal, “Súng cho thuê - A Gun for Hire”, nhà báo Anh Patrick Seale xác nhận những nghi ngờ từ lâu rằng "khủng bố Palestine" ở Trung Đông, là những kẻ đã làm nhiều hơn bất cứ ai để mất uy tín của người Palestine. "Abu Nidal chắc chắn là tay chân của Mossad". Ông Seale khẳng định. "Trên thực tế, mọi việc chúng làm Israel hưởng lợi".

Điều thú vị, có một giả thiết là PFLP-GC cộng tác với Abu Nidal thay mặt cho Iran, được một cựu nhân viên Mossad tán thành, Yuval Aviv, là điệp viên điều tra ở New York, và là người chuẩn bị báo cáo cho công ty bảo hiểm Pan Am về vụ Lockerbie.

Viết dưới bút danh Sam Green, Aviv là tác giả của “Chuyến bay 103”, một nguyên nhân giả tưởng về bi kịch Lockerbie mà ông ta tuyên bố là "dựa vững chắc trên những sự kiện thực tế cuộc sống", trong đó người Iran trả thù đã tuyển khủng bố Palestine, Ahmed Shabaan “chim ưng”, để làm công việc bẩn thỉu của họ. Aviv, người lấy cảm hứng từ Munich của Steven Spielberg, hy vọng người bạn đạo diễn của mình sẽ chuyển câu chuyện Lockerbie thành bộ phim bom tấn Hollywood.

Rất khó để bất kỳ bình luận chính thống nào đặt câu hỏi về độ tin cậy của một cựu nhân viên Mossad, kẻ vẫn giữ mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan tình báo, chỉ tay vào Palestine và Iran như kẻ gây ra cuộc tấn công khủng bố giết chết 189 người Mỹ, bằng cách ấy bôi nhọ danh tiếng hai kẻ thù lớn nhất của Israel bằng tâm trí của những kẻ có nhu cầu thuyết phục rằng, Mỹ và Israel phải đối mặt với cùng một kẻ thù chung.

Trò bẩn!

Không phải ai trong giới truyền thông cũng ngây thơ về âm mưu thủ đoạn của Israel. Viết trên tờ Guardian trước phiên tòa xét xử hai người Lybia, nhà báo Mỹ kỳ cựu Russell Warren Howe, trong một bài viết tuyệt vời có tiêu đề "Nếu họ vô tội? - Whatif they are innocent?" phân tích rằng, cho dù chính phủ Iran hay khủng bố Palestin thì tình báo Israel là thủ phạm nhiều khả năng hơn. Howe kết luận: "Ngay cả khi Megrahi và Fhima bị tìm thấy là có tội trong những cáo buộc nghiêm trọng nhất, thì vẫn sẽ là một nhu cầu cho cuộc điều tra mới: để quyết định vai trò chính có thể của Israel là gì trong vụ giết người hàng loạt và lừa dối chính ân nhân của họ, là Mỹ". Howe cho là, ngay cả khi người Libya, hoặc người Ả Rập khác, đã thực sự đặt bom, họ có thể vẫn bị lừa làm như vậy bởi các gián điệp Israel.

Điều thú vị, Howe trích dẫn một tài liệu tham khảo trong sách của Gordon Thomas về Mossad, điệp viên Gideon, một nhân viên Mossad đóng tại London, lại xuất hiện ở Lockerbie vào buổi sáng sau vụ rơi máy bay để dàn xếp loại bỏ va li từ khỏi hiện trường vụ án. Chiếc va li này, người ta nói thuộc về đại úy Charles McKee, một sĩ quan DIA và là người đã chết trong chuyến bay, nó sau đó được đem trở lại "trống rỗng và không bị hư hại."

Hơn nữa, ý tưởng về trách nhiệm của Libya, Howe lưu ý, dường như có nguồn gốc từ Israel. Một lần nữa, ông trích dẫn Thomas, theo đó nói rằng một nguồn tại LAP, là đơn vị chiến tranh tâm lý Mossad, xác nhận với ông rằng "trong vòng vài giờ của vụ tai nạn, nhân viên tại LAP đã liên lạc điện thoại với giới truyền thông, thúc giục họ công bố công khai rằng đây là "bằng chứng không thể chối cãi, Libya, qua cơ quan tình báo Jamahirya, là có tội."

Đó cũng có thể là Mossad đánh lạc hướng, Howe nghi ngờ, để xui khiến chính phủ Mỹ tin rằng Libya có tội. Một ngày sau khi vụ đánh bom Lockerbie, tình báo Mỹ chặn tin nhắn vô tuyến từ Tripoli đến văn phòng chính phủ Libya ở Berlin nói rằng một cách ấn tượng, "Nhiệm vụ đã hoàn thành - mission accomplished". Có ít nhất 2 điều giả mạo trong tin nhắn như thế: một là văn phòng ở Berlin đã biết từ lâu về vụ đánh bom qua TV, không cần phải đọc tin nhắn. Hai là người Arab, không nói kiểu Mỹ “mission accomplished”.

Hai năm trước, một tin nhắn chặn được nhắn tương tự đã làm Ronald Reagan ra lệnh không kích Libya, giết chết hơn một trăm người, bao gồm cả con gái nuôi hai tuổi của Qaddafi. Nhưng tin nhắn đã bị làm giả bởi Israel, theo Victor Ostrovsky, một cựu sĩ quan Mossad, kẻ mô tả hoạt động trong “Mặt khác của dối lừa - The Other Side of Deception”, tiết lộ thứ hai viết về Mossad sau khi rời bỏ phục vụ.

Hoạt động Trojan bắt đầu vào tháng 2 năm 1986 khi Mossad bí mật cài đặt thiết bị truyền thông gọi là "Trojan" vào một căn hộ ở Tripoli. Trojan nhận tin nhắn bởi LAP của Mossad trên 1 tần số sóng và tự động truyền chúng đi trên một tần số khác được sử dụng bởi chính phủ Libya. "Sử dụng Trojan" Ostrovsky viết, "Mossad đã cố gắng để làm cho nó có vẻ là một chuỗi dài các đơn đặt hàng khủng bố được chuyển đến các đại sứ quán Libya khác nhau trên thế giới." Tình báo Mỹ, như dự đoán bởi Israel, đã chặn tin nhắn giả, và tin vào chúng như là xác thực - đặc biệt là sau khi nhận được xác nhận từ Mossad.

Trong 1 tuần khi Trojan được cài đặt, hai lính Mỹ đã thiệt mạng trong một vụ nổ tại La Belle, hộp đêm thường xuyên của lính Mỹ ở Tây Berlin. Với giả định rằng Libya phải chịu trách nhiệm, chín ngày sau đó Mỹ trút 60 tấn bom xuống Tripoli và Benghazi. Có ít ngờ vực rằng người Mỹ đã bị lừa vào cuộc "trả đũa" bởi Israel, kẻ lẩn tránh đã phải trừng phạt Qaddafi vì ủng hộ Tổ chức Giải phóng Palestine, và tiếp tục xa lánh Mỹ từ thế giới Ả Rập.

Không phải tất cả người Mỹ đều không biết gì về âm mưu của Israel. Ý kiến ​​về thiên hướng lừa lọc của cơ quan tình báo Israel, Andrew Killgore, cựu đại sứ Mỹ ở Qatar, viết trong báo cáo của Washington về vấn đề Trung Đông, "Đặc sản Mossad là thủ đoạn bẩn thỉu... phương pháp hoạt động của họ luôn luôn giống nhau: chơi trò bẩn nhưng làm cho nó có vẻ như ai đó khác đã làm điều đó."

Như là một phần của bất kỳ cuộc điều tra mới nào để xác minh có hoặc không vụ đánh bom Lockerbie là một trò bẩn khác trong “thủ đoạn bẩn” của Mossad, các nhà điều tra có thể muốn phỏng vấn Issac Yeffet, cựu giám đốc an ninh của hãng hàng không Israel El Al, người vào năm 1986 là ủy nhiệm của Pan Am để khảo sát an ninh tại một số sân bay trên thế giới. Khi Killgore, trong một bài viết riêng cho Washington Report, nhận xét gợi ý: "Yeffet có lẽ đã thành công trong việc duy trì an ninh hoàn hảo cho El Al tại sân bay Ben-Gurion. Nhưng những nỗ lực của ông tại sân bay Heathrow ở London, một trong những sân bay khảo sát cho Pan Am, mà với nó ông và các nhân viên của mình có đầy đủ sự kiểm soát, cũng thất bại để cứu Pan Am 103."

Vẫn bảo vệ sự vô tội của mình, Megrahi nói với các phóng viên khi phóng thích: "Sự thật không bao giờ chết!" Đó có thể là như vậy. Nhưng khi mà các phương tiện truyền thông phương Tây vẫn tiếp tục tin rằng chỉ có kẻ thù của Israel mới làm nổ tung máy bay dân sự, sự thật về Lockerbie sẽ không bao giờ bị phơi bày.

Chuyến bay 103 Pan Am Lockerbie P2

Lockerbie là thất bại chết chóc của công lý

Có nhiều bằng chứng chứng tỏ Megrahi vô tội. Tuy nhiên, điều tra và tòa án đã không xem xét đến. Họ không quan tâm, họ chỉ cần một con dê tế thần để làm dịu áp lực dư luận và an ủi các thân nhân người thiệt mạng.

Jim Swire, người có con gái là Flora chết trên chuyến bay Pan Am 103, tin rằng vụ xét xử Megrahi là "một trong những nhầm lẫn trầm trọng nhất của công lý trong lịch sử".

Bằng chứng được phát hiện bởi gia đình các nạn nhân, và các nhà báo John Ashton, Ian Ferguson và Paul Foot, đã luôn cho thấy Megrahi vô tội và rằng Megrahi đã bị dàn dựng để che đậy những gì thực sự xảy ra.


Phiên bản chính thức của các sự kiện là gì?

Megrahi bị buộc tội âm mưu cùng 1 người Libya khác đặt một quả bom trong chiếc vali, được xếp lên chuyến bay từ Malta đến Frankfurt, nơi nó được chuyển đến trong một chuyến bay tới sân bay Heathrow và lên máy bay Pan Am 103.

Quả bom được cho là giấu trong chiếc radio-cassette hiệu Toshiba.

Nó được cho là có một thiết bị hẹn giờ để kích nổ, thiết bị này do một công ty Thụy sĩ cung cấp cho cơ quan tình báo Libya. Công ty này làm ăn chung với một công ty Libya, nơi mà Megrahi có liên hệ.

Megrahi đồng thời cũng bị cáo buộc đã mua những bộ quần áo trong va li bom từ một cửa hàng ở Malta vào tháng 12 năm 1988.

Thậm chí là người ta đã không thèm kiểm tra các bằng chứng.


Bắt đầu có giấu diếm?

Bóp méo tin tức đã xảy ra ngay trong vòng nửa giờ sau tai nạn và bằng chứng quan trọng đã bị giữ kín.

Nhân viên cảnh sát và những người tình nguyện tìm kiếm nói về việc các điệp viên Mỹ đã đưa đi một số thứ khỏi hiện trường.

Tại sao các nhân chứng quan trọng lại được CIA trả tiền?

Nhân chứng công tố nổi bật trong vụ án, Abdul Majid Giaka, đã bị lộ trong phiên tòa là một kẻ kỳ quặc có động cơ kiếm tiền từ CIA. Nhưng tòa án bác bỏ điều này.

Một nhân chứng quan trọng khác, nhân viên bán hàng Tony Gauci, làm chứng rằng Megrahi đã mua quần áo ở Malta, mà số quần áo này đã được tìm thấy cùng với quả bom, thì chính Gauci đã đưa ra bằng chứng mâu thuẫn.


Có lúc Gauci nói ông ta cho rằng người đàn ông mua quần áo đã già và cao hơn Megrahi, việc mua bán diễn ra tại một thời điểm khi mà Megrahi lại có bằng chứng ngoại phạm.

Gauci đã chọn ra Megrahi trong một hàng người, nhưng chỉ sau khi được cho xem bức ảnh của nghi phạm 4 ngày trước đó.

Gauci đã được Mỹ trả 1,2 triệu bảng vì bằng chứng của mình dù nhiều lời khai mâu thuẫn của ông ta đã được bỏ đi.

Đồng phạm của Megrahi, Lamin Khalifah Fhimah, được tha bổng, làm xói mòn tội danh mà người ta cho là ông ta đã âm mưu với kẻ khác để đánh bom máy bay.

Ai đã tìm thấy những bằng chứng quan trọng?

Cầu nối trung tâm của vụ án chống lại Megrahi là mối tương quan giữa bộ hẹn giờ của quả bom được cho là đã bán cho các nhà chức trách Libya và một mảnh nhỏ của bảng mạch được tìm thấy gần Lockerbie.

Nhưng ai là kẻ tìm thấy mảnh bảng mạch và mạch và khi nào?

Không ai thấy cái mảnh có đồng này được tìm thấy khi nào. Có quan điểm cho rằng một cựu sĩ quan cảnh sát cấp cao giấu tên của Scotland nói rằng ông ta đã bỏ cái mảnh mạch này vào hiện trường theo lệnh của CIA.

Một phiên bản khác nói bằng chứng này được tìm thấy bởi một nhân viên Scotland giấu tên làm việc bên ngoài Lockerbie và tìm thấy "vào một buổi sáng mù sương đầu tháng 4" năm 1989.

Tuy nhiên, có người nói nó được tìm thấy "lúc nào đó vào năm 1990" trong một "mảnh áo bị cháy" bởi chuyên gia pháp lý Thomas Thurman của FBI.

Trợ lý giám đốc của phòng thí nghiệm pháp lý FBI cho biết các nhà chức trách Anh tìm thấy mảnh vơc cả năm trước khi Thurman nhận nó.

Và ai đã xác định cái mảnh mạch này là 1 bộ hẹn giờ?

Một số người nói là Thomas Thurman, người khác là một "cựu chuyên gia phân tích của CIA", nhưng cũng có người khác nói nhà khoa học pháp lý quân đội, tiến sĩ Thomas Hayes – kẻ là trung tâm của cuộc điều tra vụ bỏ tù oan sai Maguire Seven những năm 1970.

Vì vậy, mối liên hệ quan trọng để dẫn dắt tới Libya - và đến với Megrahi như thế - là được thực hiện vào tháng 4 năm 1989, hoặc trong tháng 6, tháng 8, tháng 10 hoặc tháng 11 năm 1990 tùy thuộc vào sở thích của bạn.


Làm thế nào để quả bom lên máy bay?

Các chuyên gia đã liên tục tranh cãi về lý do chính rằng quả bom đã được đưa lên chuyến bay trung chuyển tại Malta và được chuyển đi 2 lần - tại Frankfurt và tại sân bay Heathrow.

Một số tin rằng quả bom đã được đặt lên máy bay tại sân bay Heathrow.

Trường hợp chống án đầu tiên cho Megrahi năm 2002 đã nghe bằng chứng từ một người bảo vệ an ninh sân bay Heathrow, báo cáo về 1 chỗ bị đập vỡ ở gần nhà kho nơi mà sau đó cùng ngày, hành lý cho máy bay Pan Am được chuyển đi.

Vị giám đốc quản lý hành lý khách hàng tại sân bay Heathrow, John Bedford, khai rằng mình nhìn thấy hai cái va li đã được chất thêm vào thùng để lên chuyến bay 103.

Vụ nổ xảy đã ra tại chính nơi để những hành lý này, bên trên 1 lớp hành lý mà Bedford đã đóng gói vào thùng.

Nhưng còn một khả năng khác rất sốc về cách bom đã được đưa lên máy bay.

Các phần tử bên trong CIA vào thời điểm này đang cho phép giới con buôn Trung Đông vận chuyển ma túy sang Mỹ để đối lấy sự giúp đỡ trong việc giải thoát con tin Mỹ.

Một số nguồn tin, gồm cả giới điều tra bảo hiểm của Pan Am, tin rằng điều này đã xảy ra trên chuyến bay 103.

Nếu như vậy, hành lý với các loại ma túy sẽ được bảo vệ bởi tình báo Mỹ. Hạn chế an ninh và kiểm tra hành lý thông thường sẽ bị gỡ bỏ.

Điều này được củng cố bởi thực tế là hai lượng lớn những thứ dường như là heroin đã được tìm thấy tại hiện trường - một trên sân golf Lockerbie và cái khác trong một chiếc vali được phát hiện bởi một người nông dân ở vài vài dặm về phía đông. Những sau đó chúng đã biến mất.


Có một nhóm các sĩ quan Mỹ thuộc Cơ quan Tình báo quân sự (DIA) trên chuyến bay Pan Am, đứng đầu là đại tá Charles McKee, trở về sau nhiệm vụ giải cứu con tin thất bại ở Lebanon.

Người ta nói rằng McKee đã lên kế hoạch để tố cáo vụ lừa đảo về ma túy khi trở về Washington.


Loại bom nào được sử dụng?

Nguyên nhân chính thức vụ nổ được cho là liên quan đến một quả bom có bộ hẹn giờ thông thường đã thực hiện một hành trình phức tạp qua các sân bay ở Malta, Frankfurt và London, nó được đặt để làm nổ máy bay vào phút thứ 38 của chuyến hành trình thứ ba.

Một số nhà bình luận cho rằng dường như có khả năng hơn là quả bom đã được điều khiển bằng công tắc áp suất – nó có thể đã phát nổ giữa phút thứ 32 và 42 của chuyến bay.

Bằng chứng cho điều này xuất phát từ điều tra ban đầu vào vụ đánh bom.


Đường hướng của Anh và Mỹ, của cơ quan tình báo ngay sau vụ tấn công là đánh bom được thực hiện không phải bởi người Libya, mà bởi một nhóm có trụ sở ở Syria.


Nhóm này đã được thuê bởi Iran để trả thù việc bắn hạ một máy bay dân sự của họ bởi một tàu chiến Mỹ vào mùa hè năm 1988.

Trong những tháng trước vụ đánh bom có một nhóm kết hợp với chỉ huy Mặt trận Giải phóng Nhân dân Palestine đã bị bắt giữ ở Frankfurt, Đức.


Lãnh đạo của nhóm này là Ahmed Jibril, người được bảo vệ bởi chính phủ Syria.


Các nhà điều tra đã không nghi ngờ gì rằng những quả bom được tìm thấy trong cuộc đột kích ở Frankfurt nhằm vào nhóm này, là được thiết kế để làm nổ tung máy bay.


Chúng được trang bị công tắc áp suất, đóng gói bên trong chiếc cassette Toshiba và ít nhất 1 trong số chúng đã không được thu hồi.


Kẻ bị kết tội chế tạo bom, Marwan Khreesat, đã được miễn trừ truy tố vì vụ đánh bom Lockerbie.



Chính sách ngoại giao phương Tây đóng vai gì?

Ngay sau vụ đánh bom Lockerbie, các cáo buộc chống lại nhóm này là phù hợp với chính sách ngoại giao Anh – Mỹ.

Cả hai đã cắt đứt quan hệ với Syria. Cuộc chiến giữa Iraq và Iran đã kết thúc vào mùa hè năm 1988 với Anh và Mỹ đứng về phía Iraq.

Nhưng sự liên kết chính trị này sớm thay đổi. Tháng 4 năm 1989 quan chức cao cấp trong CQ George Bush khuyến khích Margaret Thatcher không tiếp tục theo đuổi điều tra mối liên quan Syria-Iran.

Một năm sau đó, quân đội Mỹ và Anh chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào lực lượng chiếm đóng của Saddam Hussein tại Kuwait.

Liên minh rất cần quân đội từ quốc gia Ả Rập và Iran duy trì sự trung lập. Binh lính được tạo điều kiện 1 cách thuận lợi từ Syria.

khi liên minh chính trị trong khu vực đã thay đổi, cuộc điều tra chính thức vào thảm họa Lockerbie, do đó cũng cần thay đổi.

Tháng 11 năm 1991, chính phủ Anh và Mỹ thông cáo rằng Megrahi và Fhimah bị buộc tội âm mưu đánh bom làm rơi Pan Am 103.

Libya đã phải giao nộp Megrahi để xét xử sau khi kháng cự một số năm - với điều kiện dỡ bỏ lệnh trừng phạt, làm họ chịu tổn hại đến 30 tỷ USD.

Còn khi phương Tây muốn đưa Libya trở lại vào vòng tay ngoại giao và lòng mong mỏi của các hãng dầu phương Tây kiếm tiền ở đất nước này hội tụ, đã có một tái định hướng xa hơn về quan hệ để đảm bảo thương mại thuận lợi.

Đó là bối cảnh mà trong đó Megrahi đã được thả vì "lý do nhân đạo".

Đã có sự che đậy?

Đại diện thân nhân Anh của các nạn nhân Lockerbie,  gồm cả Martin Cadman, đã gặp Ủy ban của TT Mỹ về an ninh hàng không và khủng bố vào năm 1990.

Cadman nói: "Sau những gì đã có chúng tôi cần phải có lời, khi cuộc gặp đã đến lúc chia tay, và chúng tôi đi ra cửa. Khi đến đó, tôi thấy mình đang nói chuyện với 2 thành viên của ủy ban - Tôi nghĩ rằng họ là thượng nghị sĩ.

"Một trong số họ nói: "Chính phủ của các ông và chính phủ của chúng tôi biết cái gì đã xảy ra tại Lockerbie. Nhưng họ không nói để ông biết." "



Chuyến bay 103 Pan Am Lockerbie P1


Ngày 21 tháng 12 1988, chuyến bay Pan Am, chiếc Boeing 747-121 số hiệu N739PA  từ Heathrow tới Sân bay quốc tế John Kennedy đã bị nổ và rơi xuống Lockerbie. 270 người và cả 11 người dân dưới đất thiệt mạng, trong đó có 189 hành khách Mỹ.

Sau 3 năm điều tra, với sự tham gia của Mỹ, manh mối được cho là một quả bom hẹn giờ để trong hành lý, khoảng 340-450 g là nguyên nhân tai nạn. Thủ phạm được qui cho 2 sĩ quan “tình báo” Libya. Họ không giao nộp “thủ phạm” và bị cấm vận.

Sức ép nặng nề làm Muammar Gaddafi mặc dù phủ nhận sự liên quan nhưng năm 1999 cũng phải chấp nhận bồi thường cho các nạn nhân hàng trăm triệu USD và giao nộp thủ phạm để tòa án Camp Zeist Hà Lan xét xử và kết án năm 2001.

Tưởng như vụ án đã khép lại, Abdelbaset al-Megrahi và Amin Khlaifa Fhima phạm tội ác. Nhưng không hẳn thế. Rất nhiều tranh cãi, vô số sự vô lý ở 1 phiên tòa công lý. Tội phạm liên tục kêu oan, năm 2009, Abdelbaset al-Megrahi kẻ bị kết án 20 năm tù đã được thả sớm vì ung thư, ông ta chết năm 2012. 

Vết dơ phiên tòa Lockerbie 

Chúng ta điểm qua bằng chứng chính trên báo BBC và Independent – họ gọi phiên toàn là 1 thách thức.

Cố vấn LHQ John Wyatt: "Tôi thấy nó khá lạ thường và tôi nghĩ rất khó có thể xảy ra và không như là anh có thể tìm thấy cái mảnh như thế - điều đó là không thể tin được";

Cái mảnh ông  Wyatt đề cập là mảnh dây đồng, được cho là từ thiết bị hẹn giờ gài trong chiếc radio bắn ra từ vụ nổ mà người ta “tình cờ” tìm thấy ở hiện trường.

Cuộc điều tra bởi BBC Newsnight đã làm dấy lên nghi ngờ về manh mối quan trọng của bằng chứng để từ đó kết án kẻ đánh bom Lockerbie, Abdelbaset Ali al-Megrahi.

Thử nghiệm nhằm mục đích tái tạo vụ nổ bộc lộ sự thiếu cơ sở của mối liên hệ trong hồ sơ pháp lý trọng tâm, dựa trên một mảnh đồng nhỏ được xác định là một phần của bộ hẹn giờ của quả bom. Thử nghiệm này cho thấy các mảnh vỡ, mà bị cho là có liên quan đến thủ phạm Megrahi, không thể còn tồn tại sau vụ nổ giữa không trung.

Việc thả sớm Megrahi cũng làm dấy lên ngờ vực đã có dàn xếp trước khi xét xử.

Newsnight đã được xem xét các bằng chứng, và đã phơi bày sự ngờ vực nghiêm trọng về tính pháp lý được sử dụng để xác định mảnh đồng này như là một phần của một bảng mạch kích hoạt quả bom.

Mảnh đồng đã được tìm thấy rất lâu sau vụ tấn công. Trong nhiều tháng nó vẫn không được chú ý và không ai nhận ra, nhưng cuối cùng nó đã định hình toàn bộ cuộc điều tra.

Mối liên hệ Malta

Mảnh đồng bị dính vào một mảnh quần áo cháy, với dấu hiệu nói rằng nó được làm ở Malta.

Vì vậy, tâm điểm giờ quay sang Malta và câu hỏi ai là kẻ đã mua quần áo.

Một nhân viên bán hàng trên đảo nhận ra Megrahi, nhưng điều này chỉ hàng năm sau khi nhìn thấy anh ta trên 1 tạp chí như là kẻ tình nghi Lockerbie.

Newsnight đã phát hiện ra rằng mảnh đồng – manh mối rất quan trọng để kết tội – đã không bao giờ bị phân tích hóa học hay kiểm tra để xem có dấu vết thuốc nổ trên đó để có thể là liên quan đến quả bom hay không.

Và cố vấn người EU của Liên hợp quốc về chất nổ, John Wyatt, nói ông rất nghi ngờ mảnh đồng như thế là nằm trong bộ phận kích hoạt quả bom.

Tan biến sạch sẽ

Ông cũng đã tái tạo một bom va li như loại được cho là đã phá hủy Pan Am 103, sử dụng loại radio như trong vụ nổ và bảng mạch bộ hẹn giờ được cho là đã được đặt vào đó, cùng một loại quần áo tương tự như đã dính vào cái miếng đồng vỡ như được tìm thấy.

Trong mỗi lần thử, bộ hẹn giờ và bảng mạch của nó đều bị phá sạch sẽ, khiến ông Wyatt phải đặt câu hỏi liệu một mảnh như vậy lại có thể còn lại sau vụ nổ giữa không trung.

Ông nói với Newsnight: "Tôi thấy nó khá lạ thường và tôi nghĩ rất khó có thể xảy ra và không như là anh có thể tìm thấy cái mảnh như thế - điều đó là không thể tin được";

"Chúng tôi thực hiện 20 thử nghiệm, tôi làm 100 hay 1000, nhưng trong 20 thử nghiẹm này tôi thấy hoàn toàn không có gì cả - vì vậy tôi thấy nó rất khó có thể khi anh lại tìm thấy bất cứ thứ gì giống thế, đặc biệt là ở độ cao 10.000ft khi các mảnh xuống vào cỏ ướt mọc cao tản mát qua hàng trăm dặm.”

Edward Bollier, của MEBO, đã kiểm tra những bức ảnh FBI và nói rằng mảnh vỡ này không phải từ phiên bản sản phẩm cung cấp cho Libya. "Bây giờ tôi có thể chắc chắn nói họ mảnh vỡ không đến từ một trong những bộ hẹn giờ chúng ta bán cho Libya." Ông Bollier nói nó có thể ở một trong ba phiên bản mẫu. Hai đã được bán cho Viện Nghiên cứu kỹ thuật ở Đông Đức. "Chúng ta biết rằng viện này là một xưởng kỹ thuật cho Stasi". Mẫu thử nghiệm (hẹn giờ) chưa hoàn thành thứ ba đã bị đánh cắp. 

Lẽ ra, Pan Am 103 đã tan xác trên Đại Tây Dương. Chỉ vì chuyến bay bị chậm 1 giờ mà nó rơi ở Lockerby và cái mảnh đồng được vứt vội vào đống đổ nát để lái cuộc điều tra sang hướng khác. 

Xem thêm: Nhìn lại vụ tai nạn thảm khốc máy bay TWA-800

HỘP ĐEN LÀ GÌ?


Vụ tai nạn máy bay Malaysia, báo chí nhắc nhiều đến hộp đen” đã được bàn giao cho đại diện Malaysia. Vậy hộp đen là gì, hoạt động như thế nào, vấn đ giải mã ra sao?
Từ thời các con tàu lênh đênh trên đại dương, có 1 quyển sổ ghi chép gọi là “Nhật ký hành trình” nó ghi lại các vấn đề trong một chuyến hàng hải. Về cơ bản, hộp đen cũng là “nhật ký hành trình” nhưng là ghi chép tự động bằng thiết bị máy móc.

Gọi là hộp đen, nhưng thực ra nó có màu vàng cam, thiết kế đóng kín và chắc chắn, chịu được va đập mạnh cùng nhiệt độ cao để có thể tồn tại qua tai nạn.

Hộp đen là gì?

1 . Là thiết bị ghi dữ liệu hành trình, ghi âm. Trước kia, nó là dạng băng từ, còn ngày nay đã gọn nhẹ hơn: bộ nhớ flash và điều khiển, không khác nhiều bộ nhớ SSD trong máy tính laptop.



2 . Về cơ bản, nó cần được bảo vệ trong 1 cái vỏ chắc chắn, thường là ti tan hoặc thép cường độ cao, với các lớp cách nhiệt để có thể được cách ly trong đám cháy.

3. Các hộp đen tuân theo 1 tiêu chuẩn gọi là FAA TSO C123b/C124b: dữ liệu không bị phá hủy trong các va đập đến 3400G trong 6,5 mili-giây, cách ly với lửa trong đám cháy tai nạn 30 phút, chịu được độ sâu 6km dưới nước khi rơi xuống biển.
  


4 . Để dễ tìm dưới nước, hộp đen được trang bị bộ phát tín hiệu sóng siêu âm (không phải sóng radio) ở tần số 37 500 Hz.

5 . Để dễ tìm, hộp đen có vỏ màu cam, dễ nhận biết trong đống đổ nát, ngoài ra còn in dòng chữ cảnh báo "Flight Recorder. Do not open", hoặc có thể tiếng nước khác.


Hộp đen đặt ở đâu trên máy bay?

6 . Thường ở phần đuôi máy bay, nơi ít bị hư hại nhất trong các vụ tai nạn. Trường hợp khác đặt trong khoang máy bay là rất hiếm.




Giải mã hộp đen như thế nào?

7 . Hộp đen có 2 loại dữ liệu: thông số bay (flight data recorder - FDR) và tiếng nói (cockpit voice recorder - CVR) của phi công và tiếng động xung quanh. CVR có 4 kênh, độ dài 2 giờ. Nó gồm nhiều đầu thu thông số và dữ liệu bay, bao gồm tọa độ, tốc độ, độ nghiêng máy báy, thông số động cơ máy bay gồm cả tiếng động cơ. Mỗi thông số được lấy với tần suất có thể đến vài lần trong 1 giây. Vì dung lượng bộ nhớ có hạn, nên việc lưu trữ thông số mới sẽ ghi đè lên thông số cũ hơn, nhưng đủ dài đến 17-25 giờ.

Trước năm 2002, hộp đen ghi khoảng 29 thông số bay, hiện nay đã nhiều thông số hơn: 80. Nhưng thực ra, để điều tra tai nạn, người ta không cần dùng hết các thông số này. Đặc biệt, hộp đen trong các máy bay thử nghiệm, có thể có nhiều đến 2000 thông số, vì quá nhiều nên không thể bảo vệ, máy bay rơi là mất.

Giải mã hộp đen, dĩ nhiên có nhiều đồn đại về giải mã cũng như đồn đại về hộp đen.

Vấn đ là chỗ không phải dữ liệu được mã hóa hay không, (ngày nay có đ công cụ giải mã), mà khái niệm giải mã” được hiểu theo cách một phóng viên đã ghi lại mẩu tin phỏng vấn theo kiểu của mình. Họ nghe diễn giả và ghi lại nhanh bằng ký hiệu, từ viết tắt, còn nhiệm vụ của các chuyên gia là đọc nó, xử lý nó và ghi lại theo cách thuận tiện đ phân tích và hiểu được. Nếu hiểu như vậy thì thực ra chẳng có gì được mã hóa bên trong hộp đen. Dữ liệu bay có thể được đọc tại bất kỳ sân bay nào, không có bảo vệ trước các con mắt lạ. Bởi vì hộp đen là đ phân tích nguyên nhân tai nạn với mục đích làm giảm thiểu tai nạn trong tương lai. Cũng không có bất cứ bảo vệ dữ liệu đặc biệt nào chống lại việc sửa chữa dữ liệu trong hộp đen. Thậm chí, nếu nguyên nhân thực gây ra tai nạn là cần thiết đ phải giữ im lặng hay xuyên tạc vì mục đích chính trị, hay vì lý do nào khác, luôn luôn có thể tuyên bố hộp đen đã bị hư hỏng nặng và không thể lấy lại dữ liệu.


Sự thực, trong các vụ tai nạn, không hiếm khi hộp đen bị hỏng (đến 1/3 các vụ tai nạn có hộp đen hỏng), nhưng có khả năng để sửa chữa — ví như các đoạn băng bị đứt có thể được dán lại cũng như đọc nó bằng cơ cấu đặc biệt, các con chip còn sống có thể được phục hồi  và kết nối với thiết bị đọc, tuy nhiên đây là quá trình khó khăn, cần có phòng thí nghiệm chuyên biệt.



Tại sao gọi là “hộp đen”?

9 . Hộp đen nhưng thực ra có màu vàng cam để dễ nhận biết. Không ai rõ từ đâu mà phổ biến cái tên hộp đen! Có vài cách giải thích: Trong WW-II, một số máy bay quân sự bắt đầu được trang bị thiết bị điện tử, chúng được đặt trong cái hộp màu đen. Các máy ghi âm đầu tiên thậm chí là trước WW-II sử dụng phim nhựa không thể phơi ra ánh sáng nên đặt trong hộp kín màu đen. Từ đó có cái tên hộp đen. Cũng không loại trừ tính chất bí hiểm của loại thiết bị bắt đầu phổ biến trên máy bay dân sự này từ những năm 1960 mà người ta gọi nó như thế.



Hộp đen phát triển đến đâu?

10 . Nhiều dự báo với chiều hướng phát triển mạnh của thiết bị điện tử ngày càng nhỏ gọn, trong tương lai gần hộp đen sẽ có dữ liệu video. Sẽ có thể ghi hình từ nhiều hướng khác nhau, thậm chí là cả bên ngoài máy bay. Nhiều chuyên gia hàng không hy vọng, cùng với các thiết bị khác, nó sẽ giúp giải quyết nhiều vấn đề. Hay loại hộp đen nổi được trên mặt nước, trang bị dù để thoát ra khi máy bay rơi. Thậm chí là dữ liệu bay được gửi thẳng cho vệ tinh theo thời gian thực và không cần hộp đen nữa.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...