Ilyushin - IL-2 Sturmovik

 Là chiếc máy bay cường kích nổi tiếng nhất và tốt nhất WW-2, nó nổi tiếng đến nỗi có cả trò chơi game cũng nổi tiếng cùng tên.

Tốt đến mức đã trở thành huyền thoại, IL-2 là chiếc máy bay chiến trường đúng nghĩa, trang bị tốt nhất, thiết kế tốt nhất vào thời đó, thậm chí gọi là thiết kế đột phá, trang bị tốt, bọc giáp dầy, buồng lái chịu được đạn 7,62ly từ mọi khoảng cách, nó có thể bay rất thấp tránh đạn phòng không. Nó là chiếc cường kích chuyến tấn công mặt đất đúng nghĩa, trong khi tất cả các nước khác trong WW-II không có chiếc máy bay nào có thể gọi là cường kích như vậy. Còn chiến thuật mà nó sử dụng là nỗi ám ảnh của binh lính Đức, khi buộc phải gọi chiếc cường kích này là "cái chết đen", "xe tăng bay", "máy bay bê tông" hay "bệnh dịch", “đồ chết tiệt”. Cũng vì thế mà sau những thiệt hại lớn, binh lính Đức được lệnh phải ưu tiên tiêu diệt ngay mỗi khi IL-2 xuất hiện, nếu không, hậu quả sẽ là tàn khốc.

Nếu có gì chưa hoàn hảo ở chiếc Ilyushin IL-2, thì đó là động cơ AM-34, AM-35 ở những chiếc đầu tiên hơi yếu khiến nó không thể bay đủ nhanh, đủ cơ động, cho đến khi được trang bị động cơ mới AM-38. Dĩ nhiên, thiết kế tốt nhất cũng không đến ngay từ những phiên bản đầu tiên, đó là quá trình sửa đổi nhanh chóng qua nhiều lần thử nghiệm và qua phản ánh từ chiến trường. Máy bay IL-2 không ngừng được hiện đại hóa, cải tiến đường bay và đặc tính kỹ thuật. Vào cuối chiến tranh, chiếc IL-10 cũng đã ra đời.

IL-2 được chính thức trang bị cho Không quân Liên xô vào tháng 12 năm 1940, ngày 22 tháng 6 năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên xô thì 3 hôm sau, ngày 25 tháng 6, những chiếc IL-2 xuất trận. IL-2 cũng là những chiếc máy bay đầu tiên ném bom vào Berlin.

Các phiên bản về sau được trang bị 2 pháo Vya 23 mm thay vì 4 súng máy. Dưới cánh có thể lắp đến 8 quả tên lửa RS-82 hoặc RS-132, loại giống như Katyusha. IL-2 mang được 400 đến 600 kg bom với loại lớn như FAB-100 để có thể xuyên thủng giáp hông của xe tăng hạng trung khi ném gần và bom xuyên giáp chống tăng PTAB - loại bom này diệt tăng rất tốt khiến quân Đức buộc phải từ bỏ các cuộc tấn công bằng xe tăng với đội hình dày đặc và tăng khoảng cách đội hình. Sau này, một phiên bản trang bị pháo 37 ly chuyên đánh xe tăng cũng đã xuất hiện.  

Trải qua những thiệt hại đầu tiên, quân Đức bắt đầu tăng cường phòng không chống trả và sử dụng tiêm kích săn đuổi, gây thiệt hại lớn cho IL-2, đặc biệt là loại máy bay 1 phi công, không có phi công thứ 2 sử dụng súng máy, pháo chống tiêm kích. Các phương pháp chiến thuật cường kích tấn công mặt đất cũng buộc phải thay đổi, các đơn vị sử dụng chiến thuật mới: xuất hiện bất ngờ, tấn công nhanh và rút lui khi quân Đức chưa kịp chống trả. Thường là một đội bay lớn 8-12 chiếc Sturmovik hoặc hơn, đồng loạt trút bỏ hết bom, bắn phá vị trí quân địch và nhanh chóng biến mất. Chiến thuật này đặc biệt thành công với kho tàng hậu cần, điểm tập kết quân và trang thiết bị, trận địa pháo binh, tàu hỏa, tàu chiến, đường sắt, bến cảng. Sau các cuộc đột kích IL-2 dữ dội như vậy chỉ còn lại lửa cháy và xác chết lính Đức. Có thể gọi đó là chiến thuật “cắn trộm” cũng được, nhưng nó góp phần giảm tỉ lệ tổn thất IL-2 xuống còn 1 trong 26 lần xuất kích.

Trong những năm Chiến tranh Vệ quốc, 356 trung đoàn không quân xung kích Sturmovik đã được thành lập, 36.000 chiếc IL-2 được chế tạo (và đây vẫn là kỷ lục thế giới cho đến ngày nay). Sự ác liệt của chiến trường khiến Liên xô cũng mất đến 23.600 chiếc. Trong đó, 11.000 chiếc mất bởi nguyên nhân gián tiếp: tai nạn, hỏng hóc không sửa chữa được, etc. Có những chiếc trở về với 500 lỗ đạn trên thân, dĩ nhiên, không đủ khả năng để sửa chữa.

Thật khó để tính được chiến công của chiếc IL-2 bởi nó tấn công mặt đất, thậm chí sâu trong hậu tuyến kẻ thù, nhưng có vô số các phi công Sturmovik đạt các danh hiệu cao quí với chiếc IL-2, chẳng hạn như 2 lần Anh hùng Liên Xô Vasily Andrianov, Mikhail Odintsov, Talgat Begeldinov, hàng chục người đã từng được trao tặng huân chương Sao Vàng, etc. Các phi công Il-2 được coi là những người thực sự dũng cảm bởi nhiều lúc phải xuyên thủng bức tường phòng không từ mặt đất cũng như chống trả các cuộc tấn công đông đảo và màn săn đuổi của máy bay chiến đấu Đức. Có một con số thống kê về tỷ lệ sống sót của các phi công Liên Xô trong WW-II: máy bay chiến đấu - 64 lần xuất kích, máy bay ném bom – 48 lần, còn cường kích như IL-2 chỉ 11 lần xuất kích. IL-2 Sturmovik là chiến sĩ tiền tuyến miệt mài nỗ lực, đưa thất bại của kẻ thù đến gần hơn, là biểu tượng của Chiến thắng.

***

Một trong những phi công Anh Hùng IL-2 Sturmovik là Nguyên soái không quân Alexander Efimov với thành tích tham gia 288 trận đánh, không lần nào bị bắn rơi. Năm 1984, ông Efimov là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô và lãnh đạo Lực lượng Không quân.

Trận đánh đầu tiên của ông Efimov trên chiếc IL-2 diễn ra vào tháng 11 năm 1942. Phi đội Sturmovik tấn công vá hủy các đoàn tàu hỏa của đối phương trên tuyến đường sắt Rzhev-Vyazma. Ông Efimov và các phi đội IL-2 không chỉ bảo vệ Matxcơva, họ đã đè bẹp các sư đoàn tinh nhuệ của Đức ở ngoại ô Thủ đô và sau đó ngăn chặn đà tiến công của phát xít ở Stalingrad, ở bờ sông Volga và sông Đông. Trận đánh cuối cùng của ông Efimov là trên bờ sông Elbe.

***


Nhưng thật khó tin, khi chiếc IL-2 Sturmovik chỉ một chút nữa đã không thể ra đời. Hãy nghe lời kể của Nguyên soái D. T. Yazov, chỉ vì lý do nào đó, sự quan liêu tắc trách, thiếu suy nghĩ, tính cổ hủ và không loại trừ cả tính ganh tị - tất cả đã chống lại chiếc IL-2 khi sự ra đời của nó phụ thuộc vào họ. Đặc biệt bên quân đội cứ khăng khăng bác bỏ. Nhưng nhà thiết kế Ilyushin không bỏ cuộc. Dù mọi tình huống, ông ấy đã chuẩn bị sẵn chiếc vali với bánh quy. Nhưng vấn đề đã không đi đến chỗ nghiêm trọng. Stalin biết chuyện nên đã can thiệp, đưa ô tô đến đón nhà thiết kế, đưa đễn chỗ mình, ông nói: “- Nếu không phiền, đồng chí Ilyushin, hãy ở lại với tôi. Ở đây, tôi hy vọng sẽ không ai can thiệp vào công việc của đ/c.”

Nhà thiết kế đã sống cùng lãnh đạo trong một tuần. Sau này, Ilyushin chia sẻ ấn tượng của mình với các đồng nghiệp: Stalin không có gì xa xỉ, nhưng có lượng sách rất lớn. Mọi bức tường là sách. Ông ấy đọc vào ban đêm 300 hoặc 500 trang... Chúng tôi đã dùng bữa cùng nhau - súp bắp cải, cháo kiều mạch, ít dưa chua... Tất nhiên, tuần đó đã làm tôi mệt lả. Không dễ để duy trì tốc độ làm việc của Stalin.”

Nhưng điều thú vị nhất còn ở phía trước. Một ngày nọ, nhà lãnh đạo đưa Ilyushin đến cuộc họp Bộ Chính trị. Ngoài các cộng sự của Stalin, còn có các chuyên gia hàng không. Sau khi lắng nghe những ý kiến khác nhau, Joseph Vissarionovich nói: “Bây giờ hãy lắng nghe những gì chúng tôi nghĩ về vấn đề này với đồng chí Ilyushin..." Kết quả là, Văn phòng thiết kế Ilyushinsky vẫn ở lại Moskva, và Sergey Vladimirovich cùng các nhân viên của ông có cơ hội tiếp tục công việc của họ.

Dường như mọi thứ đã ổn. Nhưng Stalin không để câu chuyện về chiếc máy bay ra khỏi tầm mắt. Sau một thời gian, bức điện nghiêm khắc của Stalin bay đến các giám đốc nhà máy hàng không Schenkman và Tretyakov: 

“Các đ/c không xứng đáng với Hồng quân và đất nước chúng ta. Cho đến nay vẫn chưa cho ra đời máy bay IL-2. Hồng quân của chúng ta cần máy bay IL-2 như không khí, như bánh mì. Schenkman sẽ cho ra một chiếc Il-2 mỗi ngày và Tretyakov sẽ cho ra Mig-3 từ 1 đến 2 chiếc. Đây là sự nhạo báng đất nước, nhạo báng Hồng quân.

Chúng ta không cần Mig, mà là IL-2. Nếu nhà máy số 18 nghĩ mình thoái thác đất nước, cho ra đời một IL-2 mỗi ngày thì đã bị nhầm lẫn nghiêm trọng và sẽ phải chịu hình phạt vì việc này.

Tôi đề nghị các đ/c không đưa chính phủ ra khỏi sự kiên nhẫn và yêu cầu Ilov (IL-2) phải được xuất xưởng nhiều hơn. Tôi cảnh báo lần cuối.”

Còn kẻ nào đó dám nói rằng Liên Xô sẽ thắng cuộc chiến tranh bất chấp có Stalin hay không thì hãy nghe những gì tiếp theo đã xảy ra. "Thoái thác" như thế không thành. Sau chỉ thị của Stalin, mọi thứ đã được tìm thấy để sản xuất số lượng máy bay cần thiết. Và 40 chiếc IL-2 đã ra đời mỗi ngày.

Và chiếc máy bay quả thực tuyệt vời. Họ nói về nó: đây là phép màu của Nga, “ngôi sao” của Ilyushin. Không có chiếc máy bay nào được như chiếc này trên thế giới.

Còn đây là đánh giá của người Đức: “IL-2 là bằng chứng cho sự tiến bộ đặc biệt. Nó là kẻ thù chính, cơ bản của quân đội Đức."







Bọ Lập, Quê Choa!

 Bọ là văn sĩ nổi tiếng. Nhưng cái sự nổi tiếng chẳng đến từ nghề văn, mà từ chơi blog. Sẽ có ai đó bênh vực, Bọ được nhiều giải thưởng lắm mà!

Ừ, nhiều giải, giải cái thời so bó đũa chọn cột cờ thì để làm gì, chả mấy ai đọc, tác dụng rất ít, tiền nhà nước bỏ ra rất nhiều. Chỉ có đám bạn văn, bạn nhậu của Bọ khen nhau. Tâng bốc nịnh bợ quá nhiều khiến Bọ ngỡ mình thiên tài, có trách nhiệm lớn lao dẫn dắt con dân. 

Cái sự nổi tiếng của Bọ ở blog là cái nổi mặt trái, mặt tiêu cực. Chị Hoài Talawas, chị Thu Hương Bên kia bờ ảo vọng cũng thế. 



Văn cũng có cái đạo Bọ Lập ạ!

Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay nghiến: - Phúc đời nhà mày, con nhé! Chả ôm lấy ông Chí Phèo.
Thị cười và nói lãng: - Hôm qua làm biên bản, lý Cường nghe đâu đã tốn gần một trăm. Thiệt người lại thiệt của.
Nhưng thị lại nghĩ thầm: - Sao có lúc nó hiền như đất.
Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng: - Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?

Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua.
***
Đọc đoạn trên thì người ta biết rồi, đoạn cuối tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.

Cái đạo là: Ngay cả khi mô tả những thân phận cùng đường tăm tối, hãy để cho họ một lối thoát. Anh đã quên, đúng ko! Lối thoát là cái lò gạch của anh đó! Cũng có 1 cái lò gạch trong anh.


Bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng nói trong Hội nghị văn hóa năm 2021 rằng: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn”.
TBT Nguyễn Phú Trọng: "Trong thời kỳ đổi mới này tôi thấy tiếc quá, chưa có tác phẩm nào nổi tiếng! Ngày xưa biết bao nhiêu bài bây giờ hát vẫn hay, tình cảm, xúc động, lay động lòng người”. Ừ thì TBT nói về âm nhạc, nhưng cả cái làng văn hóa nghệ thuật cũng thế thôi. Bác Trọng nói: “... Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người”.

Rõ ràng, đây là trách nhiệm của người cầm bút, của giới văn sĩ. Nhưng…

Văn sĩ mắc cái bệnh yếu đuối, họ yếu như đứa trẻ, mè nheo, vòi vĩnh, hờn dỗi, tự ti, mặc cảm, nhưng cũng hung hăng, hùng hổ. Đủ cả, tận đến khi đầu bạc răng long họ vẫn thế. Họ có thể khóc lóc cả ngày vì một con cá chết, nhưng lại cũng có thể sẵn sàng dẫm đạp lên cả một chế độ - hai mặt dù rất khác nhau, nhưng chỉ là biểu hiện lâm sàng âm tính-dương tính, thể hoạt-thể nhu của cùng một căn bệnh yếu đuối.

Lẽ, cái bệnh yếu đuối mới xuất hiện từ thời mở cửa tự do. Giới văn sĩ bị giam cầm đã quá lâu ào ra, túa ra đón làn gió mới (tôi sẽ nói về giam cầm sau, nếu có dịp). Sự tự do mới làm nhiều người ngỡ ngàng, họ thấy mình thoát khỏi mọi ràng buộc, khi quay nhìn lại nơi mình “bị giam cầm” và thấy nó thật tồi tệ.

Thế là chú bé yếu đuối Bọ Lập quyết đạp đổ cái nơi mình “bị giam cầm”. Ngòi bút trong tay văn sĩ quả là lợi hại, không khác gì bao diêm trong tay chú bé nghịch ngợm. Chỉ có một vấn đề, cái nơi ấy là mái nhà của nhiều người, nó dột nát, nó xập xệ nhưng vẫn là mái nhà. Đạp đổ nó, đốt nó đi thì tránh mưa tránh nắng vào đâu?

So với Nguyễn Huy Thiệp, chỉ vì thành phần lý lịch mà bị đày ải hay Văn Cao bị chụp mũ mà 20 năm bị cấm sáng tác, không lương, không thu nhập, ông sống được là nhờ bạn bè, gia đình cưu mang – thì Bọ may mắn hơn nhiều. Nhưng họ không yếu đuối, họ kiên định, họ nhẫn nhịn và họ không phá cái nơi họ bị giam cầm.

Văn sĩ chống chế độ có lịch sử lâu dài, nói thẳng thế - đặc biệt nhiều từ thời Liên Xô.

Evtushenko nói sống ở Liên Xô làm ông ta thấy ngột ngạt khó thở, còn Khrushchev thì thẳng thắn nói văn sĩ là bầy quanh quẩn bên máng cám mà ông ta cho ăn! Không có 20 tỷ làm phim, anh đấm bòi vào sóng ngay và luôn, đúng không anh Lưu Trọng Ninh!

Nhưng trái lại, văn sĩ me Tây. Ông nhà văn L. L. được Hội văn CCB Mỹ mới sang thăm, ông ta ca “Mỹ là thiên đường!” Cái thiên đường ấy, chẳng phải tận nay mới thấy mà lâu rồi nó cũng rách nát, bức bối, ngột ngạt mất tự do lắm.

Tại sao có sự trái ngược như vậy.

Trở lại cái sự tự do chủ nghĩa của Bọ. Đồng ý là cần có tự do để sáng tác, cần khoảng trời riêng để mơ tưởng. Nhưng như đã biết, giới văn sĩ tự do là trung tâm của sự bất đồng chính kiến. Họ nổi dậy chống lại trật tự cũ khi thấy nó có vấn đề mà họ không hài lòng. Đúng như vậy, và kể từ đó, thế giới trở nên nguy hiểm.

Roger Waters – một trong số những người sáng lập ban nhạc Pink Floyd, tác giả của “The Wall” là một kẻ nổi loạn thực sự. Hay như George Carlin (1937-2008), cây hài Mỹ sẽ bị cấm ở nước Mỹ "tự do" ngày nay, như đã xảy ra với một số cây hài người Mỹ hiện tại, đã nói, "Tôi thích bắt nạt các nhóm người tỏ ra quá nghiêm trọng". Những điều ngu ngốc và xấu tính lớn nhất được cam kết bởi loại người nghiêm trọng nhất.

Kẻ nổi loạn thực sự, tự do thực sự theo nghĩa nguyên bản là Putin. Và dĩ nhiên cả đội của ông ấy, cả ông Tập Cận Bình nữa. Vì họ đã thách thức hệ thống áp bức của thế giới. Tôi nhớ có bài Bọ Lập mỉa mai xỉa xói Putin độc tài, tham quyền cố vị, bài này được đồng bọn “Cơm có thịt” tiếp tục móc mỉa. Tôi tin Bọ không biết và chẳng quan tâm Putin là ai, chỉ là mượn gió bẻ măng mà thôi.

Tự do sáng tác, tự do suy nghĩ của các em bé yếu đuối chưa bao giờ là "mốt", tự do luôn luôn nguy hiểm ngay cả đối với những em ngây thơ khờ khạo nhất. Bởi vì cái sự tự do ấy chưa bao giờ là tự do, khi thiếu năng lực hành vi mà chỉ là sự bắt chước thảm hại của Nghệ thuật hậu hiện đại. Tự do ngày nay, như mọi khi, là chống lại hệ tư tưởng thống trị áp bức bất công, chống lại chính thống nhưng nó đã trở thành phản văn hóa, trở thành văn hóa ngầm, văn hóa bên lề như chị nhà văn Nhã Thuyên. Nhân tiện, chị văn sĩ này làm luận văn về dòng văn bên lề, văn tục tĩu văn nhại hậu hiện đại, nhưng thay vì phê phán nó, chị lại khẳng định nó sẽ thay thế dòng văn học chính thống!? Có lẽ, chị này hy vọng sẽ có một cuộc cách mạng lật đổ nào đó chăng.

Có một cuộc lật đổ đồi bại khác, một thiểu số khuyết tật "LG_BT" ngày nay không phải là "thiểu số bị áp bức" mà là một tầng lớp đặc quyền đang làm băng hoại xã hội mà tại sao văn sĩ lại không nói tới.

Hay văn sĩ – những kẻ tuyên ngôn dẫn dắt linh hồn công chúng đang đứng ở đâu trong những vấn đề lớn hơn, FED là ai, New World Order là cái gì, những BlackRock và Raytheon, Goldman Sachs và Lockheed Martin, Davos và WB, IMF cấm chỉ có văn sĩ nào đả động. "Chuyển đổi xanh-năng lượng sạch", ăn sâu bọ, bãi bỏ, dung thứ, văn hóa tự hủy diệt v, v Có lẽ ngoài tầm của họ?

Tại sao thế? Chủ nghĩa tự do là cái máng lợn cho các văn sĩ kiếm ăn, nó to, nó đẹp hơn nhiều cái máng của Khrushchev nên các vị tôn thờ, sùng kính có đúng không! Sự nổi loạn ở đâu trong những vấn đề này. Đó không phải là tự do, đó là sự thiển cận.

Văn bọ là văn mỉa, văn chế giễu. Bọ chế giễu cả châu Âu tập thể văn minh quì gối trước cường quyền Mỹ đi. Bà bác sĩ phụ khoa Ursula von der Leyen đang làm chủ tịch EC, danh hài Zelensky đang làm tổng thống bù nhìn bất hợp pháp đấy.

Tại sao không chế giễu Uncle Sam, nơi có số lượng tù nhân lớn nhất nhưng lại luôn luôn coi các quốc gia là "nhà tù giam cầm” những người tự do.

Vậy Bọ đã đùa cợt chế giễu bất cứ điều gì ở thói văn hóa đạo đức giả phương Tây chưa, đó là bài kiểm tra thực tế cơ mà. Hay tại sao lại không giễu rao giảng "tự do ngôn luận", nhưng đồng thời có một hệ thống kiểm duyệt hoàn toàn ở Facebook, Twitter và YouTube? Họ kiểm duyệt, ngăn cấm cả TT Donald Trump cơ mà.

Lời giải thích tốt nhất cho tất cả những điều này, như một tác phẩm kinh điển viết: Mọi thứ đều ổn với hành tinh, đó là vì nhiều văn sĩ đã quay lưng, họ giả vờ không biết. Và họ chạy đến cúi đầu, thể hiện lòng trung thành tận tụy với những bậc thầy của thế giới, những người dưới khẩu hiệu tự do chủ nghĩa đã đem lại danh vọng, uy tín và tiền cho họ. Ặc!, văn sĩ tự do là bọn đầy tớ hèn hạ của phương Tây!

Và tất cả những con chuột như bà văn sĩ nổi loạn Dương Thu Hương đã chạy sang trời Tây, danh sách như thế rất dài. Lúc nào đến lượt Bọ Lập?

Ai đó đã trở nên không thoải mái với lời chuyện đùa của Xuân Bắc về điều gì đó, họ muốn tự do phát ngôn cho mình nhưng lại muốn hạn chế tự do của người khác. Họ áp đặt giá trị-chuẩn mực của họ với Xuân Bắc, họ coi mình cầm nắm chuẩn mực văn hóa-xã hội hay sự mặc khải thiêng liêng. Nhưng họ quên chúng cần được hình thành từ chính bên trong. Mệnh lệnh đạo đức nằm chính bên trong - đồng chí Kant viết đó, Bọ Lập biết không?

Vậy thì đâu có còn tự do. Thế cho nên chuyện Bọ chế giễu Xuân Bắc cũng thường. 

Nếu Bọ Lập đồng ý, tôi sẽ tặng Bọ một bức chướng đẹp, đắt tiền, trên đó có dòng chữ: 

“Tên nô lệ khốn cùng nhất là kẻ ngỡ mình tự do” – Đại thi hào Goethe;







Tướng quân SVR – trò chơi ảo!

 Cùng với chiến dịch ở Ukraine, cơ quan FSB cũng đã phải tăng cường hoạt động chống phá hoại, bạo loạn ở nhà. Mới đây, vào tháng 4, họ bắt giữ một nhân vật khá đặc biệt.

Kẻ này là Valery Solovey, nhà khoa học chính trị khét tiếng người Nga, cựu giáo sư Viện Quan hệ Quốc tế Nhà nước Matxcơva (MGIMO).

Vị giáo sư này nổi tiếng không phải vì giảng dạy mà là vì chơi mạng. Ông ta được giới truyền thông ngoài luồng và mạng xã hội Ukraine cũng như phương Tây coi là một thủ lĩnh thiên tài. Tài ở chỗ thêu dệt đơm đặt những chuyện tào lao y như đúng rồi trên mạng. Ví dụ, ông ta tung tin đồng TT Nga V. Putin đang mắc bệnh hiểm nghèo, sẽ sớm ra đi trong nay mai và không có Putin thì chính phủ Nga sẽ sụp đổ…

Một cuộc khám xét nhà riêng Soloviev kéo dài gần 8h, các nhân viên thực thi pháp luật đã thu giữ tất cả các thiết bị văn phòng, giấy tờ tài liệu, máy tính, điện thoại.

Không chỉ một mình, bị bắt cùng Solovey là ông con trai và người cháu cùng một số tòng phạm hoạt động có tổ chức của cả vài nhóm. Vụ án xoay quanh câu chuyện “Tướng quân SVR”, Tướng của Cục Tình báo Nước ngoài với “nguồn tin nội bộ” là một ông tướng hoàn toàn ảo và giả tạo do Solovey dựng lên trên một số kênh thông tin như “General SVR”, “Match TV”, “Oper Leaked TG”, “Nightingale”... Sau khi tạo dựng lên nhân Tướng ảo cung cấp tin tức nội bộ và thu hút một lượng fan đáng kể hàng trăm nghìn người, ông giáo sư Solovey bắt đầu gieo rắc tin đồn cực đoan, bịa đặt nhằm vào tình hình chính trị nội bộ Nga và một số quan chức hàng đầu như Putin. Giáo sư, nhờ vẻ lịch lãm và nghề sư phạm đã nhồi sọ các fan nhiều thuyết âm mưu vào loại điên rồ nhất mà người bình thường không thể nào tưởng tượng nổi.

Một trong những chủ đề hót của chùm kênh này là tuyên truyền thù địch giữa Nga và Ukraine, gieo rắc sự hoài nghi về tính chính đáng của người dân Donbass. Qua điều tra, nhân vật "Tướng quân SVR” với cái tên giả Viktor Mikhailovich thực ra là gã luật sư người Ukraine, Viktor Yermolaev sống ở Kharkiv, kẻ này cũng là quản trị viên trong một kênh tin tức của Solovey. Gã này đóng vai nguồn tin còn Solovey, con chim họa mi là cái máy truyền tin.

Valery Solovey, 61 tuổi, từng là trưởng bộ phận quảng cáo và quan hệ công chúng của MGIMO (Học viện quan hệ quốc tế) trong 12 năm, đồng thời cũng giảng dạy các khóa học về quảng cáo trong chính trị, những điều cơ bản về chiến tranh thông tin và những điều cơ bản về chính sách nhà nước trong lĩnh vực thông tin. Năm 2019, ông giáo sư từ buộc phải từ chức tại trường đại học vì cáo buộc có các hoạt động tuyên truyền và lật đổ chống nhà nước.
***

Hiện tượng các vị nghỉ hưu, thoát khỏi ràng buộc tổ chức là bắt đầu phát ngôn lạ, chơi trò lạ không hiếm, như cổ nhân có câu “Trẻ không chơi, già đổi gió trời”. Sự lỏng lẻo của quản lý truyền thông, cơ chế trả tiền theo view của các nhà mạng, sự hoạt động trá hình của cả loạt các tổ chức NGO phương Tây làm nảy nòi cả loạt những kẻ kiểu này.

Cá nhân ông giáo sư Valery Solovey có lẽ giống nhân vật Mạc Văn Trang khét tiếng, nhưng trò chơi tài liệu giả, “tin tức nội bộ” thất thiệt của “Tướng quân tình báo” thì giống nhóm kín “Ánh sáng LS” của đám con rơi con vãi và mấy kẻ tự xưng tướng tá an ninh tình báo TC2.

Văn phòng Tổng công tố Liên bang Nga cảnh báo về trách nhiệm trợ giúp các quốc gia khác nếu điều đó gây tổn hại đến an ninh của Nga: “Các lực lượng vũ trang của Liên bang Nga đang tiến hành một chiến dịch đặc biệt để bảo vệ DNR và LNR". Cần phải lưu ý rằng việc cung cấp hỗ trợ tài chính, hậu cần, tư vấn hoặc hỗ trợ khác cho nhà nước nước ngoài, tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài hoặc đại diện của họ trong các hoạt động chống lại an ninh của Liên bang Nga có yếu tố cấu thành tội phạm, được quy định tại Điều 275 của Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (tội phản quốc cấp độ cao) với mức án có thể lên tới 20 năm tù.

Văn phòng Tổng Công tố báo cáo đối với mỗi trường hợp cung cấp tài chính và hỗ trợ khác cho nhà nước nước ngoài trong các hoạt động chống lại an ninh của Liên bang Nga, đánh giá pháp lý sẽ được đưa ra.



Nguồn tin ma của Valery Solovey trở thành tin tức chính thức của báo Tây và báo ta. Thật không tình cờ, báo ta trở thành con điếm mạt hạng của Tây. Sự sao chép vô độ, không kiểm chứng, Tây là chuẩn mực báo chí trong thời loạn mở cửa, sau những cướp hiếp giết để lại nền báo chí cách mạng nát be nét như thế này. 

Trong thực tế, ngay cả khi không biết tiếng Nga cũng dễ dàng tìm thấy tin tức thật về vụ này.







Stalin đã 3 lần cứu cuộc đời của Kollontai

 Nữ binh, kẻ nổi loạn, nhà nữ cách mạng, nhà nữ quyền, chiến sĩ cộng sản, v,v Aleksandra Mikhailovna Kollontai (1872–1952) là người duy nhất sống sót đến cuối cùng. Nếu không có Stalin, chắc chắn bà đã chết vì bị vu cáo “gián điệp” bởi chính những kẻ là “đồng chí” của bà.

Câu chuyện này rất dài, và ở đâu đó, có câu chuyện rất tương tự về bà Võ Thị Thắng, thậm chí là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, có khác chăng, chỉ là khác thời gian, không gian địa lý.

***


Nếu viết kiểu lý lịch đảng thì Kollontai còn hoạt động CM trước cả Stalin (1878-1953). Nhưng thực sự là bà cô quí tộc giàu có đã có một cuộc sống gia đình không may mắn, đổ vỡ và trôi dạt trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Nga với lối sống phóng túng, phá phách, để lại đàm tiếu về “cốc nước”. Kollontai theo chủ nghĩa vô chính phủ (anarchism). Nhưng rồi được Stalin cảm hóa, trở thành nhà nữ ngoại giao đầu tiên của Liên Xô với thành tích nổi bật trong việc dự báo chính xác các nước bán đảo Scandinavia không tham gia vào cuộc chiến của Phần Lan với Liên xô ngay đầu Chiến tranh vệ quốc và phần nào đó cô lập Phần Lan. Nhờ đó LX có những điều chỉnh đúng hướng, phù hợp và cho phép tập trung nguồn lực để chuẩn bị WW-2 tốt hơn.

Hiện nay, có khá nhiều bài viết và sách về Kollontai, đáng chú ý là cuốn của Leonid Mlechin xuất bản năm 2013, cuốn thứ 2 là nhật ký của Kollontai, đáng tiếc là chỉ được đăng một phần sau khi cắt bỏ nhiều đoạn nhạy cảm. Tuy nhiên, vẫn còn cả loạt vấn đề trong tiểu sử của người phụ nữ này vẫn chưa được làm sáng tỏ. Một trong số những vấn đề như vậy, là mối liên hệ của Kollontai với Stalin, và tại sao, theo một số nghĩa nhất định, Stalin đã cứu sống Kollontai, ít nhất 3 lần.

Kollontai có thói quen lưu giữ nhật ký, ghi chép các sự kiện, các vấn đề quan trọng trong suốt cuộc đời mình. Một số trong đó được sử dụng và tập hợp vào "23 năm làm công tác ngoại giao", một phần trong đó đề cập đến quan hệ và trò chuyện với Stalin vào các năm 1922-1934. Ngày nay, một phần của tập này đã được xuất bản. Không nghi ngờ chúng đã bị chỉnh sửa, thay đổi, nhưng, như những thư từ trao đổi với Stalin còn sót lại cho thấy, những gì còn lại đáng tin cậy.

Có lẽ, Kollontai gặp Stalin lần đầu tiên vào cuối năm 1917, khi cả hai trong chính phủ Xô Viết đầu tiên: bà - với tư cách là dân ủy của tổ chức từ thiện nhà nước, ông - là ủy viên nhà nước về vấn đề dân tộc. Theo Mlechin, giao tiếp của họ vào năm 1917 có ảnh hưởng rất quan trọng đến số phận sau này của nữ dân ủy đầu tiên: “Ngày 25 tháng 11 năm 1917, hai ủy viên: Kollontai và Stalin - đến dự đại hội ĐDCXH Phần Lan. Stalin có ấn tượng về sự am hiểu Phần Lan và bán đảo Scandinavia của Kollontai nên coi bà như một chuyên gia về các vấn đề Phần Lan. Có lẽ, những lần tiệc tùng với giới thượng lưu ở Petrograd, bà đã quá hiểu những gì đang diễn ra. Điều này đã gây thiện cảm và đặt ra quan hệ tốt đẹp với Stalin mà còn cứu sống Kollontai không lâu sau này.

Cuộc đấu đá, tranh giành địa vị “lãnh tụ giai cấp vô sản” chưa bao giờ là không khắc nghiệt. Chỉ cần một ít chứng cớ giả tạo, cùng với lời lẽ ngụy biện là có thể lật ngược sự thực để hạ bệ những kẻ mình không ưa. Đến lượt Kollontai là mục tiêu, những sai lầm phá lối của bà thời làm thủ lĩnh phe “công nhân đối lập”, những chỉ trích “Sai lầm của Lenin” của bà bị mang ra bêu riếu và đấu tố. Đến 1922, nhóm Kollontai chịu thất bại hoàn toàn. Tại ĐH XI, Kollontai buộc phải công khai từ bỏ cương lĩnh của mình. Trong nhật ký, bà mô tả cuộc họp của BCHTƯ đã đưa ra vấn đề khai trừ phe "công nhân đối lập” ra khỏi đảng.

Điều quan trọng là lúc này, Kollontai đã hoàn toàn ủng hộ Stalin. Lá thư mà bà viết lại trong nhật ký gửi Stalin đề ngày 11 tháng 10 năm 1922, bà viết “ lòng tràn đầy sự biết ơn vô hạn đối với Stalin", bởi sự ủng hộ của ông dành cho bà và nhóm “trong những ngày khó khăn, thảm khốc nhất của cuộc đời”. Theo Kollontai, đó là do sự nhạy cảm phi thường của đc TTK mới được bầu, là phản ứng của ông trước sự bất hạnh của một đồng chí.

Trước đó, người ta biết quan hệ vợ chồng của Kollontai với vị chỉ huy nổi tiếng Pavel Efimovich Dybenko đã bị rạn nứt. Còn trong thư, bà than thở rằng, sau hội nghị mùa xuân của QTCS và sau Đại hội XI, bà không thể làm việc trong Ban Thư ký Quốc tế Phụ nữ được nữa. Đặc biệt là không thể hợp tác với người đứng đầu QTCS G. Zinoviev. Bà đề nghị Stalin bổ nhiệm mình vào một công tác mới, đến Viễn Đông hoặc bổ nhiệm làm đại sứ ở nước ngoài. Bà nhanh chóng nhận được tin nhắn hồi đáp: "Chúng tôi cần một vị trí có trách nhiệm ở nước ngoài. Hãy trở về Mátxcơva ngay lập tức. Stalin".

Cuộc đời biệt phái ngoại giao và làm đại sứ bắt đầu, Kollontai tạm thời tránh được những làn đạn. Cuối năm 1923, Ủy ban Kiểm soát TƯ điều tra lời buộc tội từ cựu đồng chí trở cờ phản bội trong phe "công nhân đối lập". Tầm quan trọng khiến đích thân Chủ tịch Ủy ban Kiểm soát TƯ Valerian Kuibyshev tiến hành, ông ta tin vào lời khai và nghi ngờ Kollontai "mất lòng tin vào đảng". Mức kỷ luật mà ông ta đưa ra là triệu hồi đại sử về nước để ra tòa, tuy nhiên quyết định bị Stalin thu hồi.

Cuối năm 1924, Kollontai có cuộc gặp với Stalin, bà viết rằng: "Đồng chí Stalin tiếp tôi trong một căn phòng nhỏ được bài trí đơn giản, ông ấy đang ngồi trên bàn viết”.

- Ai đã xúc phạm bà, Litvinov hay Chicherin? - câu hỏi dường như là đùa của Stalin.

- Cả hai, thưa đồng chí Stalin, - Kollontai trả lời.

Giọng Stalin trở nên nghiêm túc: - "Việc này đã tệ hơn rồi, hãy nói cho tôi biết, có chuyện gì?”

Cơ bản, vấn đề là Chicherin, Litvinov cùng phe cánh đã vạch ra một đường lối ngoại giao khác đối với bán đảo Scandinavia, nhưng Stalin ủng hộ phương pháp của Kollontai và vì thế mũi dùi chĩa vào bà. Nhưng bà cũng không phải là mục tiêu chính, muốn hạ bệ Stalin, phải cô lập, loại bỏ những người ủng hộ ông. Kollontai viết về điều này trong nhật ký, ĐH XIV và năm 1925: "Mọi người đều cảm thấy điều này. Cá nhân chống lại Stalin. Ông ấy mạnh mẽ và can đảm hơn họ. Ông ấy có những thứ họ thiếu, ông ấy bận rộn không phải với bản thân, mà là với đảng, ông ấy là hiện thân của nó và đây là sức mạnh của ông ấy...

Còn những người theo chủ nghĩa Stalin (Stalinism, đây là một từ mới ở Liên Xô) mà cá nhân tôi gần gũi nhất... Sau đó, tôi không bao giờ có thể liên đới gì nữa với Zinoviev, tôi cũng ghét linh hồn nhỏ nhen này, vì chính sách sai lầm và có hại của ông ta ở QTCS".

Đó cũng là thời điểm khó khăn đối với Stalin trong cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng, Kollontai đã chân thành ủng hộ Stalin.

Những nhận xét của Kollontai về Stalin có khá nhiều trong nhật ký. Mùa hè 1934, bà tham dự Hội nghị toàn thể BCHTƯ, bà ngạc nhiên về cách cử tọa lắng nghe Stalin, cách họ phản ứng với từng cử chỉ của ông. Trong nhật ký bà viết: "Một loại bức xạ 'từ trường' nào đó phát ra từ ông ấy. Sự quyến rũ từ nhân cách của ông ấy, cảm giác tin tưởng vô hạn vào sức mạnh đạo đức, ý chí không ngừng và sự sáng suốt của tư tưởng. Khi Stalin ở gần, có cảm giác dễ dàng hơn để sống, có nhìn nhận tự tin hơn vào tương lai, và vui vẻ ở con tim”.

Kollontai viết rằng, trong Hội nghị: “Stalin chậm rãi đi phía sau hàng ghế Chủ tịch Đoàn. trên mặt một chút nụ cười buồn. Nụ cười không ở môi, và thậm chí không trong mắt, nhưng bằng cách nào đó có nó xung quanh khuôn mặt. Khi mọi người đang ngồi, ông đi đi lại lại một mình. Lắng nghe và nghe cẩn thận với một nụ cười trên khuôn mặt. Những suy nghĩ lớn, những quyết định lớn đều ẩn sau nụ cười như vậy. Nó là một sự hạ mình trước sự thiển cận của con người..."

“Một cái gì đó là “huyền bí” trong ông. Là sức mạnh của tư chất tuyệt vời. Trong ông toát ra ý chí mạnh mẽ khuất phục con người. Bạn sẽ rơi vào quỹ đạo của sự lan tỏa và không còn sức kháng cự nữa, ý chí của bạn sẽ “tan biến”... Lenin, chẳng hạn, không sở hữu đặc điểm này. Stalin khuất phục con người bằng sức mạnh của logic, bằng sự vượt trội của trí tuệ. Còn với sự hiện diện của Lenin, ông vẫn là chính mình, có thể tranh luận với Lenin, để chứng tỏ. Thường Stalin thắng cuộc tranh luận và tước lấy nó. Với Stalin, bạn ngay lập tức từ bỏ, ngay cả trước khi tranh luận. Đây là điểm mạnh của ông ấy. Ý chí của ông ấy mạnh đến mức bạn phải chấp nhận nó hoặc từ bỏ hoàn toàn."

Logic của phái nữ là vậy...


Trong những năm 1940, các đám mây đen một lần nữa tụ lại trên đầu "đại sứ Liên Xô", có đến 3 lần như vậy. Tháng 8 năm 1942, Kollontai ở tuổi 70, bị đột quị. Một báo cáo của NKVD viết rằng, nhưng giấy tờ lưu trữ tại Thụy Điển của Kollontai là có hại đối với Liên Xô, việc thu giữ kho lưu trữ Kollontai là một "sáng kiến ​​của bộ" không được xác nhận. Toàn bộ được chuyển về Matxcơva năm 1943. Merkulov báo cáo tóm tắt với Stalin rằng, "Không có gì đáng ngại đối với giới lãnh đạo Liên Xô trong vali của phái viên ở Stockholm…”

Vì vậy, đám mây đen đầu tiên không gây ra bất kỳ thiệt hại nào cho Kollontai, ngoại trừ sự đau khổ về mặt đạo đức. Năm 1944, lại một đám mây đen khác, Tổng cục trưởng phản gián quân sự "Smersh" Viktor Abakumov đã gửi một báo cáo đặc biệt cho Stalin về điệp viên tình báo Anh bị phát hiện và bắt giữ, thiếu tá Pyotr Gusev, người từng ở Stockholm với tư cách là thư ký của tùy viên quân sự Liên Xô. Lời chứng của Gusev về sự hiện diện của điệp viên nước ngoài trong số nhân viên của đại sứ quán Liên Xô tại Thụy Điển, và anh ta biết một đặc vụ của cảnh sát Thụy Điển chính là tài xế riêng của Kollontai, cùng một số người khác bị Thụy Điển hoặc tình báo Đức tuyển dụng cho mục đích gián điệp. Tuy nhiên, kẻ bị bắt nghi ngờ Kollontai có hoạt động gián điệp. Lời chứng của thiếu tá bị bắt có chất lượng cực kỳ thấp. Bằng chứng buộc tội Kollontai chỉ là tin tưởng người nước ngoài, xa rời thực tế Xô Viết và không đủ để "triệu hồi Kollontai ngay lập tức về Matxcơva, bắt giữ và hành quyết". Vì vậy, Tổng cục trưởng Abakumov đề nghị cho điều tra thêm. Tuy nhiên, Stalin từ chối cho phép Abakumov điều tra.

Nhiệm kỳ công tác đại sử Thụy Điển của Kollontai cũng sắp kết thúc. Căn bệnh của người phụ nữ lớn tuổi đã trở nên tồi tệ hơn - cánh tay trái và chân của bà bị mất cảm giác và không chữa trị sẽ sớm bị liệt. Trong tình trạng như vậy, bà buộc phải trở về Matxcơva chữa trị. Tháng 9 năm 1944, bà được trao tặng Huân chương Lao động Đỏ lần thứ hai và được cấp một căn hộ trên phố Bolshaya Kaluzhskaya. Tháng 7 năm 1945, BCT ra quyết định, thể theo nguyện vọng và bệnh tật của bà, miễn nhiệm chức vụ đại sứ, đặc phải viên Liên Xô tại Thụy Điển.

Alexandra Mikhailovna không nghỉ hưu, bà vẫn là cố vấn của Ủy Ban Đối ngoại.

Tháng 8 năm 1946, Kollontai đề nghị Stalin giúp bà tìm lại kho lưu trữ của bà, các tài liệu này đã được gửi về Matxcơva từ Thụy Điển. Kho lưu trữ cuối cùng đã được tìm thấy và trả lại cho chủ nhân. Ngày 21 tháng 11 năm 1946, thông qua A. N. Poskrebyshev, Kollontai chuyển tới Stalin lời chào chân thành nhất và lòng biết ơn nồng nhiệt: "Hãy nói cho Joseph Vissarionovich biết ông ấy đã mang lại cho tôi niềm vui lớn như thế nào bằng cách trả lại cho tôi những tài liệu mà tôi đã coi là thất lạc".

Nhưng sau chiến tranh, cựu thù của bà trong vụ thu giữ giấy tờ, tài liệu cá nhân đã giữ chức vụ cao hơn, điều này cho phép hắn ta tiếp tục âm mưu thủ đoạn hại người.

Vào tháng 1 năm 1947, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô S.N.Kruglov đã gửi một bản ghi nhớ cho Stalin mà không đánh số và không có ngày tháng rõ ràng. Các dấu hiệu này là tài liệu đã không được đăng ký và được chuyển đến cho lãnh đạo Bộ Nội vụ một cách không chính thức. Bản ghi nhớ này viết rằng, vào tháng 5 năm 1945, gần thành phố Ceska Lipa (Sudetenland của Tiệp), có một kho lưu trữ của Bộ Nội vụ Pháp bị quân Đức thu giữ. Kho lưu trữ được phát hiện tại một lâu đài. Quá trình phân tích chúng được tiến hành ở Mátxcơva, người ta đã tìm thấy các tài liệu của Cục 2 (tình báo và phản gián) của Bộ Tổng tham mưu Pháp giai đoạn 1914-1942, và trong đó – hồ sơ No. 46800 về các năm 1941-1942, chứa các thư từ về các điệp viên và người cung cấp thông tin được tuyển dụng ở Romania, Hungary, Thụy Điển, các nước Trung Đông và những nơi khác. Và trong phần về các điệp viên được tuyển dụng ở Thụy Điển, có 6 tài liệu, trong đó cựu đặc phái viên Liên Xô tại Thụy Điển được liệt kê là người cung cấp thông tin cho Cục 2. Người đó là Kollontai.

Theo Kruglov, Kollontai được nhân viên tình báo Pháp Count de Fleurieu, một thành viên của phái bộ Pháp tại Stockholm và mang bí số 331 trong hồ sơ Cục 2 tuyển dụng làm nguồn cung cấp thông tin vào năm 1941. Bản thân Kollontai được xác định mang bí số 338. Kollontai đã liên lạc với nhân viên Defer làm việc cho văn phòng Cục 2 Pháp thường trú ở Stockholm. Trong phân loại, nguồn tin số 338 được xếp vào loại "thông tin có tính chất chính trị và quân sự nhận được từ chính phủ của họ..."

Tài liệu đính kèm, Kruglov báo cáo thêm rằng, xác thực kẻ cung cấp tin bí số 338 là Kollontai, đặc phái viên của Liên Xô tại Stockholm. Tài liệu của tình báo Pháp còn nhắc đến số 338 là người tình của Lenin.

Dường như là người Pháp đã nhầm lẫn Alexandra Mikhailovna Kollontai với Inessa Armand, nhưng đánh giá cao Kollontai như một nguồn cung cấp thông tin đặc biệt quan trọng.

Dù vậy, không ai dám thẩm vấn Kollontai, lúc bà đang nằm trong viện điều trị. Bà vẫn tiếp tục được xếp vào danh sách cố vấn của Bộ Ngoại giao Liên Xô và vẫn tiếp tục viết hồi ký về cuộc đời mình gần như hàng ngày. Nhưng Stalin không còn liên lạc gì với bà nữa.

Từ đây trở đi, từ năm 1948 cho đến khi qua đời, liên hệ của Kollontai với Stalin bị gián đoạn. Bà viết nhiều thư từ gửi Stalin mà không có hồi âm. Một tình huống tương tự xảy ra với các bức thư CT HCM gửi Stalin năm 1952. Có thể, một âm mưu rất lớn đã được triển khai ngay sau Thế chiến nhằm cô lập Stalin với các nhân vật thân cận gần gũi bị chụp mũ “gián điệp”, “kẻ thù của nhân dân”.

Vào ngày 1 tháng 1 năm 1952, trước khi qua đời ít lâu, Kollontai viết bức thư cuối cùng cho Stalin: "Joseph Vissarionovich thân mến, trước khi giao những ghi chép của tôi về những năm hoạt động ngoại giao cho cơ quan lưu trữ bí mật của đảng IMEL, tôi coi đó là nhiệm vụ của tôi phải gửi cho đc những trích đoạn của tất cả các cuộc gặp gỡ và trò chuyện của tôi với đc trong thời gian này cho người quen của đc"... Vào ngày 25 tháng 2, bà gửi thư cho Poskrebyshev, trợ lý riêng của Stalin về việc hoàn thành cuốn hồi ký của mình "Hai mươi ba năm làm công tác ngoại giao", mà bà đã chuyển đến kho lưu trữ của IMEL, và đề cập rằng chúng cũng chứa một cuốn sổ có tựa đề "Các cuộc gặp và trò chuyện với Đồng chí J. Stalin qua những năm làm Ngoại giao của tôi". Bà yêu cầu được thông báo về việc nhận thư. Bức thư ghi yêu cầu: "Báo cáo những gì đã nhận được”. Yêu cầu IMEL về “Các cuộc gặp và trao đổi với đồng chí Stalin".

Ngày 29 tháng 2 năm 1952, Phó Giám đốc IMEL G. Obichkin gửi cho Poskrebyshev bản thảo cuốn hồi ký của Kollontai "Những cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Stalin. 1922 - 1934" .. Đương nhiên, không ai khác có thể yêu cầu những tài liệu này ngoại trừ chính Stalin.

Ngày 11 tháng 3 năm 1952, tờ Izvestia đăng cáo phó, viết rằng vào ngày 9 tháng 3, "sau một thời gian dài ốm đau ở tuổi 80, một thành viên cũ của đảng Bolshevik và nhà ngoại giao Liên Xô Alexandra Mikhailovna Kollontai đã qua đời". Dưới cáo phó, thay vì chữ ký cụ thể của đại diện đảng Bolshevik, chỉ có dòng chữ mơ hồ: "Nhóm các đồng chí".

***

Bóng mây đen tiếp tục u ám Kollontai và cả Stalin sau cái chết. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1958, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô Nikolai Dudorov báo cáo với BCHTƯ CPSU rằng trong số các tài liệu lưu trữ tại Cục Lưu trữ Đặc biệt Nhà nước Liên Xô, hồ sơ "Cục 2 – Bộ Tổng tham mưu Pháp", có 5 bản ghi chép, được xác định là tình báo Pháp liên lạc với Kollontai và liên quan đến việc bà được cho là thuộc cơ quan tình báo Pháp trong các năm 1941-1942, cũng như các tài liệu theo dõi bà trong thời gian trước đó.

Trong số các tài liệu mà Dudorov trình bày và lặp lại vấn đề, có tài liệu đã được gửi cho Stalin vào tháng 1 năm 1947. Điều khác biệt, là tài liệu này đã được đánh số mà con số và ký hiệu lưu trữ không có trên tài liệu gốc. Như thông tin, 5 bản ghi chép gửi đến BCHTƯ về Kollontai dài 42 trang, kèm 7 bản sao chụp từ các tài liệu đã gửi trước đó và một phần là bản dịch.

Trong số những thứ khác, các tài liệu đưa thông tin về người cung cấp tin bí số 338: 60 tuổi, rất đảm bảo, nằm trong giới ngoại giao và giới chính trị gia hàng đầu. Tiếp xúc với người Pháp được ghi nhận là tự nguyện.

Dù vậy, thời điểm năm 1958, Khrushchev đã hoàn tất cuộc đảo chính lật đổ Stalin, không cần nhiều đến lá bài gián điệp Kollontai.

Cả ngàn năm qua, câu này đã quen thuộc đến nhàm chán: Các tình báo viên thường đánh lừa cấp trên và moi tiền của chính phủ bằng cách dựng lên các nhân vật tuyển dụng giả, các chiến dịch giả, và những chiến công giả.

Sau tất cả, vụ tuyển dụng "đại sứ Liên Xô" quá rẻ tiền, không đáng tin và cũng chẳng có thông tin gì nhiều giá trị từ nhà ngoại giao – nhiều khả năng đó là màn biểu diễn nghiệp dư vụng về của Bá tước de Fleurieu. Kẻ có lẽ đã dựng lên chiến công giả, tuyển dụng giả đại sứ Liên Xô và nhờ thế đã moi được nhiều tiền từ chính phủ Pháp và cả Đức quốc xã. Nhưng số phận trớ trêu của bà Kollontai đã được cứu thoát nhờ mối quan hệ đặc biệt của bà với Stalin.

Cuộc trò chuyện của Stalin với A.M. Kollontay





 

TẬP CẬN BÌNH TIÊU DIỆT “ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN”!

 

Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra ngoài trong Đại hội CPC

Mang CS ra chế diễu là Putin đã đốt cháy cây cầu phía sau lưng. Cũng như Putin, ông Tập Cận Bình chủ trương nhà nước Tập quyền, củng cố quyền lực trung ương. Điều này không dung hòa với Tán quyền cộng sản. Loại bỏ giới “Đoàn Thanh niên Cộng sản” tân tự do cấp tiến cũng là Tập Cận Bình đã đốt cháy cây cầu phía sau lưng.

Cả hai đã đốt cháy cây cầu CNCS kết nối với phương Tây, CNCS là học thuyết của phương Tây, ra đời ở London. Không phải bây giờ CNCS mới bộc lộ sự thối tha băng hoại của nó, hay lộ ra bản năng cá nhân tham lam độc đoán của nó. Ngay từ khi ra đời nó đã như vậy, nó ra đời và bén rễ trong sắc dân nông thôn-bán thành thị bị đào thải trong xã hội công nghiệp hóa. Họ cùng đường, nổi loạn và mong muốn lật đổ nhà nước. Đã đủ lâu để CNCS mang gen di truyền phá hoại. Do đó, cứ mỗi lần tiêu diệt CNCS, đất nước lại phát triển. Điều này đã xảy ra dưới thời Stalin, Putin, Tập Cận Bình.

Các cuộc biểu tình ở Trung Quốc nổ ra, lan rộng ở các thành phố lớn, Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, Nam Kinh, Urumqi (thủ phủ của Tân Cương). Đó là sự quẫy đạp của phe phái cũ, phe “Đoàn Thanh niên Cộng sản” TQ thân Mỹ trong ĐCSTQ. Từ sự kiện bất ngờ trong Đại hội XX, Hồ Cẩm Đào (nắm quyền 2002-2012) bị dẫn giải ra ngoài trong phiên họp là đánh bại nhóm thân phương Tây trong các cơ cấu quyền lực của CHND Trung Hoa, nhưng các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" còn có một con át chủ bài - khủng bố xã hội.

Phát triển nhanh chóng để lại tình trạng bất ổn ở Trung Quốc kể từ năm 1989. Lần cuối cùng có các cuộc biểu tình chống Nhật Bản là vào năm 2012 về một vấn đề khá nhỏ liên quan đến tranh chấp các hòn đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sau đó, nó được chuyển sang một mối đe dọa từ bên ngoài, và vào năm 2022 - hoàn toàn là chính sách đối nội của nhà nước.

Có một lý do và nó khá hợp lý, chính sách Co-vi của ông Tập là “khủng bố nhân dân”, không có sự tương tự trên thế giới về thời lượng và quy mô. Chưa từng có ai bị đối xử khắc nghiệt như ở Trung Quốc. Chính sách không khoan nhượng đối với Co-vi đang tiến triển và bây giờ vấp phải phản ứng.

Nhóm quyền lực "Đoàn Thanh niên Cộng sản" mang tư tưởng tự do cấp tiến thân Mỹ

Komsomol là một từ bị lãng quên ở Nga nhưng ở TQ vẫn có ý nghĩa rất lớn. Các nhân vật đi lên từ bệ phóng Đoàn viên không chỉ chiếm các vị trí lãnh đạo nhà nước cao nhất, mà còn tạo thành một mạng lưới quyền lực bao trùm gần như toàn bộ TQ. Nhóm này gồm những ai, hệ tư tưởng của họ là gì - và ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa "Đoàn Thanh niên Cộng sản" và "hoàng thân"?

Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Lý Nguyên Triều, Lãnh đạo Chính phủ Lý Khắc Cường, Trưởng ban Tuyên giáo Lưu Vân Sơn, Chánh án Tòa án Tối cao Chu Khương, các lãnh đạo các Ủy ban khu vực, bao gồm các khu vực phát triển nhanh nhất của đất nước như: Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Đông - tất cả giới lãnh đạo hàng đầu này, cũng như hàng chục lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố - đã bắt đầu sự nghiệp của họ từ Đoàn thanh niên Cộng sản. Họ thăng tiến sự nghiệp của mình phần lớn là do cựu TBT-cựu CTN Hồ Cẩm Đào, người nắm quyền cao nhất ở TQ các năm 2002 đến 2012. Tất cả đều có chung quá khứ bệ phóng Đoàn Thanh niên, hình thành phe nhóm thượng tầng độc nhất trong ĐCSTQ. Kể từ khi ông Tập Cận Bình củng cố quyền lãnh đạo và phát động "đả hổ diệt ruồi”, ở mức ý thức hệ, đã có cuộc đối đầu tư tưởng đường lối dù ít được công khai. Đó cũng là cuộc đối đầu giữa phe "hoàng thân" của ông Tập – với những Đoàn viên đã thăng tiến, tự coi mình là tự do cấp tiến, thân Mỹ và được quyền thừa kế làm nhà lãnh đạo hàng đầu của TQ.

Con đường qua Thiên An Môn

Đến đầu những năm 80, giới Cộng sản TQ đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng quyền lực rộng lớn: cải cách diễn ra ở một quốc gia có nền kinh tế kế hoạch hóa, đội ngũ Cận vệ Mao đã bộc lộ đen tối hoàn toàn bởi hành động của những kẻ ông ta đỡ đầu - băng đảng bốn người, bè lũ 4 tên do cô vợ lẽ Giang Thanh cầm đầu và hàng chục triệu HVB cuồng tín. Nhưng Đặng đã khá khéo phẫu thuật cắt bỏ khối u ác tính quá lớn này. Ông ta hiểu đốn hạ một cái cây cổ thụ, sẽ để lại khoảng trống cho cỏ dại, cây độc, giun sán khác sinh trưởng. TQ vẫn cần một cái tượng và những người cộng sản làm chỗ dựa niềm tin cho dân chúng, nhưng không liên quan đến "cực tả" của vợ lẽ Mao. Đó là chỗ để nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng sản" kiểu Đặng chui ra và sau này trèo tít lên ngọn cây như đã thấy.

Tuy nhiên! Đấu trường Thiên An Môn sớm nổ ra, giới thanh niên trong các trường đại học của đất nước đã cố gắng chứng tỏ là lực lượng đáng gờm. Chúng tụ tập trên Quảng trường và trung tâm các thành phố đòi tự do, dân chủ.

Qui mô và tổ chức chứng tỏ có kẻ giật dây và không ai khác phải ở cấp rất cao, cao nhất là TBT Hồ Diệu Bang, cha đẻ của tổ chức “Đoàn Thanh niên Cộng sản”. Cuộc đấu Thiên An Môn và cuộc đấu trong đảng vượt ra khỏi tầm kiểm soát, Đặng đã phải dùng đến quân đội để hành động - các cuộc biểu tình biến thành bạo loạn và đã bị đàn áp, giải tán.

Kể từ đó, có một sự cân bằng nhất định giữa "hoàng thân đỏ" và "Đoàn Thanh niên Cộng sản" ở Trung Quốc. Nhưng Thiên An Môn đã để lại sự chia rẽ sâu sắc trong đảng, nó sâu đến mức là điều cấm kỵ để được nói tới ở Trung Quốc. Một minh chứng cho điều này, kể từ 1989, mọi vấn đề liên quan tới Hồ Diệu Bang đều bị kiểm duyệt. Ông ta như thể đã tàng hình biến mất, nhưng kể từ năm ngoái, nhân vật này đã xuất hiện trở lại, ai đó đã cho phép.

Sau Thiên An Môn, Hồ Diệu Bang mất hết các chức vụ, nhân sự trong Đoàn Thanh niên cũng bị thay thế hầu hết. Năm 1992, quyền lực ở TQ thuộc về "người Thượng Hải" Giang Trạch Dân, được cho là, với một số điều kiện ràng buộc nhất định từ Đặng Tiểu Bình, còn sau đó, 10 năm sau là Hồ Cẩm Đào.

Hệ tư tưởng định hướng trong tương lai thuộc về Quân đội hay Đoàn viên?

Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) là tổ chức nền tảng của nhà nước Trung Quốc hiện đại. Hồng quân TQ xuất hiện sớm hơn nhiều so với nhà nước. Đặng và cả Mao đều ít nhiều là những chỉ huy chiến trường, giới chức trưởng thành trong PLA đã cố gắng thiết lập một nhà nước TQ khả thi theo tầm nhìn xa về chính trị của họ. Trước cải cách thị trường, gần như toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc đã trong tình trạng quân sự hóa và phụ thuộc nhịp điệu duy nhất từ quân đội. Quân đội sau này vẫn là nguồn sức mạnh thực sự của chế độ, thậm chí gần như là khi nói về "đảng" cũng là nói về "quân đội".

Tuy nhiên, có một khái niệm khác nữa gọi là nhóm "hoàng thân" – mô tả không chỉ các nhân vật chính trị có di truyền, có ảnh hưởng, mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn hùng mạnh mới nổi của Trung Quốc, nhưng đồng thời, nền tảng chính của họ, của các tập đoàn cũng là từ nguồn gốc chính quân đội của họ, như mọi khi hay vào vào thời điểm quan trọng, quân đội sẽ đóng vai trò là người bảo đảm cho việc duy trì trật tự quyền lực. Do đó, các bước tiến tư tưởng của các “hoàng thân” để khôi phục truyền thống đế chế Trung Quốc hoặc nỗ lực tạo ra một hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân tộc bành trướng đều có dấu vết quân đội. Khẩu hiệu mới "một đội quân có khả năng chiến thắng trong mọi cuộc xung đột" cũng là sự hồi sinh của truyền thống cách mạng quân sự thời Mao và Bành Đức Hoài, việc tổ chức các cựu chiến binh PLA, việc hình thành một "think tank" để ra quyết định từ họ là những đường hướng để bảo đảm quyền lực của "các hoàng thân-hồng quần”. Câu hỏi liệu Trung Quốc có tham gia vào một "cuộc chiến nhỏ nhưng chiến thắng" vì lợi ích của giới tinh hoa quân sự hay không vẫn nằm trong chương trình nghị sự.

"Đoàn Thanh niên Cộng sản" thu hút quyền lực và sự ủng hộ đông đảo từ dân chúng. Điều này làm cho Trung Quốc ngày càng giống với thời cổ đại, ví dụ, thời La Mã, nơi yêu nước và quân đoàn bảo vệ nhà nước bị cấm đoán bởi các tòa án phổ hiến. Thiên An Môn là nơi diễn tập sức mạnh của đám đông, sức mạnh của sắc nông dân-bán thành thị bất mãn với lòng mong muốn đổi mới và một bậc thang xã hội nhanh chóng.

Đô thị hóa - di cư và định cư hàng chục triệu nông dân trong ranh giới thành thị - là một trong những điều kiện chính để giới Đoàn Thanh niên mở rộng ảnh hưởng. Công cụ khác để mở rộng ảnh hưởng của giới Đoàn Thanh niên Cộng sản là dân nghèo. Đầu thế kỷ, có đến 300 triệu người nghèo đói ở TQ. Chính "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đã tỏ ra quan tâm chăm sóc và là cơ hội tuyên truyền CNCS và mị dân của họ.

Hệ tư tưởng của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản", gọi một cách tương đối là cấp tiến, dân chủ cải cách, mang lại quyền tự do bình đẳng cho tất cả mọi người.

Nếu giới “hoàng thân” là một đẳng cấp khép kín của những ai được chọn – từ tướng lĩnh quân đội TQ, tuy nhiên gần đây, đã có sự thu nạp ngày càng nhiều giới trí thức, tinh hoa học thức, sinh viên có trình độ cao, thì "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là ở tầng lớp thấp, số lượng đông từ dân bán thành thị với khoảng 200 triệu người di cư và nông dân, cũng có giới trí thức trong các thành viên. Nhưng họ là phe phái khác biệt, ảnh hưởng của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong quân đội là rất hạn chế - Thủ lĩnh Hồ Cẩm Đào cũng từng nỗ lực nắm quân đội, ông ta đã thay thế hàng ngũ lãnh đạo PLA ít lâu sau khi nắm quyền.

Cho dù nghe có vẻ kỳ lạ trong thời đại công nghệ chính trị, nhưng quyết định - con đường nào của Trung Quốc sẽ đi trong tương lai là tùy thuộc phe phái nào thắng thế. Nếu Trung Quốc chọn chiến lược pháo đài, áp dụng học thuyết đối đầu với Mỹ, với Nhật thì đó là xuất phát từ các “hoàng thân” và giới tinh hoa chính trị quân sự, còn nếu Trung Quốc đòi hỏi cơ hội bình đẳng, giá trị phương Tây phổ quát thì đó là phe phái "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đang trên ngựa. Vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát cho câu hỏi này, thường là có sự hòa trộn của cả hai.

Cái nôi An Huy

"Xương sống" của phe nhóm "Đoàn Thanh niên Cộng sản", còn được gọi là "Tuanpai - 團派" đến từ tỉnh An Huy - nằm trong vành đai của khúc giữa dòng sông Dương Tử. Không có gì tình cờ khi An Huy lại là căn cứ địa của "Đoàn Thanh niên Cộng sản", và cốt lõi khu vực này là An Huy – quê của Hồ Cẩm Đào, Lý Khắc Cường và Uông Dương – một lãnh đạo chính trị, nhà cải cách tự do cấp tiến nhất trong ĐCSTQ.

Chắc chắn rất ít người biết, tình trạng bất ổn đầu tiên của sinh viên đã diễn ra ở đây, ở An Huy, sau đó phát triển thành các sự kiện Thiên An Môn.

Thủ lĩnh của “Đoàn Thanh niên Cộng sản” Hồ Diệu Bang, đến từ tỉnh Hồ Nam lân cận, và giới lãnh đạo từ bệ phóng Đoàn khác, ủy viên BCT tương lai như Hồ Xuân Hoa và Tôn Chính Thành, đến từ tỉnh Hồ Bắc. Do đó, có thể nói nòng cốt của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là những người đến từ một cụm khu vực, mà Lý Khắc Cường đặt tên là "Vành đai sông Dương Tử". Nhân tiện, "Vành đai kinh tế" là một khái niệm khác được chỉ định bởi lãnh đạo của "các hoàng thân" Tập Cận Bình.

Các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" cũng phát triển một "sườn phía bắc" – là các tỉnh Thiểm Tây và Nội Mông - một thành viên của BCT xuất thân ở đây là Lưu Vân Sơn; ông này từng nhân vật số 5/7 trong giới lãnh đạo TQ. Thời nắm quyền Ban tuyên giáo, ông ta thả nổi báo chí truyền thông, cực tả thái quá theo hướng phương Tây hóa. Con trai Lưu Vân Sơn là Lưu Lạc Phi, một đại gia chứng khoán, từng được tạp chí Fortune xếp hạng 25 trong số các nhà giàu châu Á. Có tin tức Lưu Vân Sơn hiện lúc này đã bị bắt giữ.

Một cựu lãnh đạo Mặt trận Thống nhất (liên minh các đảng ở TQ) là Lệnh Kế Hoạch cũng đến từ khu vực này, còn Hồ Xuân Hoa từng làm việc ở đây trong một thời gian dài trước khi làm Bí thư tỉnh Quảng Đông.

Thành phần “trí thức” của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đến từ Đại học Bắc Kinh - chính ở đó, là nơi đào tạo khối kinh tế của Lý Khắc Cường. Nhưng còn một nhóm Đoàn viên khác nữa từ Đại học Thanh Hoa do Hồ Khải Lập (Hu Qili) – cựu thủ lĩnh Đoàn, thành viên BCT. Trong sự kiện Thiên An Môn, Hồ Khải Lập công khai ủng hộ giới đoàn viên thanh niên biểu tình và bị trừng phạt, mất chức uv BCT nhưng vẫn làm Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Máy và Điện tử đến năm 1998.

Lý Tòng Quân, một thành viên thuộc giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" xuất thân An Huy - nắm quyền kiểm soát Tân Hoa Xã cho đến năm 2014. Người kế nhiệm là Thái Danh Chiếu đến từ tỉnh Sơn Đông.

Trò chơi rượu mới bình cũ

Không phải đến tận Đại hội XX mà sau hỗn loạn Hồng Kông 2017, ông Tập Cận Bình đã muốn thay máu chính trị và chuyển đổi hơn nữa cơ cấu nhà nước cho phù hợp tình hình mới. 2017 là năm bản lề, có cuộc bầu cử ở Hồng Kông mà giới thân Mỹ đặt nhiều hy vọng sẽ trở thành hình mẫu dân chủ cho TQ. Nhưng điều này đã không xảy ra, cũng năm 2017 có Đại hội XIX CPC, tại đó một thế hệ lãnh đạo mới được chỉ định và có kỳ vọng thăng tiến ở các nhà tư tưởng tự do cấp tiến, xuất thân "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Hồ Xuân Hoa - người là Bí thư Quảng Đông, tỉnh cận kề Hồng Kông, cái ổ bất ổn nhất của TQ. Phương Tây đã rất kỳ vọng Hồ Xuân Hoa kế nhiệm ông Tập Cận Bình. Có lẽ, ai đó đã mộng tưởng bất thành Hồ Xuân Hoa làm Tổng thống được bầu đầu tiên của đất nước này, một phiên bản Gorbachev của TQ.

Bất cứ nơi nào và ở mọi nơi

Sau Đại hội XIX, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đứng đầu các tỉnh và khu vực Hồ Nam, Giang Tô, Quảng Đông, Trùng Khánh, Quý Châu, An Huy, Thiểm Tây, Hà Bắc và Cát Lâm – không tình cờ, khi hầu hết các tỉnh này nằm trong "Vành đai Dương Tử", những tỉnh nằm ngoài biên giới của nó có lãnh đạo người bản địa đến từ cùng khu vực, ngoại trừ tỉnh Cát Lâm ở phía bắc là một người Mông Cổ. Đó là một sự giảm sút so với trước đó, năm 2013, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" nắm chức vụ Bí thư/Chủ tịch của 25/31 tỉnh thành Trung Quốc. Có thể nói, những năm này, "Đoàn Thanh niên Cộng sản" gần như kiểm soát hoàn toàn Trung Quốc. Trong số đó, các nhân vật nổi bật là Hồ Xuân Hoa – Bí thư Quảng Đông; Tôn Chính Tài – Bí thư Trùng Khánh và Chu Cường lãnh đạo Tòa án Tối cao Trung Quốc. Cả 3 đều vào Ủy ban thường vụ BCT sau Đại hội XIX.

Nội các Thủ tướng Lý Khắc Cường

Dưới thời thủ lĩnh "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lý Khắc Cường làm thủ tướng, có 7 người đến từ Đoàn Thanh niên. Họ nắm Bộ Kiểm soát, Bộ Hành chính Dân sự, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài nguyên Đất đai, Bộ Nông nghiệp và Bộ Văn hóa. Riêng Ttg Lý Khắc Cường trực tiếp nắm 3 bộ. Trong Bộ Chính trị, giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" có Lý Khắc Cường, Lưu Vân Sơn, Lý Nguyên Chương (phó Chủ tịch nước), Lưu Diên Đông (phó Ttg), Lưu Kỳ Bảo (trưởng Ban tuyên giáo) và Hồ Xuân Hoa (chủ tịch Quảng Đông).

Rắc rối của Tập Cận Bình

Với việc ông Tập Cận Bình củng cố quyền lực ở Trung Quốc, một cuộc chiến chống tham nhũng chưa từng có đã được phát động, nó thường được nhắc đến với cái tên “đả hổ, diệt ruồi”. Tham vọng thăng tiến của các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đối với danh pháp đảng dường như đã được sử dụng để chống lại họ. Ngay từ đầu chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi”, nhân vật Chu Vĩnh Khang – uv BCT, đã trở thành trung tâm của các mũi nhọn. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là bề nổi. Trước đó, đã có sự giận dữ của các "hoàng thân" phải loại bỏ quyền lực của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" Lưu Vân Sơn, uv BCT, lãnh đạo Ban tuyên giáo. Sau vụ bắt giữ Chu Vĩnh Khang, người ta nói rằng, không có lá bài miễn tử nào cho bất cứ ai ở Trung Quốc.

Đằng sau công cuộc chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình là cuộc chiến tư tưởng. Như đã đề cập ở trên, quyền lực của giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đến từ sự mộng mị xã hội công bằng, tốt đẹp của sắc dân bần cùng bán thành thị và nông thôn, đáng tiếc, lại là đông đảo rộng lớn – cũng không ngạc nhiên, Lưu Vân Sơn, một đồng sự thân cận của Hồ Cẩm Đào và cỗ máy tuyên truyền trở thành công cụ chính của nhóm này. Bây giờ, khi Lưu Vân Sơn bị bắt, ngày càng có ít ai nghi ngờ các cuộc "thanh trừng" là nhằm vào giới "Đoàn Thanh niên Cộng sản" trong khi họ đã cố gắng nắm giữ quyền trong suốt các thập kỷ qua. Vụ bê bối gần đây liên quan đến "Đoàn Thanh niên Cộng sản" là việc xuất bản một video cá nhân của người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Bi Phúc Kiến bôi đen Mao Trạch Đông trong một khung cảnh riêng tư. Bi Phúc Kiến gắn liền với Đài truyền hình trung ương TQ và cũng đến từ Đoàn viên Thanh niên. Có rất nhiều cái tên Đoàn Thanh niên Cộng sản mang họ "Hu" – phát âm gần như là “Hổ” và có lẽ không tình cờ khi “Đả hổ, diệt ruồi” là chiến dịch của ông Tập nhằm vào họ. Đó là Hổ Cẩm Đào, Hổ Diệu Bang, Hổ Khái Lập, Hổ Xuân Hoa; còn TQ được Mỹ ca ngợi là con Hổ mới nổi ở châu Á.


Tiếp theo là gì?

Phía sau các “hoàng thân” của ông Tập Cận Bình là quân đội, còn đằng sau "Đoàn Thanh niên Cộng sản" – là tuyên truyền và ảnh hưởng trong giới quần chúng. Các “hoàng thân” đang cản lại xu hướng tự do hóa thân Mỹ ở TQ, họ cản trở vấn đề Hàn Quốc, coi Hồng Kông, Đài Loan là mảnh đất của TQ và coi Nhật Bản, Mỹ là đối thủ. Khi TQ mạnh lên, sự ủng hộ từ “hoàng thân” của ông Tập Cận Bình sẽ chỉ tăng lên, trong khi "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đang giảm tốc tăng trưởng, còn lượng các nhân vật liên quan đến các vụ bê bối tham nhũng ngày càng lớn. Sự cân bằng đã mất đi khi các thành phần “hoàng thân” mới đi vào trong cơ cấu BCT. Điều này được khẳng định qua Đại hội XX gần đây, quyền lực của ông Tập Cận Bình và phe "hoàng thân" được củng cố, gần như tất cả các nhân vật cao cấp của "Đoàn Thanh niên Cộng sản" đã bị loại bỏ.

Không có đường lùi, các "Đoàn Thanh niên Cộng sản" sẽ phải tiếp tục tấn công để duy trì quyền lực. Biểu tình chống phong tỏa Co-vi gần đây là cuộc tấn công phản đối của họ nhằm vào chính sách “Zero co-vi” của ông Tập Cận Bình, họ vẫn còn con bài: vận động dân chúng bất mãn biểu tình bạo loạn lật đổ nhà nước, khủng bố xã hội.

Cha đẻ các Đoàn Thanh niên Cộng sản Trung Quốc là ai!?

Có một ông già trầm lặng thường ngồi một mình trên chiếc ghế dài trong công viên Regent ở London. Xung quanh ông ta, các diễn biến xảy ra: đấu tranh nữ quyền, quyền của giới chuyển giới, chống áp bức bất công, biểu tình đủ các kiểu, các màu sắc. Người đó chính là Trần Đại Tôn (陈岱孙), ông ta đã chọn London, cái nôi của CNCS để sinh sống những năm cuối đời.

Năm 1900, Trần Đại Tôn sinh ra ở Trung Hoa. Cậu trẻ sớm theo học tại trường Cao đẳng Anh-Trung, ngôi trường Helin Yinghua có các giáo viên người Anh và người Mỹ này được thành lập vào năm 1881 bởi một ngân hàng và đặt dưới sự giám hộ của người Mỹ.

Trần Đại Tôn sau đó tiếp tục được đào tạo tại vườn ươm tự do dân chủ Harvard. Năm 1926, Trần Đại Tôn trở về Trung Quốc và giảng dạy tại ĐH Thanh Hoa. Sau đó, Trần Đại Tôn làm Viện trưởng Viện Kinh tế và Tài chính Trung ương Bắc Kinh và là giáo sư tại ĐH Bắc Kinh trong rất nhiều năm.

Sự trống rỗng trong thuyết giáo Marx khiến CNCS không có gì để vận hành trong thực tế, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Không có gì để vận hành, không có gì để phát triển. Sự trống rống đó là chỗ để các học trò thân Mỹ của Trần Đại Tôn nổi lên.

Tại Đại hội CPSU cuối cùng của cuộc đời, năm 1952, Stalin nói rằng: “Tôi thấy cần loại bỏ một số yếu tố Chủ nghĩa Marx, gắn một cách giả tạo vào xã hội của chúng ta…”. Còn Putin nói, giáo lý CNCS là cóp nhặt, có thể đọc thấy ở bất cứ nhà thờ nào. Đúng, CNCS chỉ tốt đẹp trên giấy, thì có thể đọc trên giấy thứ tương tự trong Kinh thánh, nguyên bản, cổ truyền hơn. Còn trong thực tế, không thể ứng dụng, không thể vận hành ở bất cứ đâu. Làm thế nào để 3 thằng học việc nhân danh Chuyên chính vô sản đòi lãnh đạo ông thợ cả trong nhà máy?

Trần Đại Tôn để lại nhiều thế hệ học trò, trong đó có Lê Yên Ninh (Li Yining), người sinh cùng năm với George Soros và được coi là cha đẻ của thị trường chứng khoán Trung Quốc vào năm 1990 cũng như khởi động công cuộc tư nhân hóa các công ty nhà nước TQ. Ba anh em nhà Lê Yên Ninh đều nắm giữ các vị trí quan trọng trong các trường Đại học về tài chính và kinh tế ở TQ.

Trong cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, Lê Yên Ninh đã gặp may khi chỉ bị đày về nông thôn, dọn cỏ vườn trong 6 năm. Nhưng dưới thời Đặng Tiểu Bình, ông ta đã thăng tiến trở lại và là một trong những nhà lý luận chính về "tự do hóa và mở cửa hòa nhập". Vào những năm 1980, Lê Yên Ninh được coi là “hạt giống đỏ” như Gaidar và Chubais ở Liên Xô. Cũng giống như thế, đề xuất tư nhân hóa quy mô lớn các doanh nghiệp nhà nước của Lê Yên Ninh chỉ dành cho các tay chơi lớn. Giới đầu tư tài chính quốc tế đã đến Trung Quốc nhờ sự tự do hóa và mở cửa của Đặng.

Các học sinh học các trường đạo Tin lành Anh-Mỹ ở Trung Quốc năm xưa, đã quay trở lại để mua và họ đã kiếm được hàng nghìn tỷ đô la nhờ đúng cậu học trò cũ học trường này.

Cũng không ngạc nhiên, con nhang đệ tử Cộng sản của Lê Yên Ninh khá nhiều, ba nhân vật dưới này là tiêu biểu:

- Lý Khắc Cường, thủ tướng Trung Quốc (2013-2023), ông này nói năm 2020 rằng, “Trung Quốc có 600 triệu người ăn xin”, dường như ông ta ám chỉ chính sách phát triển TQ của Tập Cận Bình là thất bại, trong khi ông Tập hứa hẹn sẽ xây dựng TQ thành một “Tiểu Khang”, một xã hội thịnh vượng vừa phải. Lý Khắc Cường đi lên từ Đoàn Thanh niên, là Bí thư Thứ nhất Đoàn các năm 1993-98.

- Lý Nguyên Triều, bí thư thứ nhất Đoàn Thanh niên Thượng hải. Sau đó giữ chức Phó Chủ tịch nước CHND Trung Hoa từ năm 2013 đến tháng 3 năm 2018. Thời kỳ đó, một phiên họp của Quốc vụ viện đã phê chuẩn việc mở rộng quyền hạn của Tập Cận Bình còn Lý Nguyên Triều xin nghỉ hưu. Giấc mộng kế vị Hồ Cẩm Đào của Lý Nguyên Triều sớm tan vỡ. Ông ta đau sót chứng kiến cảnh phe nhóm suy tàn, phe hoàng thân Tập Cận Bình lên ngôi.

- Lục Hạo năm 28 tuổi, anh ta đã là lãnh đạo của một nhà máy với 5.000 công nhân – chứng tỏ cũng là người có tài năng. Sau này, Lục Hạo làm Bí thứ thứ nhất Đoàn Thanh niên các năm 2008-13, rồi làm Chủ tịch tỉnh Hắc Long Giang ở tuổi trẻ nhất TQ cho chức vụ này. Khi đó, ông ta báo cáo: "Lương của những người thợ mỏ được trả liên tục". Biết được điều láo toét này, họ đi biểu tình phản đối và đòi lương. Lẽ ra, Lục Hạo đã bị sa thải, nhưng lại được phe nhóm che chắn và lên cao hơn, trở thành Bộ trưởng Bộ Tài nguyên vào năm 2018 và phó Thị trưởng Bắc Kinh. Một thời, Lục Hạo được đánh giá là có tiềm năng làm "lãnh đạo thế hệ thứ 6" (aka TBT vào năm 2020). Nhưng sau đó, sự nghiệp chính trị của Lục Hạo đã đi xuống. Đến tháng 6 năm 2022, ông này chỉ còn giữ chức vụ vô thưởng vô phạt, trưởng một Trung tâm tư vấn nào đó.

Các tác phẩm mà Trần Đại Tôn để lại không nhiều, chủ yếu đề cập lĩnh vực kinh tế: "Lịch sử lý thuyết kinh tế", "Từ kinh tế học cổ điển đến Marx: Giới thiệu tóm tắt về sự phát triển của một số lý thuyết chính" (Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải, 1981).

Nhưng tất cả bây giờ chỉ là cát bụi. Trần Đại Tôn chết năm 1997, ông ta sống thọ, nhưng không đủ lâu để chứng kiến các học trò bị Tập Cận Bình hạ bệ, đặc biệt là không thấy được cảnh Hồ Cẩm Đào bị đuổi ra khỏi phòng họp ngay tại Đại hội đảng, không thấy được CNCS thân Mỹ của ông ta chết như thế nào.

Trần Đại Tôn, nhà kinh tế Marxist


 

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...