Đặng Tiểu Bình - P2

Có điều gì đã biến hóa ở con người Đặng, kẻ cả cuộc đời chiến đấu chống chủ nghĩa tư bản, để ông ta lúc này, về thực chất là tìm cách liên minh với Mỹ - không chỉ để chống LX “hung hăng" mà còn cả Việt nam "anh hùng"?

Mới chỉ cách đó chưa lâu, vào tháng 4 1975, VN đã thống nhất đất nước dưới chính quyền CS, sau 16 năm chiến tranh xâm lược với người Mỹ. Liệu TQ có thực sự sợ hãi bị LX bao vây với các căn cứ quân sự trên biên giới từ bắc xuống nam rồi tấn công hạt nhân? Chỉ có thể là điều này: Xung đột biên giới giữa TQ và LX, TQ với đồng minh của họ là Ấn độ, trên vùng lãnh thổ mà LX thực sự không đóng quân mới xảy ra chưa lâu.

Có thể là Đặng không quên các lãnh đạo VN, cho đến cuối thập kỷ 60 vẫn phải linh hoạt giữa 2 nước lớn LX và TQ, và rồi từ từ đứng hẳn về phía LX. Xu hướng ủng hộ LX trở nên rõ ràng vào cuối thập kỷ 70 khi đảng lãnh đạo, nhóm của TBT Lê Duẩn, người được Moskva định hướng thắng thế. Phe thân TQ trong đảng đã bị đánh bại. Các lãnh đạo VN khi đó bắt đầu bày tỏ "thái độ chỉ trích một số tác động của Maoists", mà rõ ràng là họ không bằng lòng với Bắc kinh. Tháng 10 1975, Đặng, như chúng ta biết đã phụ trách vấn đề đối ngoại, ông ta cảnh báo Lê Duẩn đầy xúc phạm trong 1 cuộc đối thoại: "Quan hệ giữa 2 nước chúng ta có 1 số vấn đề… Chúng tôi buộc phải nói rằng, đọc các tờ báo của VN và làm quen với dư luận xã hội VN, chúng tôi cảm thấy bất an. Về cơ bản, các vị tập trung chú ý vào mối đe dọa phía bắc… Điều này có nghĩa là (có mối đe dọa) từ phía TQ đối với các vị”.

TBT Lê Duẩn phủ nhận mọi cáo buộc, nhưng dường như có uẩn khúc. Sự lựa chọn của ông giữa 2 "người anh lớn" mà giờ đã thành kẻ thù, nhìn chung là hợp lý, ông không có ý định thay đổi gì hết. Vấn đề không phải chỉ là ở thiện cảm Xô Viết của ông. Bởi quá trình "cách mạng văn hóa” diễn ra ở TQ vào thời gian đó khiến lãnh đạo của họ không thực sự giúp đỡ VN đủ nhiều, như LX. Vì thế TQ chẳng có cơ hội để gây ảnh hưởng với họ như Moskva. Người TQ tự họ hiểu vấn đề, nhưng bất lực chẳng thay đổi được điều gì, ngoài đổ lỗi quan hệ lạnh nhạt là do "người “anh em trẻ", trong khi đang bị kích thích mạnh với xui khiến "phản bội" người anh em Việt nam.

Với cảm giác thua thiệt ở VN, Mao và Đặng quay ra tìm kiếm đối tác khác ở Đông nam á, đó là “Khmers đỏ", những kẻ không cần bỏ vốn lớn như VN. Đặc biệt là sau này, không giống với VN, chúng quay ra cầu xin Mao chủ tịch ủng hộ chúng vô điều kiện trong cuộc chiến chống Xô Viết. Khi Khmers đỏ bắt đầu nắm quyền tháng 4 năm 1975 (TQ gọi là chính quyền dân chủ Cambodia), quan hệ Campuchia với VN xấu đi nhanh chóng. Có thể Đặng coi nước VN hùng mạnh đang tìm cách thiết lập quyền kiểm soát trên bán đảo Đông dương, sau khi giành thắng lợi năm 1975, họ dễ dàng làm được điều này, họ rất muốn đưa các láng giềng Lào, Campuchia vào quỹ đạo. Đó là họ thực hiện lời dạy của lãnh tụ Hộ Chí Minh, vào tháng 5 1969 đã thúc giục những người kế nhiệm đóng vai trò thống nhất bán đảo Đông dương.

Khmers đã tấn công gây cho VN đau đớn, nhưng sự có mặt của LX ở Đà nẵng và Cam ranh làm cho những cái đầu nóng phải dè chừng. Cho dù vậy, ở cả 2 tuyến biên giới VN-TQ, VN-Campuchia, xung đột vũ trang đã nổ ra. Ngày 31-12-1977, chính quyền Khmers đỏ cắt đứt quan hệ ngoại giao với VN.

Tình hình trong năm 1978 tiếp tục trầm trọng. Cải tạo công thương, chuyển đổi mô hình XH bắt đầu diễn ra. Từ mùa xuân 1978, chính quyền VN bắt đầu xung công rất nhiều tài sản người Hoa ở miền nam – với 1 số phất lên từ làm ăn buôn bán thời chính quyền cũ và nắm những phần quan trọng nhất của kinh tế trước 1975, nhưng đa số là buôn bán nhỏ. Có đến 1,5 triệu Hoa kiều đã di tản, trở về quê hương. Theo logic của những chính quyền CS như TQ, tiểu tư sản là thành phần bị coi là "kẻ thù của giai cấp", là đối tượng thanh trừng trong “cách mạng văn hóa”, nhưng ở đây, lãnh đạo TQ đã thổi phồng vấn đề này và phát động chiến dịch bảo vệ Hoa kiều "vô tội bị ngược đãi" bị "xua đuổi". Tháng 5 1978, TQ cắt đứt mọi trợ giúp kinh tế cho VN. Một tháng sau, VN tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (Council of Economic Mutual Aid-CEMA), cải tạo công thương tiếp tục được đẩy mạnh, nạn kiều tỵ nạn lên đến con số 170 nghìn người và bây giờ phần lớn từ các tỉnh phía bắc.

Mùa thu năm 1978, VN quyết định xóa bỏ chế độ Khmers đỏ. Họ chỉ đợi mùa khô để tiến quân vào Phnom penh. Trong tháng 10-1978, họ ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với LX, điều này bảo vệ cho VN trong trường hợp bị TQ tấn công.

Giới lãnh đạo TQ có ý đặt mình đứng ngoài cuộc. Không hẳn tất cả đều thấy có khả năng nào đó để tấn công VN, ngay cả trong trường hợp họ đưa quân vào Campuchia. Thực sự, hành động của cựu “người em cũ” làm cho TQ có cảm giác cay đắng. Nhưng làm thế nào để gây chiến tranh toàn diện chống lại 1 đất nước đã nhiều năm tiên phong trong cuộc chiến chống tư bản? Ít ai có đáp án cho câu hỏi này. Bên cạnh đó, PLA và trang thiết bị quân sự đã lạc hậu không như mong muốn. Công cuộc hiện đại hóa chỉ mới bắt đầu, nhìn chung PLA thua kém VN cả vũ khí, cả kinh nghiệm chiến đấu, chỉ vượt trội mỗi về quân số. Nỗi sợ hãi phản ứng của LX: Brezhnev đột nhiên quyết  giúp VN và giã nát phía bắc TQ bằng các dàn Grad như đã từng làm trong tranh chấp đảo Damansky? Chỉ 1 trận đánh 14-15 tháng 3 năm 1969, vài trăm binh lính PLA đã bị thiêu sống trong lửa.

Kẻ công khai nhất, chống lại chiến tranh là cựu cố vấn của Đặng, soái Diệp Kiếm Anh. Ông ta cho rằng TQ chẳng có mối nguy hiểm nào với việc LX bao vây TQ bằng các căn cứ quân sự ở phía nam, Diệp tin cần củng cố tuyến biên giới phía bắc và đề phòng các cuộc tấn công có thể từ LX. Nhưng Đặng đã không còn muốn lắng nghe. Ý tưởng gây chiến với VN của Đặng đã bén rễ trong đầu ông ta đến mức, TQ có đánh VN hay không chỉ còn phụ thuộc vào vận mệnh cá nhân ông ta. Rõ ràng, điều này không là tình cờ, đặc biệt là một số nhân vật am hiểu ở TQ, trong số đó có Tổng tham mưu trưởng PLA, tin rằng Đặng lúc đó, nằng nặc đòi gây chiến, và điều khiển mọi hoạt động chỉ là để "tăng cường quyền kiểm soát của cá nhân của mình lên các lực lượng vũ trang tại thời điểm đó, khi tiến đến quyền lực (vô hạn)."

Kể từ tháng 10 1978, sự chuẩn bị cho chiến tranh đã bắt đầu. Đặng, trên thực tế, tự cho mình nắm quyền chỉ huy tối cao PLA (bộ trưởng quốc phòng Từ Hướng Tiền, lúc đó, về bản chất làm phó cho Đặng). Đặng không còn coi mình phải nghe soái Diệp Kiếm Anh nữa, y trực tiếp tự vạch kế hoạch, bổ nhiệm các bạn chiến đấu cũ làm tổng tư lệnh PLA – tướng Hứa Thế Hữu, kẻ mà năm 1977, Đặng đã viết thư cho Hoa Quốc Phong xin ân xá. Chiến hữu khác của Đặng, tướng Dương Đắc Chí làm phó cho Từ. Đến ngày 21 tháng 12 năm 1978, việc chuyển quân đến biên giới với VN đã hoàn thành. Theo các tư liệu khác nhau, trên biên giới với VN dài 1300 km tập trung từ 450-600 nghìn binh lính và sĩ quan. Binh lính TQ trên biên giới với LX cũng được đặt trong tình trạng hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu.

Trong khi đó, yên tâm có LX đứng sau, QĐVN tiến vào Cam ngày 25 tháng 12 1978. Cho đến ngày 7 tháng 1 1979 họ đã giải phóng Phnom Penh. Chế độ Khmers đỏ sụp đổ. Chính quyền mới thân VN được thành lập, nhưng cuộc chiến đổ máu vẫn tiếp tục. Với sự chống lưng TQ và cả Mỹ, Khmer đỏ chạy vào rừng chiến tranh du kích và chỉ đến 1989 mới chịu tan rã.

Chiếm Phnom Penh cũng có nghĩa "làm mất mặt" TQ. Vì thế đối với Đặng, việc tấn công VN trở thành "vấn đề danh dự".

Tuy nhiên, Đặng phải tìm con đường ngoại giao để ủng hộ chiến tranh. Trong tháng 9, Đặng đến Burma, Nepal và Triều Tiên, còn tháng 10 là Thái, Malay và Singapore, ông ta chỉ tìm thấy sự hiểu biết ở Thái, nơi sợ hãi Cam sẽ đẩy mình vào cuộc thử nghiệm cú đánh VN. Tuy nhiên, các nước đã không phản đối mạnh, như thế là quá tốt cho Đặng. Đến lúc, ông ta cần thuyết phục người Mỹ, Đặng đã trình bày với Carter rằng ông ta cần sự "ủng hộ tinh thần" của họ. Có 1 thực tế là Carter đã không cố để khuyên can Đặng (ngoại trừ vài tuyên bố). Đó là chuyện quan trọng cho Đặng, vị TT Mỹ đã không phản đối hay hành động để chống lại ý đồ của Đặng, cũng không đưa nó ra LHQ, không trao đổi tin tức với LX. Đặng hiểu rõ, như thế có nghĩa là đồng tình. Ít nhất thái độ như vậy của Mỹ là rất cần thiết đối với Đặng. Vấn đề còn lại, nếu Đặng bắt đầu ngay sau khi thăm Mỹ, Brezhnev sẽ có ít hứng thú để can dự vào xung đột: ông ấy có thể cho rằng, Đặng hành động trong liên minh với người Mỹ! Tiễn Đặng rời Washington, Brzezinski thậm chí tuyên bố cởi mở với Đặng rằng, “TT ủng hộ ông!” Điều này, không thể không làm vị khách có cái nhìn u ám hài lòng.

Thực tế đã xảy ra như vậy. Chủ nhật 17 tháng 1 1979, 200 nghìn bính lính TQ theo lệnh Đặng đã đồng loạt, trên khắp chiều dài biên giới tiến vào vào VN. Brezhnev quả thực rất bối rối, không hiểu phải làm gì. Ông thậm chí gọi cho Carter trên đường dây nóng, chỉ để biết vấn đề thực sự là liệu TQ có hành động hay không – với sự chấp thuận ngầm của Mỹ. Và dù Carter đã có thể khuyên như thế nào đó, ông đã triệu đại sứ Dobrynin về Moskva và cuối tháng giêng tự mình cảnh cáo Đặng không được có các hành động tương tự. Brezhnev đã không tin. Cuối cùng thì bất kỳ hành động quân sự nào cũng không được phép. Để đánh lạc hướng Moskva, Trên đường từ Mỹ về, Đặng đã cố ý dừng chân 2 ngày ở Tokyo và thông báo với Nhật, Ttg Akira về kế hoạch quân sự. Đặng đã đến Nhật vào tháng 10 trong chuyến thăm đầu tiên để ký Hiệp ước hòa bình và hữu nghị, đó là ông ta tính toán đến sự “hiểu biết” của Nhật và đã không nhầm.

Cuộc chiến biên giới dữ dội kéo dài 29 ngày, nhìn chung nó diễn ra quanh tuyến biên giới với binh lính TQ tiến sâu vào lãnh thổ VN hơn 30 km. Ngày 16 tháng 3, Đặng rút quân, bỏ lại cách thành phố bị đốt cháy và đổ nát. Theo 1 ước tính, 25 nghìn binh lính TQ và 10 nghìn VN, bao gồm cả thường dân đã chết.

Rõ ràng, Đặng đã không thể “dạy cho VN một bài học”. Thiệt hại phía TQ lớn gấp 2,5 lần VN, đòn tấn công hiệu quả đã không hề diễn ra.

Nhưng ở trong nước, Đặng đã biến thất bại thành thắng lợi chính trị trên mặt trận đối nội. Chiến tranh với VN đã giúp Đặng củng cố uy quyền cá nhân với PLA, ông ta tự phong mình là lãnh đạo tối cao của đảng và đất nước. Vai trò của Diệp Kiếm Anh yếu đi, Hoa Quốc Phong đã không còn có thể làm gì nguy hiểm cho Đặng. Trần Vân vẫn là nhân vật quyền lực, nhưng Đặng luôn luôn có thể đồng ý: dù Trần có ganh tị thì vai trò ông ta chỉ là nhân vật số 2 trong đảng, về cơ bản, ông ta hoàn toàn ủng hộ Đặng trong cuộc đua quyền lực với Hoa.



Đặng Tiểu Bình - P1

"Không thành vấn đề, mèo trắng hay mèo đen, miễn là có thể bắt chuột – đó là con mèo tốt" – Đặng Tiểu Bình, 1961

"Đừng tự trói buộc mình vào 1 hệ tư tưởng và những tranh cãi trừu tượng trên thực tế về việc tên của nó là gì – CNXH hay CNTB."  Đặng Tiểu Bình, 1992


Tại sao Đặng đã thay đổi nhanh chóng, từ 1 nhà cách mạng Mác xít trở thành 1 kẻ theo chủ nghĩa xét lại, phản bội tư tưởng cộng sản, bắt tay Mỹ chống lại các nước vừa mới hôm qua còn là đồng minh XHCN của TQ? Trái lại ở TQ, ông ta lại vẫn được coi là nhà lãnh đạo CS nhiều công lao?

Có thể kết luận là: câu trả lời tùy thuộc vào ai đang nắm quyền. Chúng ta có Khrushchev, có cả Gorbachev như những kẻ phản bội. Nhưng cả 2 đã không để lại bất cứ điều gì tốt đẹp. Đặng Tiểu Bình, ít nhất cũng mở đường cho TQ phát triển – chỉ có điều, nó có được bằng máu của người Việt và những thỏa hiệp ngầm sau lưng dân tộc chúng ta.

Không giống Khrushchev hay Gorbachev, những kẻ đào mộ, bôi nhọ và lật đổ tiền nhiệm - những lãnh tụ chân chính và nhiều công lao. Đặng không làm thế, ông ta ca ngợi Mao là nhà Mác xít vĩ đại, nhà cách mạng vô sản. Ông ta đọc lời ai điếu và xin tha thứ bên mộ Bành Đức Hoài.

Cho đến 1992, Đặng mất hút khỏi sân khấu chính trị, ông ta gần như tự giam mình trong nhà, vẫn giữ mình là làm lãnh đạo tinh thần đảng CS TQ và “kỷ nguyên Đặng” kéo dài mãi sau này. Đặng được gọi là “Kiến trúc sư cải cách kinh tế và hiện đại hóa TQ. Nhưng cũng như Khrushchev hay Gorbachev, Đặng Tiểu Bình là kẻ phản bội.

-----------------------------------------

Sau đây là tư liệu về Đặng trong quan hệ với Mỹ và những sự kiện ở VN thập kỷ 70.

Đặng tham gia vào Hội nghị năm 1972 và thậm chí theo lệnh Mao được bầu làm Ủy viên TW nhưng không chính thức được vào BCT. Một trong những thành viên là soái Diệp Kiếm Anh đã đề nghị Mao bổ nhiệm Đặng nắm 1 số vị trí chủ chốt trong QĐ, nhưng Mao không đồng ý. "Cần suy nghĩ" – người cầm lái vĩ đại nói, ông ta vẫn chú ý đến Đặng, thử thách độ tin cậy… Trong khi Chu Ân Lai tỏ ra là kẻ không có mối liên hệ vững chắc với giới tư bản.

Vấn đề là ở chỗ, Kissinger tìm mọi cách cố để lôi kéo Bắc kinh vào liên minh quân sự chống Moskva, còn Chu không thực sự cương quyết bảo vệ độc lập của chế độ. Theo quan điểm của Mao, Chu đã hợp tác quân sự với Mỹ, đã đồng ý để người Mỹ che chở CHND Trung Hoa bằng "chiếc ô hạt nhân”. Dĩ nhiên, Chu chẳng làm gì trong vấn đề này (không quyết định) mà là Mao. Ông ta gầm lên tức tối: "Có những người muốn cho ta cái ô, vậy mà ta lại không muốn nó".

Lúc đó, theo yêu cầu của Mao, Đặng bắt đầu chuẩn bị cho nhiệm vụ ngoại giao quan trọng. Mao cử ông ta đến New York họp Đại HĐ LHQ và có bài phát biểu tháng 4 1974. Kể từ khi làm thành viên LHQ thay Đài Loan năm 1971, chưa có quan chức TQ cao cấp nào đến New York. Đó cũng chính là thời cơ cho Đặng trong khi phe Chu và Diệp Kiếm Anh đang thất thế, khả năng Đặng thay thế Chu Ân Lai đau ốm  làm Ttg đã điểm.

Phe cực tả không thích điều này. Giang Thanh cố thuyết phục Mao để Đặng ở nhà vì “đầy công việc trong nước”. Nhưng Mao không lay chuyển. "Giang Thanh! – Mao nổi giận – Cử Đặng đi là việc của ta, sẽ tốt nếu cô không chống đối. Hãy cẩn thận và bảo trọng, đừng phản đối đề nghị của ta”.

Đặng đã bay đến New York ngày 6 tháng 4 1974. Tiễn Đặng trên sân bay là toàn bộ lãnh đạo đảng, trừ Mao, cùng 4000 đại diện công nhân và quần chúng. Tất cả đều hiểu, Đặng đến Mỹ để thực hiện sứ mệnh đặc biệt: từ phát biểu ở LHQ để thông báo cho toàn thế giới học thuyết ngoại giao mới - 3 thế giới của Mao – theo đó ông ta chia thế giới làm 3. Một là các siêu cường LX và Mỹ, hai là Nhật, châu Âu, Úc và Canada, ba là số các nước còn lại. Lần đầu tiên Mao cho giới thiệu học thuyết này là vào tháng 2 1974. Theo Mao, thế giới thứ 3 trong đó có TQ cần phải đấu tranh chống lại các lực lượng đô hộ, gồm cả LX và Mỹ. Điều đó có nghĩa là Mao thi hành chính sách độc lập trong đối ngoại và tỏ ý sẽ không ngả theo siêu cường nào. Chính Mao từng tuyên bố rất tiêu cực rằng cả LX và Mỹ - những siêu cường thế giới thứ nhất là những kẻ “đàn áp và bóc lột quốc tế lớn nhất”, thậm chí là “nguồn gốc của chiến tranh thế giới mới”. Ông ta kết tội LX - siêu cường mang nhãn hiệu XHCN là kẻ “đặc biệt hung hăng”.

Bài phát biểu của Đặng gây ấn tượng, nhưng dường như ông ta không soạn nó. Có 1 nhóm đặc biệt làm việc này cho ông ta, cả Đặng và Chu đều chỉnh sửa. Nó cũng được các lãnh đạo đảng bàn cãi và viết lại. Mao đã phê chuẩn chỉ sau khi sửa lần thứ 6.

Ngày thứ 4 của chuyến đi Mỹ, Đặng gặp Kissinger tại khách sạn Valdorf Astoria. Hai bên nói chuyện suốt buổi tối, từ 8h đến 11h đêm. Đặng hút nhiều thuốc và cùng Kiss uống Mao đài. Mặc dù không hài lòng với bài phát biểu của Đặng, nhưng Kiss nói:  "Chúng tôi làm việc cùng ông để giữ con gấu (Nga) ở phía bắc". Người phiên dịch đã thông báo cho Kiss phát biểu của Đặng là “đầy mạnh mẽ và độc địa” nhưng “không đủ hiểu biết” các vấn đề của lịch sử và ngoại giao. Dù sao, Kiss cũng bắt đầu chú ý đến nhân vật mới nổi này, về sau, Kiss đã thay đổi quan điểm về Đặng và “rất kính trọng” con người thấp nhỏ dũng cảm, có ánh mắt u ám, tận tâm với sự nghiệp dù cuộc đời gặp ngang trái không đáng có.

Cùng “bốn hiện đại hóa”, Đặng và phe mình bước vào công cuộc “Hiện đại hóa thứ 5: dân chủ” sau khi thắng thế phe “độc tài bảo thủ” và bè lũ 4 tên. Đến cuối 1978, đảng CS TQ đã chuyển từ đấu tranh giai cấp và đường lối chính trị sang trọng tâm kinh tế, từ bỏ tiếp tục theo đuổi “chuyên chính vô sản” – 1 chủ đề nhạy cảm.
 
Uông Đông Hưng, nhân vật “chuyên chế” cuối cùng bị loại bỏ khỏi các hoạt động tuyên truyền tư tưởng. Các nhân vật mới ủng hộ Đặng tiếp tục được đưa vào BCT như Trần Vân, Hồ Diệu Bang, Đặng Dĩnh Siêu, Vương Chân… TQ bước vào thời kỳ mới với khẩu hiệu: Cải cách kinh tế và dân chủ. Nhà báo Mỹ Robert D. Novak, sau 2 giờ phỏng vấn Đặng cuối 1978 viết Đặng là "Nhân vật ảnh hưởng nhất TQ" và hoàn toàn ủng hộ "tự do dân chủ"! Ngày 1-1-1979, tờ tạp chí Times tuyên bố Đặng là nhân vật của năm và đăng ảnh trên trang bìa.

Người ta thường thấy: Cứ mỗi lần 1 vị thần dân chủ xuất hiện, cho dù ở đâu là chiến tranh kéo đến. Dazibo – khẩu hiệu lớn hay còn gọi là “bức tường dân chủ” hô hào đổi mới, cải cách và dân chủ, được giới đoàn viên trẻ giăng khắp nơi, về sau, giới trẻ này gây họa biểu tình dân chủ Thiên an môn 1989.

Là kẻ được mệnh danh nhà bảo vệ dân chủ nhân quyền thế giới, TT Jimmy Carter cảm thấy phấn khích với phong trào giải phóng mới ở TQ. Từ báo cáo của đại diện Mỹ tại TQ J. Stapleton Roy, ông ta biết Đặng "không chỉ cho phép mà còn truyền cảm hứng cho các khẩu hiệu nhằm trực tiếp chống lại giới bảo thủ trong chính phủ, để củng cố quyền kiểm soát BCT…” Nhà báo Mỹ Novak viết: Với sự mong mỏi và năng nổ, Đặng vội vã hình thành  "hệ thống chính trị và kinh tế có lý” tại quê hương và "làm đồng minh với Mỹ chống Liên Xô”. Điều thứ 2 rõ ràng quan trọng hơn với Mỹ, như người ta biết, Mỹ coi LX là kẻ thù số 1. Với sự hội tụ Trung – Mỹ, một chiến lược cũ lại được sử dụng: chia rẽ để cai trị, chơi với kẻ yếu để khống chế kẻ mạnh.

Không chỉ Carter và Đặng thúc giục đẩy nhanh quá trình này: bình thường hóa quan hệ với Mỹ cho phép đạt được tham vọng “bốn hiện đại hóa”. Sau 1 vài vòng đối thoại tại Bắc kinh tháng 5 1978 giữa Đặng với cố vấn an ninh Zbigniew Brzezinski, Ngoại trưởng TQ Hoàng Hoa với lãnh đạo văn phòng Liaison Mỹ ở TQ. Hai bên đã đạt được “vấn đề Đài Loan”. Mỹ đồng ý hủy bỏ Hiệp ước phòng thủ, bảo vệ Đài ký từ 1954, từ bỏ quyền đóng quân ở Đài Loan, rút chuyên gia, cố vấn và chỉ quan hệ ngoại giao hạn chế với Đài.

Đến cuối 1978, quan hệ Trung-Mỹ đạt tầm mới: chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao kể từ 1-1-1979. Điều này gây nhiều ngạc nhiên, nhất là Đài Loan. 

Đặng đã từ lâu muốn đi thăm Mỹ. Thậm chí là khi gặp Brzezinski tháng 5-1978, Đặng đùa muốn thăm Mỹ mà chỉ còn giữ chức 3 năm nữa thôi. Brzezinski lập tức nắm lấy ý này và mời Đặng đến Washington. Đến tháng 10 1978 thì có lời mời chính thức từ TT Carter, nhưng không phải mời riêng. Carter không biết nên mời ai, Đặng hay Hoa Quốc Phong lúc đó là Ttg. Theo Woodcock, khi đó chính Đặng đã chủ động đi Mỹ. Ngày 28 tháng 1 1979, Đặng cùng vợ, phó Ttg Phan, Hoàng Hoa phụ trách khoa học kỹ thuật và một số nhân vật khác đi Mỹ. Đó là sau Khrushchev 1959, sau Brezhnev 1973, có lãnh đạo nước lớn XHCN đi thăm tư bản.

Đặng được đón tiếp theo nghi lễ cấp cao tại sân bay quân sự Andrews gần Washington. Ra sân bay đón Đặng là phó TT Walter Mondale và thư ký nhà nước Cyrus Vans. Họ giữ Đặng trong khách sạn sang trọng Bleer House trên đường Pennsylvania. Thậm chí là trang hoàng lại nơi này để vinh danh khách quí: đồ đạc tinh xảo, thảm và tranh cổ đắt tiền. Cả thành phố, những thứ Đặng nhìn thấy qua cửa sổ chiếc limousine rất ấn tượng: đường xá, đại lộ thẳng tắp, các tòa nhà cao, đồi Capitol, Công viên quốc gia Mall, khu tưởng niệm George Washington  - với cây cột chọc thẳng lên trời và một số bức tượng giống như ở Thiên an môn chỉ có điều to lớn hơn nhiều.

Ông bạn cũ Brzezinski đến gặp trước tiên sau khi để Đặng nghỉ ngơi 1 chút sau chuyến bay dài. Brzezinski làm 1 bữa tiệc chiêu đãi nhỏ tại nhà riêng như đã hứa.

Ngày hôm sau và nhiều ngày sau nữa là các cuộc họp chính thức, thăm viếng và phát biểu – rất nhiều hò reo, cười và thậm chí nước mắt. Đặng bắt tay các chính khách, giới kinh doanh, hôn các cháu hát tiếng Hoa, thăm thượng viện, hạ viện. Đặng cũng đến TT vũ trụ Houston, nhà máy Ford và Boeing, trường đua Texas và dĩ nhiên Nhà Trắng để nói chuyện với Carter trong bầu không khí nồng ấm. Sau này, Carter viết trong hồi ký: "Đặng gây ấn tượng thân thiện với tôi – Ông ta nhỏ bé, mạnh mẽ, có giáo dục, thành thật, cam đảm, sôi nổi, dễ ưa, tin cậy, thân mật và nói chuyện với ông ta – dễ chịu." Đặng, dĩ nhiên như kể, cũng rất thỏa mãn.

Trong chuyến đi là ký kết các văn bản hợp tác khoa học-kỹ thuật và văn hóa, trao đổi sinh viên. Đặc biết nhất là thỏa thuận trao cho TQ quyền giao dịch thương mại thuận lợi nhất. Đặng được trao danh hiệu Tiến sĩ danh dự của University Temple ở Philadelphia, 1 cái mũ cao bồi chăn bò của trường đua Texas.
 
Cuộc thăm viếng của Đặng mở đầu mối quan hệ lịch sử của 2 nước lớn. Mặc dù cả 2 vẫn là những đối thủ khó hóa giải, nhưng với Đặng, điều quan trọng hơn là chứng tỏ, trong thời kỳ rất khó khăn vẫn có thể liên minh, để giải quyết các vấn đề địa chính trị quan trọng – liên quan đến cuộc đấu chống "bá quyền Xô Viết". Trên hết, ở Đông nam á, nơi cả LX và đối tác của họ TQ đều đang dựa vào 1 đồng minh mạnh – Việt Nam, kẻ mà vừa mới đây là bạn bè đã bị TQ biến thành kẻ thù dữ dằn.

Chủ đề Việt Nam và LX được Đặng và Brzezinski đề cập ngay trong hôm đầu tiên, tại bữa tiệc tối. Nói về Việt Nam với thư ký nhà nước Cyrus Vens, Đặng cáu giận sôi lên theo đúng nghĩa đen. Đáp lại câu hỏi, TQ có thể làm gì nếu bị LX tấn công? Ông ta trả lời rằng TQ có thể ra đòn đáp trả bằng sức mạnh chí tử vì họ có đủ vũ khí hạt nhân – để thổi tung “Anh Cả” thành cát bụi, các nhà máy thủy điện, vùng Novosibirsk và, có thể, cả Moskva. Điều trớ trêu là cả 2 bên nói về cú đánh vào LX cạnh những chai vodka mà Brzezinski vừa mới được đại sứ LX Anatoly F. Dobrynin tặng làm quà. Có lẽ vì những chai vodka này mà Đặng đã bị kích động, nhưng sau hồi bốc đồng, vẻ thâm trầm đã trở lại, ông ta chính thức nói với Brzezinski, lúc chỉ có 2 người rằng, muốn nói chuyện với TT và các nhân vật tin cậy cấp cao nhất, theo cách riêng tư nhất  về Việt Nam.

Ngày hôm sau Đặng lặp lại đề nghị này trong khi gặp Carter ở Nhà Trắng, khi Đặng được mời vào phòng Bầu Dục. Ở đây, Đặng bằng giọng ảm đạm tuyên bố với Mondeyl, Vens và Brzezinski quyết định tấn công Việt Nam! Rõ ràng, đối với người Mỹ, những kẻ vừa bị đánh bại tại Đông nam á, 2 từ "Việt nam" nghĩa là thất bại hoàn toàn. Có lẽ, khi nghe tuyên bố của Đặng, họ cảm thấy có chút vui mừng ngấm ngầm nào đó: kẻ thù nhiều năm của Mỹ giờ bị trừng phạt bởi chính Bắc kinh! Quốc gia mà trong những năm chiến tranh khó nhọc của người Mỹ đã kiên quyết sát cánh cùng Việt nam, cung cấp vũ khí, lương thực và thậm chí cả gửi binh lính đến. Điều này là thế nào! Dường như, thế giới đã thay đổi, không những giờ đây các nhà cộng sản gây chiến chống lẫn nhau, mà còn bàn thảo kế hoạch quân sự cùng đế quốc!

Tuy nhiên, Carter cố giữ vẻ bề ngoài bình tĩnh trước tin động trời này, ông ta thậm chí tỏ ra khuyên can Đặng đừng có ý định mạo hiểm. Carter, tuy nhiên đã không nói ông ta phản đối, mà chỉ bày tỏ về khía cạnh không có lợi, khi cộng đồng quốc tế và nhiều thành viên nghị viện của ông ta tuyên bố TQ là “kẻ xâm lược”.

Sáng hôm sau, khi Carter gặp riêng Đặng 1 lần nữa (lúc chỉ có phiên dịch Ji Chaozhu), ông ta đọc cho Đặng bản thảo tuyên bố đặc biệt do ông ta viết tay, trong đó 1 lần nữa cảnh báo Đặng về xung đột vũ trang mà Đặng phát động: sẽ "gây ra lo ngại nghiêm trọng trong tương quan đánh giá chung về TQ ở Mỹ và giải pháp hòa bình tương lai đối với vấn đề Đài Loan. Carter không thể không lo lắng về phản ứng có thể của LX đối với xung đột Việt-Trung. Chiến tranh ở Đông nam á giữa 2 quốc gia hạt nhân không cần thiết đối với ông ta mà còn gây ra nguy hiêm cho cả thế giới.

Nhưng Đặng, hút hết điếu xì gà này đến điếu khác, tiếp tục nài nỉ về quyết định của mình và để Carter hiểu, Đặng so sánh Việt Nam bị LX kiểm soát với Cu ba. Hơn thế, ông ta giải thích rằng nếu TQ không "dạy dỗ" Việt nam 1 bài học ngắn (ông ta đã hứa rút quân sau khi xâm lược 10–20 ngày), thì LX sau khi đứng chắc chân ở Việt nam, sẽ hoàn tất bao vây TQ, để làm điều này, họ đã xâm nhập Afghanistan. (Đặng đã nói như thế! 11 tháng trước khi LX chính thức can thiệp vào đây!)

Carter không trả lời gì về điều này, chỉ Đặng nói ra tất cả những gì ông ta muốn, một cách đột nhiên rồi đột nhiên im lặng. Rõ ràng là khi nói nó ra, ông ta thấy mình nhẹ nhõm, và tự thể hiện 1 cách thoải mái. Như thể ông ta đến Washington chính là để thông báo cho người Mỹ về cuộc chiến tranh sắp đến ở Việt Nam.

Stalin bảo vệ đất Nga - P2

Phần 2. Hiến pháp của Stalin tiến bộ nhất thế giới

Truyền thông phương tây, các sử gia phương tây được cấp tiền đã tạo ra hình ảnh Stalin không có bất cứ cái gì tốt đẹp. Ngược lại, chúng biến ông thành "độc tài", thành “đao phủ”. Với định kiến có sẵn như thế, thậm chí ngày nay rất nhiều người thậm chí không bao giờ ngờ vực thực sự Stalin đã muốn gì? Bài báo của Ladislav Kashuka trên tờ báo Czech Free Press viết như thế. Theo quan điểm của Kashuka, Stalin coi đảng CS là công cụ để đạt được "chuyên chính của giai cấp vô sản" – nghĩa là, chính quyền của nhân dân. Không giống như các vị "CS" khác sau Stalin coi đảng chỉ là "phương tiện để cai trị nhân dân”. Hậu quả là, cả CNXH và CNCS bị trượt dốc thành đảng duy nhất "độc tài vô thần" và đã làm nhân dân thất vọng cũng như họ đã thất vọng với các đầu sỏ và CNTB – tác giả nhấn mạnh. Tuy nhiên, Stalin nhìn thấy ở đảng CS phương tiện và sức mạnh chủ động mà với nó, có thể chiến thắng chủ nghĩa tư bản "hút máu giai cấp lao động" và thiết lập “chuyên chính của giai cấp vô sản", ở đó quyền lực đất nước và mọi tư liệu sản xuất sẽ thuộc về nhân dân, mà không phải trong tay một số ít giàu có.

Ở đây, không thể dựa vào quan điểm chỉ trích Stalin của phương tây khi rất ít họ có rất ít thì giờ rảnh rỗi để đọc nguyên bản các công trình của ông ấy, tác giả tin rằng: "Phần lớn đọc các bài viết có tính chất vu khống, được viết theo đơn đặt hàng của những kẻ sợ hãi Stalin thậm chí cả sau khi ông chết. Cùng những kẻ như thế ngày nay sợ hãi cả Vladimir Putin và cũng đang tìm cách bôi nhọ ông ấy".

Hậu quả là với thái độ tiêu cực như thế, rất ít ai từng xem cái gọi là "Hiến pháp Stalin 1936", phần lớn được viết bới chính Stalin với đảm bảo quyền lợi rộng rãi cho người lao động – nhà báo Czech nhấn mạnh. Phần lớn thậm chí chưa từng nghe Stalin không chỉ tăng mức lương thực tế cho công nhân mà còn đều đặn giảm giá thực phẩm, hàng hóa cơ bản và nguyên vật liệu hàng năm. "Chính là Stalin muốn dần dần mọi thứ sẽ sung túc, đủ khả năng cung cấp cho dân chúng theo nhu cầu mà không phải trả tiền". Khi đó, Stalin lấy từ tư tưởng Marxist chỉ một phần nhỏ kinh tế và ý tưởng hợp tác quốc tế dựa trên lợi ích giữa các quốc gia. Ông đã "chối bỏ toàn bộ tư tưởng về sự thoái hóa quan hệ gia đình (Angel)”, khước từ xóa bỏ biên giới quốc gia, ngăn chặn nhào trộn và thủ tiêu các nền văn hóa riêng biệt” (thứ gọi là đa văn hóa, toàn cầu hóa, mở cửa của bọn tư bản toàn cầu ngày nay)”.


Trong khuân khổ CCCP, Stalin không hoàn toàn triệt tiêu bất cứ nhà nước thành viên nào: ông đã thiết kế tiền đồ nhà nước liên bang trong hiến pháp của mình, trong đó quyền hạn lớn được trao cho 1 hội đồng các nước CH riêng biệt, cho những người được lựa chọn vào các vị trí có hạn chế của Ban chấp hành TW CPSU. Vì thế các nước CH có được quyền tự quyết rộng lớn và độc lập để đạt đến sự thịnh vượng của mình, họ chỉ phải đóng góp vào ngân sách liên bang 1 phần nhỏ lợi nhuận của họ, cần thiết để bảo vệ lãnh thổ và hình thành dự trữ tài chính đề phòng tình huống kinh tế khó khăn trong các nước CH của liên bang, được nêu trong điều khoản hiến pháp. (Điều này trái ngược hoàn toàn với Lenin chủ trương tập trung quyền lực vào nhà nước liên bang và hạn chế quyền các nước CH – ND).

Tác giả nhấn mạnh: "Tôi có 13 cuốn sách về Stalin, tôi đã đọc về hiến pháp, do đó tôi có thể nói 1 cách trung thực răng tôi biết ông ấy đã muốn đạt đến điều gì và đã đi đến đâu. Tuyển tập các điều luật này, thứ mà “độc tài” Stalin xây dựng, thực sự là "hiến pháp tiến bộ nhất của thời ấy". Ngoài 1 số hạn chế của chính quyền TW, nó cũng đảm bảo cho các công dân quyền tự do hội họp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và hợp tác xã, quyền khám chữa bệnh, quyền nhận lương hưu, quyền được phục hồi danh dự, quyền bình đẳng tất cả các dân tộc, giới tính và "rất nhiều điều mà khi đó trên thế giới một cách chính xác là chưa hề có".

Tuy nhiên WW-2 nổ ra đã ngăn cản Stalin thực hiện kế hoạch này. Sau chiến thắng phát xít, dù đối mặt với nhiều khó khăn, Stalin đã hiện thực hóa phần lớn nó 1 lần nữa. Nhưng sau cái chết của ông, Khrushchev và những quan chức nửa mùa trong CPSU đã giết chết nó. Họ không muốn quyền lực khổng lồ không tập trung vào chính quyền liên bang.

Cho dù bản hiến pháp 1936 tồn tại đến 1977, thì Khrushchev cũng đã kết liễu thời đại "cộng sản - chủ nghĩa Stalin” và mở ra thời kỳ "độc tài 1 đảng và 1 tư bản nhà nước lệch lạc nào đó. Từ đó bắt đầu sự phân ly dần dần của những người CS với phần còn lại của quần chúng lao động, dẫn đến hậu quả cuối cùng là sự trở lại của chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời và lạc hậu với tất cả tiêu cực bất bình đẳng và khủng hoảng kinh tế xã hội. Quay lại tư tưởng Stalin đã 1 lần nữa trở thành chỗ dựa để vượt qua vũng lầy trì trệ và suy đồi đạo đức. Không hoàn toàn nhất thiết phải gọi những tư tưởng này là CHXH hay CNCS. Nó giống dân chủ nhân dân hơn –một cái tên phù hợp nhất với quyền lực của nhân dân, mà không phải quyền lực của 1 số ít kẻ nắm quyền hay 1 đảng duy nhất."

Stalin biết dân chủ loại trừ khả năng chuyên chế vô trách nhiệm với quần chúng không hiểu biết gì về lá phiếu bầu trước các ông chủ hệ thống phương tây. Nhưng một sự đảm bảo để hình thành 1 xã hội như vậy chỉ có thể là hoạt động trí tuệ, mà đa số dân chúng đơn giản là không có thời gian vì tham gia vào sản xuất. Do đó, cần phải đọc thêm: "Sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng văn hóa quan trọng như vậy trong xã hội mà không có thay đổi lớn trong tình hình lao động hiện tại. Để làm điều này, trước hết, cần giảm giờ làm việc, ít nhất là 6, và sau đó đến 5 giờ. Điều này là để đảm bảo rằng các thành viên của xã hội có đủ thời gian tự do cần thiết để có được một nền giáo dục toàn diện.

Để làm điều này, cần thực hiện giáo dục phổ quát bắt buộc cần thiết cho các thành viên quần chúng có cơ hội để tự do lựa chọn nghề nghiệp mà không bị trói buộc cả cuộc đời vào bất kỳ một nghề nào. Đối với mục đích này, cần tiếp tục cải thiện triệt để điều kiện sống và nâng cao tiền lương thực tế cho công nhân và người lao động ít nhất 2 lần, nếu không nhiều hơn, cả bằng cách tăng tiền lương trực tiếp tiền và, đặc biệt, bằng cách giảm giá có hệ thống hàng hóa tiêu dùng. Đây là những điều kiện chính của việc chuẩn bị chuyển đổi sang chủ nghĩa cộng sản.

Để biết chi tiết hơn, cần đọc “Các vấn đề kinh tế của CNXH CCCP” tác giả: Stalin công bố 1952. 1952 г, работа «Экономические проблемы социализма в СССР»;

-------------------------------

+ Bản Hiến pháp 1918 gọi là Hiến pháp CH Xô viết XHCN Liên bang Nga (không phải hiến pháp Liên bang Xô viết).
+ Hiến pháp Liên bang Xô viết đầu tiên năm 1924 dựa trên Hiệp ước thành lập Liên bang các nhà nước Xô Viết.
+ Hiến pháp Liên bang Xô viết 1936 do Stalin chủ trì và 1 hội đồng 31 thành viên biên soạn.

Ảnh: “Chúng ta có kẻ thù bên trong. 
Chúng ta có kẻ thù bên ngoài. 
Các đồng chí không được phép quên điều này, 
dù chỉ một phút nào.” - Stalin

Stalin bảo vệ đất Nga


Kỷ niệm ngày sinh thực 18 tháng 12 năm 1943, Joseph Stalin khai trương trường quân sự Suvorov. Từ ngôi trường này, Sergey Zhelenkov giới thiệu cho chúng ta lịch sử cuộc đời thật của Stalin, được viết trên các sự kiện và tư liệu mà chúng ta ngày nay rất khó để tin…

Stalin? Dzhugashvili? Przhevalsky? Hay tu sĩ Mikhail?

“Я знаю, что после моей смерти на мою могилу нанесут кучу мусора, но ветер истории безжалостно развеет ее!” (И.В.Сталин, 1943 г.)

“Tôi biết, sau cái chết của tôi, có nhiều kẻ mang đống rác rải lên trên mộ tôi. Nhưng ngọn gió lịch sử sẽ quét nó đi 1 cách không thương tiếc!” (Stalin, 1943)

Phần 1. Stalin đã trả lại vàng bị chiếm đoạt bởi Bolsheviks và nhà băng quốc tế như thế nào.

Để đánh giá vai trò rất đặc biệt của Stalin trong việc cứu nước Nga khỏi bọn Bolsheviks-Trotskyists tham lam ghê tởm, những kẻ đã chiếm đoạt quyền lực Nga năm 1917, và vai trò của ông trong việc lấy lại tài sản Nga đã bị đánh cắp và mang ra nước ngoài – cần phải xem xét một số dữ liệu về vấn đề này của CPSU mà I. L. Bunich đã nghiên cứu năm 1993 và dựa vào đó viết cuốn sách "Vàng của đảng” (Золото партии). Đọc những dòng chữ đầy cảm xúc này, có thể hình dung số phận nước Nga rất bi thảm nếu như quyền lực không được chuyển giao kịp thời cho nhà yêu nước sáng suốt đến khó tin như Yosif Vissarionovich Stalin…

"Tháng 10 năm 1920, cảm thấy mình ít nhiều tin tưởng, Lê Nin ký sắc lệnh (ngày 26 tháng 10) "Về bán bảo vật cổ ra nước ngoài", nghĩa là hợp pháp hóa đến mức có thể để mang tài sản quốc gia Nga ra nước ngoài, như đã từng bí mật thực hiện trước đó, trong chừng mực đã biết, cần đến các chi tiêu không nhỏ bởi nguy hiểm. Đã có cái gọi là "Hội đồng chuyên gia" do Rakitsky – kẻ rất tin cậy đứng đầu, được phái sang châu Âu.

Ở Paris, London và Florence, các cuộc đấu giá đầu tiên được tổ chức, nó gây ra bê bối mạnh và nhạy cảm, khi rất nhiều người biết các chủ sở hữu của các món đồ đem đấu giá. Người ta biết các cựu chủ nhân của chúng đã bị bắn chết hay đã mất tích. Tuy thế, chẳng có ai đưa ra bất cứ giấy tờ nào cần thiết cho tòa án dân chủ để có được giấy phép cần thiết bán các bảo vật này. Các cuộc đấu giá, nhờ bán rẻ và sự độc đáo của các món đồ, đã rất thành công, thu được món tiền lớn. Hàng trăm hãng đấu giá đã đuổi theo các "chuyên gia" của Lê Nin, đề nghị hợp tác để cướp đoạt. Trong thời gian này, số lượng các đồ vật bị tịch thu ở Nga được đo đếm là hàng nghìn tấn. Nhưng điều ngay lập tức làm người ta chú ý là tất cả những kẻ tham gia vào giao dịch "hợp pháp" (cũng là điều ngạc nhiên viết trên báo châu Âu), là vấn đề tiền thu được từ các cuộc đấu giá, được các “chuyên gia” đề nghị không chuyển về Nga, mà để trong các tài khoản ngân hàng ở châu Âu và Mỹ. Một số vị đã chuyển thành tiền mặt, đựng đầy trong các va li. Vụ làm ăn đã có qui mô quốc tế..." (p. 45)

"Trong thời kỳ nhìn vào ‘tấm gương” cán bộ Lê Nin, một lần nữa cho thấy sự tham lam và phóng đãng đến vô độ của họ. Các thành viên Ban chấp hành TW, như qui luật, sống trong các dinh thự cổ, thể hiện sự yếu đuối đến khổ sở với các đồ dùng đắt đỏ, bàn làm việc khảm vàng và bạc, những bộ đồ ăn và các tấm thảm quí giá, cũng như các bức họa cổ trong khung bằng vàng.

Áo khoác da và lông thú đối với họ như đồ hàng ngày. Trong 1 số dinh thự  thậm chí vẫn giữ đội ngũ người hầu, quản gia và đầu bếp cũ. Dinh thự Yusupov gần Matskva mà Trotsky ngự, vẫn dùng các viên cảnh vệ trẻ từ đội kèn cũ, gương mặt bất hạnh dưới vành mũ lưỡi trai, dập gót giày đôm đốp và biết cách cúi đầu kính cẩn bởi thứ bậc và phẩm hạnh chế độ cũ.

Lê Nin, mặc dù cười, nhưng không hề can thiệp khi tự thấy mình cũng không quá xa lạ với điều đó. Hàng ngày ký đơn đặt hàng và yêu cầu thực phẩm cho nhà ăn của Ban chấp hành TW và phục vụ điện Kremlin, ông quan sát cặn kẽ các loại thực phẩm gồm 3 loại trứng cá muối, các loại thịt, xúc xích và pho mát đa dạng, các loại cá ngon, dưa chuột muối và gia vị mà ông đặc biệt ưa thích, cùng nấm và 3 loại cà phê. Lê Nin là người sành ăn, và trong giữa lúc nạn đói chưa từng thấy cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người mỗi ngày, vẫn có thể nói với Gorbunova rằng "trứng cá ngày hôm qua có vị dở", "nấm trong nước sốt tệ" và rằng "không dở để nấu cho tù ăn cả tuần". Chính công tước Sergey Aleksandrovich ở làng Gorky gần Matskva đã cung cấp cho Lê Nin.

Tất cả dân của làng đã bị trục xuất. Binh lính cảnh vệ quốc tế sống trong những ngôi nhà rỗng của họ, những kẻ này, lúc đó vì 1 lý do nào đó, người ta gọi là "những tay súng người Latvia", mặc dù người Latvia chỉ có độ 20 người." (p. 46)

"Sống như thế, dĩ nhiên, rất vui sướng, và chẳng có ai muốn rời đi. Do đó, khi biết Lê Nin có kế hoạch chuyển tất cả bảo vật ra nước ngoài cho “cách mạng thế giới" và để đào tẩu sau cùng, các cán bộ thường xuyên gây áp lực lên lãnh đạo rằng chẳng có cơ sở nào để đào tẩu. Cần phải tiếp tục xây dựng “xã hội chủ nghĩa" ở Nga theo phương pháp rất bẩn thỉu: bắn và tịch thu. Lê Nin luôn luôn đồng ý và lớn tiếng bào chữa cho các tòng phạm của mình vào tháng 3 1921 rằng, không dễ gì thay đổi học thuyết và chính sách của đảng…"

Khi Cheka bắt đầu đối phó với nạn trộm cắp kho Gokhran và bắt giữ kẻ tâm phúc của Lê Nin, nhà lãnh đạo giai cấp vô sản đã can thiệp. Đáp lại, Cheka gửi lại bức thư: "Phải chăng ông đã không gửi cho chúng tôi mẩu thư tháng 4 năm 1921”:

"Tuyệt mật cho T. Unshlikht và Boky! Điều này bậy bạ và không được việc! Không thể làm như thế. Hãy xem họ viết gì ở đó. Ngay lập tức hãy tìm, nếu cần, cùng Hội đồng tài chính dân biểu và đồng chí Basha dò la. Vì sự bí mật của bài báo này, đề nghị gửi trả nó lại cho tôi ngay cùng bài báo kèm theo và ý kiến riêng của đồng chí. Lãnh đạo SNK Lê Nin".

"Kèm theo" là mẩu báo cắt ra từ tờ New York Times (bởi chính Lê Nin, chữ phê bằng tay): "Mục tiêu của các lãnh đạo "giai cấp công nhân" Bolshevik Nga, chắc là, khát vọng điên rồ để trở thành một Garun-al-Rashid thứ 2 (vua Ba Tư) với chỉ 1 khác biệt là vị chúa tể huyền thoại giữ báu vật trong hầm cung điện thuộc về ông ta ở Baghdad còn Bolsheviks, trái lại, thích giữ của cải ở nhà băng châu Âu và Mỹ. Chỉ trong năm ngoái, như chúng ta biết, trong tài khoản của các thủ lĩnh Bolshevik đã có chuyển:

Từ Trotsky – 11 triệu đô la trong 1 nhà băng Mỹ và 90 triệu francs Thụy Sĩ trong nhà băng Swiss.
Từ Zinovyev – 80 triệu francs Thụy Sĩ trong nhà băng Swiss.
Từ Uritsky – 85 triệu francs Thụy Sĩ trong nhà băng Swiss.
Từ Dzerzhinsky – 80 triệu francs Thụy Sĩ trong nhà băng Swiss.
Từ Ganetsky – 60 triệu francs Thụy Sĩ và 10 triệu đô la.
Từ Lê Nin – 75 triệu francs Thụy Sĩ.

Có lẽ chính xác hơn khi gọi “cách mạng thế giới" là "cách mạng tài chính thế giới", tất cả các ý tưởng của nó là thâu tóm mọi tiền bạc của thế giới vào trong tay độ 2 chục cá nhân. Từ tất cả điều này, tuy nhiên, có 1 kết luận thô tục, nhà băng Thụy Sĩ, trên tất cả, theo quan điểm của Bolsheviks, là tin cậy hơn nhà băng Mỹ. Thậm chí Moise Uritsky (1 nhà cách mạng Bolsheviks Do Thái – dĩ nhiên thế) vẫn tiếp tục giữ tiền ăn cướp được của mình ở đây mãi về sau này." (p. 47)

Cuộc điều tra đã bắt đầu giáng đòn. Ở Moskva, nhà báo Mỹ của AP Margarita Garrison bị buộc tội gián điệp. Sau đó, nhà báo Mỹ Adolf  Karm đến Moskva theo ủy nhiệm của Đảng lao động xã hội Mỹ bị bắt. Một số công dân Mỹ khác cũng bị bắt. Tất cả họ bị buộc tội thu thập tin tức tình báo quân sự và các nhân vật chính trị. "New York Times" – là tờ báo Mỹ, có nghĩa là người Mỹ cần phải trả lời.

Bất chấp logic sắt trong những tuyên bố tương tự, Lê Nin trên hết đã tỏ ra có ý nghĩ rằng, trong các vụ như thế này, Cheka sẽ không làm rò rỉ mà chỉ đơn giản bằng khả năng chất phác, cố để gặt hái được 1 thỏa thuận từ cuộc đàm phán sắp tới với nghị sĩ Mỹ Frens, kỹ sư Vanderbild, kẻ mà Lê Nin coi – theo thăm dò của Cheka, một cách nhầm lẫn là tỷ phú Vanderbild, cùng nhà buôn Hammer. Trong đầu nhà lãnh đạo thiên tài nảy ra ý nghĩ bán tất cả các mỏ khoáng sản Nga, và ông ta đã bắt đầu tăng cường tuyên truyền ý tưởng của mình về "nhượng quyền".

Tờ báo “New York Times” số ra ngày 23 tháng 8 1921 viết: "Nhà băng Kuhn, Loeb & Co. (của tỷ phú Do Thái Wall Street Jacob Schiff) tài trợ cuộc lật đổ Nga 1917 qua chi nhánh Đức của hắn ta, Schiff  đã không thua thiệt bởi các vị khách hàng tạ ơn. Chỉ trong nửa năm sau, các nhà băng của ông ta đã nhận qua Hội đồng vàng tổng cộng 102.290.000 đô la [*]. Các nhà lãnh đạo cách mạng tiếp tục tăng các khoản tiền gửi  trong tài khoản của mình tại nhà băng Mỹ. Trotsky, chỉ trên 2 tài khoản ở nhà băng Mỹ đã lên đến 80 triệu đô la sau này. Cũng như chính Lê Nin kiên trì giữ khoản "tiết kiệm" của mình ở nhà băng Thụy Sĩ, bất chấp lãi suất ở lục địa tự do Mỹ cao hơn". (p. 48-49)

"Chúng tôi không có tiền!" – Lê Nin kiên trì nhắc lại điều này với vẻ hùng biện, cả trong cuộc nói chuyện riêng với Alexey Maksimovich Gorky và các nhà kinh doanh Mỹ. Không có tiền – còn cuộc nổi loạn vì đói bị đàn áp không thương tiếc bằng các vụ hành quyết hàng loạt. Tháng 6 1921, công nhân đường sắt Ekaterinoslav bị đói và kêu gọi đình công. Đám đông vô sản đã bị bắn bằng súng máy. 240 người bị bắt tại chỗ, trong số đó, 53 người bị bắn bỏ ngay lập tức trên bờ sông Dnieper và vứt xác xuống nước. Cheka Kharkov ra các lệnh trừng trị nổi loạn khác ở Kharkov, thủ đô Ukraina lúc đó. Một phần của nhiệm vụ đặc biệt này là càn quét các ngôi làng bị đói, bắn bất cứ ai tụ tập vì đó là “âm mưu Menshevist". Khắp Nga, hàng triệu người không nhà cửa, chết đói, trẻ em mất cha mẹ trong cái cối xay thịt người Bolshevist [**].

“Ở Petrograd, Odessa và Nikolaev, tàu buôn nước ngoài chở lúa mỳ đi và đổi lấy vàng. Lê Nin thăm dò đất trồng để đổi cho nước ngoài về khả năng bán 1 lần toàn bộ gỗ rừng Nga lấy 1 tỷ rub vàng. Các chủ Mỹ thấy rõ ở nhà lãnh đạo này chi tiết về việc mua mỏ Nga. Thậm chỉ cả các chi tiết: họ cần phải trả bao nhiêu cho khoản lương thợ mỏ, công nhân ngành than khai quặng? Người Mỹ đề nghị trả nhân công 1,5 đô la mỗi ngày. Lê Nin sợ hãi: Không có cách nào! Không có giá nào! Chúng ta sẽ tự trả! Các vị đứng lo lắng. Người Mỹ cảm thấy bị chơi xỏ, họ đã không bỏ ra 1 đồng nào. Còn đất nước tiếp tục chết vì đói." (p. 50)

"Gorky – "con chim báo bão cách mạng” với đôi cánh đã bị vặt lông và xén cụt – đã lẻn đến Lê Nin kêu gọi cứu giúp nạn đói. "Chúng ta không có tiền để cứu nạn đói, – Lê Nin trả lời cộc lốc – Trong gia tài giai cấp tư sản, chúng ta kế thừa đống đổ nát, khổ hạnh và bần cùng hóa!". Nhưng Gorky được phép tập hợp 1 ủy ban trợ giúp nạn đói từ các vị trí thức chưa bị thanh trừng và từ cầu xin giúp đỡ ở phương tây."


Trên cái gia tài như thế, Stalin xuất hiện...

"Ngay từ 1922, Stalin đã cố điều tra cách để thu hồi một lượng lớn tài sản quốc gia Nga bị mang trái phép sang phương tây. Nhưng lúc đó ông không nắm bộ máy Cheka trong tay. Cuộc điều tra được tiến hành bí mật và rất thận trọng, nhưng không đưa đến 1 kết quả thực sự nào. Những đầu mối phát hiện được nhanh chóng đứt đoạn trong các nhà băng quốc tế kỳ quái và uẩn khúc. Nếu thành công trong việc phát hiện các kênh mà trước kia đã nhận trái phép vàng Nga, thì các kênh này đã tung vàng ra thị trường, và lấy lại là không thể. Cũng chẳng ai có được hiểu biết về tất cả các hoạt động của hàng ngàn chi nhánh các nhà băng bao trùm cả thế giới. Trong khi ở Moskva gióng trống vô sản toàn thế giới, thì âm thầm và khó nhận ra, kẻ lãnh đạo thế giới của cuộc cách mạng tài chính thế giới đã chuẩn bị sẵn kẻ nắm quyền hoặc băng nhóm nắm quyền ở đất nước này, đó là cách khôn ngoan để tận dụng cơ hội kinh tế-chính trị tạo ra bởi cuộc cách mạng này.”

Còn 1 may mắn, với nỗ lực phi thường và đầy rủi ro đã di chuyển và cất giấu được kho bảo vật nhà nước (Gokhran). Khi đó điều này là trái ngược với chủ trương của lãnh đạo mật vụ hàng đầu OGPU (mật vụ Nga). Họ khi đó là tổ chức không thể tin cậy. Họ có thể tìm ra nơi cất giấu? Điều này là 1 vấn đề.

Cái chết của Lê Nin đã giải phóng đôi tay. Thực tế là Lê Nin đã tự đưa mình xuống mồ, bỏ lương tâm của ông ta ở lại. Nhưng những người yêu nước Nga vẫn còn phải chiến đấu với các phe cánh và những đồng sự thân cận của ông ta. Cần phải hiểu điều gì đã xảy ra trong mớ bòng bong chết chóc những mưu kế từ điện Kremlin, nơi chẳng có gì là không thể mưu tính thậm chí chỉ trong nửa ngày. Dường như, các đối thủ hùng hậu từ đội ngũ cận vệ Bolshevist cũ đang vứt bỏ "các nhân vật nửa mùa" vào cát bụi, người ta nói về Trotsky như thế, và sẽ chẳng còn ai nhớ về hắn – nhà cách mạng tháng 10 vĩ đại – gã Do Thái vô lại, tàn nhẫn đã dìm cả nước Nga trong biển máu người Nga để làm giàu cho các ông chủ tư bản ở London, New York và mưu đồ ném nước Nga vào lò lửa cách mạng thế giới.

Về lý thuyết, điều như thế cần xảy ra và trên thực tế đã xảy ra. Tất cả họ đã lâu không phải là chiến sĩ. Không chỉ họ bỏ thói quen chiến đấu, mà thậm chí ngay cả thói quen làm việc. Họ sống xa hoa, hủ bại và tàn nhẫn còn hơn cả giới tư sản họ đã tiêu diệt. Ở Nga, người ta không còn muốn họ tồn tại, ở châu Âu sợ hãi họ đến. Nga đã không trở thành châu Âu như người ta biết trước WW-I, không 1 chút nào. Những điều xảy ra sau cách mạng tháng 10 không hề ngọt ngào, đầy rẫy thói quen, tật xấu đã mắc phải sau 7 năm vô luật lệ. Chỉ có Trotsky vẫn còn tỏ ra ngoan cố. Đã có những quyết định ra đi sau những bàn cãi mệt mỏi về lối thoát. Cần phải giết ai đầu tiên, và ai là kẻ kế tiếp!

Vào lúc Trotsky bị trục xuất, giám đốc OGPU, gã Do Thái Heinrich Yagoda đã nộp lên Stalin 1 số lượng các tài khoản cá nhân và danh sách những kẻ dính líu đến những tài khoản này, tất cả bọn chúng đã nhúng tay làm giàu nhờ cướp bóc chưa từng có trong lịch sử bằng cái tên Cách mạng XHCN tháng 10 vĩ đại. Yagoda chỉ không nêu tên mình trong số tài khoản đó, hắn ngây thơ tưởng hắn là nguồn thông tin duy nhất của Stalin. Sau đó, hắn đã phải tự đưa tên mình vào danh sách, nhưng thực sự đã quá muộn để có thể khoan dung vì ăn năn hối cải. Hắn bị tòa án xử tội chết vì phản quốc và âm mưu chống nhà nước Liên Xô. Vợ hắn, 1 ả Do Thái tham lam bị xử bắn 1 năm sau đó.

Tất cả bọn chúng bị Stalin tóm cổ, lột bỏ đến đồng xu cuối cùng. Nhưng chỉ sau khi phun máu ra khỏi phổi, bị nhổ sạch cả hàm răng, và trước khi nhận viên đạn vào đầu, mới chịu cung khai và “tự nguyện” chuyển tiền từ nhà băng phương tây trả lại cho nước Nga. (p. 59)

Zinovyev, Kamenev, Bukharin, Menzhinsky, Ganetsky, Unshlikht, Boky – tất cả thì không đếm được. Dù vậy, Stalin đã không bỏ sót 1 kẻ nào. Thậm chí cả vợ Lê Nin, đợi Nadezhda Krupskaya tự mình giải thích, rằng bà ta đang chờ đợi, vì sao không đem tiền của nhà lãnh đạo vô sản thế giới ra khỏi nhà băng Thụy Sĩ. Nhưng chỉ hôm sau tất cả sẽ quên bà ta là vợ của Lê Nin, là bà qủa phụ, và coi rằng quả phụ cho đồng hương – kẻ đồng hương với Bela Kuhn mang trộm vàng ra khỏi Sevastopol.


Nadezhda Konstantinovna Krupskaya sụp đổ, bà ta đã giao nộp tất cả. Và các đồng hương đã theo gương. Tất cả đã giao nộp tự nguyện, chắc là họ nhớ tấm gương tội đồ Bela Kuhn, vì lý do nào đó hắn đã không muốn giao nộp của cải hắn cướp đoạt được! Nhưng chỉ sau 3 ngày bị đánh, thì đồng xu cuối cùng cũng bị đập vỡ, còn sau đó – bắn! Tất cả bọn chúng nhanh chóng hiểu ra, "quốc tế cộng sản" không thể bị trừng phạt chỉ là ảo giác, còn nước Nga có trật tự và luật lệ là đời thực và không hề khách sáo với các vị “khách quốc tế”. Còn những kẻ có “ngoại bang” che chở, kẻ ngồi ở nước ngoài chi tiền làm cách mạng thế giới – thì cũng chỉ có 1 số người Mỹ chạy thoát, nhưng kể từ đó chẳng còn ai nghe nói về chúng nữa.

Tiền đã về lại Nga, nhưng chỉ từ các tài khoản cá nhân – đó chỉ là giọt nước trong biển. Quá ít! Kế hoạch xây dựng đất nước của Stalin cần nhiều hơn thế. OGPU đã lùng sục khắp thế giới và NKVD, kẻ thừa kế trong quá trình tìm kiếm  vô số tài sản bị đánh cắp đã gọi đảng của Lê Nin là "đảng bằng vàng". Lục soát “đảng bằng vàng" và cơ quan mật vụ, đập vỡ đầu những nhà băng bị bắt nhưng vẫn không tìm thấy vàng. Chúng đã cất giấu ở đâu? Cái gì đã xảy ra? Rất khó để nói chính xác, nhưng 1 loạt các nhà điều tra tin là "đảng bằng vàng" đã đem chúng sang Mỹ. Mỹ đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng tồi tệ trong thập kỷ 20 là nhờ vàng Nga và còn làm bùng nổ kinh tế ở những năm tiếp theo thời Roosevelt. Chẳng có ai viết “Lịch sử tài chính thế giới” khi các bí mật tài chính, không như chiến tranh và nhà nước, đã không hề được tiết lộ trong suốt lịch sử, nó càng ngày càng trở nên khó thâm nhập…" (p. 60)

Stalin đã hướng mọi nguồn lực mình có vào xây dựng đất nước. Ông không hủy hoại nhà nước Nga mà xây dựng nó.

Và vì thế đã quan tâm đến dòng chảy giá trị của đất nước mà không của nước ngoài. Đầu tiên là ông thành lập đảng CS của những người Bolshevik hay đảng CS toàn liên minh từ thanh lọc, thay máu toàn bộ đảng của Lê Nin. Băng đảng của bè lũ râu tóc bù xù hay kêu la trong các bộ áo da (Do Thái), những kẻ tham lam và cố chấp, những kẻ liên can bằng vô số đường dây đến các tổ chức nước ngoài không ít đen tối – chúng thường mơ tưởng chuyển trung tâm cách mạng thế giới từ những nơi bẩn thỉu, thiếu văn hóa giáo dục, như Moskva sang đâu đó như Berlin hay Paris, nơi chúng dưới lý do này khác đã đến 2, 3 lần mỗi năm – đảng như thế chỉ biết giết chóc và cướp bóc, còn xây dựng 1 cái gì đó nghiêm túc là điều chúng không thể. Do đó chúng cần phải nhanh chóng rời khỏi hiện trường với của cải cướp được, đào tẩu càng nhanh càng tốt, cái còn lại của đảng chỉ là cái xác vô hồn, do vậy mà đảng mà Stalin muốn thiết lập, dù mang tên gì cũng không tránh khỏi phải dùng đến trật tự của lưỡi gươm và kỷ luật khắc nghiệt.

Stalin đã thiết lập nguyên tắc công bằng và nguyên bản cho các đảng viên cấp cao, điều mà ngày nay người ta không quan tâm... "Vợ của Kalinin, theo quán tính vô luật lệ của Lê Nin, đã lấy áo khoác lông chồn nâu từ kho bảo vật Gokhran, vốn thuộc về hoàng hậu qua 1 cuộc săn bắn. Kết quả là bà ta có cơ hội để suy nghĩ tốt về hành động của mình trong những năm ở tù. Vợ Molotov cho rằng mình có quyền lấy vương miện cưới của Nữ hoàng Catherine II trong kho Gokhran và làm quà cho vợ đại sứ Mỹ, bà này vào tù. Các ông chồng đầy quyền lực ngự trên đỉnh của đảng và nhà nước chẳng thể làm gì. Thứ họ cho là chiến lợi phẩm đúng luật của mình thì Stalin coi thuộc nguyên tắc của nhà nước..." (p. 63)


Một số điều đề cập bên trên là tư liệu từ sách "Gold of Party - Золото партии" 1993 của I. Bunich.

Điều chúng ta cần là nhớ lịch sử thật để không lặp lại lỗi lầm của nó trong thế kỷ 21.

[*] Quái vật đảo Jekyll (The Creature from Jekyll Island) cho biết chi tiết về việc các nhà băng Do Thái cấp tiền làm Cách mạng tháng 10 Nga. Trang 123: Who financed Lenin and Trotsky?

[**] Bolshevik và Menshevik: Hai cái tên này ra đời từ đại hội Do Thái - đảng lao động dân chủ xã hội Nga (cộng sản) lần thứ 2 họp ở London năm 1903. Trong đại hội này, 1 phe đòi đảng phải phục tùng dân Do Thái, 1 phe đòi Do Thái phải phục tùng chỉ đạo đảng. Phe đầu thiểu số gọi là Menshevik, phe sau lớn chiếm đa số gọi là Bolshevik. Hai từ này theo tiếng Nga nghĩa là nhvà lớn. Nhưng cả 2 đều là Do Thái, cũng như Zionist, Fascist đều là Do Thái. Cái nôi mọi cuộc cách mạng, không phải là Nga, Đức, hay Mỹ, mà chính là London vởi tiền tài trợ cách mạng của Do Thái. Cờ quạt phông màn của đại hội Bolshevik – Menshevik tuyệt nhiên không có chữ Nga chữ Anh nào, chỉ có chữ Hebrew!

STALIN ĐÃ BẢO VỆ NGA VÀ NHÀ THỜ P3

Stalin bảo vệ Nga và Nhà thờ

Ảnh: Đại giáo chủ Alexy I tại tang lễ Stalin.
Đại giáo chủ Alexy I đã không đến tang lễ Yeltsin.

Khi nói về việc Stalin đã bảo vệ Nga, cần phải dẫn lời tiến sĩ khoa học lịch sử I. Froyanov: "Theo ý định của Trotsky và các đồng sự của hắn, cần phải sử dụng Nga như vật liệu cháy để đốt lửa cách mạng thế giới. Trong đám cháy cách mạng, dĩ nhiên chính Nga sẽ bị thiêu trụi. Stalin đã hành động theo cách khác. Ông đã quốc hữu hóa CMT10, đã tuyên bố "thiết lập CNXH trên 1 đất nước riêng biệt". Điều này, theo quan điểm của tôi, là tốt đẹp cho nước Nga lịch sử. Tôi thậm chí từng có ý khẳng định rằng, nhờ kế hoạch thiết lập CNXH trên 1 đất nước riêng biệt, ở Nga, Stalin đã cứu Nga khỏi bị diệt vong.

Còn đây là những lời được nói ra từ giáo chủ Luka (Voyno-Yasenetsky)-nạn nhân bị đàn áp thời Stalin: "Stalin đã bảo vệ Nga, đã chứng tỏ Nga có giá trị với thế giới. Do đó tôi, như người Chính thống giáo và người Nga yêu nước, cúi mình chào Stalin".

Cùng nói lên ý nghĩ như thế là linh mục uy tín, nhà truyền giáo nổi tiếng nửa sau thế kỷ 20 Dimitri Dudko: "Nếu nhìn vào Stalin từ quan điểm Giáo hội, thì thực sự đây là con người đặc biệt, Chúa ban, Chúa phù hộ, thậm chí địch thủ của ông cũng viết về điều này. Nếu Trotsky với cuộc cách mạng không ngừng của hắn ta thắng lợi…, tất cả chúng ta chỉ là đội quân lao công cho thế lực đen tối. Nhưng Stalin... đã bảo vệ Nga... Bởi vậy tôi như người Chính thống giáo và người Nga yêu nước, nghiêng mình trước Stalin... TÔI NGỒI TRƯỚC STALIN VÀ BREZHNEV, cũng như Lord Luka, đọc to lên: "Stalin – lãnh tụ được Thượng đế ban cho nước Nga".

Rất tiêu biểu là ngay cả Đại giáo chủ Alexy trong tang lễ Stalin cũng nói:  

"Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân chúng ta, Yosif Vissarionovich Stalin, đã không còn. Sức mạnh tập thể, đạo đức, vĩ đại đã ngừng nghỉ. Sức mạnh mà trong đó nhân dân chúng ta cảm thấy sức mạnh của mình, đã được ông dẫn dắt trong sản xuất và lao động sáng tạo, đã được ông động viên trong nhiều năm…

Chúng ta, tập hợp để cầu nguyện cho ông, chúng ta không thể bỏ qua, im lặng mãi với thiện cảm và lòng tốt của ông trước nhu cầu của Nhà thờ chúng ta. Không bất cứ vấn đề nào, mà chúng ta cầu xin bị ông từ chối; ông đã làm thỏa mãn mọi thỉnh cầu của chúng ta. Và nhờ ơn ông đã làm với trách nhiệm cao, hữu hiệu và rất nhân từ, cho Giáo hội Chính thống giáo của chúng ta. Chúng ta và Nhà thờ Chính thống giáo Nga không thể nào quên ký ức về ông. Khóc ông đã rời xa chúng ta, tiễn đưa ông trên đoạn đường cuối cùng, "con đường với cả đất nước", thắp lên lời cầu nguyện.

Trong những ngày buồn này của chúng ta, với tất cả xứ sở của tổ quốc chúng ta, từ các giáo chủ, các nhà tu hành và các tín đồ, và cả từ nước ngoài, từ các trưởng giáo và các đại diện Nhà thờ, cả Chính thống giáo và theo Chính thống giáo, tôi nhận được rất nhiều bức điện, trong đó nói hãy cầu nguyện cho ông ấy, và hãy bày tỏ nỗi lòng của chúng ta trước nỗi buồn mất mát này".

Sự kính trọng của Giáo chủ Alexy bác bỏ chút ngờ vực cuối cùng về “đầy rẫy tội lỗi” của Yosif Vissarionovich trong việc đàn áp Nhà thờ.

Như chúng ta biết rõ, đàn áp Nhà thờ bắt đầu ngay sau CMT10, khi đó giới tu hành thực sự bị đàn áp khủng khiếp. Chúng không bắt đầu bởi "chỉ đạo của Stalin", mà bởi quyết định được chỉ đạo bởi Kiêm nhiệm Lê Nin từ ngày 7 tháng 11 1917 về việc thiết lập “Ủy ban khẩn cấp toàn Nga (gọi tắt là Cheka) để đấu tranh chống phản cách mạng và phá hoại. Quyết định này đề cập đến mọi tầng lớp dân cư bao gồm cả giới tu hành. Chính Cheka đã tiến hành ở Nga chiến dịch khủng bố chống lại tất cả nhân dân, đặc biệt là chống lại giới tu hành 1 cách tàn bạo.

Trong thời gian đó Stalin phụ trách vấn đề lương thực ở phía nam Nga. Sau đó ông làm lãnh đạo quân sự khu vực ngoại vi Kavkaz, rồi lãnh đạo quân sự Mặt trận phía nam. Trở thành Bí thư Ban chấp hành TW đảng CS Nga, Stalin đã chú ý đến cuộc đàn áp bất công chống Nhà thờ và ngay năm 1923, khi Lê Nin vẫn sống, đã gửi tất cả các tổ chức đảng trong đất nước bức thư thông tri "Về quan hệ với các tổ chức tôn giáo". Chi tiết trong thư ra lệnh:

"1) Cấm đóng cửa nhà thờ, nhà nguyện... dựa vào lý do không chấp hành mệnh lệnh của chính quyền về đăng ký và nơi nào đã đóng cửa – bãi bỏ ngay lập tức.

2) Cấm bãi bỏ nhà nguyện, các tòa nhà tương tự bằng cách bỏ phiếu trong cuộc họp với sự tham gia của người không tín ngưỡng hay kẻ ngoài đối với các nhóm tín ngưỡng đã ký hợp đồng thuê phòng hay tòa nhà.

3) Cấm bãi bỏ nhà nguyện, tòa nhà và tương tự vì không đóng thuế, khi cấm kỵ như vậy là không cho phép một cách nghiêm ngặt theo chỉ thị NKY điều II năm 1918.

4) Cấm bắt bớ "nhân vật tôn giáo" khi họ không liên quan đến hoạt động “phụng sự nhà thờ” và tín ngưỡng phản cách mạng 1 cách rõ ràng.”




Như vậy, từ rất lâu trước chiến tranh, Stalin đã dừng đàn áp Nhà thờ và bắt đầu minh oan cho giới tu hành.

Năm 1933, Stalin đã phê chuẩn các biện pháp bảo vệ Nhà thờ khỏi bị phá hủy. Nghị quyết BCT tháng 10 cho biết, trong các năm 1920-1930 ở Moskva có 150 thánh đường bị phá hủy hoàn toàn, 300 nhà thờ bị chuyển đổi. Theo kế hoạch kiến trúc kiến thiết Moskva, dự định phá hủy hơn 500 thánh đường và nhà thờ…

Liên quan đến điều này, 1 quyết định đã được tính đến: "cấm dự án thiết kế trên các giáo đường và nhà thờ là các di tích kiến trúc cổ. Các cơ quan chính quyền Xô Viết và công an công nông thực hiện các biện pháp kỷ luật và chịu trách nhiệm trước đảng để bảo vệ các di tích kiến trúc cổ có giá trị lịch sử.

Sau tất cả điều này, Stalin đã tăng cường bảo vệ Nhà thờ và tu sĩ. Nghị quyết Ban chấp hành TW ngày 11 tháng 11 1939 đưa ra quyết định như sau:

"1. Thừa nhận từ nay trở đi là phi thực tế để cơ quan NKVD USSR săn đuổi giáo dân, bắt bớ người phụng sự Nhà thờ Chính thống giáo Nga.

2. Chỉ thị của đồng chí Ulyanov (Lê Nin) ngày 1 tháng 5 1919 số No. 13666-2 "Về đấu tranh chống cha cố và tôn giáo", gửi chủ tịch Cheka đồng chí Dzerzhinsky, và tất cả các hướng dẫn liên quan của Cheka-VChK-Cục chính trị nhà nước-NKVD đề cập đến ngược đãi, truy lùng người phụng sự Nhà thờ Chính thống giáo Nga và tín đồ Chính thống giáo Nga, bị bãi bỏ.

3. NKVD tiến hành thanh tra tù nhân và các công dân bị bắt, liên quan đến hoạt động tín ngưỡng. Thả khỏi nhà tù và thay thế hình phạt không cần thiết tước đoạt tự do của tù nhân đã định, nếu hoạt động của các công dân này không làm hại đến chính quyền Xô Viết.”

Cả 2, thư thông tri và nghị quyết do chính Stalin ký.

Phục hồi danh dự cho các nhà tu hành cũng đã diễn ra trong những năm Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt là sau cuộc tiếp nhận lịch sử bởi Stalin với các cấp bậc Nhà thờ Chính thống giáo Nga vào ngày 4 tháng 9 1943, sau sự kiện này, Chức Đại giáo chủ đã được phục hồi và hàng ngàn mục sư được giải phóng. Sau 1943, nhờ Stalin chỉ trong 10 năm 22 000 giáo đường đã mở cửa trở lại. Chỉ trong 10 năm! Một tương phản, Nga sau "Cải tổ - Perestroika" 1989 số lượng giáo đường giảm gấp đôi, cũng là 10 năm.

Điều thú vị là chỉ thị của Stalin đối với Chủ tịch Xô Viết đối với vấn đề Chính thống giáo Nga khi đó là G.Karpov tháng 10 năm 1943. Một số trong đó: "Với Xô Viết... không được trực tiếp can thiệp vào đời sống Nhà thờ 1 cách giáo điều, phép tắc, hành chính và công tác của mình cần nhấn tính độc lập của Nhà thờ. Đối với chủ tịch Xô Viết cần thiết lập quan hệ như thế nào đó với Trưởng giáo, để không tạo cho trung tâm giáo hội nguyên cớ để coi chủ tịch Xô Viết như người giám sát. Không nhìn vào túi Nhà thờ và người tu hành... không “châm chích” các nhóm tín ngưỡng và không xem xét vấn đề mở cửa nhà thờ, cần có qui định nhưng không thắt chặt. Xô Viết cần đảm bảo, để các giáo chủ là người chủ đầy đủ của giáo phận, còn quyền của các giáo chủ là qui định của Tổng giáo hội. Không cản trở tổ chức các hội thảo, các lễ đốt nến và tương tự…".

Vẫn cần phải nói là từ 1939 đến 1952, Stalin đã không 1 lần nào triệu tập đại hội đảng Bolsheviks. Nhưng trong thời gian này đã cho mời họp Hội đồng nhà thờ 3 lần! Trong lần đầu tiên năm 1944, Đại giáo chủ Sergy đã nói: "Tôi vô cùng cảm động bởi thái độ thiện cảm của lãnh đạo toàn thể nhân dân chúng ta, người đứng đầu nhà nước Xô Viết Yosif Vissarionovich Stalin đối với nhu cầu của Chính thống giáo Nga, chúng tôi bày tỏ với chính phủ lòng biết ơn chân thành của toàn thể Giáo hội chúng tôi.".

Như được biết khi Giáo hội được khôi phục, Đại giáo chủ đầu tiên là Sergy. "Bầu chọn ông, Giáo chủ Livanskikh Elia viết trong bức điện cho Đại giáo chủ Sergy, đã làm thỏa mãn niềm vui con tim của chúng tôi. Nhà thờ ở Lebanon đã mở cửa suốt 3 ngày đêm và gióng chuông chúc mững. Ơn Chúa đã hồi phục Chính thống giáo ở Nga và chúng tôi cầu nguyện cho chiến thắng của quân đội Nga dưới sự dẫn dắt của Nguyên soái Stalin, Người bảo vệ vĩ đại của nhân loại".

Để kết luận, chúng ta dẫn lời Đại giáo chủ Alexandria Hristofor vào thời đó: "Nguyên soái Stalin là 1 trong những con người vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, ông đã nuôi dưỡng lòng tin đối với Nhà thờ và đối xử khoan dung với họ...".

Đúng là về Stalin đã bày tỏ: Quá khứ thuộc về Thượng đế. Dĩ nhiên, Thượng đế định đoạt cả tương lai, nhưng theo ý nghĩa phán xét của Thượng đế dựa trên quá khứ quyền hạn của con người Stalin. Chỉ có Ngài mới có quyền năng để đưa ra phán xét cuối cùng cho hành động của con người. Thượng đế sẽ phán xét Stalin như thế nào thì không thể mô tả được, dù là người theo chủ nghĩa Stalin hay chống Stalin. Tuy nhiên, tin rằng là Thượng đế sẽ ân sủng đối với phán xét Yosif Vissarionovich.

Lời kết: Duy nhất Stalin để mà CNXH, CNCS còn sức sống.

Игорь Евсин, православный писатель, Рязань

http://ruskline.ru/analitika/2013/08/06/kak_stalin_sohranil_rossiyu_i_cerkov
http://kprf.ru/rusk/121642.html



STALIN ĐÃ BẢO VỆ NGA VÀ NHÀ THỜ P2

Đồn đại và thực tế

Quay lại với tuyên bố của vị giám mục Illarion về thủ tiêu người hàng loạt "cả các tầng lớp, như, Kulak, Cossacks, trên thực tế là thủ tiêu toàn bộ trí thức – rất ít ai sống còn trong những năm 30.  Một số, thoát chết nhờ phép màu, khi nhà cầm quyền bỏ họ lại còn sống nhờ tiêu chí khó hiểu nào đó." Về người Cô dắc chúng ta đã nói ở trên. Về Kulak, điều cần gạt bỏ, đó là không có "thủ tiêu hàng loạt", còn chính sách buộc họ tái định cư là để khai hoang đất đai ở Siberia, Viễn Đông và Kazakhstan. Không có ai định tiêu diệt Kulak. Tuy đã sử dụng họ thẳng tay. Nhưng sử dụng Kulak cưỡng bức và không phí tổn là cần thiết để phát triển nông nghiệp, thu hoạch ngũ cốc mà giá trị của nó cũng đã nói bên trên. Bên cạnh đó, hàng triệu nông dân, công nhân lao động trong trại Gulag đã xây dựng những công trình khổng lồ, cả ngành công nghiệp quốc phòng, như đã nói, góp phần làm nên chiến thắng và vinh quang cho nước Nga.

Khi đó cần hiểu nông dân tiên tiến không đồng tình với lao động nô lệ tự nguyện. Vấn đề khác là thực hiện chính sách tước quyền sở hữu của kulak. Trong vấn đề này, ví dụ Khrushchev là 1 hiển nhiên. Khrushchev đã vì đất nước hay nhân đạo bao nhiêu trong trường hợp này? Đó cũng là lý do tại sao tháng 3-1930, có bài báo của Stalin đăng trên tờ Pravda đặt vấn đề về phong trào tập thể hóa, nhan đề “Say sưa với thành tích. Đến các vấn đề của phong trào nông trang tập thể”. Trong bài báo đó ông đã buộc tội hoạt động của Ủy ban quốc hữu hóa kulak. Sau đó là các biện pháp giải tỏa áp lực lên kulak và sử dụng nghị quyết để họ tham gia nông trại tập thể tự nguyện. Sau điều này, gần 5 triệu nông dân rời nông trại tập thể và không ai trong họ bị tước quyền sở hữu.


Thế giới trí thức nào bị hủy diệt bởi Stalin? Như người ta biết đàn áp trí thức xảy ra trong 1921-1923, và đó là Lê Nin. Còn nếu như gọi những cuộc đàn áp này 1 cách chính xác hơn, thì đó là trục xuất các thành phần đối lập trong hệ thống chính trị tồn tại từ trước đó. Thời kỳ Stalin giới trí thức sống quá tốt, lương cao, đãi ngộ xứng đáng và nhiều trong số họ dễ dàng mua cho mình nhà nghỉ, ô tô, căn hộ. Một số thậm chí có khả năng nuôi người phục vụ trong nhà. Trong các vùng thượng lưu nhất ở Moskva, các đại diện ưu tú nhất được cung cấp những căn hộ lớn và mọi tiện nghi trong các ngôi nhà cao tầng. Các nhà văn, nhà soạn nhạc, nhạc sĩ, nghệ sĩ, diễn viên lớn sống ở đó.

Nghị quyết Ban chấp hành TW năm 1932 thành lập hội nhà văn, hội họa, kiến trúc, nhạc sĩ. Các hội này được nhà nước hỗ trợ ngân sách hoạt động. Có thể nói đó là cách Stalin thu hút giới trí thức trung thành. Có thể. Nhưng ông đã thu hút các tài năng! Chẳng gì sánh được trình độ văn học nghệ thuật cao trong thời gian này. Chúng ta có Sholokhov, Tvardovsky, Simonov, Sviridov, Shostakovich và nhiều trí thức xuất sắc tạo ra giá trị vàng cho văn hóa Xô Viết vĩ đại. Không, không hề có đàn áp, chỉ là thu hút bao nhiêu…

Dĩ nhiên, Stalin đã đàn áp những kẻ chống nhà nước hay đơn giản là những kẻ vu khống.

Vậy thì cái gọi là hủy diệt hàng loạt trí thức và các “tầng lớp” khác mà họ vì “phép màu” nên vẫn sống sót - Là ở đâu?

Ngày nay, theo tài liệu giải mật từ lưu trữ KGB từ ngày 1 tháng 1 năm 1921 đến ngày 1 tháng 7 năm 1953, đã buộc tội phản cách mạng và các tội nghiêm trọng đặc biệt gây nguy hiểm cho nhà nước khác4.060.306 phạm nhân, trong số đó 799.455 bị tử hình. Dĩ nhiên, đó là con số lớn, đằng sau nó là những bi kịch, những số phận bi thảm. Nhiều trong họ là các linh mục Chính thống giáo.

Ở đây cần nhắc lại trong số bị bắn là gián điệp, phá hoại, biệt kích và thậm chí khủng bố. Ví dụ, theo các nhà nghiên cứu về thời kỳ hình thành công nghiệp Liên XôY. Mukhin và N. Ivnitsky, chỉ trong tháng 3-1930 riêng ở Ukraina có 521 vụ khủng bố đã được ghi nhận (và vô số không được ghi nhận!), ở Vùng đất Đen - 192, gồm 25 vụ giết người. Ở Tây Siberia trong 9 tháng của năm 1930 – hơn 1000 vụ khủng bố, trong số đó có 624 vụ giết người và mưu sát. Ở Urals trong tháng 1-3 có 260 vụ, ngay cả quận Novgorod thanh bình của vùng Leningrad cũng xảy ra 50 vụ khủng bố.

Vì vậy, đặt ra câu hỏi – liệu có thể cho rằng có gián điệp vô tội, khủng bố vô tội và phá hoại vô tội bị đàn áp?

Bên cạnh những tội phạm này, nạn nhân bị đàn áp chính trị còn gồm những kẻ chống hệ thống chính trị đang tồn tại trực tiếp bằng vũ trang. Theo thống kê của KGB, tháng 1-3 năm 1930, ở Liên Xô có 2200 cuộc nổi loạn vũ trang với sự tham gia của gần 800 nghìn người. Nếu tính số những kẻ tham gia vào các hoạt động phá hoại, khủng bố và nổi loạn vũ trang chống chính quyền từ 1925 đến 1937, thì con số những kẻ bị xử phạt chỉ là nhỏ nhặt.

Hủy diệt dân chúng hàng loạt thời Stalin ở đâu mà chỉ "rất ít sống sót qua những năm 1930”.  Vậy thì dân số dười thời Stalin tăng nhanh là vì sao. Theo thống kê, thời kỳ Stalin, dân số tăng thêm 60 triệu người. Theo nhà nghiên cứu V. Zemskov tỷ lệ tăng dân số thời kỳ đó là hơn 1%, cao vượt quá Anh và Pháp. Năm 1926 dân số Liên Xô 147 triệu, 1937 - 162 triệu và 1939 - 170,5 triệu.

Một ví dụ ngược, thời kỳ Yeltsin cầm quyền, dân số Nga giảm bi kịch hơn 6 triệu người! Sẽ là logic khi giáo sĩ Illarion buộc tội Yeltsin hủy hoại nhân dân chúng ta. Thực sự, trừ khi chính sách của Yeltsin dẫn đến 1 thực tế Nga bước ra khỏi hàng đầu thế giới về suy giảm mạnh dân số mà không phải gọi là diệt chủng; số bị sát hại và tự sát; số ly hôn hay dừng sinh đẻ, trẻ em bị bỏ rơi; số nạo phá thai và bà mẹ bị chết. Cần phải thêm vào con số con số diệt chủng bởi tiêu thụ rượu, bởi tuyên truyền quảng bá ma túy, mại dâm, những thứ chính Hitler muốn để kết liễu nước Nga. Còn với Stalin thì điều này bị trừng phạt. Thế mà không ai phán xét Yeltsin.

Giờ chúng ta nghĩ về 1 câu hỏi: Liệu có phải sáng tác ra chuyện Stalin đàn áp là để biện hộ cho tội ác chế độ Yeltsin? Quả là nỗi khiếp sợ chủ nghĩa Stalin làm dân chúng kết luận rằng những gì tồi tệ nhất là ở chế độ Stalin, còn những gì tồi tệ xảy ra ngay thời Yeltsin chẳng có gì đáng kể để so sánh với đàn áp Stalin. Sụt giảm dân số, tham nhũng kinh hoàng, trộm cắp, giết người trên đường phố, cướp bóc tài nguyên nước Nga cho các ông chủ phương tây, sụp đổ công nghiệp, tan rã quân đội và nghiên cứu khoa học, rối loạn xã hội, cũng chẳng tồi tệ bằng “nỗi khiếp sợ chủ nghĩa Stalin” – nếu như Stalin không quay trở lại.

Người ta quên, nếu không có Stalin – trên bản đồ thế giới không hề có Liên Xô hay Nga, thủ đô Do Thái đặt ở Moscow còn đồng chí cộng sản Trotsky đã làm vua Ashkenazi. Dân Nga, nếu còn sống sót, thì đang nhục nhã làm nô lệ ở đâu đó London hay Berlin. Điều đáng lo ngại, nguy cơ này chưa bao giờ thôi quay trở lại. Không phải ngẫu nhiên mà linh mục Dimitri Dudko so sánh Stalin với thời Yeltsin: "Ngày nay tự chúng ta thấy bằng mắt mình tội phạm nào là phi nhà nước và phúc lợi nào là nhà nước! Họ hét lên rằng trong thời Xô Viết nhiều người chết trong trại tập trung, nhưng bao nhiêu bây giờ chết không có điều tra và xét xử, kẻ ác không bị trừng phạt, không ai hay biết, cũng không phải là chết trong tương quan nào đó. Toàn bộ nhân dân bị lừa đảo và cướp bóc giờ than thở: giá mà có Stalin, thì đã chẳng tan hoang như thế này".

Video: Giống như mọi cuộc bạo loạn khác, cuộc đảo chính của Yeltsin mà người Nga gọi là "Tháng 10 đen '93", những viên đạn bắn ra từ sứ quán Mỹ. Binh lính Mỹ nhằm vào lưng lính dù Nga, vào người biểu tình. Tiếp theo - màn đổ tội quen thuộc để kích động bạo loạn.


Xem thêm: "Chúng bắn từ sứ quán Mỹ!" Đúng! Binh lính Mỹ trên mái nhà sứ quán Mỹ ở Moscow!
"Стреляли из посольства США!"

STALIN ĐÃ BẢO VỆ NGA VÀ NHÀ THỜ P1


После устранения Ежова масштаб репрессий был снижен в 10 раз…
Sau khi loại bỏ Yezhov, qui mô đàn áp đã giảm 10 lần…
 
Các nạn nhân trên bàn thờ đất tổ

Chương trình TV "Церковь и мир" ngày 22 tháng 6 2013 trên kênh Russia-2, vị chủ tọa giám mục ОВЦС Volokolamsk Illarion tuyên bố rằng, Stalin chịu trách nhiệm hủy hoại nhân dân Nga. "Cần phải nói về điều này một cách rõ ràng, không che giấu những thực tế này. Khi cố để hạ thấp con số mất mát trong chế độ, người ta hành xử không công bằng và tội lỗi". Ai cố để hạ thấp “con số mất mát" và trong chế độ nào, vị giám mục đáng kính đã không nói. Ông ấy cũng không kể, nói 1 cách ngay thật, có phải là tội lỗi hay không khi đánh giá cao những con số này, thậm chí không phải trong 1 chế độ, mà là 1 số chế độ? Ví dụ ngày nay, theo lưu trữ hiện tại, số lượng nạn nhân bị đàn áp chính trị dưới thời Stalin, được biết là 4 triệu. Solzhenitsyn nói về 10 triệu, nhà sử học Roy Medvedev – về 40. Và ai đó còn vượt xa: I. Bunich - 100 triệu, Yu. Karyakin - 120 triệu… và cuối cùng, B. Nemtsov - 150 triệu, còn dân số USSR lúc đó 170 triệu!!!

Vì thế, rất muốn đặt ra câu hỏi cho giám mục Illarion – phải chăng tuyên bố của Solzhenitsyn và cả ông ta nữa không phải là dối trá và không phạm tội? Không rõ chúa tể tôn kính có trả lời được điều này, tuy nhiên về những biện hộ hạ thấp "con số mất mát trong chế độ” thì ngài đã trả lời. Họ là những kẻ “tội phạm không trung thực”. Ai liên quan đến họ? Có thể là cộng sự nghiên cứu cũ của Viện lịch sử AN USSR V. N. Zemskov, kẻ theo “nhiệm vụ” của BCT Gorbachev đã sắp đặt chân lý và hạ thấp con số bị xử bắn trong thời kỳ đàn áp từ 150 triệu thành 800 nghìn (TG chơi chữ, 800 nghìn là số liệu thật không thể bác bỏ). Tổng cộng từ 1921 đến 1953 bị kết án vì lý do chính trị, như đã nói là gần 4 triệu. Chính ông ta đã nói con số như thế trên tờ “La Vanguardia” ngày 3 tháng 6 2001. Truyền thông chúng ta không không được phép đăng. Sự thật ngày nay, theo Zemskov, những con số này trong đất nước chúng ta đã được công nhận và được đưa vào sách giáo khoa lịch sử của trường ĐHTH.

Không ngại phải nằm trong số "tội phạm không trung thực", tôi đã hạ thấp con số nạn nhân bị đàn áp chính trị từ 4 triệu xuống 2 triệu vì chính phủ thực sự của Stalin chỉ trong giai đoạn 1937-38, khi bằng đàn áp đã bẻ gãy xương sống của những kẻ Leninist và Trotskyist theo đuổi chính sách diệt chủng chống lại nhân dân Nga. (Lenin: "Hãy để 90% dân Nga chết nếu chỉ 10% là cần thiết đối với cách mạng thế giới". Trotsky: "Nước Nga – là cành củi khô, mà chúng ta ném vào đốt lò lửa cho cách mạng thế giới".).

Nhưng thậm chí Stalin không lập kế hoạch đàn áp Leninist-Trotskyist. Theo dự thảo hiến pháp mới, ông muốn phế bỏ họ ra khỏi chính quyền nhà nước bằng cách, nhìn chung là bỏ phiếu kín, trực tiếp, công bằng vào Xô Viết tối cao USSR và các Hội đồng địa phương. Như vậy, phe đảng Trotskyist sẽ phải mặt đối mặt với nhân dân, đối tượng mà chúng tiêu diệt trong những năm Khủng bố Đỏ. Nhân dân ghi nhớ chúng và cuộc chiến với nhà thờ, cả trọng tội gây ra trong những năm tập thể hóa.

Stalin đã tuyên bố rõ ràng về sự trong sạch trong hàng ngũ đảng năm 1937 vào Đại hội toàn thể Ban chấp hành TW CPSU. Và thậm chí, như nhà sử học A. Martirosyan khi nghiên cứu tài liệu về đại hội này đã đưa ra số lượng đảng viên bị thanh lọc. Đó là 3-4 nghìn lãnh đạo cấp cao, 30-40 nghìn cấp trung và 100-150 nghìn cấp địa phương. Trong thực tế, đó là thay mới toàn bộ lãnh đạo đảng.

Dĩ nhiên, điều này là không thể bởi gặp phải sự chống đối dữ dội của Trotskyist và những viên quản lý bất tài mà chúng chống lưng. Bắt giữ chỉ là hệ quả tiếp theo của điều này. Kẻ bị bắt bắt đầu bào chữa cho mình bằng cách tố giác kẻ khác. Một số điều bất cẩn đã xảy ra, bà quả phụ của nguyên soái Katukov nói trên báo Moskovsky Komsomolets năm 2006, bà mô tả 1 trường hợp khi 1 hàng xóm của mình trở về từ cuộc xét hỏi, nói 1 cách bất nhẫn: "Hôm nay tôi đã đưa thêm 17 người nữa vào ngồi tù"! Một nạn nhân bị đàn áp chính trị là tướng A. V. Gorbatov cũng kể về điều này: "Người hàng xóm của tôi nằm ở trại Kolyma, một công nhân đường sắt lớn khi đó, thậm chí còn tự hào đã vu khống 300 người."

Thế là bởi phần lớn hoạt động bắt giữ trong những năm này mà từ đó có cả đàn áp trên qui mô lớn. Nhà nghiên cứu A. Martirosyan lưu ý 1 cách chính đáng: "V. Meyerhold xưng đã vu oan cho 100 người. Mỗi trong số 100, cho là, sẽ có thêm 100 nữa. Thực sự, chỉ với mức này đã là 10000 người lọt vào tầm ngắm của phản gián. Nếu, giả sử, họ bị bắt, và mỗi họ kéo theo 100 người, thì khi đó thực sự là 1 triệu! Thậm chí nếu chỉ 50 hay 20 hay 10, thì tất cả sẽ làm cho qui mô đàn áp ngay lập tức đi đến mức độ quá giới hạn!”.

Bên cạnh đó, bè đảng, vì sợ hãi bị thanh lọc, đã quyết định nịnh bợ Stalin trong việc vạch trần "kẻ thù của nhân dân". Kẻ “tố giác” sốt sắng nhất là Bí thư thứ nhất MK VKP N. S. Khrushchev và bí thư thứ nhất Tây-Siberia R. I. Eykhe, như Khrushchev từ tư liệu lưu trữ của KGB, đã lập 1 danh sách 41305 "cựu Kulak" và "tội phạm", trong số đó 8500 đã bị xử bắn và 32805 bị lưu đày. Khrushchev khi đó còn đề nghị Stalin tăng thêm các đối tượng để bắn như “kẻ thù của nhân dân”. Stalin ngăn ông ta lại: "Yên đi, thằng ngốc" và bắt đầu tự mình xử lý danh sách trấn áp. Ông sớm đi đến kết luận về những trấn áp không có cơ sở, xem xét lại hồ sơ các vụ án và thấy cần thiết phải sa thải kẻ tham gia trực tiếp vào các vụ đàn áp, lãnh đạo bộ nội vụ Yezhov. Ngày 25 tháng 11 1938. Beria được bổ nhiệm lãnh đạo NKVD, ngay lập tức ra lệnh cấm các vụ xử bắn đã tuyên trước đó. Qui mô đàn áp đã giảm 10 lần! Các vụ bắt bớ hàng loạt bắt đầu được xem xét và điều tra lại. Theo tài liệu lưu trữ KGB, trong năm 1939 và đầu 1940 đã phóng thích 381178 người, 10 nghìn người được ân xá. Tội lỗi bắn giết hàng loạt của Yezhov và các đồng sự khát máu đã bị trừng phạt.

Quyết định nghiệt ngã

Tuy nhiên, Stalin đã bắt đầu ân xá từ rất sớm. Ví dụ, năm 1934 bắt đầu khôi phục cho người Cô dắc bị Lê Nin đàn áp. Lập lại đoàn ca múa Cô dắc sông Đông, và năm 1936 – thành lập dàn hợp xướng quốc gia Cô dắc Kuban. Sau này, trong thời kỳ chiến tranh, Stalin thành lập các sư đoàn Cô dắc, quân đoàn và sư đoàn kỵ binh.

Câu hỏi cho Illarion: Ông Stalin có thể thành lập ra họ từ ai, thưa giám mục kính mến, nếu như theo lời ông, Stalin đã phá hủy hoàn toàn người Cô dắc như 1 tầng lớp?

Ngoài ra, còn muốn đặt câu hỏi cho giám mục Illarion về phạm tội và vô tội. Nhiều nạn nhân bị đàn áp dưới thời Stalin là vô tội, như nói theo ngôn ngữ hiện nay, trong "hoạt động chống hiến pháp"? Chẳng lẽ trong số đó không có gián điệp, không có những kẻ phá hoại và những kẻ đã tập hợp để lật đổ nhà nước bằng biện pháp quân sự? Liệu có câu trả lời chung cho câu hỏi các nạn nhân bị đàn áp là có tội hay vô tội? Ngay cả số được ân xá cũng không cho câu trả lời khi việc ân xá được thực hiện không trên cơ sở xem xét có tội hay vô tội, mà dựa vào có hay không có vi phạm trong quá trình tố tụng. Đó là ân xá không vì vô tội, mà vì vi phạm pháp lý trong quá trình tiến hành điều tra pháp lý và xét xử các can phạm chính trị.

Dĩ nhiên, trong chế độ Stalin có nạn nhân vô tội. Và dường như vẻ bề ngoài số họ là rất nhiều. Còn điều này - bi kịch ghê gớm, điều đã xảy ra dưới sự cầm quyền của Stalin. Nhưng bi kịch này không thể bãi bỏ chỉ như 1 vấn đề đơn giản: ai không phải là nạn nhân vô tội? Thế ai ngày nay có thể chứng minh dưới chế độ Stalin nạn nhân vô tội là nhiều hơn, ví dụ, dưới chế độ Putin hiện nay? Hay là dưới triều đại Sa Hoàng Nicholas II, người đã ban bố tòa án quân sự lưu động,  như gọi là bộ 3, nghĩa là tòa án gồm 3 người, không chịu bất cứ hậu quả nào đã tuyên án hàng trăm người tội chết. Án tuyên như thế được thực hiện trong vòng 3 giờ! Nhưng nhờ cuộc nổi dậy 1905 đã bị đình chỉ. Cùng quyết định cứng rắn như thế của Sa Hoàng năm 1917 khi đàn áp những cuộc đấu tranh cách mạng, chính Sa Hoàng đã ra lệnh điều quân thẳng đến mặt trận Petrograd. Nhưng khi đó lệnh của ông đã không được thì hành và cách mạng đã nổ ra.

Ngoài ra, bộ 3 tòa án tối cao thì dưới chế độ Stalin cũng đã có. Nhưng không phải là Stalin, mà là bí thư thứ nhất vùng Tây Siberia của đảng CS Robert Indrikovich Eykhe, Eykhe đã cố thuyết phục Stalin trao cho ông ta tòa án 3 người trong vùng để có quyền tuyên tội chết và thi hành ngay. Nhưng Stalin đã trả lời rất thận trọng. "Nếu đồng chí có thể, thì tốt hơn là hãy làm điều này mà không có bộ 3, còn bản án có thể tuyên theo cách thông thường".

Đã không có tòa án bộ 3. Đó là 1 thực tế của lịch sử chúng ta. Vẫn có thực tế khác như chính sách của Ivan Grozny và tù nhục hình như của Peter I và sở mật vụ dưới thời Romanov. Ở đó cũng có các nạn nhân vô tội. Ở đây có thể nhớ các nạn nhân của trại tập trung thời Ivan Grozny và các nạn nhân cải tạo thời Peter I, tại thời đó, dân số đã giảm đến 20%! Có những câu chuyện xảy ra trong lịch sử chúng ta ở vào hoàn cảnh đặc biệt, như để thiết lập nhà nước, hay đặc biệt là khi bảo vệ nó, chính phủ buộc phải nắm lấy những biện pháp tàn nhẫn nhất. Nhưng những trường hợp như thế trong lịch sử, trên thực tế có ở tất cả các quốc gia trên thế giới.

Stalin cũng có cả quyết định nghiệt ngã, đó là bán lúa mỳ xuất khẩu, điều đó dẫn đến nạn đói hàng loạt ở USSR. Tuy nhiên, quyết định này được đưa ra trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt khi đất nước chúng ta trên thực tế không có công nghiệp, cũng không có gì để khôi phục. Còn mối đe dọa bị xâm lược từ bên ngoài thì gia tăng. Russia rơi vào tình trạng “đất nước bị quét sạch” và phải chết dưới cú đòn phương Tây. Để cứu đất nước, cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hình thành nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Nhưng đất nước chúng ta không có tiền để làm điều này. Còn phương Tây thì không cho vay để hình thành công nghiệp Xô Viết. Tiền cần thiết để mua trang thiết bị và công nghệ hiện đại chỉ có thể có được từ lúa mỳ. Stalin đứng trước lựa chọn nghiệt ngã. Hoặc cho dân toàn bộ bánh mỳ, hoặc giữ nước Nga trên bản đồ thế giới là nhà nước độc lập, thống nhất.

Quyết định xuất khẩu lúa mỳ đã dẫn đến nạn đói và nhiều cái chết trong dân chúng. Nhưng tôi gọi những cái chết này là nạn nhân trên bàn thờ đất tổ. Nhờ có Stalin và các nạn nhân này mà chúng ta nhận được trên thị trường thế giới trang thiết bị và công nghệ hiện đại. Đúng, đột phá công nghiệp ở đất nước chúng ta được tiến hành theo cách nghiệt ngã. Trên đất nước chúng ta có hàng nghìn nhà máy và công xưởng hiện đại đã được xây dựng. Nga có nền kinh tế phát triển chậm sau các nước tư bản 30 năm và trong 1 thập kỷ chúng ta đã đuổi kịp họ! Thực sự là đến cuối thập kỷ 1930, đất nước chúng ta đã đạt được trình độ công nghiệp-quốc phòng của thế giới. Không có đột phá này, chiến thắng của chúng ta trong Chiến tranh vệ quốc là không thể. Đó là tại sao những nạn nhân của cái gọi là "nạn đói diệt chủng", và nạn nhân Gulag của Stalin có thể được gọi là nạn nhân trên bàn thờ đất tổ.

Sinh viên Nga thất vọng về Mỹ?

Cùng việc mở cửa và du học, hiện Mỹ đã cài cắm 1 số trường ĐH ở Nga. Các giáo sư Mỹ, Nga kiều đổ vào Nga nhồi sọ các sinh viên về “văn minh và chuẩn mực tây”. Nhưng đáng tiếc họ phải buồn vì sinh viên Nga vẫn yêu nước Nga. Đó là nhận nhận định của nhà Russophobia.

Có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy ở các trường ĐH Nga và Mỹ hàng đầu, có ít công bố của phương tây như thế về sinh viên Nga và giới trẻ gây ra cho tôi niềm vui lớn hơn cuốn sách của Ellen Mickiewicz "Đừng ảo tưởng:  tiếng nói lãnh đạo tương lai Nga" (Без иллюзий: голоса будущих лидеров России) và các bình luận sau đó của Sarah Mendelson "Thế hệ Putin” (Поколение Путина) trên tạp chí “Foreign Affairs”.

Mickiewicz là giáo sư khoa học chính trị, giám đốc Trung tâm nghiên cứu thông tin và nhà báo uy tín của Duke University tại North Carolina. Chuyên khảo gần đây của Mickiewicz dành nói về quan điểm và tâm trạng của thế hệ trẻ Nga. Mickiewicz là 1 nhà phân tích trung thực. Nếu kết quả nghiên cứu không đáp ứng những gì bà mong đợi, bà không cố để thao túng nó hay vứt nó đi.

Những năm gần đây, Ellen Mickiewicz đã tiến hành 12 khảo sát trong số các sinh viên tốt nghiệp ở 3 trường Nga: MGU, MGIMO và HSE. Kết quả đã làm Washington thất vọng.

Bất chấp bị ngợp trùm từ thời perestroyka, những nỗ lực hùng hổ để tẩy não giới trẻ Nga (kể cả những quyển sách giáo khoa được in bằng tiền của Soros), hầu hết phản hồi đều gợi lên hoài nghi về giới liberal (tự do dân chủ) quê nhà và các vị tôn sư hải ngoại của họ trước thực tế "mô hình chủ nghĩa tự do phương tây liệu có trở thành hệ thống chính trị tốt nhất đối với nước Nga".

Một trong những câu hỏi, liệu những thứ "lợi ích dân sự” như điện thoại di động, truy cập Internet dễ dàng, cơ hội du lịch các nước khác của giới trẻ Nga liệu có gây cảm hứng để dễ chấp nhận giá trị “tự do dân chủ” hơn hay là chia rẽ những người thân của họ, giới trẻ Nga đã trả lời: “không!”

Giới trẻ Nga độ tuổi 20 muốn thấy nước Nga có sức mạnh độc lập, chống lại khối phương tây và chối bỏ luật quốc tế đứng trên luật pháp quốc gia. Hơn nữa, hầu hết sinh viên tham gia vào khảo sát cho là Putin điều hành đất nước theo con đường đúng đắn.

Kết luận sau cùng của tác giả: Giới trẻ Nga càng có giáo dục, họ càng có quan điểm chống Mỹ.

Mendelson - một kẻ không xa lạ gì ở Nga từ những năm bà này cùng cựu đại sứ Mike McFaul làm việc tại văn phòng “Viện bảo trợ dân chủ - NDI” ở Moskva với tiền của Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ USAID.

Cần chú ý đến bà ta khi đóng vai trò xấu xa ở sứ quán Mỹ trong thời kỳ bầu cử tổng thống Nga 1996. Theo Mendelson, sứ quán Mỹ đã mong chờ 1 kết quả bầu cử giả mạo có lợi cho Yeltsin và đại diện USAID tại Moskva đã bị cảnh báo phải "cách ly khỏi việc giám sát bầu cử mà có thể phơi bày những trường đoạn giả mạo thực sự". Sứ quán Mỹ có mọi lý do để trông mong cuộc bầu cử giả mạo này vì chính họ dự phần vào tổ chức của họ.

Đây là cách của người Mỹ! Họ đã thử làm điều này với Yanukovych ở Ukraine, cố giả mạo kết quả bầu cử, họ đã thả mọi con chó NGO sống nhờ thức ăn Mỹ nhằm vào ông ta.
Nhưng kết luận của Mickiewicz như thế này, hẳn làm Sarah Mendelson đau lòng: “Hai mươi năm trước – Sarah đắm chìm trong mộng tưởng – tôi làm việc cho NDI, tôi quan sát chiến dịch bầu cử ở Khimki, gần Moskva…”

"Tôi quan sát" – sự gượng gạo rõ ràng! Người Mỹ “làm ăn” chứ không quan sát, và họ tham gia vào nhiều thành phần hoạt động tổ chức, cấp tiền ở Nga cho “ông bạn già” như cách Clinton gọi Yeltsin.

“Chúng tôi có "niềm hy vọng dày vò chúng tôi", rằng Nga "cuối cùng sẽ chuyển đổi đến dân chủ" - Mendelson nói.

Chờ 1 giây! Làm thế nào để trong đầu bà ta, "chuyển đổi đến dân chủ" với bầu cử tổng thống 1996 giả mạo do sứ quán Mỹ phê chuẩn? Mendelson sẽ ở đâu nếu công nghệ chính trị Nga can dự vào quá trình bầu cử mọi nghị sĩ, tổng thống Mỹ?

Khi Mendelson đọc bình luận, bà ta tự bắt gặp mình qua đến 2 câu thần chú Russophobia tương tự.

Một là, con chó hoang Sharik từ “Trái tim chó” (tiểu thuyết của Mikhail Bulgakov): "Chúng tôi bóp cổ mèo, bóp cổ". Còn những con mèo,  dù không vừa lòng vẫn sống sót.

Hai là, một trường đoạn ban nhạc rock Moskva huyền thoại thập kỷ 1980 về Trostky: "Chúng tôi bám chặt vào những cái xác Nga; Bộ não thông minh của chúng tôi!"

Không được gì từ thời Trotsky, những McFaul và Mendelson mới đã đến Nga vào thập kỷ 90 khi đất nước này đang lúc nhiễu loạn. Và ở đó họ thất bại!

Cuối 2015, quí bà Russophobia Sarah Mendelson được phê chuẩn làm đại diện Mỹ tại 1 trong những tổ chức nguyên tắc của LHQ: Ủy ban kinh tế - xã hội. Cũng như từng được đề bạt làm đại sứ từ cái ổ giòi có tên Viện bảo trợ dân chủ - NDI của ả Judar Madeleine Albright.

Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...