CUỘC CHIẾN VĂN HÓA CỘNG HÒA WEIMAR - DEUTSCH-JUDAIC KULTURKAMPF

Sự khởi đầu của Cộng hòa Weimar (1918-1933) ở Đức đặc trưng bởi sự nổi lên của Đảng Dân chủ Xã hội Đức (German Socialist Democratic Party -SPD) và các hoạt động cách mạng của những người “CS”. Hoàng đế Đức bỏ trốn khỏi đất nước, đế chế bị tả tơi kinh tế do cuộc đại chiến WW-I (1914-1918), quyền lực chính trị ở trong tình trạng hỗn độn. Đó là không phải cho đến khi có sự nổi lên của đảng CNXH quốc gia (National Socialism -NS) trong những năm 1930 lấy lại thế thượng phong ở Đức. Một ví dụ điển hình của sự thay đổi từ tả sang hữu này là thành phố Breslau (600 nghìn dân vào năm 1928), nơi SPD có được 51,19% số phiếu vào năm 1919 và NS nhận được 51,7% vào năm 1933. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào cân bằng đã chuyển từ tả sang hữu và điều này có thể là kết quả của một cuộc đấu tranh giữ Judaic cách mạng và Đức dân tộc như thế nào.

Trường trung học kiểu Breslau

Trong hệ thống giáo dục Đức Trường này đã (và vẫn là) mức cao nhất của giáo dục trung học và là bước đệm cho đường vào trường đại học. Trường Breslau là 'vườn ươm' cho các tinh hoa văn hóa và chính trị Đức. Khoảng năm 1900 nó bị thống trị bởi văn hóa Kitô giáo và văn hóa dân tộc Đức ngày đó, hoàn toàn trái ngược với những ý tưởng quốc tế và chủ nghĩa hòa bình (pacifism) phổ biến ngày nay. Điều này không có nghĩa là nền văn hóa này đã không gặp chống đối, ít nhất là vì các trường trung học này không phải là thuần khiết Kitô Đức. Trong cả hai, những năm 1880 và 1900 hơn 30% số học sinh trong trường Breslau là người Judaic (Till van Rahden, Judaic and other Deutsch, p. 126). Một ví dụ nữa của quá nhiều đại diện Judaic trong giáo dục đại học là điều tra dân số năm 1879 cho thấy rằng mỗi 10.000 dân Tin Lành Berlin, 81 đã được giáo dục trung học; tỷ lệ Công Giáo là 22 và Judaic là 350. Ở Thượng Silesia, khu vực tiếp giáp với Breslau, tỷ lệ này là 81 Tin Lành, 19 Công giáo và 423 Judaic (A. Prinz, Judaicn im deutschen Wirtschaftsleben, p. 89).

Tại thời kỳ này, Judaic đại diện cho 5% dân số Breslau và là một nhóm có quan hệ chặt chẽ với tỷ lệ hôn nhân với Kitô hữu thấp (Till van Rahden, Judaicn und andere Breslauer, p. 150–152). Judaic đã không chỉ là một cộng đồng tôn giáo-dân tộc riêng biệt, nhưng cũng đặt tầm quan trọng của họ trong bầu cử đằng sau đảng tự do (liberal) địa phương (Till van Rahden, p. 248). Hệ thống đại biểu Phổ dựa trên điều tra dân số cho phép Judaic bầu cử có tầm quan trọng lớn hơn là lẽ ra họ có dựa trên cơ sở dân số thực tế, bởi vì người Judaic đã chiếm vị áp đảo trong ngành nghề mang lại thu nhập cao (Till van Rahden, p. 248–249). Ảnh hưởng chính trị này của Judaic được nhận thấy trong lĩnh vực giáo dục khi họ cố gắng để đánh tan sự thống trị Kitô giáo trong giáo dục bằng cách đề xuất bổ nhiệm giáo viên Judaic. Những nỗ lực này dẫn đến khiếu nại rằng "Judaic là không thích hợp để dạy dỗ con cái Cơ đốc giáo thành người Cơ đốc giáo Đức" (Till van Rahden, p. 248–249). Không có lệnh cấm chính thức về giáo viên Judaic, nhưng Judaic đã bị từ chối rộng rãi trong thực tế làm giáo viên và các giáo sư trong Đế chế Đức. Ở đây chúng ta có thể thấy sự vận hành của cơ chế tự bảo vệ văn hóa-chủng tộc chống lại một dân tộc thiểu số có tính tập thể cao.

Hội đồng trường

Sự thất bại và hậu quả phụ của việc Đế chế Đức bị đổ vỡ chứng tỏ là gây sốc cho người dân Đức. Hầu như qua một đêm, Đức đã trở thành một nước cộng hòa và đảng Dân chủ Xã hội chiếm lấy quyền lực. Để phá vỡ sự ảnh hưởng bảo thủ của giáo viên và các bậc cha mẹ trong giáo dục, Bộ trưởng Bộ Giáo dục SPD Konrad Haenisch quyết định, lúc hai tuần sau khi Kaiser từ nhiệm, thành lập Hội đồng đại diện học sinh. Bản chất lật đổ của biện pháp này được sáng tỏ bởi thực tế là "Hội đồng học sinh có thể chỉ định đại diện được uỷ quyền, qua mặt hiệu trưởng nhà trường và đội ngũ giáo viên tổ chức đối thoại với Bộ trưởng ở Berlin về việc làm thế nào để khắc phục tình trạng bất bình đẳng trong nhà trường cụ thể của họ, và thay đổi chính sách thanh niên ở các nước cộng hòa mới nói chung "( A. Donson, “The Teenagers’ Revolution”, Central European History 44, 2011, 420–446, 420). Haenisch cấm cầu nguyện và cắt giảm giảng dạy Kitô giáo, nhưng chỉ trích đối với luật lệ của cộng hòa mới đã bị cấm một cách công khai (H. Wegener, Das Joachimstalsche Gymansium, Berlin Story Verlag 2007, p. 109)

Tuy nhiên, nỗ lực này để cách mạng hóa học sinh không có tác dụng như ý định và thực sự, đã có phản kháng chống lại Cộng hòa Weimar giữa các học sinh trong trường trung học. Nó cũng có một hậu quả tác động phụ không mong muốn trong cuộc đụng độ giữa các học sinh theo dân tộc và theo cộng hòa, phe dân tộc rộng lớn trước đây chiếm thế áp đảo sau đó dần bị áp đảo bởi Judaic (Donson, p. 421). Như đã nói ở trên, người Judaic đã chiếm vị trí đông đảo trong Trường trung học ở các thành phố như Breslau, mà còn ở Berlin, nơi 25% dân số Judaic sinh sống ở Đức. Sự áp đảo của Judaic trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta quan sát thấy chỉ có 8% dân số Đức được hưởng giáo dục trung học so với 59% trong số người Judaic. Phần lớn người Judaic chấp nhận trật tự cộng hòa mới vì nó loại bỏ các chướng ngại nghề nghiệp cuối cùng trong giáo dục và quản trị nhà nước. Cho đến năm 1918 cả hai lĩnh vực này hoàn toàn bị thống trị bởi những đàn ông Đức, khi phụ nữ Đức không được phép dạy con trai Đức cho đến năm 1916 (Donson, p. 423).

Văn hóa Weimar

Vòng tay ôm ấp chủ nghĩa cộng hòa của người Judaic không chỉ có các động cơ kinh tế-xã hội, mà còn bởi họ nhìn thấy nó như một cơ hội để đả phá chống Kitô giáo và văn hóa truyền thống Đức. Emily D. Bilski của Bảo tàng DT New York đã lập luận trong cuốn sách Berlin Metropolis của mình có tên: “DT và Văn hóa mới 1890-1918” (University of California Press, 1999) rằng Judaic là ưu việt và áp đảo trong tấn công tín ngưỡng(p. 21) và họ đã quyết liệt chống lại chủ nghĩa dân tộc (p. 82). Một ví dụ tuyệt vời là Magnus Hirschfeld, kẻ chủ trương không thành công "tự do tình dục" từ năm 1897, dưới nền tảng Cộng hòa Weimar hắn đã có cơ hội để thành lập Viện Khoa học tình dục vào năm 1919, thúc đẩy tất cả các loại hành vi tình dục đáng ghê tởm và khiêu dâm. Đó là một trong những trường đầu tiên bị giải tán tháng 3 năm 1933 khi CNXH quốc gia lên nắm quyền.

Richard Evans đã chỉ ra trong cuốn sách “Sự nổi lên của Đế chế thứ ba - The Coming of the Third Reich, Penguin 2004) rằng các đảng phái chủ đạo như Đảng Công giáo trung tâm đã xác định văn hóa của Judaic với CNXH, chủ nghĩa tự do (liberalism) và chủ nghĩa hiện đại (p. 30). Donald L. Niewyk đưa ra các con số thú vị trong cuốn sách “Người Judaic ở Weimar Đức - The Jews in Weimar Germany (Transaction Publishers 2001): khoảng năm 1919, Judaic chiếm đến 99% các nhóm sinh viên XHCN tại Đại học Frankfurt-am-Main và hơn một nửa số sinh viên Dân chủ Xã hội ở Berlin (p​​. 30). Trong cuốn sách gần đây “Weimar: Lịch sử văn hóa - Weimar: A Cultural History (Transactions Publishers 2011), Walter Laqueur nhấn mạnh tầm quan trọng ảnh hưởng của Judaic trong thời Cộng hòa Weimar: "Nếu không có Judaic sẽ không có 'Văn hóa Weimar'- từ phạm vi này tuyên bố anti-semites, của những ai ghét cay ghét đắng nền văn hóa đó là hợp lý. Họ đang ở vị trí hàng đầu của tất cả các phong trào cách mạng và phiêu lưu mới. Họ nổi bật trong số các nhà thơ chủ nghĩa biểu hiện (expressionist), trong số các nhà văn của những năm 1920, trong số các nhà sản xuất sân khấu, và trên tất cả, trong số các nhân vật hàng đầu của điện ảnh. Họ sở hữu các tờ báo trường phái liberal hàng đầu như Berliner Tageblatt, Vossische Zeitung và Frankfurter Zeitung, nhiều biên tập viên cũng là người Judaic. Nhiều nhà xuất bản tự do hàng đầu và tiên phong bị rơi vào tay… Nhiều nhà phê bình sân khấu hàng đầu là người Judaic, và họ thống trị ngành giải trí điện ảnh." (p. 73)

Xung đột trong Hội đồng trường

Hội đồng học sinh nói trên "gây ra sự chia rẽ sâu sắc giữa các học sinh Judaic và Đức. Sự sẵn sàng của học sinh Judaic để nắm lấy Hội đồng học sinh và tiến hành hùng biện cách mạng XHCN gây ra anti-Semitism trong số các học sinh dân tộc Đức. Laqueur nhận xét rằng Judaic càng ngày càng bị loại ra khỏi các câu lạc bộ sinh viên dân tộc trong giai đoạn này, cũng như ở các đại học thành phố Göttingen vào năm 1920 (p. 192). Ở trường trung học Bismarck Berlin, căng thẳng là rất cao do sự phân chia Đức-Judaic khi trường nàu nằm trong khu phố người Judaic chiếm hơn 13% dân số. Khi cậu bé Judaic Rothstein, làm chủ trì Hội đồng học sinh, bắt đầu chế nhạo quân đội Đức và các sĩ quan, đám học trò Judaic thường vỗ tay ầm ĩ trong khi các học sinh dân tộc Đức huýt sáo phản đối để biểu thị. Khi thủ lĩnh phe dân tộc, Kurt Eggers, yêu cầu một lời xin lỗi, Rothstein sa thải anh ta bằng một nụ cười khinh bỉ và bắt đầu xúi giục Hội đồng học sinh vẽ ra các tội lỗi của hoạt động phản cách mạng để chống lại Eggers. Eggers đã chán nản và đánh vào mặt Rothstein và vì thế đã bị hội đồng nhà trường kỷ luật (Donson, p. 432). Như hậu quả của những cuộc xung đột, những người như Eggers sẽ biến thành CNXH-quốc gia nghiệt ngã.

Trong trường trung học Helmholtz ở Berlin, học sinh dân tộc Đức phô trương cờ đế chế cũ của màu đen-trắng-đỏ thay vì màu đen-đỏ-vàng của cộng hòa mới và chiến đấu với các học sinh Judaic chống đối họ (Donson, p. 437). Trong tháng 11 năm 1919 hàng trăm học sinh từ trường Bismarck nói trên đã xuống đường để tỏ lòng tôn kính Field Marshall Von Hindenburg, họ la hét: "Đả đảo cờ Judaic! Đả đảo cộng hòa! Đế chế Đức muôn năm!" (Donson, p. 441). Các cuộc đụng độ như thế là phổ biến trong các trường trung học Đức giai đoạn 1918-1919 khi cuộc cách mạng đang quét khắp nước Đức. Donson thừa nhận trong bài báo của mình rằng "các sự cố phản ánh thế giới của người lớn, nơi Judaic là kẻ lãnh đạo trong cuộc cách mạng với số lượng không cân xứng với dân số của mình và phải đối mặt với anti-Semitism ngày càng tăng" (Donson, p. 432). Hơn nữa: "Trong số các nhóm của giới tinh hoa cánh hữu trong các trường trung học thời kỳ cách mạng, có niềm tin rằng Judaic là những kẻ phản bội có nguồn gốc không xa với một số nhận xét từ báo chí hoặc các đánh giá cũ. Thay vào đó, nó đã nuôi dưỡng những kinh nghiệm chính trị thực sự trong Hội đồng học sinh vào mùa đông và mùa xuân năm 1919". (Donson, p. 432-433).

Kết luận

Vai trò của Judaic trong việc định hình cái gọi là Cộng hòa Weimar (1918-1933) thường bị đánh giá thấp bởi dân số tương đối ít của họ. Có khoảng 550.000 người Judaic sinh sống ở Đức, chiếm ít hơn 1% tổng dân số. Cái làm cho Judaic có ảnh hưởng là đầu tư giáo dục cao cho con cái của họ bằng cách nhấn mạnh giáo dục. Sự áp đảo của Judaic ở giáo dục trung học và cao hơn đã dẫn đến áp đảo của Judaic trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là tại các trung tâm văn hóa đô thị của Đức như Berlin, nơi hầu hết Judaic sinh sống. Bắt đầu từ những năm 1890, thứ văn hóa Judaic này đã bắt đầu hình thành để tạo ra phản văn hóa chống giáo hội và chủ nghĩa quốc tế để chống lại nước Đức Kitô giáo và dân tộc chủ nghĩa. Niewyk nhấn mạnh điều này trong (Judaic ở Weimar Đức - The Jews in Weimar Germany, Ibid): "Trong thực tế, một lượng lớn đáng ngạc nhiên trí thức Judaic đã thăng tiến lên vị trí hàng đầu trong đảng SPD. Đảng Dân chủ xã hội SPD, như là đảng của giai cấp công nhân, thiếu đào tạo phóng viên, tuyên truyền viên, và các đại diện quốc hội. Đó là lẽ đương nhiên khi người Judaic có giáo dục, chỉ là một phần của nhóm thiểu số đã bị tước đoạt hết quyền dưới chế độ quân chủ, cần phải bù đắp lại nhu cầu này với số lượng đáng kể". (p. 26).

Sau sự sụp đổ của Đế chế Đức, SPD lên cầm quyền và Judaic đã trở thành tinh hoa văn hóa mới của trật tự cộng hòa ở Berlin. Cộng hòa Weimar 1918-1933 không chỉ loại bỏ các rào cản cuối cùng chống lại ảnh hưởng của Judaic trong lĩnh vực chính trị, giáo dục và văn hóa, mà thể chế dân chủ của nó, thật trớ trêu, đã tạo đủ không gian sinh tồn cho cuộc đấu tranh chính trị- văn hóa chống lại cộng hòa mới mà phần lớn chiến đấu theo chiến tuyến sắc tộc: tinh thần cách mạng của Judaic đụng độ với tinh thần bảo thủ Đức. Sự áp đảo của Judaic ở giáo dục phổ thông giảm bớt cán cân chênh lệch giữa người Đức và người Judaic,biến các trường trung học ở thành phố như Berlin và Breslau thành hình ảnh phản chiếu của cuộc đấu tranh vũ trang ở Đức giữa cách mạng và bảo thủ trong thời kỳ 1918-1919. Đó là áp đảo của Judaic trong các phong trào cách mạng và lòng nhiệt thành của họ để phá hủy nền tảng chủ nghĩa quốc gia và Kitô giáo Đức, dẫn đến sự nổi lên của CNXH-quốc gia như một phản phong trào mang tính chủng tộc chống lại thống trị văn hóa Judaic. Tóm lại, Judaic đã tự biến mình và bị người Đức coi như một thế lực thù địch tấn công nền văn hóa mà hầu hết người Đức chấp nhận như truyền thống.

1000 năm qua, cuộc tấn công của Judaic vào đông Âu quê cũ, chưa bao giờ thành công. Cuộc chiến giữa thần Ánh sáng và Bóng tối đang tiếp tục!



TẠI SAO MỸ KHÔNG CỨU VNCH VỤ HOÀNG SA 1974!


Tài liệu ngoại giao mật của Mỹ ngày 19 tháng 1 năm 1974, rõ rỉ từ Wikileaks phần nào giải thích thái độ Mỹ và tại sao họ không cứu VNCH, không can thiệp vào xung đột TQ đánh chiếm Hoàng Sa 1974.

1. Các xung đột quân sự ở Hoàng Sa có hậu quả rõ ràng ở một số lượng thương vong phía GVN (GVN - VNCH), với các báo cáo của VNCH 2 tàu chiến có thể bị chìm bởi các tên lửa Styx của PRC (TQ). CQ VNCH đã đề nghị chúng ta giúp đỡ tìm kiếm và cứu nạn. Tình hình là phức tạp bởi báo cáo về sự có mặt trên đảo Hoàng Sa (VNCH chiếm giữ) của nhân viên dân sự Mỹ thuộc Cơ quan tùy viên quốc phòng (Defense Attache Offices) ở Đà nẵng. Chúng tôi không biết tại sao anh ta lại ở đó.

2. Chúng tôi đã yêu cầu DoD (Bộ QP) chỉ thị cho Hải quân Mỹ đứng ngoài khu vực. Hai ngày trước (17 tháng 1), chúng tôi đã thảo luận tình hình với Đại sứ Martin qua điện thoại và nhấn mạnh lợi ích của chúng ta trong tình hình yên ổn. Chúng tôi đang cố để có nhiều thông tin hơn, kể cả bí mật.

3. Tuyên bố báo chí ở đây sẽ theo các đường lối sau:

- Chính phủ Mỹ (USG) không có vai trò trong các tuyên bố trái ngược đối với Hoàng Sa, nhưng rất mong muốn một giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp.

- Chúng tôi hiểu rằng cả TQ và VNCH đã chiếm giữ các đảo khác nhau trong nhóm đảo Hoàng Sa một số năm. Chúng tôi không rõ hoàn cảnh mà trong đó xung đột hiện tại đã nổ ra.

- Lực lượng quân sự Mỹ không can thiệp.

4. Chúng tôi đang nói Đại sứ quán Sài Gòn khuyên VNCH làm các bước tối thiểu để bảo vệ mình và giải cứu các công dân của họ (và viên chức Mỹ của chúng ta), nhưng hãy làm những điều cần phải làm để tránh các xung đột trực tiếp xa hơn với các lực lượng TQ. Điều cuối cùng VNCH hay chúng ta cần vào lúc này là đối đầu TQ/VNCH trên quần đảo dẫn đến vai trò ít có lý lẽ hơn của TQ trong xung đột VN.

----

RUSH UNQUOTE RUSH

SECRET

NNN



LŨ GIÒI BỌ ĐÃ BÁN LIÊN XÔ NHƯ THẾ NÀO!

Liên Xô sụp đổ dễ dàng bởi nắm quyền lực là những kẻ cũng như Mỹ - Chúng dường như là đối thủ chính chống lại chính Liên Xô. Vấn đề là ở chỗ, khi những gã con buôn nắm quyền, thì đất nước chỉ còn đơn giản là bị mua và thâu tóm bằng 1 số tiền qui định. Liên Xô đã bị mua bởi chóp bu Do Thái Mỹ ở chóp bu Liên đoàn Do Thái.


Chúng đã bán Liên Xô như thế nào?

Một trong những đầu trò vụ bán chác này là gã Gorbachev – không ngạc nhiên khi hắn được bầu là “danh tiếng thứ 30” của thế kỷ XX, được gắn mề đay Nobel, được ném cho rất nhiều tiền.

Có sự kỳ lạ ở Ủy ban khẩn cấp tháng 8 (Государственныйкомитет по чрезвычайному положению - gọi tắt là UBKC). Ngày này, chúng ta là nhân chứng với những gì đang xảy ra ở Kiev, khi quyền lực bị chuyển vào tay đám chiến binh Maidan, thì rõ ràng, không chỉ những quan chức Ukr tham nhũng trơ tráo, mà trước tiên, là sự yếu đuối của quyền lực, đã kích thích các chiến binh đến chỗ vô luật lệ. Các sự kiện ở Kiev năm 2014, một lần nữa làm người ta nhớ sự kiện Moskva tháng 8 1991. Thái độ chần chừ và thiếu dứt khoát của giới quan chức an ninh đứng đầu là lãnh đạo KGB Vladimir Kryuchkov làm UBKC thất bại. Thậm chí là khi đó họ có thể dựa vào hầu hết quần chúng, cần phải nhắc là tháng 3 1991, 70% dân chúng vẫn ủng hộ nhà nước liên bang.

Ảnh: Chỉ huy dù Pavel Grachyov và soái không quân Evgeny Shaposhnikov
đóng vai trò không phải là cuối cùng trong việc UBKC thất bại và các sự kiện sau đó.

Bắt Yeltsin – nhưng đợi "chỉ đạo"

Như người ta biết, đặc nhiệm "Nhóm A" của KGB do anh hùng Xô Viết V. F. Karpukhin chỉ huy vào tối 18 rạng sáng 19 tháng 8 1991 đang ở Arkhangelsk. Nhưng mệnh lệnh cô lập Yeltsin, bất chấp có nhiều cuộc điện đàm của "Nhóm A" về Sở chỉ huy, đã không được thi hành. Về điều này có thể dẫn lời người trực tiếp tham gia vào sự kiện, là chủ tịch Hội cựu chiến binh quốc tế của sư đoàn chống khủng bố "Alpha", đại biểu Hội đồng nhân dân Moskva, ông Sergey Goncharov:

"Karpukhin báo cáo về Sở chỉ huy rằng chúng tôi đang ở vào vị trí và sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh. Mệnh lệnh cuối cùng mà tôi nghe rõ ràng: "Đợi chỉ đạo!". Trời bắt đầu sáng. Tôi nói với Karpukhin: "Fyodorych! đ/c hãy báo cáo về Sở chỉ huy – sắp bình minh rồi". Một lần nữa có lệnh: "Đợi! Sẽ liên lạc sau". Chỉ huy của chúng tôi phản ứng: "Thế đợi cái gì!", và chúng tôi tái bố trí đến 1 ngôi làng gần Arkhangelsk. Những người hái nấm đến… Họ thấy binh lính trong trang phục bất thường – ngụy trang và súng trong tay, đã sợ hãi và đứng sững lại khi chúng tôi né sang bên, họ đi về nhà.

Như tôi hiểu, thông tin đã đến với Korzhakov. Tôi nói: "Fyodorych, hãy gọi lại đi! Tất cả hiểu, chúng tôi đã được ra ám hiệu!" Karpukhin tìm chỉ dẫn. Người ta đưa ra cho ông mệnh lệnh mới: "Chuyển sang vị trí của phương án No. 2". Đó là lúc tiến công đánh chiếm. Chúng tôi đưa quân ra, lên xe và tiến lên trước độ 2 km, chúng tôi bắt đầu đeo trùm đầu. Nhưng có thể làm điều đó như thế nào với 1 lượng quân như thế này? Dân nông thôn nhìn chúng tôi rất dè dặt, họ không dám cả đi ra ngoài lấy nước…

Ảnh: Anh hùng Xô Viết Victor Fyodorovich Karpukhin (1947-2003).
Chính ông là chỉ huy “Nhóm A” của KGB khi đợi lệnh bắt Boris Yeltsin. 
Nhưng đã không nhận được cái lệnh ấy.

Được thôi. Đã nghiên cứu chiến dịch, làm thế nào để chặn đoàn xe, Karpukhin báo cáo đã sẵn sàng. Lúc 6 h, trời sáng, tất cả đã nhìn rõ, đoàn tàu hỏa đang đi về Moskva. Từ Sở chỉ huy lại 1 lần nữa: "Đợi chỉ đạo, sẽ có lệnh!"

7 h, có 1 đoàn xe công tác cùng bảo vệ bắt đầu kéo nhau đến Arkhangelsk. Chúng tôi thấy có một số nhân vật cỡ bự. Dĩ nhiên, đã cử người đi điều tra. Có vẻ là Khasbulatov, Poltoranin và 1 số kẻ khác đến. Chúng tôi báo cáo. Lại có lệnh: "Chờ chỉ đạo!" Tất cả! Chúng tôi không hiểu họ có muốn và tiến hành chiến dịch như thế nào!

Đến khoảng 8 h sáng, trinh sát cho biết: "Đoàn xe – 2 chiếc ZIL bọc thép, 2 Volga với bảo vệ của Yeltsin và những kẻ đã đến đang đi trên đường. Chuẩn bị hành động!" Karpukhin gọi về Sở chỉ huy 1 lần nữa và nghe: "Đợi mệnh lệnh!" – "Đợi cái gì, đoàn xe sẽ đi qua trong vòng 5 phút!" – "Đợi mệnh lệnh!" Khi chúng tôi nhìn thấy bọn chúng, Fyodorych 1 lần nữa nhấc ống nghe: "Đợi mệnh lệnh!"

Mệnh lệnh đã không đến. Tại sao? Các nhân vật ở UBKC, gồm cả Kryuchkov, đã không có câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi này cũng như đã không ra lệnh. Rõ ràng, không ai trong các nhà tổ chức của ông ta muốn rủi ro chịu trách nhiệm. Cũng chẳng có ai trong nội các (đảo chính) của Valentin Ivanovich Varennikov, nhưng điều như thế đã có ở Kiev mà không thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của sự kiện.

Hoặc là, có lẽ, đã xảy ra một số phức tạp kép và trò chơi tay ba. Tôi không rõ, rất khó cho tôi để phán xét… Chủ tịch Hội đồng tối cao cuối cùng của Liên Xô, Anatoly Lukyanov trong cuộc phỏng vấn với báo Nga nói rằng, UBKC được thành lập tại cuộc họp với Gorbachev ngày 28 tháng 3 1991. Còn Gennady Yanayev thì nói, tài liệu của UBKC được soạn theo yêu cầu cũng tất cả từ Gorbachev.

Sau đó, đoàn xe hộ tống của Yeltsin đã phóng rất nhanh vượt qua chúng tôi, Karpukhin nhấc điện thoại: "Làm gì bây giờ?" – "Chờ, chúng tôi sẽ gọi lại!" Đúng 5 phút sau: "Giữ bộ phận các sĩ quan của anh bảo vệ Arkhangelsk". – "Để làm gì?!" – "Thực hiện điều đã ra lệnh cho anh! Những chuyện khác – thuộc đơn vị khác!".

Vào lúc mà UBKC có thể thắng, thì đã bỏ lỡ nó 1 cách vụng về. Yeltsin đã có được thì giờ quí báu để huy động lực lượng phe cánh mình và bắt tay vào các hành động chủ động. Vào 10 hay 11 h, chúng tôi trở lại hẻm N-sky, nơi đóng quân tạm thời. Còn trên kênh TV chính, thay vì phát đi Bản tuyên bố đảo chính thì đã chiếu vở "Hồ Thiên Nga". Tấn bi kịch quốc gia biến thành trò hề".


… Tiếp theo, tất cả tình hình sụp xuống như ngôi nhà bằng giấy. Yeltsin đã trèo lên xe tăng trước Nhà Trắng (tòa nhà CP) và tuyên bố các hành động của UBKC là vi hiến. Vào buổi chiều, trên TV phát đi các bản tin đặt dấu chấm hết cho UBKC. Đóng vai trò cũng là bởi cuộc họp báo thất bại của nhóm UBKC. Nói đúng hơn, không chỉ riêng UBKC, mà là tất cả lũ tâm thần. Thực tế diễn ra là lặp lại tình hình ở Vilnius tháng 1 1991. Trong khi biết rằng, KGB luôn luôn chuẩn bị cho hoạt động của mình 1 cách kỹ lưỡng. Những pha đầu trong việc đưa quân đội vào Czech và Afghan luôn luôn là trách nhiệm của họ. Tất cả được tính toán kỹ đến từng phút.

Tuy nhiên, sau đó đã có nhiều thứ trở nên rõ ràng hơn, khi nó rõ hơn thì “2 kẻ thù không đội trời chung” – Gorbachev và Yeltsin đã thực sự làm việc cùng nhau trong 1 “đường dây”. Cựu bộ trưởng Thông tin và báo chí Nga, Mikhail Poltoranin đã công khai điều này trên tờ "Komsomolskaya Pravda" (số ra ngày 18 tháng 8 2011). Chắc chắn, lãnh đạo KGB đã biết hay đoán ra đường dây này, khi xác định tính 2 mặt lạ lùng của nó. Còn V. Kryuchkov, xét theo cuộc nói chuyện của ông ta với lãnh đạo PGU (điều tra) của KGB là Leonid Vladimirovich Shebarshin, vào tháng 6 1990 đã quyết định đứng cùng Yeltsin. Vì thế, Vladimir Aleksandrovich cũng không thể tránh khỏi cảm giác có trách nhiệm cá nhân trước Gorbachev. Kết quả, cách sử xự của ông là 1 ví dụ rõ rệt của việc theo đuổi nguyên tắc "tôi và anh". Nhưng trong chính trị, quan điểm nước đôi như thế, theo qui luật, là bị trừng phạt. Điều này đã xảy ra.

Chứng thực của Shcherbatov

Boris Yeltsin, kẻ đóng vai dưới trong “đường dây”, hiểu rằng đảo chính cho ông ta cơ hội hiếm có để kết liễu Gorbachev. Thật không may, tìm cách lật đổ Gorbachev là 1 ván bài chính trị lớn của Yeltsin, đồng thời vì nó, ông ta chẳng tiếc gì từ bỏ Liên Xô. Đồng thời, cũng cần phải nhớ hành vi phản bội của Gorbachev trước tình cảnh bộ 3 lãnh đạo Nga-Belarus-Ukraina, Yeltsin-Shushkevich-Kravchuk họp riêng với nhau ở Viskulyakh và tuyên bố Liên Xô chấm dứt hoạt động như một chủ thể quốc tế. Hành động này là vi hiến và hoàn toàn là tuyên bố đơn phương của bộ 3. Khi đó, bộ 3 mưu gian này hiểu rõ đó là phạm tội và đã gặp nhau trong cánh rừng Bialowieza, để nếu có biến còn chạy bộ sang Ba Lan lánh nạn.

Sau Viskulyakh, Yeltsin không dám quay về điện Kremlin vì sợ Gorbachev. Ông ta chắc rằng sẽ có lệnh bắt giữ mình, thế nhưng Gorbachev đã chọn cách bỏ mặc việc này. Ông ta chấp nhận tình trạng Liên Xô sụp đổ, như thể trong tình hình này, khả năng để ông ta bị đem ra công lý vì những tội lỗi đã biến mất.

Ảnh: 2 “tử thù” Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin chung vai diễn kết liễu Liên Xô.

Trước đây, tôi cũng đã viết rằng trong thời kỳ này, suy nghĩ của Gorbachev không phải là làm thế nào để giữ gìn Liên Xô mà là làm sao để bảo đảm tương lai cho mình không thiếu thốn: hàng hóa, rượu và nhà. Không phải là tình cờ mà sĩ quan an ninh lâu năm của ông ta là tướng KGB Vladimir Timofeyevich Medvedev nhấn mạnh 1 cách chuẩn xác: tư tưởng chính của Gorbachev là giữ cho mình sống còn.

Thật tệ hại, nhiều quan chức Liên Xô và giới tướng lĩnh cao cấp chỉ cố để lo tương lai vật chất cho mình. Cần phải nói rằng, cho đến 1991, người Mỹ đã mua sạch tận gốc giới bề trên Liên Xô, giúp Yeltsin tiến đến quyền lực. Tôi cung cấp chứng thực của hoàng tử Alexey Pavlovich Shcherbatov (1910-2003) từ dòng họ Ryurik, chủ tịch Hội quí tộc Nga bắc và nam Mỹ.

Trong ngày "đảo chính”, Shcherbatov đến Moskva từ Mỹ để tham dự Hội nghị đồng hương. Ông bày tỏ ấn tượng của mình về chuyến đi trong hồi ký “Lịch sử hoàn toàn không xa. Chuyến đi về Nga đầu tiên". Như thể số phận Shcherbatov xuất hiện trong các dày đặc sự kiện tháng 8 1991. Ông, như 1 công dân Mỹ có ảnh hưởng, đã gặp gỡ trực tiếp đại sứ Mỹ tại Liên Xô Robert Strauss, 1 người rất thông thạo. Bởi vẫn mang tinh thần Nga yêu nước, Shcherbatov đã phải chịu đựng sự sắc nhọn của các sự kiện tháng 8 1991. Bởi vậy ông đã quan tâm đến mọi thứ liên quan.

Trong tư liệu xuất bản trên tờ báo Chính thống giáo "Vera" – "Esk" (No. 520), Shcherbatov viết: "… Tôi cố để tìm hiểu nhiều chi tiết của sự chuẩn bị lật đổ. Và trong 1 vài ngày đã tự mình biết rõ: Người Mỹ, CIA đã đem tiền đến qua đại sứ ở Nga, Robert Strauss, đã sử dụng quan hệ của ông ta để mua chuộc giới quân đội: Sư đoàn dù Tamansky và Dzerzhinsk cần phải đứng về phía Yeltsin. Một lượng tiền lớn đã được đưa đến cho con của soái Shaposhnikov và bộ trưởng QP Grachyov. Shaposhnikov giờ có trang viên ở miền nam Pháp, nhà ở Thụy Sĩ.

Tôi nghe từ George Bailey, bạn cũ của tôi, nhiều năm làm việc cho CIA rằng, để làm tan rã Liên Xô, một lượng tiền lớn hơn 1 tỷ USD đã được đem vào. Ít người biết năm 1991, những chiếc máy bay đặc biệt dưới chiêu bài ngoại giao đã chở tiền đến sân bay Sheremetyevo, các kiện hàng của chúng là các tập đô la mệnh giá 10, 20, 50 được phân phát cho các đầu não chính phủ và quân đội. Những kẻ này về sau tiếp tục tham gia vào quá trình tư nhân hóa. Ngày nay tất cả điều này đều đã biết rõ.

Tham gia vào đảo chính là các cựu đại biểu dự hội nghị ở Shatagua: tướng Chervov giữ vai trò phân phát tiền trong giới quân đội, một trong số các giám đốc "Banks Trust of Company" là John Kristall như tôi biết, đã chuyển tiền giúp CIA qua ngân hàng. Tỏ ra là, khi tạo cho các quan chức Liên Xô 1 cơ hội tốt để nhận đút lót, thì làm tan rã Liên Xô không phải là việc khó…”

Cần phải thêm rằng, cuộc nói chuyện của phóng viên với hoàng tử Shcherbatov, người gọi mình là “con người-huyền thoại của lịch sử Nga", được thực hiện ở nhà ông, Manhattan - New York mùa hè 2003.

Shevardnadze phản bội

Phản quốc đã trú ngụ trong điện Kremlin từ lâu. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2014, kênh TV Russia 1 cho phát sóng bộ phim có tên "Afghan" của phóng viên Andrey Kondrashov. Trong phim, 1 trong những thân tín của thủ lĩnh Mujahideens Ahmad Shah Masoud nói rằng phần lớn các hoạt động quân sự của Liên Xô chống Mujahideens đều không mang lại kết quả bởi ông ta, Masoud đã nhận được kịp thời thông tin về các hoạt động này từ Moskva.

Ở NATO người ta luôn luôn hiểu, Eduard Shevardnadze là đồng minh 
thân cận nhất của Gorbachev, do đó họ chấp nhận ông ta như 
khách quí và không thể bỏ qua.

Trong phim còn đưa ra 1 thực tế khác về sự phản bội rõ ràng của giới chức hàng đầu Liên Xô. Người ta biết rằng trước khi Liên Xô rút quân ra khỏi Afghan và đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn với Ahmad Shah Masoud. Tuy nhiên, theo yêu cầu của bộ trưởng ngoại giao Shevardnadze và chỉ đạo của chỉ huy tối cao Gorbachev, quân đội Liên Xô trong các ngày 23-26 tháng 1 1989 đã ồ ạt tấn công tên lửa và không kích vào vùng nằm dưới sự kiểm soát của Ahmad Shah Masoud. Đó không chỉ là quyết định phản bội của Kremlin, mà còn là tội phạm chiến tranh.

Afghanistan hoàn toàn có cơ sở để buộc tội Gorbachev và Shevardnadze cũng như đòi hỏi xét xử ở tòa án quốc tế.

Sự phản bội của Shevardnadze không chỉ ở Afghan. Biết rằng tháng 4 1989, ông ta giúp BCT ngay lập tức thiết lập lại trật tự với các cuộc biểu tình ở Tbilisi và xét xử thủ lĩnh đối lập Gruzia Zviad Gamsakhurdia. Tuy nhiên, khi xảy ra sự kiện bi kịch ngày 9 tháng 4 1990, Shevardnadze bắt đầu đổi giọng về hành động quân sự không tương xứng khi giải tán biểu tình, nhấn mạnh căng thẳng là do lính dù sử dụng xẻng công binh tấn công người biểu tình. Nhưng phim do KGB quay, lại chỉ thấy họ bị tấn công bằng gạch đá và chai.

Tôi nhớ cuộc họp BCT tháng 3 1990 về vấn đề Litvia ly khai, Shevardnadze là duy nhất trong đó đòi áp dụng biện pháp mạnh chống ly khai và duy trì trật tự hiến pháp. Nhưng ông ta và A. Yakovlev lại thường xuyên cung cấp tin tức cho lãnh đạo Litvia Landsbergis.

Ngày 1 tháng 6 1990, Shevardnadze đã hành động phản bội tổ quốc ghê gớm khi đi thăm Washington với chức vụ bộ trưởng ngoại giao Liên Xô. Cùng ngoại trưởng Mỹ J. Baker, ông ta ký thỏa thuận mà theo đó Mỹ tự nhiên được hơn 47 nghìn km2 mặt nước biển Bering giàu có nguồn cá và hydrocarbons.

Không nghi ngờ gì, chính Gorbachev đã được báo về sự thông đồng này. Ngược lại, ở Moskva, Shevardnadze chẳng được ai chúc mừng. Nói cách khác, Gorbachev đã ngăn chặn mọi hành động thừa nhận sự "chuyển giao" này là bất hợp pháp. Người Mỹ biết lãnh đạo Liên Xô sẽ có phản ứng như vậy, họ nhanh chóng chiếm lấy vùng nước này và kiểm soát nó. Dường như vì sự “giúp đỡ” này mà Shevardnadze và Gorbachev đã được thưởng công rất nhiều tiền.

Rõ ràng, lãnh đạo KGB Kryuchkov biết về thỏa thuận đáng ngờ này, nhưng ông ta chẳng thèm bận tâm công khai tuyên bố Gorbachev và Shevardnadze phản bội Liên Xô. Đành rằng 2 kẻ này kiếm được nhiều tiền vì “bán nước”, nhưng tại sao Kryuchkov im lặng? Ngoài ra, Nga ngày nay cũng có sự "thông đồng im lặng" về biến cố này.


Những năm gần đây, thực tế tham nhũng của giới cai trị nước Mỹ “tự do độc lập” đã rất hiệu quả và ghê gớm. Iraq, Afghanistan, Tunisia, Libya, Ai Cập … và ví dụ gần đây nhất là Ukraina. Các nhà khoa học chính trị Nga cho rằng, vị thế không chắc chắn của Yanukovych trước cơn thịnh nộ Maidan gây ra bởi cái mà nhiều kẻ cho là tham vọng muốn cất giấu 1 tỷ tờ “bạc xanh” ở Mỹ. Những niềm hy vọng vô ích. Ở Mỹ chẳng có tiền nào của cựu vương Iran M. Reza Pekhlevi, của cựu TT Philippines F. Marcos, cựu TT Iraq Saddam Hussein, hay cựu TT Ai Cập H. Mubarak và các cựu “bạn bè” khác của Mỹ.

Hoàn cảnh và khả năng làm ăn không tồi xung quanh các đời TT Ukraina. Phần lớn giới bề trên đã giã từ quê hương mình ở Kiev đến các "bãi đáp dự phòng" tương tự như “nhà yêu nước Ura Nga”, cựu thị trưởng Moskva Yury Luzhkov đã tạo cho mình ở Áo và London. Không có gì phải nghi ngờ là phần lớn giới bề trên Nga, trong trường hợp tình hình xấu đi cũng sẽ theo gương các “đồng nghiệp” Ukraina. Tiện lợi là các "bãi đáp dự phòng" của họ cũng đã thực sự có từ lâu.

Giải bạc thứ 30 của Gorbachev

M. Gorbachev cũng đã kiếm được những món tiền lớn nhờ phản bội tổ quốc. Điều này là như thế nào đã rõ từ 2007 qua lời kể của ông Paule Creg Roberts – nhà kinh tế và nghiên cứu người Mỹ, cựu trợ lý tài chính cho CQ Reagan trên tờ Izvestiya. Ông Roberts nhớ lại thời kỳ khi 1 lãnh đạo nghiên cứu của ông được bổ nhiệm làm trợ lý thư ký QP Mỹ về các vấn đề quốc tế (lúc đó Melvin Laird là BT). Chớp cơ hội, ông Roberts đã hỏi, làm thế nào để Mỹ buộc 1 quốc gia phải nhảy múa theo điệu nhạc của họ? Câu trả lời đơn giản: “Chúng ta cho lãnh đạo của họ tiền. Chúng ta mua lãnh đạo của họ!".

Có thể lấy cựu Ttg Anh Tony Blair làm ví dụ cho ông Roberts. Ngay khi ông ta từ chức, Tony Blair được bổ nhiệm làm cố vấn 1 tập đoàn tài chính với lương 5 triệu bảng. Ngoài ra, Mỹ giúp ông ta tổ chức 1 loạt các buổi đọc diễn văn, mỗi buổi ông ta kiếm 100-250 nghìn đô. Biết rằng, bộ ngoại giao Mỹ cũng thu xếp các chương trình tương tự như vậy cho cựu Gorbachev.

Tuy nhiên, Gorbachev giải thích ông ta tham gia vào các hoạt động quảng cáo là do thiếu tiền cho quĩ Gorbachev. Có thể, có thể là… Tuy nhiên người ta biết Gorbachev đã nhận được khoản bồi thường không hề nhỏ từ Yeltsin vì đã "không gây sự" với điện Kremlin. Tháng 9 2008 Gorbachev nhận huân chương Tự do vì "kết thúc chiến tranh lạnh" từ Mỹ kèm 100 nghìn đô la. Thêm vào cái huân chương Nobel hòa bình năm 1990 vì đã "xin xỏ" R. Reagan. Tuy nhiên không phải nghi ngờ, đó chỉ là phần biết đến của sự giàu có vật chất mà Mỹ đã chu cấp cho cựu TT duy nhất của Liên Xô.

Khả năng tài chính của ông cựu Gorbachev được chứng tỏ trong đám cưới tân thời của cô cháu Ksenia năm 2003, tại nhà hàng sang trọng ở Moskva "Gostiny dvor", vây quanh là hàng rào cảnh sát, và đăng tải trên media là "không kiểu cách". Trên bàn tiệc lạnh là hình trái tim được xếp bằng gan ngỗng sống và quả vả, trứng cá đen trên khay đá với bánh kếp nóng, gà nấu nấm bọc bột xốp mỏng. Gà gô nướng và lưỡi nai. Bánh cưới 3 tầng cao 1 mét rưỡi.

Năm 2007, thiên hạ thật ấn tượng khi thấy Gorbachev sống trong lâu đài ở Bavaria. Lâu đài Hubertus trước đây là 1 trong 2 công trình lớn làm trại trẻ mồ côi Bavaria, trên giấy tờ nó thuộc về cô con gái ông ta, Irina Virganskaya. Ngoài ra, ông ta còn sở hữu 2 ngôi nhà khác, 1 ở San Francisco và 1 ở Tây Ban Nha (gần nhà ca sĩ V. Leontyev). Ông ta vẫn còn bất động sản ở Nga - nhà nghỉ Dacha ngoại ô Moskva "Moskva River 5" rộng 68 ha.

Cần nói thêm, năm 2011 ông ta tổ chức sinh nhật lần thứ 80 xa hoa của mình với 1 dàn siêu sao tên tuổi thế giới, chỉ mỗi tội là ở London. Đã lâu ông ta không dám về nước vì sợ nhiều thứ.


Chẳng nghi ngờ gì ông ta còn có thể tổ chức đám cưới xa hoa cho 1 số cô cháu nữa. Nhưng ông ta bị trừng phạt cả cuộc đời còn lại, như ông ta phải chịu đựng. Ngoài tòa án lương tâm, còn có các tòa án khác sớm hay muộn muốn xét xử người hùng bạc thứ 30 của thế kỷ XX nhưng thực chất là tội đồ phản bội kinh tởm nhất của Liên Xô và các nước cựu XHCN. Lúc đó, Mỹ cũng chẳng giúp được quí ông Gorbachev.


Как Горбачев продал СССР


TG – Vladislav Shved


Dìm chết Hy Lạp để khỏi rơi vào tay Nga!?


Hay duy trì thế địa chiến lược là quan trọng nhất chứ không đặt vấn đề giải cứu!

Như video trên, hóa ra Eurozone không có cơ chế pháp lý nào để đẩy Hy Lạp ra trừ khi họ tự nguyện. Vậy thì những dọa dẫm chỉ là dọa dẫm.

Đức là tiếng nói quyết định trong EU, cũng như IMF – vẫn rất cứng rắn với áp đặt cũ, xem lẫn đôi chút an ủi và cảm thông từ Pháp – nhưng không có trọng lượng.

Vì thế, nhận định ở bài trước: dìm chết Hy Lạp trong Eurozone là có cơ sở. Và 1 mục đích là để Hy Lạp khỏi rơi vào tay Nga.

Giọng điệu Merkel, các quan chức Đức lên gân đến khó tả. Như thể họ đang cố bằng mọi cách để làm tan rã cả EU. Nhưng cũng có vấn đề khác, tương tự như ở Ukraine, Rõ ràng, Merkel không đại diện cho lợi ích Đức hay dân chúng Đức, bà ta đại diện cho gia tộc Judaic - những kẻ đang nắm phần lớn nhất nợ Hy Lạp, cho tài phiệt quốc tế - những kẻ đang thiết kế địa chính trị khu vực châu Âu. Giống như vật DT Shylock trong vở kịch của Shakespeare “Lão lái buôn thành Venice”, Merkel giữ nguyên yêu sách “Nợ phải được trả và chế độ thắt lưng buộc bụng phải được duy trì”.



Vì thế, Putin không nói đùa, ông ta nói thật rất cay nghiệt và phũ phàng: nước Đức đã bị Judaic hãm hiếp tàn tạ suốt WWI, WWII và tận ngày nay mà bất lực.


Trong khi mục tiêu của đảng cánh tả cầm quyền và Syriza Tsipras được tuyên bố rõ ràng ngay từ khi tranh cử: xóa nợ, bãi bỏ thắt lưng buộc bụng. Mục đích 2 bên quá khác xa nhau. Thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras thậm chí đang cầm trong tay các con bài pháp lý nặng ký: Một điều khoản của Hiệp ước Lisbon, coi như Hiến chương hình thành EU, có thể được sử dụng để chống lại ECB: viện dẫn tình trạng nguy hiểm khẩn cấp, tịch thu toàn bộ ngân hàng TW Hy Lạp, các tài sản quốc gia khác 1 cách hợp pháp và nhiều hành động có thể khác…

Tuy nhiên, số phận Tsipras đang bị đe dọa trước nguy cơ đảo chính hơn các vấn đề trên. Đường phố, các đám đông biểu tình chống chính phủ đã quay lại với yêu sách đòi chấp nhận gói giải cứu. Nếu như các ông trùm Mỹ ra tay, không tránh khỏi kịch bản Ukraine 1 năm trước đây sẽ lặp lại ở Hy lạp.

Có quá nhiều thế lực phương Tây, EU, Mỹ chống Tsipras, không hẳn là giới chức Mỹ im lặng thì Hy Lạp được yên. Nó là khoảng lặng trước bão và cần thiết để tính toán đến các option. Khi mà lợi ích giới đầu tư cả 2 bờ đại dương, lợi ích địa chính trị giới đầu sỏ là trùng nhau và đang bị đe dọa trong pha cuối cùng của cuộc khủng hoảng (chẳng hạn như 1 tuyên bố ra khỏi Eurozone), nguy cơ đảo chính tại Hy Lạp là hiển nhiên và khó tránh khỏi.

Nga dù đang im lặng để tránh tiếng can thiệp vào Hy Lạp, nhưng mặc định họ sẵn sàng chớp lấy cơ hội, sẵn sàng 1 giúp đỡ nào đấy để tóm lấy 1 mảnh vỡ nào đấy – Như Ukraina, đó là chiến thuật theo dõi và chờ đợi. Vì vậy, nhà bình luận John Helmer, trong bài viết “Múa cùng Gấu” có nhận định: Lật đổ ở Athens để cứu lấy Hy Lạp khỏi Nga đang được chuẩn bị bởi Washingron và Berlin.

Và mỗi cuộc cách mạng màu đều cần đến lực lượng tại chỗ. Trong trường hợp này khá hùng hậu: tầng lớp bỏ phiếu có ~39% vẫn đang hy vọng được giải cứu bằng mọi giá, giới đầu sỏ, tài phiệt được nuôi béo trong 15 năm qua, giới con buôn trục lợi, đám quan chức thối nát giàu có nhờ bailout và tham nhũng đang ngồi đầy trong các cơ cấu chính quyền. Giới an ninh, quân đội được hưởng lương bổng hậu hĩnh. Giới nhà thờ vốn đã không tấn phong Tsipras theo nghi lễ truyền thống từ xưa đến nay. Sau trưng cầu Oxi! một cựu tướng Hy Lạp nhận định, “những gì thực sự xảy ra, chỉ là quá trình chậm của thay đổi chế độ!”

Một điều rõ ràng là hầu hết giới quân đội không ủng hộ Tsipras, họ bỏ phiếu Yes! Đặc biệt nguy hiểm là cánh cựu tướng, cựu quan chức về hưu nhưng vẫn nhiều tham vọng chấp chính, kiếm chác. Cựu tướng Fragkoulis Fragkos, cựu BT quốc phòng, cựu tổng tư lệnh lớn giọng huyên náo trước trưng cầu. Ông ta từng bị sa thải năm 2011 vì can dự vào âm mưu đảo chính. Một nhóm 65 tướng tá cấp cao từng cảnh báo Tsipras: Chúng tôi tuyên thệ với đất nước và quốc kỳ… và “bằng cách chọn cô lập, chúng ta đang đặt đất nước và tương lai vào nguy hiểm.”

Thực sự, Tsipras và đảng cánh tả cầm quyền Syriza đã phải đề phòng phe nhóm quân sự kể từ khi nắm quyền. CIA đã thao túng toàn bộ giới quân sự Hy Lạp từ 1952 trong nỗ lực lôi kéo Athens gia nhập NATO và chiến dịch Gladio. Kể từ đó đến nay, quân đội Hy lạp đã không còn là lực lượng bảo vệ đất nước hay giữ gìn hiến pháp, mà là thế lực tiêu tiền ngân sách.

Nuland đã có cuộc gặp với Tsipras hồi tháng 3. Bà ta thuyết phục ông Ttg trẻ 2 điều: Một là hãy thỏa thuận tốt (good deal) với các tổ chức. IMF, ECB, Đức và sẽ không có vỡ nợ nào cả. Hai là đứng im trong hàng ngũ EU và NATO bởi Nga đang “tăng cường gây gổ ở phía Đông”. Tuy nhiên, thái độ Mỹ cho đến nay, như cổ đông lớn nhất của IMF là không có nhượng bộ nào hết và như 1 quan chức cấp cao cho biết: Chúng tôi quan sát tình hình… chúng tôi tiếp tục tin rằng điều quan trọng là tất cả các bên làm việc cùng nhau để quay lại con đường đã đi, cho phép Hy Lạp khởi động lại cải cách và tăng trưởng trở lại bên trong Eurozone. Nhưng 1 lần nữa, chúng tôi quan sát rất kỹ lưỡng.”

Nỗ lực lật đổ chính phủ Hy Lạp gần nhất của Mỹ là đảo chính 1987-1989 chống cựu Ttg Andreas Papandreou. Reagan lúc đó đã chọn “giải pháp mềm” bằng trói buộc và treo cổ. Như lời đại sứ Mỹ Robert Keeley tại Athens sau này thú nhận – một dạng chiến “Operation Nemesis” ở Thổ, Hy Lạp, Armenia thời kỳ 1920-1922. Papandreou đã bị lật đổ bởi gian lận phiếu bầu của phe cánh “dân chủ đối lập” với những cáo buộc ông ta độc tài, tham nhũng và bê bối. Hy Lạp rơi vào hỗn loạn với nhiều cuộc bầu cử sau đó, cho đến năm 1993 Papandreou quay lại nắm quyền, nhưng Hy Lạp vẫn bất ổn cho đến tận ngày nay.


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...