Cháu ruột Bác Hồ chia sẻ lý do thôi học ĐH Bách khoa để xuất gia làm tu sĩ Phật Giáo



Chắt nội của cụ Hồ Sĩ Tạo, cháu nội của cụ Phó Bảng Vương Sinh Huy, con trai của cụ Vương Chí Nghĩa, thế danh Vương Tấn Việt, là Thượng Toạ Thượng Chân Hạ Quang, đạo hiệu Thích Chân Quang, viện chủ Thiền tôn Phật Quang (Bà Rịa Vũng Tàu), chùa Viên Quang (Nam Đàn, Nghệ An) và Thiền thất Bảo Quang (Củ Chi, Tp. HCM).

Năm 1980, chàng thanh niên Vương Tấn Việt đã rời bỏ giảng đường Đại Học của trường Bách Khoa để xuất gia đi tìm con đường thiên lý, với đạo hiệu là Thông Huyễn, về sau đổi thành Chân Quang.

Cụ Phó Bảng Vương Sinh Huy chính là quan Phó Bảng, lương y Nguyễn Sinh Huy, hay còn được nhiều người biết đến với tên Nguyễn Sinh Sắc - là thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cụ Phó Bảng là người có công đầu trong việc Chấn hưng đạo Phật ở Việt Nam.

Phương châm hoạt động cứu nước của Cụ là:

1. Xây dựng lại tình yêu nước, tinh thần dân tộc.
2. Dựa vào lực lượng nông dân (vì thời Cụ lực lượng công nhân chưa nhiều).
3. Chấn hưng Phật Giáo.

Năm 1926, Phan Trọng Bình một đồng chí của Bác Hồ khi đến gặp Cụ ở Đồng Tháp, Cụ đã để lại một lời dặn mà sử chính thống vẫn còn: "Các cháu muốn cứu nước, các cháu phải theo Đạo Phật".

Trước đó, trong một lá thư gửi ra Nghệ An cho dòng tộc nhưng do bị mật thám Pháp giữ lại, không đến được tay họ hàng, Cụ Sắc cũng viết, đại ý, Cụ khuyên họ hàng và đồng bào phải chấn hưng Đạo Phật để cứu nước. Điều này còn ghi trong sử chính thống.

Trước đó nữa, năm 1911, trước khi lên đường ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ quỳ trước hiên nhà tạ từ cha, Cụ Phó Bảng chỉ quay sang nói một câu duy nhất - cũng là lời cuối cùng của Cụ trước khi Bác Hồ từ biệt rồi ra bến cảng, đó là: "Con muốn cứu nước, con phải theo Đạo Phật". - điều này sách sử chính thống chưa thấy đề cập, nhưng được Thượng Toạ Thích Chân Quang dẫn lại trong bài giảng Hai câu đối của cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc do NXB Tôn Giáo ấn hành.




Một suy nghĩ về chủ nghĩa vật chất (Materialism, chủ nghĩa duy vật)

Thật là vớ vẩn khi gọi điều này là "vô hình", điều kia là "siêu hình". Siêu hình hay vô hình đều là những danh từ, tính từ TƯƠNG ĐỐI. Ví dụ, ta có nhìn thấy vi trùng hay không? Không. Vi trùng có tồn tại không? Có. Chúng ta có thấy từ trường không? Không. Từ trường có tồn tại không? Có.



Cũng vậy, không thấy không nghe được những điều như cõi giới sau cái chết, hệ thống khí lực vô hình tiềm tàng bên trong cơ thể (theo Đông Y), rồi chụp cho cái mũ "siêu hình", "vô hình", "mê tín" rồi phủ nhận, không tin, mỉa mai, xỉa xói, thì trẻ con quá, ngớ ngẩn quá, ngờ nghệch quá, ngây ngô quá, ngu ngốc quá.

Không thấy à? Không nghe à? Không biết à? Tìm hiểu đi, nghiên cứu đi, học hỏi đi chứ, đó là tinh thần khoa học.

Bác sĩ Edgar Cayce soi kiếp và chữa bệnh hơn 25.000 ca thành công. Hàng loạt công trình nghiên cứu về tiền kiếp hết sức khoa học và nghiêm túc. CCTV trên khắp thế giới đã bắt được quá nhiều hình ảnh về cái mà ta gọi là "ma".

Thế kỷ XXI mà còn ngồi đó duy vật vô thần thì hai lúa quá.

OK, muốn duy vật vô thần cũng được, chứng minh cái mà anh gọi là "siêu hình", "vô hình" là không có không tồn tại đi rồi duy vật vô thần cũng chưa muộn mà!?

The Philosophy of Money (Triết lý về tiền bạc) - Venerable Thích Chân Quang




STALIN ĐÁNH BẠI BĂNG ĐẢNG TROTSKY!


 7/11/1927, ngày Trotsky bị đánh bại hoàn toàn. Ngày bắt đầu xây dựng CNXH ở 1 quốc gia thay vì “cách mạng thế giới”. Tình cờ hoặc không, con quỷ cách mạng này sinh đúng ngày 7/11.

Một loạt các hành động khiêu khích, phá hoại của phe Trotsky như thời thế chiến 1 bị ngăn chặn: đánh bom các đoàn tàu hỏa, cắt đứt liên lạc giữa các thành phố, xúi giục công nhân nhà máy nổi loạn - họ rất đói khổ lúc đó, lương thực đã đầy trong các nhà nông dân, nhưng chính sách thu mua bất cập, ở thành phố vẫn là các đoàn người dài xếp hàng mua bánh mỳ, nhưng cũng đã có Stalin!

Nỗ lực đảo chính quân sự nhân dịp kỷ niệm 10 năm của Trotsky bất thành. Đám đông biểu tình trước Quảng trường Đỏ, chờ chực Trotsky phát biểu trước ban công khách sạn Quốc tế để rồi tràn vào chiếm các tòa nhà chính phủ, bắt giữ Hội đồng nhân dân như kế hoạch đã không xảy ra. Trotsky cố đến khách sạn Quốc tế nhưng bị chặn lại, còn ở Cung điện Mùa Đông, Zinoviev bị đám đông la ó phản đối dữ dội cũng chẳng thể phát biểu gì. Cả 2 cuộc biểu tình ủng hộ bị giải tán 1 cách bạo lực.

Thật không may, các đồng sự của Trotsky bị lực lượng OGPU thân Stalin giữ chặt tại các nhiệm sở như các con tin nên không dám manh động, 1 phần cũng vì nhút nhát, chỉ rụt rè nghe ngóng tin tức rồi trở cờ phản chủ khi thấy bất lợi.

Lãnh đạo OGPU, Menzhinsky đã rất trung thành với Stalin, những nỗ lực đóng giả mệnh lệnh OGPU đều bị ngăn chặn.

Một kịch bản chiếm Cung điện Mùa Đông lần thứ 2 thất bại hoàn toàn.

Ngay sau khi chống đảo chính thành công, Stalin tiến hành tổng tấn công vào các đồng chí “cận vệ Lenin trong sạch”, 1 loạt các nhân vật chủ chốt nắm ngân khố bị bắt, bị thanh trừng.

8 ngày sau đảo chính, Trotsky và Zinoviev bị đuổi ra khỏi đảng, họ chuẩn bị khăn gói lên đường về quê. Mưu lớn bất thành, quá sốc vì Menzhinsky vừa là đ/c vừa là bạn bè thân thiết, đ/c Adolf Abramovich dùng súng tự tử. Lá thư để lại viết: “Tôi chắc, lúc này cái chết của tôi còn có ích hơn là tiếp tục sống!”;

Cộng sự thân tín của Stalin, Beria ngồi ở dacha ngoại ô Moskva với Menzhinsky, chén tạc chén thù cùng tổng kết các sự kiện. Họ nói về đ/c tư bản đỏ, trùm dầu hỏa J. Hanecki đã 4 tháng qua liên tục đến nhà Menzhinsky thăm viếng, động viên tinh thần và chờ đợi kết quả.
----------------------------

Điển hình cho sự trở cờ mau lẹ là đ/c G. Sokolnikov, ngay khi nghe ngóng thấy gió đổi chiều, đ/c liền lớn tiếng tuyên bố: “Tôi đã từ bỏ phe đối lập rồi!”. Lời khai của Sokolnikov giúp Beria bóc dỡ 1 nhóm nằm vùng khác, trong đó có các đồng sự thân tín của Zinoviev. Nhưng Sokolnikov không thoát tội, bị mất chức ủy viên TW trong lần bầu cử kế tiếp. Sokolnikov là 1 Bolshevik gạo cội, tham gia từ 1905 và nắm nhiều chức tước, trong đó có phụ trách Dân ủy tài chính (1923-26). Năm 1936, Sokolnikov bị án 10 năm và chết trong tù.

Chậm mồm hơn Sokolnikov là Krestinsky và Antonov nhưng cũng rất ăn năn và thành khẩn. Sau nữa là Avtorhanov... Rất nhiều bắt không xuể!

Ngồi ở nước ngoài, Trotsky - Leon Bronstein viết sách kể tội Stalin, tuyên bố ông ta mới là nhà Mác xít chân chính, còn Stalin là đội lốt, phản cách mạng, là nhấn chìm thành quả CMT10 vĩ đại, là độc tài, v, v…

Ttg Anh Churchill biết Trotsky, nhận xét về mục đích của ông ta đã có lần nói ngắn gọn rằng ông không nghi ngờ gì, Trotsky “khao khát huy động toàn bộ cặn bã ở châu Âu để chiến đấu chống Hồng quân!”;
-------------------

Nhà cách mạng Mác xít lão thành - bị trục xuất về Đức, vào lúc vượt qua biên giới Ba Lan-Đức, đã viết những dòng nhật ký cuối cùng trên tuyến tàu hỏa như năm xưa đã đưa Lenin, Trotsky và hàng trăm nhà cách mạng khác vào Nga, bây giờ chỉ là chiều ngược lại: Nước Đức! Bao nhiêu lần thời trẻ đã nghe thầy giáo giảng hay ở nhà đọc những vần thơ Schiller, Heine (1 Do Thái có thơ khá phổ biến ở VN). Tôi nghĩ sẽ khá là hay ho khi nhìn lại 1 lần nữa từ chiều khác!

Tôi đã vẽ những giấc mơ như thế nào, bao nhiêu vườn cây và nhà thờ Gothic, những mái nhà đẹp đẽ, những người nông dân đội cái mũ rộng làm lụng trên cánh đồng, các cô cái có cái tên xinh tươi Gretchen... Bao nhiêu ký ước tuổi thơ bỗng hiện về. Tôi đã từ bỏ những giấc mơ của mình, khi biết rằng nó không còn là Đức nữa. Bóng phát xít tối tăm với cái kiềng thập ngoặc đen đã phủ lên "Third Reich", giết chết mọi ánh sáng, mọi sinh linh và mọi thứ lãng mạn. Lời huyền bí bất hủ từ Dante “Thần khúc” – như bùa chú viết trên cánh cổng bước vào địa ngục hiện về: "Ngươi hãy vào đi, bỏ hy vọng lại.”

Bắc Ninh: TT. Thích Chân Quang thuyết giảng chủ đề “Giữ gìn sức khỏe cũng là đạo đức”.


Sáng ngày 30/10/2016, (nhằm ngày 30/09/năm Bính Thân), TT Thích Chân Quang – Phó ban Kinh tế Tài chính T.Ư GHPGVN đã đến thăm và thuyết Pháp tại chùa Nhân (thôn Ngọc Khám – xã Gia Đông – huyện Thuận Thành – tỉnh Bắc Ninh) về đề tài “GIỮ GÌN SỨC KHỎE CŨNG LÀ ĐẠO ĐỨC”. Bài Pháp thoại đã đưa ra các quan điểm khác nhau về sức khỏe để các phật tử hiểu rõ hơn về vấn đề này. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ tầm quan trọng của sức khỏe đến đời sống cũng như việc tu hành của mỗi cá nhân. Từ đó, các phật tử biết xây dựng cho mình những phương pháp rèn luyện thích hợp để có đủ sức khỏe đi đến bờ giác ngộ.

Mở đầu bài Pháp, Người chỉ ra rằng chúng ta đang bị chi phối bởi 2 điều là hạnh phúc và khổ đau. Kinh Phật từng nói: “Sống làm sao đừng làm khổ mình, đừng làm khổ người khác”. Câu nói này chứa đựng rất nhiều điều. Có thể thấy ngay rằng nếu bản thân ta có chuyện buồn thì những người xung quanh ta cũng buồn theo. Nhiều lúc, ta nghĩ chuyện mình làm ra không ảnh hưởng đến người khác, nhưng thực sự nó lại không như vậy. Thế nên, cái khổ của chúng ta đều liên quan đến người khác. Ngược lại, cái khổ của người khác cũng liên quan đến ta.

Một trong những yếu tố làm khổ và chi phối ta rất nhiều là sức khỏe. Trạng thái khỏe mạnh cho ta một tinh thần thoải mái, sung sướng, hạnh phúc. Đồng thời nó thể hiện ta là một người có phước, muốn làm gì cũng được. Ngược lại, nếu không có sức khỏe thì lúc nào ta cũng cảm thấy chán trường, mệt mỏi, khó chịu. Cuộc sống của ta vì thế mà gặp nhiều bất tiện, muốn làm gì cũng khó khăn.

Thật vậy, người có sức khỏe làm việc sẽ đạt năng suất cao hơn người ốm yếu. Làm việc năng suất vừa mang lại thu nhập cao, vừa cống hiến được nhiều hơn cho đời khiến ta có phúc, sau này tài chánh sẽ dồi dào lên nhanh. Nghĩa là sức khỏe rất quan trọng. Có sức khỏe mới tạo ra phúc, có phúc đời sống mới khá giả lên được. Vậy nên, không có sức khỏe thì sẽ kém mọi bề. Lúc này, không chỉ khổ ta mà còn khổ lây người khác như kinh Phật đã nói. Hiểu được điều đó, chúng ta cố gắng giữ gìn sức khỏe. Việc này không chỉ vì ta mà còn vì mọi người xung quanh.

Trước đây, ta chỉ suy nghĩ hạn hẹp rằng giữ gìn sức khỏe là cho mình. Từ hôm nay, ta suy nghĩ rộng hơn là để không làm khổ mọi người; để có cơ hội cống hiến, giúp đỡ cho người khác nhiều hơn. Điều này thể hiện ta có tính vị tha, biết suy nghĩ và hành động vì lợi ích cộng đồng.

Hướng về các phật tử, Thượng tọa khẳng định đã tu theo Phật pháp thì phải thấy rằng: Sự có mặt của mình trên cuộc đời này là gánh trên lưng những trách nhiệm lớn. Cuộc sống của ta không phải cho ta nữa mà là cho người khác. Ngoài bổn phận tu tập tâm linh để được giải thoát giác ngộ, ta còn phải cống hiến những điều tốt đẹp, đạo đức, thánh thiện cho cuộc đời này.

Mục đích cuộc đời đặt ra thì nhiều lắm, nhưng là người biết đạo thì chúng ta xoáy vào hai mục tiêu chính đó. Nếu theo đuổi được nó, cuộc sống của ta sẽ thăng hoa, được lên cõi cao, không bị đọa, không đau khổ. Mà để thực hiện được 2 mục tiêu chính đó, ta phải có sức khỏe. Nghĩa là muốn tu, muốn lễ Phật, muốn tụng kinh hay thiền định thì phải có sức khỏe. Khỏe rồi thì ta mới tu, mới cống hiến cho cuộc đời được. Ngược lại, nếu sức khỏe không có, mình muốn lạy Phật cũng không lạy nổi, mặc dù lòng rất tha thiết, nên cũng là thiệt thòi cho ta.

Dịp này, Thượng tọa cũng phân tích về công đức lễ Phật với trọn lòng tôn kính là thế nào. Trong đó nhấn mạnh “Tôn kính Phật là công đức căn bản sinh ra mọi công đức khác, là tâm hạnh căn bản sinh ra mọi tâm hạnh khác. Là đệ tử Phật, nhất là người xuất gia, chúng ta cũng mong ước dựng lập nơi mình vô lượng tâm hạnh tốt đẹp để chính cuộc đời mình được an lạc và đủ tư cách để làm lợi ích cho chúng sanh. Nhưng vô lượng tâm hạnh đó không thể thành tựu nếu thiếu tâm hạnh ban đầu là tôn kính Phật.

Kết quả ban đầu dễ nhìn thấy từ hạnh tôn kính Phật là nhân cách chúng ta từ từ được nâng cao lên. Nếu ngày xưa chúng ta thô tháo, vụt chạc, vội vàng, nhìn vấn đề không sâu sắc… thì sau một thời gian lễ kính Phật, ta sẽ thấy mình điềm đạm chững chạc lại, trông có vẻ khả kính hơn. Và do công đức lễ kính Phật mà trong sâu thẳm, tâm ta có sức mạnh và có trí tuệ biểu lộ ra thành nhân cách khiến mọi người nể trọng. Cũng chính trí tuệ này giúp ta phát hiện ra lỗi lầm tiềm tàng của mình”. Nên có nhiều người cứ thích lễ Phật là vì vậy. Mà nếu không có sức khỏe ta không lễ Phật, không ngồi thiền được.

Với người phật tử, sự cống hiến quan trọng nhất cho cuộc đời là những điều tốt đẹp, đạo đức, thánh thiện, vì xã hội hiện nay có quá nhiều điều xấu xa, bạc ác. Một điều tốt đẹp được gieo vào cuộc đời sẽ giúp cho thế giới sáng lên, có phúc chung lên nhiều hơn và đạo đức cũng được tăng trưởng. Tuy nhiên, ngoài tự bản thân làm, ta còn phải biết khuyên nhủ, tạo điều kiện, giúp đỡ người khác để họ cũng tin vào nhân quả, biết làm nhiều điều thiện như mình. Vậy là ta đã đóng góp rất nhiều vào sự thánh thiện cho cuộc đời.


Xung quanh ta, rất nhiều người có sức khỏe từ bẩm sinh vì phước đời xưa mang lại. Vậy nhưng, họ không biết dùng sức khỏe ấy để tu, để làm phúc hay cống hiến những điều đạo đức cho đời. Họ lãng phí sức khỏe của mình để hưởng thụ những thú vui tầm thường, làm những việc vô bổ, sai trái. Họ không nhận ra rằng sức khỏe là một tài sản lớn, quý giá, cần được sử dụng hợp lí, đúng đắn, nếu không sẽ mang tội lớn. Tội lãng phí này lớn hơn các tội khác rất nhiều lần. Nhưng nếu biết dùng sức khỏe để tu tập thì phước báo tăng nhanh gấp bội.

Thể chất của người Việt Nam ta thua kém rất nhiều so với các nước khác dù ta đã có rất nhiều chiến thắng lịch sử lừng lẫy, oai hùng. Vậy nên, dù có nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên, con người, chính sách,… nước ta vẫn bị chậm lại so với nhiều nước khác. Để khắc phục điều này, chúng ta cần phải có cách rèn luyện phù hợp để nâng cao sức khỏe của bản thân. Đức Phật từng nói: “Không bệnh lợi tối thắng; Niết Bàn lạc tối thắng; Bát Chánh đường duy nhất; Đến bình an bất tử”.

Chúng ta thấy ngay câu đầu tiên, Đức Phật đã khẳng định: Sống giữa cuộc đời mà không mắc bệnh là một điều lợi lớn nhất. Chữ “nhất” này làm cho ta suy nghĩ. Giả sử ta có địa vị, tiền bạc, nhan sắc,… nhưng không có sức khỏe thì sẽ như thế nào? Dù suy nghĩ gì thì ta vẫn phải công nhận điều Đức Phật nói hoàn toàn đúng đắn. Cuộc sống sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa nếu ta không có sức khỏe.

Để có sức khỏe, Thượng tọa gợi mở có 4 phương pháp sau:

– Thứ nhất, ta tránh các nhân quả làm tổn hại đến sức khỏe như: Sát sinh; phá hoại môi trường; không quan tâm đến sức khỏe người khác; làm việc bậy và không dùng sức khỏe để làm gì cả. Đồng thời, tích cực bồi đắp những nhân quả mang lại sức khỏe cho ta. Những nhân quả này là: Hiến máu; phóng sinh; bắc cầu, làm đường; sống có đạo đức; trồng nhiều cây xanh; tôn trọng sự sống của chúng sinh; làm thầy thuốc; sống vui vẻ, nỗ lực rèn luyện và truyền cảm hứng cho những người xung quanh,…

– Thứ hai, có chế độ ăn uống và rèn luyện hợp lí. Khi ăn, ta hãy nghĩ đến cái dược tính thay vì cái ngon của món ăn. Nghĩa là ta phải ăn những thứ có lợi cho sức khỏe, kể cả món mình không thích, chứ đừng ăn bừa bãi. Thêm nữa, hạn chế ăn đạm động vật, từ bỏ được hẳn thì càng tốt. Như vậy, ta đã giảm được sự sát sinh.

– Thứ ba, ta phải biết cân đối đời sống của mình. Ngoài việc cân đối giờ giấc, ta cũng phải cân đối cả sức khỏe để có thể làm hết mọi việc trong một ngày mà vẫn vui vẻ, thoải mái. Mỗi việc ta làm đều phải khoa học, hợp lí chứ đừng tùy ý thái quá theo sở thích.

– Thứ tư, tích cực rèn luyện thể chất. Ta phải phân biệt luyện tập và lao động làm việc. Cả 2 đều là vận động cơ thể nhưng luyện tập mang lại cảm giác thích thú, còn làm việc lại khiến ta buồn chán. Để công việc được suôn sẻ, thoải mái, ta cứ coi như là mình đang luyện tập. Như thế, vừa thoát khỏi tâm lí bị ép buộc, vừa làm việc vui vẻ lại có sức khỏe.

Nói về sức khỏe, phương Tây và phương Đông lại đưa ra 2 quan niệm khác nhau. Theo phương Tây, sức khỏe con người là chỉ số về máu, nội tiết tố, cấu trúc, cân nặng,… Tây y dựa vào những chỉ số đó để đánh giá sức khỏe một con người. Vậy nên, khi đi khám ta thường phải làm các xét nghiệm liên quan đến những chỉ số đó.

Với phương Đông, sức khỏe là cấu trúc của một luồng khí lực vô hình. Họ coi cái vô hình này mới là nguồn gốc giữ gìn sức khỏe của một con người chứ không phải dựa trên những chỉ số như Tây y.

Hiện nay, Đông y đã chứng tỏ khái niệm khí lực vô hình bằng thực nghiệm, nhưng khoa học vẫn chưa tìm thấy, bên Tây y cũng làm ngơ, không lên tiếng. Một trong những kết luận của Đông y sau khi thực nghiệm là: “Toàn thân con người là một cấu trúc khí lực vô hình, được dệt bởi những đường kinh mạch và huyệt đạo. Huyệt đạo là những cái chốt. Nối từ huyệt này sang huyệt kia, là những đường kinh lạc dệt thành một cái lưới nơi con người giống như ta vẽ bản đồ 3D”.

Tức là hình dáng con người giống như cái lưới của khí, được đan thành từng ô và có những luồng chạy qua gọi là kinh hay lạc. Những cái chốt gọi là huyệt đạo. Trong hệ thống khí lực đó, lực chạy lên đầu thì não hư, sức khỏe kém. Ngược lại, lực lắng xuống dưới bụng thì sức khỏe ổn định. Vậy nên, các Võ sư đều dạy học trò minh đứng tấn để luyện chân cho kĩ, khi khí dồn xuống phía dưới thì được tụ lại ở đan điền, không vội chạy lên trên vì “Khí tụ đan điền thì vô bệnh”.

Tuy nhiên, nó chỉ làm ta bớt bệnh tật thôi chứ không hết hoàn toàn được. Khi nào, có cái nghiệp gì đó khiến ta không giữ được lực ở đan điền thì bệnh sẽ trở lại. Để khí tụ ở đan điền thì không thể thiếu thiền định và khí công. Khi ta ngồi bất động, buông lỏng toàn thân thì khí tự rút về đan điền. Đây là nguyên tắc.

Để làm rõ điều này, Người chia sẻ về cách luyện tập để làm xuất hiện tĩnh công của nội công. Tĩnh công làm cho nội lực xuất hiện, đẩy lùi những bệnh lặt vặt. Ngoài việc buông lỏng toàn thân, tập hít thở vào – ra thì những thế động công, thế tập cử động chân tay cũng hỗ trợ cho tĩnh công rất nhiều.

Cuối cùng, Thượng tọa dạy các phật tử thế nạp khí và thụt dầu. Người hy vọng các phật tử ai cũng siêng năng luyện tập để tạo cho mình một thói quen, vừa nâng cao sức khỏe của bản thân, vừa có thể hướng dẫn, giúp đỡ mọi người xung quanh cùng tập.

Bài Pháp thoại kết thúc trong trong sự luyện tập chăm chú, hăng say của các phật tử, nhất là giới trẻ. Đây chính là cách học đi đôi với hành, giúp mọi người hiểu nhanh và nhớ lâu. Nhờ những ví dụ thực tế kết hợp với việc luyện tập tại chỗ, mọi người đã nắm rõ hơn những vấn đề liên quan đến sức khỏe. Đồng thời, có phương pháp rèn luyện riêng, phù hợp với thể chất và điều kiện của bản thân.

Bên cạnh đó, bài Pháp cũng nhắc nhở mọi người phải biết trân trọng sức khỏe mình đang có. Đừng khờ dại, lãng phí nó vào những trò vui vô bổ để rồi phải trả những cái giá đắt về sau. Mỗi người hãy tự biết gìn giữ và nâng cao sức khỏe của mình để cùng nhau xây dựng một xã hội khỏe mạnh, làm bàn đạp vững chắc cho đất nước đi lên, sánh vai với các cường quốc trên thế giới./.


Tuệ Đăng

Vi trùng sinh bệnh hay bệnh sinh vi trùng? - TT. Thích Chân Quang và Nhà khoa học Antoine Béchamp

Chương 5.  Vi trùng gây ra bệnh hay bệnh gây ra vi trùng?

Hai con đường tách ra trong rừng, tôi chọn con đường ít người đi. Và điều đó đã làm nên sự khác biệt.

- Robert Frost, “Con đường không được chọn” (The Road Not Taken)

Nhận xét của Thượng Toạ Thích Chân Quang: 


Một chương bị mất trong lịch sử sinh học [1]

Liệu có ngã ba đường nào trong lịch sử và có sự lựa chọn nào đã làm nên “tất cả sự khác biệt”? Liệu cách chúng ta nghĩ về bệnh tật – đặc biệt là bệnh truyền nhiễm – là kết quả của một sự lựa chọn được thực hiện vào khoảng giữa thế kỷ trước? Liệu sự lựa chọn này là kết quả của một ngã ba đường mà ở đó chúng ta đã chọn lối đi này chứ không phải là lối kia? Liệu cái lối mà ta đã không đi có bổ ích hơn, ít có khả năng khai thác thương mại, và thành ra là “con đường không được chọn”?

Hãy trở lại với thế giới khoa học của khoảng 130 năm trước đây. Các nhà khoa học đã tranh cãi về nguồn gốc và bản chất của vật chất sống và đã hỏi những câu như, “điều” gì khiến cho sữa trở nên chua, thịt bị hỏng, và rượu lên men? Nó đến từ đâu? Liệu nó đến từ không khí? Liệu nó xuất phát từ một loại vật chất khác? Hay nó chỉ đơn giản là tự xuất hiện?



Hầu hết các nhà khoa học thời đó tin rằng “sự vật” (vật chất sống) gây lên men xuất hiện từ hư không (tự xuất hiện). Lý thuyết này được gọi là “xuất hiện tự phát”. Một nhà khoa học Pháp, tuy vậy, đã chứng minh qua các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm của ông, rằng quá trình lên men là kết quả của các sinh vật sống và các sinh vật này đến từ không khí, phát triển trong thực phẩm và làm thực phẩm lên men bằng một quá trình tiêu hóa, đồng hóa, và bài tiết riêng của chúng.

Nghe có vẻ như tôi đang nói về Louis Pasteur?  Hãy đọc tiếp.

Stable Family (Gia đình bền vững) - Venerable Thích Chân Quang


Tiên đề của Luật Nhân Quả - Nhân quả công bằng (P2)

Trong Luật Nhân Quả thì tiên đề là như thế này:  
Mỗi ý nghĩ mỗi lời nói và mỗi việc làm của chúng ta đều gây ra một kết quả trở lại cho chính chúng ta. 
Tức là chủ nhân của ý nghĩa, chủ nhân của lời nói, chủ nhân của hành động đều nhận trở lại một cái kết quả tương xứng. Tuy nhiên chúng ta để ý thêm một điều, trong ý nghĩ của chúng ta, trong lời nói và trong việc làm chúng ta chia làm hai loại. Một loại là không có tác động tới người khác, và một loại là có tác động tới người khác. Ví dụ chúng ta vào một cánh đồng trống chúng ta đứng giữa đồng chúng ta hét lên: Ta là vua, ta là vua. Thì như vậy đó là một khẩu Nghiệp từ lời nói và có tác động đến ai không, có liên quan đến ai không ? 



NẾU STALIN KHÔNG CHẶN ĐỨNG NEP, LIÊN XÔ VĨ ĐẠI ĐÃ CHẲNG THỂ NÀO RA ĐỜI



Nói rằng Lenin thất vọng về CNCS, do đó ông ta thiết lập “Chính sách kinh tế mới” và đã không bao giờ xóa bỏ nó. "NEP – không chỉ 1 hay 2 năm, mà vài năm". Thực hiện NEP, rất nhiều nghĩ chỉ nửa năm, như 1 chiến dịch thu mua lúa mỳ.


Thực sự, NEP phải mất 8-9 năm để hoàn thành. Một thời gian trôi qua và NEP – thứ hứa hẹn đã Stalin bị loại bỏ. Sau đó là kinh tế có kế hoạch.

Vấn đề chính: NEP dẫn đất nước vào chỗ không có lối thoát. Đầu tiên, nó không cho phép trao đổi hàng hóa bình thường giữa thành thị và nông thôn – hậu quả là nạn đói khủng khiếp. Thứ hai, NEP là 1 kết cấu chính trị-hành chính quái đản, gồm 3 thành phần: lãnh đạo CS – quản trị doanh nghiệp – tư sản NEP (hay Nepman, tầng lớp tư sản mới).

Lãnh đạo NEP thực hiện chức năng đầu cơ – trục lợi trong quá trình tư nhân hóa toàn bộ Xô Viết. Đó là hệ thống tham nhũng – đến cuối thập kỷ 1920, nạn tham nhũng Xô Viết đã đạt đến mức khủng khiếp. Để dễ hình dung, có thể ví 1 thứ NEP tương tự lại xảy ra thập kỷ 1990, với lãnh đạo NEP là giới tư sản. Không có Stalin, mức độ tàn phá thực sự kinh hoàng.

Về bản chất, NEP là tư bản hóa. Nhìn chung, nếu Stalin không chặn đứng NEP, Liên Xô vĩ đại đã chẳng thể nào ra đời. Đó là những gì có thể kết luận từ nghiên cứu về thời kỳ lịch sử này của nhà nghiên cứu lịch sử-khoa học chính trị Andrew Fursov.

Hiện tại, NEP lại đang được áp dụng đó đây, ngay lúc này, có thể dưới cái tên hay vỏ bọc khác, mà người ta thậm chí không hề hay biết. Một mặt bởi họ không xem xét đến nó, mặt khác, bởi gần 1 thế kỷ bưng bít, LX đã giấu giếm hậu quả bi thảm của nó cho đến tận khi sụp đổ bằng những mỹ từ, xảo ngôn có cánh, và 1 phần cũng bởi Stalin đã xóa bỏ NEP và hạn chế 1 phần kết cục bi thảm kia, không như Yeltsin và chính sách NEP- tư nhân hóa Gaidar-Chubais thập kỷ 1990.   

Tại sao nhà CS Mác xít, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản lại tư bản hóa Xô Viết bằng NEP? Một câu hỏi rất thú vị mà câu trả lời lại gây ra 1 loạt câu hỏi khác còn khó trả lời hơn.

Dân Nga, đã trở thành vật tế thần của thí nghiệm Lenin! Và có vô số tương đồng ở 2 khúc quanh của lịch sử 1917 và 1991. Nếu gọi 1917 là cuộc “cách mạng vô sản” vĩ đại, thì gọi 1991 là cái gì?

NEP – mô hình kinh tế mới: độc quyền chính trị CS-đặc quyền quản trị doanh nghiệp-tư bản đỏ hình thành từ đầu cơ trục lợi tư nhân hóa.
---------------------------------

Hiện tại, Media phương tây hay kết tội Putin tham vọng đế chế, phục dựng CCCP 2.0; Đâu là sự thật?
 
Andrew Fursov: Khôi phục LX là không thể, nhưng là nỗi sợ hãi của Mỹ và phe tự do. Trên thực tế, họ sợ Nga sẽ khôi phục độc lập, có tầm ảnh hưởng trên các nước cựu Xô Viết. Xô Viết là cái gì?  - Hệ thống chống chủ nghĩa tư bản. Nhưng không ai, cả Putin và cộng sự của ông ấy, như chỗ tôi biết, đang tập trung khôi phục CNXH Nga. Họ đang làm điều kháccủng cố nhà nước và củng cố vị thế kinh tế quốc tế. Tất cả là thế, tất cả điều đó được các “ông bạnphương tây của chúng ta gọi là nỗ lực phục dựng CCCP-2;

Nói Xô Viết chống tư bản 1 cách hệ thống, nhưng khi ký kết hiệp định thành lập LX, thực hiện chính sách NEP trên đất nước, tiến hành tự do hóa kinh tế. Theo nghĩa nhất định, là định hình kinh tế thị trường. Nếu đây là công cụ hiệu quả, tại sao NEP lại bị đình chỉ và chuyển sang nền kinh tế có kế hoạch.

Andrew Fursov: Chính sách kinh tế mới - NEP đưa đất nước đến chỗ hoàn toàn không có lối thoát. Đầu tiên, nó không thiết lập được sự trao đổi hàng hóa bình thường giữ thành thị và nông thôn. Thứ hai, NEP là cấu trúc chính trị-hành chính quái đản, gồm 3 thành phần: lãnh đạo CSquản trị doanh nghiệpNepmen (tầng lớp tư sản mới).

Nepmen  đóng vai trò đầu cơ trục lợi. Đây là hệ thống tham nhũng – đến cuối thập kỷ 1920, mức đ tham nhũng Xô Viết đã đạt đến mức rất, rất cao. NEP tương tự bắt đầu thập kỷ 1990, đây Nepmen  là các nhà tư bản được chỉ định.

Cuốn sách của nhà “Lurie” (1 dòng họ Do Thái đông đúc, bố vợ Bukharintác giả chính của NEP) xuất bản năm 1927, có tên là "Tư bản tư nhân USSR". đó đã kể rất hay rằng, trong thời kỳ NEP, người ta chỉ định đúng từng câu chữ các nhóm lớn Nepmen, cũng như đã chỉ định các đầu sỏ thập kỷ 90. Nói cách khác, NEP không giải quyết bất cứ vấn đ kinh tế nào. Nó, nói trắng ra, không có ý định giải quyết các vấn đ kinh tế. Lenin khi giới thiệu NEP, nói rất rõ ràng: "Chúng ta 1 lần nữa quay lại khủng bố, bao gồm cả khủng bố kinh tế". Điều đó đã xảy ra. Hơn nữa, Lenin nói rằng, "NEPkhông phải 1 hay 2 năm, mà vài năm".  Khi NEP được đưa ra, nhiều người nghĩ tất cả điều này chỉ nửa năm - 1 chiến dịch tịch thu lúa mỳ. Thực sự, NEP được tính toán cho 8 hoặc 9 năm đ nó hoạt động. Qua thời gian này, NEP như hứa hẹn , bị loại bỏ.

Hỏi: Nghĩa là tối thiểu, NEP đã được lập trình?

Andrew Fursov: Nó đã được lập trình, nhưng nếu người ta không loại bỏ chính sách này, thì đã chẳng có Liên Xô nào như 1 đất nước vĩ đại tồn tại. Nó sẽ là vật lệ thuộc nguyên liệu thô của phương tây, thứ mà cuối cùng, sẽ đánh mất chủ quyền của mình. Đó là con đường cụt, con đường bế tắc. khía cạnh này, chủ ý các mệnh lệnh của Stalin, tất nhiên, phù hợp với lợi ích quốc gia Nga. Và do đó người ta đã đập NEP, và cùng với nó, nhân thể nói thêm, đập cả “đội cận vệ Lênin” – điều này có thể coi là công đức của Stalin.

HỎI: Từ điều không tránh khỏi này dấy lên câu hỏi về cuộc đấu với phe tự do chủ nghĩa, với cuộc đàn áp thập kỷ 30 và các quá trình kèm theo. Suốt cả năm gần đây, phe đối lập lặp đi lặp lại về năm 1937, một số chuyên gia đưa ra sự song hành với cuộc đấu diễn ra hiện nay vớiạo quân thứ 5", "bàn tay của phương tây" và các dạng tự do chủ nghĩa khác. đây nên phân tích như thế nào?
 

Andrew Fursov: Nhìn chung không thể so sánh hoàn cảnh hiện nay với năm 1937 và thập kỷ 1930. So sánh chúng chỉ có những kẻ đầu óc hẹp hòi hay các chính trị gia. Cái gọi là "đàn áp của chủ nghĩa Stalinthập kỷ 30, thì CN Stalin trong đó rất, rất ít. Nếu chúng ta lấy cụ thể năm 37, chúng tôi đã có rất nhiều nghiên cứu về nó đ mà vạch trần cơ chế đàn áp này. Cơ chế của nó là như sau, vấn đ là chỗ Stalin cùng các cộng sự đã cố đ thảo ra hiến pháp thực sự dân chủ năm 1936. Ví dụ, khi bầu cử các chức vụ khác nhau nhất thiết phải có 2 hay 3 ứng cử viên. Tuy nhiên, cận vệ cũ, các thành phần còn lại từ nội chiến chống đối điều gay gắt. Họ nới thẳng với ông rằng “quần chúng sẽ chọn bất đồng” – chủ đất, thầy tu và cựu bạch vệ.

Và chính các lãnh chúa vùng bắt đầu đòi được khủng bố, yêu cầu được tiến hành các biện pháp đàn áp khắc nghiệt. Các nhân vật chính ở đây là Khrushchev và Eiche – đó là các Stakhanov khủng bố chủ chốt, cánh tay họ không có gì ngoài máu, đặc biệt là Khrushchev. Trong hoàn cảnh này, Stalin không thể đánh tất cả các đồng nghiệp trong BCT. Điều duy nhất ông có thể làm – đáp trả những tên khủng bố chóp bu. Còn nói "khủng bố Stalin", đó không phải là khủng bố quần chúng, thứ tiến hành năm 1937, là những kẻ như Khrushchev và Eiche, đó là đáp trả khủng bố, nhằm chống những trên cao nhất.

Do vậy, cái chúng ta gọi Khủng bố lớn 1937-38 – là hiện tượng phức tạp hơn nhiều điều mà các nhà Xô viết học phương tây, những kẻ tự do chủ nghĩa và loại nhỏ nhặt khác nói về nó.

HỎI: Như thế, đàn áp nàybiểu thị xung đột của giới bề trên bên trongbộ máy đảng khi đó.
 
Andrew Fursov: Đó là xung đột bên trong giới bề trên, mà theo logic lan truyền và liên quan đến phần lớn tầng lớp mình, như nó luôn luôn như thế. Ở đây có thể nói: các thầy đang đánh nhau, các thuộc hạ bị bẻ gãy.

HỎI: Hãy quay lại NEP. Sau khi nó kết thúc chuyển sang kinh tế có kế hoạch, Franklin Roosevelt khi phải đương đầu với Đại suy thoái đã đưa ra các yếu tố của kinh tế có kế hoạch, trong cả 2 trường hợp đều có hiện tượng tăng trưởng. Qui luật như thế là ví dụ về điều khiển kinh tế đã tạo ra các điều kiện tốt nhất để phát triển?

Andrew Fursov: Chúng ta thường nói về kế hoạch chiến lược của nhà nước. Đây là tinh thần hoàn toàn đúng đắn. Khi chúng ta nói về các nước phát triển như Pháp, Đức, Nhật, họ có kế hoạch. Phát triển không thể thiếu kế hoạch. Năm 1991, kế hoạch của chúng ta bị bãi bỏ vì 1 lý do đơn giản – để dễ dàng đánh cắp tài sản nhà nước. Mặt khác, kế hoạch cần phải mềm dẻo, cơ chế cũng cần mềm dẻo, các phương pháp của kế hoạch cần thống nhất và là phương pháp thị trường. Vấn đề là mối tương quan của chúng. Nhưng kinh tế kế hoạch phải là chủ đạo, tôi, không nghi ngờ gì.

HỎI: Một số chuyên gia nói, thời kỳ Xô viết để đảm bảo kế hoạch hóa hiệu quả không thể thiếu khả năng kỹ thuật, nhưng tại thời điểm họ đã sẵn sàng cho phép thực hiện kinh tế có kế hoạch, gần đến lý tưởng. Do đó, họ nghĩ là chuyển đến CNXH không còn xa. Ông có đồng ý với ý kiến này không?

Andrew Fursov: Dĩ nhiên. Nhưng vấn đề là, bắt đầu thập kỷ 60 các nhà hàn lâm-kỹ thuật của chúng ta đã đưa ra hệ thống nhìn chung là quản trị điều khiển học kinh tế. Điều thú vị nhất là phản ứng của phương tây, họ đã tiến hành cả 1 chiến dịch, đưa ra các bài báo và tạp chí, trong đó nói rằng "các nhà hàn lâm đã quyết định chèn ép BCT". Phương tây sợ tình trạng này, nói chung, họ sợ lãnh đạo chúng ta, và cải cách đã không diễn ra. Thay vì đó, là cải cách của Kosygin và Lieberman, cải cách của họ đã chẳng dẫn đến kết quả nào và chấm dứt.

HỎI: Còn chuyện thú nhận điều khiển học là ngụy khoa học thì sao?

Andrew Fursov: Vấn đề là điều khiển học bị công nhận là giả khoa học cuối 40, nhưng chỉ trong môi trường dân sự. Môi trường quân sự thì chưa bao giờ. Với quan niệm 1950 đầu 60 về điều khiển học được đưa ra sách báo đại chúng, trên tờ tạp chí phổ biến "Kỹ thuật – trẻ” có các bài viết về điều khiển học, các bài của nhà xuất bản Wiener. Đó là 1 thời đại khác.


HỎI: Hôm nay có cuộc hội thảo Câu lạc bộ Izborsky mà ông tham gia (Изборский клуб - ИДК), và như được biết, sẽ bàn về dự án thành lập bảo tàng CCCP. Ông với dự án này, tại sao cần nó, có những chức năng nào trong đó?

Andrew Fursov: Tôi tin bảo tàng CCCP là điều rất quan trọng. Chức năng của nó ít thôi. Cần để giới trẻ làm quen, đặc biệt là các thành tựu của LX. Bảo tàng này cần trở thành thuốc giải độc bởi những tuyên truyền bịa đặt của phương tây và “đạo quân thứ 5” bị phương tây hóa của chúng ta – chúng đã quăng bùn vào Xô viết. Bảo tàng sẽ nói sự thật về Liên Xô, những điều đã bị bóp méo 25 năm qua. Vào thời của mình, người ta hỏi nhà triết lý Zinoviev: "Ông có bảo vệ CNCS?". Ông ta trả lời: "Không, tôi bảo vệ sự thật về CNCS."  Đặc điểm chính của bảo tàng CCCP phải là sự thật để bảo vệ CCCP như 1 đất nước vĩ đại. Tôi ví dụ, mình tự hào đã được sinh ra ở LX, trên đất nước tuyệt vời.
 
Hỏi: Ông nói gần đây, sau 20 năm chiến tích cực bôi nhọ thời kỳ Xô viết và xóa bỏ Stalin, nhưng thăm dò cho thấy càng nhiều dân chúng có thái độ tích cực về Stalin. Tại sao, điều gì là lý do?

Andrew Fursov: Quá trình này rất logic, bởi dân chúng so sánh những gì họ biết, họ nghe với những gì nhìn thấy ngày nay. Sự phân cực xã hội to lớn, khuyết tật của quan hệ quốc tế và dân chúng biết những gì khác biệt dưới thời Stalin. Hơn nữa, sự bôi nhọ Stalin và tất cả những kẻ trát bùn vào Xô viết đã làm điều này quá ngu xuẩn, quá thô thiển đến mức mà những người kém hiểu biết cũng rõ là có cái gì đó không đúng ở đây. Ngoài ra, số đông quần chúng hiểu rõ, quá khứ Xô viết bị ném bùn cũng là để thấy những gì đang xảy ra lúc này – nó quá tồi tệ, lại càng diễn ra tồi tệ hơn. Chẳng thể nào che đậy được sự thật, và tuyên truyền tốt nhất cho LX và thời kỳ Stalin – chính là hiện thực của chúng ta ngày nay. Đã quá đủ để nhìn vào nó, còn Xô viết trong quá khứ sẽ có rất nhiều người ủng hộ.

Hỏi: Bất chấp phương tây sợ hãi "CCCP tái lập”, quá trình hợp nhất không gian hậu Xô viết diễn ra không tích cực lắm. Theo quan điểm của ông, liệu Vladimir Putin có đ quyền lực đ khởi động quá trình "Chủ nghĩa Stalin mớicùng với hợp nhất Eurasia, tái công nghiệp hóa, tăng cường uy tín quốc tế, etc?

Andrew Fursov: Câu hỏi này chỉ lịch sử mới trả lời được. Hãy đợi! và Xem!




Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...