CÁC NHTW LÀ CỦA AI? BANK OF TURKEY - P4

Lịch sử NHTW Thổ là bằng chứng rõ nét nhất phản ánh câu chuyện buồn thuộc địa. Chủ nhân của vùng đất này đã tồn tại từ thời cổ đại, nhưng NHTW đầu tiên, theo nghĩa hiểu được và có cái tên Desraadet Bank được lập năm 1847 bởi các ông chủ Do Thái đến từ Galatia (thuộc Constantinople). Dường như, đó là bước thử nghiệm từ "đạo quân thứ 5" của Kahal tài chính toàn cầu khi năm 1856, chức năng của ngân hàng này bị ngăn chặn bởi nhóm nhà băng Rotshchild từ Anh và Pháp, những kẻ đã tạo ra tổ chức này và có quyền đối với NHTW Thổ. Chỉ có điều, trụ sở của ngân hàng này lại ở London.

Năm 1863 diễn ra "cải tổ: đối tác “Anglo-French” đổi tên ngân hàng, cái tên mới thậm chí còn nguy nga tráng lệ hơn: "ngân hàng đế chế Ottoman". NHTW này được gọi vờ vĩnh là nhà nước khi đã được chuyển giao độc quyền phát hành tiền và thu thuế cho đến tận năm 1935, điều này một mặt gợi nhớ đến câu chuyện những “nông dân phải đóng thuế” ở Thổ, mặt khác làm sáng tỏ câu phát biểu của nhà Rotshchild: "hãy trao cho ta quyền phát hành tiền, ta không quan tâm ai ban hành luật lệ”.

Nỗi hổ nhục quốc gia với bề trên Do Thái đứng đầu ngân hàng “quốc gia” Thổ và trụ sở ở London kéo dài đến tận khi WW-I bắt đầu. Khi đó, Anh và Thổ ở 2 chiến tuyến, tuy nhiên điều này không ngăn cản Anglo-French tiếp tục điều hành NHTW cho dù việc in ấn tiền Thổ ở London đã chính thức dừng lại. Nhưng không khó để lại tiếp tục việc này khi đã sắp đặt để phá hoại tài chính và hối lộ quan chức Thổ.

NHTW 100% vốn Thổ mang tên "Ngân hàng tín dụng quốc gia Ottoman" được thành lập tháng 3 1917. Thất bại không tránh khỏi của đế chế đã đưa ngân hàng này thành "nguyên bản" của quốc gia, tuy nhiên, họ phải chấp nhận hệ thống “kiến thức nhân đạo” của nước ngoài.

Không tình cờ khi cũng vẫn những chân rết London ấy tiếp tục mở rộng bóp nặn tài chính Thổ qua cái NHTW giả mạo này thêm 1,5 thập kỷ nữa sau khi kết thúc thế chiến I. Cho đến 1923, Hội nghị kinh tế về chủ đề "ngân hàng quốc gia" đã chấp nhận luật về thành lập NHTW quốc gia. Cho đến 4 năm sau, năm 1927, Thổ đã phải "trao đổi quan điểm với các NHTW các nước".

Năm 1928, Dr. G. Vissering, lãnh đạo NHTW Hà Lan (ông cố nội của NHTW Bank of England) đến dạy cho Thổ 1 bài học về "sự cần thiết của NHTW độc lập không liên quan đến chính phủt" và đề nghị 1 chương trình "chuyên gia đào tạo".

Pha mới thuộc địa tài chính bắt đầu: thuộc địa hóa cưỡng bức trực tiếp hệ thống tài chính quốc gia bắt đầu biến thành "thuộc địa hóa nhận thức". Điều này làm người ta rất nhớ lịch sử thành lập đầy trường đoạn NHTW Nga".

Năm 1929, Thổ được tư vấn bởi 1 kẻ là thuộc hạ của Kahal tài chính toàn cầu, nhận cấp bậc “bá tước Ý”, là Do Thái bề trên Volpi di Misurata, cùng kẻ tòng phạm là cha đẻ cách mạng Nga Parvus-Gelfand, từng tài trợ cho phong trào “Young Turk” mà chủ yếu là “Young Jews” đến từ Constantinople và Soloniksky y như những kẻ xưng là dân tộc Ukraine vào lúc này. Misurata khởi nghiệp bằng buôn bán thuốc lá ở Montenegro, sau đó lập hãng buôn Societa Commerciale d'Oriente và từ 1912 buôn bán xuất nhập khẩu với Thổ. Misurata làm trung gian cho hiệp ước hòa bình với Thổ, điều này khiến hắn có uy tín chính trị. Năm 1925, hắn làm bộ trưởng tài chính cho chính quyền phát xít Italia, cùng lúc là tay chân có ảnh hưởng đến giám đốc điều hành Bank of England Norman Montague, một đồng sự khác của hắn là giám đốc FED ở New York Benjamin Strong (Мямлин, «Глобальная финэлита и валютные войны. Часть I-II. Исторические параллели», Институт ВК).

Các chuỗi sự kiện là khá hợp qui luật. Quan hệ thân cận của Thổ và Ý đã kéo dài nhiều năm khi dân Genoa và Venetians có tên trong biên niên sử Nga tương ứng là "Juda và fryaza" buôn bán ở Bizantin, thời kỳ thập tự chinh đã chiếm đoạt Galatia – vùng cửa khẩu của Constantinople, còn sau đó thành phố rơi vào tay Ottomans, sau đó nữa bắt đầu hình thành các khu ghetto (ổ chuột) trong các thành phố buôn bán của đế chế Ottoman.

Đại sứ Anh tại Istanbul G. Louter viết vào tháng 5 1910 cho bộ trưởng ngoại giao Anh Hartingu về ảnh hưởng của Hội tam điểm châu Âu đến phong trào Young Turk: "… trái với Anh và Mỹ, Hội tam điểm mới ở Thổ chủ yếu là bí mật và chính trị. Mọi tin tức về chủ đề này chỉ có thể nhận được chỉ theo cách bí mật, do đó tôi, người giao nhiệm vụ bí mật của tam điếm, sống trong sợ hãi,rằng có thể rơi vào tay mafia…(và) vi phạm luật tình trạng chiến tranh.

… phong trào Young Turk ở Paris khác đáng kể ở Thessaloniki (thành phố lớn thứ 2 Hy Lạp) và không có tin tức rộng rãi về hoạt động nội bộ gần đây. Cư dân ở Thessaloniki gồm 140000 người. Trong đó có khoảng 80000 là DT Spanish, và 20000 theo giáo phái Sattan cũng như DT ngầm theo Muslims. Một phần nhất định DT bỏ đạo đã nhập quốc tịch Italia và tham gia vào hội kín người Ý. Chủ tịch cộng đồng DT Timothy Nathan là 1 tam điểm chức vụ cao. Tỏ ra là, Ttg người DT Luzzati và Sonnino, cũng như các nghị sĩ DT và dân biểu là tam điểm. Họ nhấn mạnh truyền thống của họ là "Scotland cổ đại” (của tam điểm).

Mấy năm trước, 1 DT tam điểm Thessaloniki tên là Emanuel Carazo giờ làm phó cho Majlis, kẻ này lập hội kín ở Thessaloniki lấy tên “Macedonia Rizorta", hội này có quan hệ với tam điểm Ý-Pháp. Rõ ràng kẻ này đang thực hiện mục đích cho Young Turk tiếp xúc với những kẻ hoạt động dân sự, quân sự tam điểm để tạo ảnh hưởng DT bí mật lên giới cầm quyền mới ở Thổ…”

Bên cạnh đó, chính "bá tước Misurata" có gốc gác ở Venice, nơi đây có ghetto DT lớn nhất châu Âu, còn gọi là "tổng trấn Venetian cuối cùng" tồn tại đến thời gian này. Ông ta là nhà sáng lập "The Venice Film Festival".

Sau khi gặp gỡ với các "chuyên gia có ảnh hưởng" như vậy, chính quyền Thổ 1 lần nữa "đã chủ động xây dựng khung pháp lý cần thiết cho việc thành lập NHTW". Dự thảo mới về NHTW Thổ được chuẩn bị bởi giáo sư Leon Morf đến từ “trường thương mại cao cấp" của ĐH Lausanne, Thụy Sĩ. Điều này làm người ta nhớ lại, tham gia vào soạn các văn bản Hiến pháp LB Nga năm 1993 là công dân Mỹ (Do Thái) Albert Paul Blaustein, và mô phỏng qui chế Gaidar-America trong việc hình thành "Luật về NHTW Nga".

Luật về NHTW Thổ được phê chuẩn bởi Hội đồng quốc gia tháng 6 1930, còn NHTW được thành lập tháng 10 1931 như 1 công ty cổ phần. Điều thú vị là cấu trúc của nó là sao chép Swiss bank Thụy Sĩ, chia ra làm 4 hạng mục sở hữu:

A: Ngân khố CH Thổ, để đảm bảo "độc lập", có cổ phần không quá 15%;
B: Các ngân hàng hoạt động ở Thổ;
C: Các ngân hàng nước ngoài sở hữu 6%;
D: Công dân Thổ và các tổ chức thương mại;

Đồng tiền Thổ chỉ bắt đầu được in trong nước kể từ 1957.

Quản trị tối cao của NHTW là 1 hội đồng 7 người, đứng đầu là chủ tịch hội đồng được bầu bởi các cổ đông chính mỗi 3 năm và có quyền tái cử không hạn chế. Đoàn chủ tịch 5 người do Ttg bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm. Ban quản trị 2 người gồm chủ tịch và phó chủ tịch.

Nhìn chung, đây là một cấu trúc quan liêu rất phức tạp phản ánh đầy đủ cả lịch sử của NHTW cũng như "phong cách Á Đông".

Thời kỳ hệ thống Bretton Woods sụp đổ, từ bỏ bản vị vàng, có khuynh hướng quốc hữu hóa NHTW, đầu 1970, Thổ thay đổi luật về NHTW (No. 1211), bổ xung điều khoản cho phép nhà nước nắm không ít hơn 51% cổ phần.

CÁC NHTW LÀ CỦA AI? BANK OF JAPAN - P3

THỬ NGHIỆM BANK OF JAPAN

Năm 1873, Nhật ra luật ngân hàng là bản sao luật Mỹ 1863, các ngân hàng Nhật có thể phát hành tiền dưới dạng trái phiếu chính phủ. Cho đến cuối thập kỷ 1870, đất nước này có đến 151 ngân hàng tư nhân tung tiền vào lưu thông từ hư không (không có gì bảo lãnh). Do đó, kể từ 1882 Bank of Japan buộc phải phát hành tiền có bảo lãnh bằng bạc 100%. Năm 1897, Nhật chuyển sang bảo lãnh vàng và điều này tồn tại cho đến tháng 12 năm 1931.

Năm 1942, Bank of Japan nằm dưới sự kiểm soát của bộ trưởng tài chính, người có quyền thay đổi các văn bản dưới luật của ngân hàng. Năm 1949, dưới sự chiếm đóng của Mỹ, ra đời cái gọi là Hội đồng tiền tệ nằm dưới sự cai quản của chính quyền chiếm đóng Mỹ.

Bank of Japan lúc này trở thành công ty cổ phần với 55% vốn thuộc về chính phủ, 45% là các cá nhân, các công ty kể cả từ nước ngoài tuy nhiên không chính thức tham gia vào quản trị ngân hàng. Các cổ đông Bank of Japan được đảm bảo lợi tức 4% và có thể đến 5%, còn phần lớn lợi nhuận phải đóng góp vào ngân sách quốc gia, cổ phiếu Bank of Japan được niêm yết trên JASDAQ.

Hiện nay, nợ công của Nhật đã vượt quá 226% GDP hay lớn đến $13,5 nghìn tỷ, tình cảnh này khác biệt vởi vấn đề nợ công của các nước khác ở chỗ phần lớn nợ của Nhật nằm trong tay các nhà đầu tư nội địa, họ đã quen với việc chính phủ tái cấu trúc nợ với hầu như lãi suất bằng 0. Chính phủ Nhật nhìn chung đã vay mượn từ thị trường nội địa nhiều năm (cho đến 2011) để cân bằng cán cân thương mại. Ngoài ra, các nhà đầu tư Nhật là các nhà tài chính có tinh thần dân tộc, họ không bị dẫn dắt bởi các chỉ số xếp hạng Moody, S&P hay Fitch từng đánh giá Nhật hạng AAA.

Nợ nước ngoài của Nhật không lớn, ngược lại, họ là chủ của khoản nợ nước ngoài tích lũy đến $3 nghìn tỷ, Bank of Japan đang giữ trái phiếu chính phủ Mỹ lên đến $1,2 nghìn tỷ.

Dù vậy, sự thao túng của hệ thống tài chính từ bên ngoài vào Nhật vẫn còn nguyên và không hề nhỏ. Cho đến nay, nước Nhật bị chiếm đóng đã trở thành bệ phóng lấy đà cho công nghệ tài chính toàn cầu. Cuối thập kỷ 80, khi Nhật trở thành công xưởng hàng đầu thế giới, Mỹ đã ép buộc Nhật tăng giá đồng yen đến không tưởng và hạ lãi suất xuống 2,5%. Điều này đã gần như đánh quị kinh tế Nhật bản.


"Đồng tiền rẻ mạt" trước đây tìm thấy lợi nhuận nhanh chóng ở thị trường chứng khoán và lạm phát tích tụ thành bong bóng tài chính khổng lồ. Giá cổ phiếu Nikkei đã tăng ít nhất 40% 1 năm, giá bất động sản ở Tokyo và ngoại ô tăng 90% và hơn cũng không nhắc nhở điều gì. Cơn sốt vàng quét khắp Nhật bản, trong vòng vài tháng, đồng yen đã lên giá từ 250 đến 149 yên/đô la rồi bị Mỹ ép lên đến 100 yen 1 đô la, gấp 2,5 lần so với trước đó. Bong bóng hối đoái tiếp tục phình lên, năm 1988, 10 ngân hàng lớn nhất trên thế giới là của Nhật, bất động sản Tokyo bị định giá quá cao, cao hơn toàn bộ nước Mỹ, giá trị danh nghĩa cổ phiếu Nikkei chiếm hơn 42% toàn bộ cổ phiếu bán trên thế giới.

Bệnh chứng "tài chính Nhật bản" kéo dài không lâu. Đến cuối 1989, ngay khi Tokyo bắt đầu các biện pháp làm nguội đầu cơ, thì các nhà băng đầu tư phố Uôn giết chết ngay tại chỗ thị chứng khoán Tokyo. Chỉ trong vài tháng, Nikkei mất gần $5 nghìn tỷ và vẫn không thể nào đối phó với lạm phát. Ở đây đã vận hành thử nghiệm công nghệ mới – tiền điện tử miễn phí. Tuy nhiên, hậu quả tai nạn Fukushima, dường như đã làm trì hoãn thử nghiệm.

Nhật không phải là đầu tiên, nhưng là trường hợp nặng nề nhất của sự thao túng từ bên ngoài vào NHTW đất nước.

CÁC NHTW LÀ CỦA AI? SWISS BANK - P2

NGÂN HÀNG QUỐC GIA THỤY SĨ (SWISS BANK)

Carl cướp của Clara hay cướp gặp cướp – câu chuyện ngụ ngôn trong thực tại.


Như đề cập trong phần 1, năm 1800 Napoleon cho ra đời con quỉ lùn Thụy Sĩ, đã thiết lập ra doanh nghiệp Hội tam điểm - Bank of France. Ngân hàng Thụy Sĩ độc lập ra đời muộn hơn – năm 1907, theo hiến pháp liên bang, nó là "công ty cổ phẩn với qui chế đặc biệt". Ngân hàng này có 2 trụ sở ở Bern và Zurich cùng 14 ngân hàng chi nhánh ở mỗi đại hạt – rất giống với FED và các ngân hàng con của nó sau này.

Vốn điều lệ của Swiss bank là 25 triệu sf. Nó được chia thành 100.000 cổ phần đăng ký với giá trị 250 sf mỗi cổ phần. Các cổ phần đăng ký bị hạn chế trong 100 cổ đông, không mở rộng cho các tập đoàn nhà nước hay ngân hàng con tham gia. Do vậy, 55% vốn đăng ký thuộc về chủ thđịa phương (các địa hạt, ngân hàng con, v, v.). Phần khác thuộc về các cá nhân và chính phủ liên bang không giữ cổ phần.
 
Đứng đầu Swiss bank là Hội đồng quản trị thực hiện chức năng giám sát và kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Nhiệm kỳ của thành viên hội đồng dài 4 năm và không liên tục quá 3 nhiệm kỳ. Hội đồng quản trị có 11 thành viên, 6 trong đó gồm cả chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng do chính phủ liên bang bổ nhiệm, 5 thành viên còn lại do các cổ đông bổ nhiệm. Mọi thứ còn lại của NHTW này là độc lập. Theo điều 31 của luật về NHTW các cổ đông được bảo đảm thu nhập từ 6% lợi nhuận của Swiss bank. Lợi nhuận còn lại cao hơn mức này được chia theo tỷ lệ: 1/3 cho chính phủ liên bang và 2/3 cho các địa hạt.
 
Mỗi nhóm 3 thành viên do liên bang bổ nhiệm đảm trách (1) trong 7 các ban: kinh tế, hợp tác tiền tệ quốc tế, luật pháp và tài sản, đoàn thư ký, kiểm toán nội bộ, thi hành điều lệ, quĩ bình ổn; (2) trong 3 ban: tài chính và rủi ro tài chính, ổn định tài chính, điều tiết tiền tệ; (3) trong 3 ban: thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng, công nghệ thông tin.

Nhưng tổ chức quan trọng này của quỷ lùn Thụy Sĩ đã quản trị để cướp bóc và cũng bị cướp bóc. Như điều kiện để gia nhập IMF năm 1992, Swiss bank đã từ bỏ 40% vàng dự trữ cùng với việc tuyên bố vàng là "kim loại chết" và không còn cần thiết để dự trữ nữa và bán vàng ra. Swiss bank cũng chấp nhận “bồi thường” $1,25 tỷ cho 18 nghìn “nạn nhân Holocaust Do Thái” vì đã giữ các tài khoản chết của chúng.
---------------------------

Hãy hình dung một tên cướp bước vào ngân hàng, chĩa súng vào cô nhân viên giao dịch, đưa ra 1 cái túi và yêu cầu lấy tất cả các tiền từ ngăn của mình vào đó. Lúc đầu, cô phản đối, nhưng sau đó, khi bị đe dọa sẽ bắn, cô đã đổ đầy túi của tên cướp bằng tiền mặt. Và sau đó hãy hình dung rằng, khi tên cướp ra khỏi ngân hàng với cái túi cướp được, bảo vệ ngân hàng mở cửa cho hắn ta, mỉm cười, và đề nghị gọi taxi cho hắn, nói hắn ta có thể sớm trở lại. Sau đó thì không khó để hình dung hắn dường như sẽ đến trong lần kế tiếp.
 
Đây không phải là chuyện khôi hài. Nước Đức đã phải bồi thường hàng trăm tỷ đô la để bọn chúng xây dựng Israel, nuôi sống trọn đời "nạn nhân holocaust" giả mạo. Gần đây nhất, nước Đức phải giao nộp 4 chiếc tàu ngầm hiện đại nhất, bọn chúng không lấy đồ lạc hậu, hoàn toàn miễn phí ngoài cái giá tượng trưng.

Nhưng vẫn còn khía cạnh khác. Đó là cách hành xử với Zionists gần đây. Mấy năm trước, chúng đã chĩa súng chĩa vào đầu dân Thụy Sĩ yêu cầu hàng tỷ đô la bồi thường vì các tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ mà chúng tuyên bố là sở hữu bởi những người Do Thái bị mất tích trong WW-II. Thụy Sĩ ban đầu phản đối rằng các tài khoản ngân hàng không có người nhận từ những năm 1930 và 1940 nhiều nhất chỉ là một vài triệu đô la, không thể đến tiền tỷ, bên cạnh đó chiến tranh đã kết thúc hơn 50 năm trước đây và yêu cầu chi trả lẽ ra phải được đệ trình từ nhiều năm rồi. Zionists dọa bắn, chúng theo nghĩa bóng nói, đã mua các chính trị gia Mỹ để ngăn chặn các ngân hàng Thụy Sĩ khỏi kinh doanh tại Mỹ. Cuối cùng chúng ra về với $1,25 tỷ trong túi, kèm với lời Thụy Sĩ xin lỗi vì chúng đã không đến sớm hơn.

Sau đó, sau thành công quá dễ dàng với Thụy Sĩ, khó có thể mong đợi bọn Zionists sẽ t bỏ ngón tống tiền đi thẳng. Đúng như vậy, chúng đã sớm trở lại với hãng Volkswagen và yêu sách tương tự vì đã sử dụng lao công Do Thái trong WW-II mà chỉ cung cấp cho họ ăn ở và không trả tiền công theo mức nghiệp đoàn.

Ai đó có thể nghĩ rằng những lao công Do Thái đó biết ơn Volkswagen đã giữ cho họ còn sống trong chiến tranh, đã cho họ ăn, đã cho họ 1 mái nhà trên đầu, trong khi rất nhiều người dân Đức đã chỉ có đống đổ nát vì bị ném bom để mà sống. Đúng, nếu ai đó nghĩ như thế, thì đã không hiểu Zionists. Bọn chúng nói với Volkswagen rằng nếu họ còn muốn bán bất cứ cái xe hơi nào ở Mỹ, thì tốt hơn là hãy ho ra sớm. Còn các chính trị gia đã bị mua, các ông trùm truyền thông tại Mỹ đã bắt đầu khua kiếm của họ loảng xoảng và nói lớn về các loại lệnh trừng phạt khác nhau đối với Volkswagen.

Và như thế, giống như ngân hàng Thụy Sĩ, Volkswagen đã ho ra tiền.

Sau đó, bắt đầu 1 cơn điên cuồng, đúng như dự đoán sau khi đã dọn sạch ngân hàng Thụy Sĩ, bọn Zionists sẽ đi tìm các nạn nhân khác trong một danh sách dài. Volkswagen không phải là công ty duy nhất đã sử dụng lao động không tự nguyện trong chiến tranh. Còn nhiều công ty khác, trong đó có cả Daimler-Benz, BMW và Siemens.

Và Thụy Sĩ cũng không phải quốc gia duy nhất nơi Zionists có thể tuyên bố ông bác Abe và bà dì Sara chúng mới nhận họ có tài sản cất giấu và gửi gắm. Giờ bọn chúng đến các ngân hàng ở Pháp và ở Anh và bắt đầu rên rỉ than vãn trên truyền thông rằng bọn ngân hàng này đã "vô cảm" với người nghèo, những "holocaust sống sót" đáng thương đột nhiên nhớ ra đã gửi ở đó hàng triệu đô la và giờ cần đến nó. Tiếp theo bọn chúng lại nhớ các hãng bảo hiểm ở Ý, Thụy Sĩ và Anh cùng những nơi khác, có thể ông chú bà bác của chúng đã có bảo hiểm nhân thọ. Sau đó, bọn chúng nhớ ra Thụy Điển đã nợ chúng vàng, tiếp đến là Đan Mạch và Na Uy. Ngay cả những người Ba Lan, kẻ đã bị bọn Zionists cai trị bằng Hội đồng Bolshevik trong gần 50 năm sau chiến tranh, cũng bị tuyên bố còn nợ chúng, bên cạnh món bất động sản trị giá 7 tỷ đô la của những người Do Thái đã hồi hương về Palestine trong và sau WW-II đang bị đe dọa bồi thường.

Bọn khốn đã tiến hành cũng 1 chiến thuật như nhau trong mọi trường hợp: trả cho chúng tao, hoặc chúng tao sẽ có các chính trị gia đã mua làm luật với chúng mày!
 
Trong kỷ nguyên không biên giới, dân tộc nào không có một chỗ đứng sẽ không được đối xử đứng đắn. Chỗ đứng là quá khứ và lịch sử. Một cá nhân không có lịch sử, một dân tộc quên lãng quá khứ, sẽ biến mất như tuyết, hay bị biến thành gà để tiếp tục đẻ trứng cho đến khi bị ăn thịt.
--------------------------

Cùng với điều này, Swiss bank buộc phải bán vàng dự trữ và để thực hiện, thậm chí đã sửa cả hiến pháp. Từ 2000 đến 2005, mỗi ngày họ bán ra 1 tấn vàng. Gần 1 nửa vàng (~1300 tấn) của Thụy Sĩ đã bị bán ra. Cho dù bán vàng vật lý, thì vàng giấy của các nhà băng vẫn giữ giá, không những vậy, giá vàng thực đã bị đẩy lên $1895/ounce tháng 9 2011. Cho đến 2008, vàng Thụy Sĩ đã giảm còn 1040 tấn. Nhưng Swiss bank vẫn không dừng lại, nổ ra tranh cãi pháp lý và cuối cùng, luật bán vàng bị hủy bỏ.

Ngày nay, vàng và dự trữ ngoại tệ của Thụy Sĩ được giữ ở các nơi khác nhau: ở Thụy Sĩ 70%, tại hầm ngầm dưới quảng trường liên bang phía bắc nghị viện Bern, tại Bank of England (20%) và tại Bank of Canada (10%)

Bởi khủng hoảng Mỹ, ngân hàng con UBS bị thiệt hại nặng nề, Swiss bank đã phải cứu trợ và buộc phải vay tín dụng từ FED, cho đến nay vẫn phải trả lợi tức cho khoản vay này. Dù sao, khi đồng euro mất giá mạnh năm 2015, cùng với khủng hoảng Hy Lạp, dòng vốn khổng lồ lại chảy vào Swiss bank.

CÁC NHTW LÀ CỦA AI? ECB - P1

Ngân hàng trung ương (NHTW) – thành tố quan trọng nhất của hệ thống kiểm soát toàn cầu, và quản trị của nó là vì lợi ích không phải của 1 quốc gia cụ thể và thậm chí không phải giới bề trên ăn bám của chúng, mà vì lợi ích của hệ thống ăn bám toàn cầu mà gọi 1 cách có điều kiện là "chính phủ 1 thế giới - NWO".

Chúng ta biết rất ít về cấu cấu trúc đồ sộ như các NHTW, cảm tưởng rằng có cấm kỵ bí mật trong việc công khai về vấn đề này. Nhưng có tư liệu nào đó tình cờ xuất hiện, danh sách cổ đông chuẩn mực của các NHTW này lại dẫn đến các cổ đông tư nhân. Mục đích chính của bài viết này, là gây sự chú ý công chúng và mối quan tâm xem xét đến vấn đề cực kỳ quan trọng này, khi mà thông tin về chúng chỉ ra nhóm kín thiết lập ra các tổ chức này.

Ngày nay, dễ dàng chỉ ra 2 hình thức điều hành tiền tệ và tài chính: nhà nước và tư nhân.

Đầu tiên: nhà nước, hay theo cách tiếp cận quốc gia, bị giới chủ toàn cầu gieo rắc hoang đường là "độc đoán", "phương đông" hay "không dân chủ" và bị gán đủ các loại nhãn mác kinh khủng.
 
Hiện tại, chỉ có 1 số ít quốc gia có "NHTW nguyên bản", với địa vị pháp lý thuộc chính phủ: Ngân hàng TQ, Iran, Triều Tiên, Pakistan và Việt Nam. Kể từ 2013, Hungary cũng lấy lại NHTW thuộc về nhà nước và gần đây nhất là Ngân hàng quốc gia Serbia.

Bản chất gốc rễ của NHTW tư nhân, hay lối tiếp cận phi nhà nước, như 1 quy luật đã bị che đậy, đằng sau khái niệm mỹ miều "độc lập". Tài sản của các ngân hàng này thuộc loại "không định danh” và hoạt động sao chép các qui định bị áp đặt bởi kagal tài chính toàn cầu.
 
Ví dụ về các ngân hàng "độc lập" như vậy là NHTW Nga, khi NHTW Nga không thuộc về chính phủ, nhưng có quyền hợp pháp phát hành tiền rub, điều tiết lưu thông và kiểm soát các hoạt động các ngân hàng như thuộc về chính phủ. Điều này có nghĩa là chính phủ Nga bị miễn trừ giám sát hoạt động NHTW Nga.

NHTW ĐỘC LẬP LÀ VỎ BỌC CHE ĐẬY TÀI SẢN CỦA KAGAL TOÀN CẦU
 
Kahal (Qahal): là 1 tổ chức trong xã hội Do Thái cổ đại, tương đương với hội đồng trưởng lão. Ở châu Âu, là quản trị cộng đồng Do Thái tự lập đthu thuế, kiểm soát hoạt động của cộng đồng.

Hầu hết các NHTW phương tây được thiết lập bởi các cổ đông tư nhân Do Thái. Với 1 chút ngoại lệ, năm 1935 ngân hàng Dự trữ New Zealand bị quốc hữu hóa. Ngân hàng Pakistan được thành lập năm 1948 với 51% cổ phần thuộc chính phủ, 49% vốn tư nhân và được mua lại năm 1974. Sau 1975, các nước Chile, Ecuador, Pakistan, Portugal, Mexico và Venezuela cũng đã quốc hữu hóa NHTW (1 phần hay toàn bộ).
 
Điều này dường như là "công lý đã thắng", nhưng thật không may, đó lại chỉ là chuyển đổi hình thức hệ thống tiền tệ quốc gia sang cho giới kagal toàn cầu kiểm soát. Ngân hàng quốc gia Áo là ngân hàng quốc hữu hóa gần đây nhất năm 2010. Trước đó, chính phủ Áo sở hữu 70,27% cổ phần, nhưng ngân hàng này không có cổ đông tư nhân khi các tổ chức khác thuộc chính phủ nắm giữ phần còn lại. Nhưng đây là 1 ví dụ ngược- có vẻ như là thắng lợi, nhưng thực chất nó lại giết chết các cổ đông theo dân tộc chủ nghĩa.
 
Các ngân hàng sau đây là tư nhân dù hình thức có này khác: Belgian, Greece, Italy, Japan, South Africa, Switzerland, Turkey và FED Mỹ. Thậm chí ở Greece, Italy, South Africa, Switzerland, Turkey và Mỹ, chính phủ không có cổ phần trong NHTW, chỉ có Belgian và Japan có chính phủ s hữu ít hơn 50% cổ phần.

Một đặc biệt khác: không phải tư nhân nào cũng có thể nắm cổ phần NHTW, luật đặc quyền và ngoại lệ của FED chỉ cho phép các các ngân hàng tư nhân thành viên nắm cổ phần. 

Trong khi các chuyên gia ngân hàng, tài chính nhìn chung hiểu rõ chính sách tiền tệ của NHTW, thì hiếm ai trong họ có hiểu biết về chức năng của các tổ chức này. Một người như vậy là giáo sư V. Katasonov. Các phân tích của ông cho phép chúng ta hiểu 3 vấn đề, 1 là đặc điểm cấu trúc NHTW, 2 là quyền lực các cổ đông tư nhân và 3 là ảnh hưởng rõ rệt của cấu trúc toàn cầu-siêu quốc gia đến việc điều khiển tài chính 1 quốc gia. Tài phiệt quốc tế, giới tư bản toàn cầu không có bất cứ lợi ích nào chung với lợi ích quốc gia, kể cả Mỹ.

NHTW CHÂU ÂU (ECB) VÀ "QUÂN ĐOÀN QUỐC GIA" 

ECB được thiết lập dưới hình thức cổ phần, cổ đông của nó là các NHTW thành viên eurozone và các ngân hàng tư nhân khác ngoài eurozone. Hầu hết đều già cỗi. Như đã nêu, các NHTW phương tây là “độc lập” cách ly khỏi sự kiểm soát của quốc gia, ở đó quyền về tiền tệ của chính phủ các nước bị chuyển vào tay kagal tài phiệt quốc tế – ngoại lệ duy nhất là ngân hàng quốc gia Hungary.


Các cổ đông của ECB

Banque Nationale de Belgique nắm 2,48% cổ phần ECB, thành lập 1850 và có 51% sở hữu nhà nước, phần còn lại là các nhà “đầu tư tư nhân”.

Deutsche bank nắm 18% cổ phần, là 1 bản sao của FED-Mỹ và thành lập sau WW-II, năm 1948 từ sát nhập ngân hàng địa ốc và ngân hàng liên bang; năm 1957, ngân hàng TsBZ trở thành chi nhánh của Deutsche bank.

Eesti Pank 0.2% và thành lập 1990. Nó là ngân hàng cũ thời Xô Viết Vnesheconombank của Estonia.

Bank of Ireland nắm 1.2%.

Bank of Greece 2%, thành lập năm 1927 như ngân hàng tư nhân thương mại và đổi tiền.

Banco de España nắm 8.8%, thành lập 1782 như ngân hàng hoàng gia. Ngân hàng này bị Franco quốc hữu hóa năm 1962 và hiện do nước ngoài kiểm soát.

Banque de France nắm 14,2%, do Napoleon thành lập năm 1800 từ các cha cố Tin lành và hầu hết thuộc về các ngân hàng Thụy Sĩ, nhưng bản chất đã bị sở hữu bởi các trùm con buôn Do Thái kể từ khi Napoleon phá tan hoang nước Pháp. Bởi thế, không có gì ngạc nhiên khi Pháp là quốc gia nô lệ Do Thái nhất từ lâu đời nhất châu Âu.

Banca d'Italia nắm 12,3% là tư nhân 100% và thậm chí nhà nước không có bất cứ quyền gì với nó. Ở Ý, nó nổi tiếng hơn với cái tên nhà băng mafia.

Từ khi thành lập năm 1835, nó mang tên "Bank of Rome", của các nhà buôn Bỉ và Pháp mà thực chất là họ hàng Rotshchild, năm 1851 nó trở thành ngân hàng nhà nước và năm 1874 là 1 trong 6 ngân hàng có quyền in (phát hành) tiền. Năm 1889 nổ ra bê bối hoạt động in tiền, 4 năm sau, nhà băng bị thâu tóm và đổi tên thành Banca d'Italia cùng với việc sát nhập 4 ngân hàng lớn: National bank of the Kingdom ItalyNational bank of Tuscany; Tuscan bank of the credit for the industry and trade of Italy thuộc về mấy gia đình Bombrini, Bastogi, Baldumo.

Năm 1936, nó bị chính quyền Mussolini xung công, nhưng cuối cùng hóa ra là không hề có quốc hữu hóa. Năm 1999, nghị viện Italy đề xuất dự thảo No.4083 tiếp nhận cổ phần của ngân hàng này, nhưng không được phê chuẩn.

Theo nghiên cứu của Fulvio Coltorti năm 2004 và lần đầu tiên công bố các cổ đông chính thức của nó là: 

- Intesa Sanpaolo;
-
UniCredito Italiano;
-
Assicurazioni Generali;
-
Cassa di Risparmio in Bologna;
-
INPS;
-
Banca Carige;
-
Banca Nazionale del Lavoro;
-
Banca Monte dei Paschi di Siena;
- Cassa di Risparmio di Biella e Vercelli;
-
Cassa di Risparmio di Parma e Piacenza; 


Không loại trừ các cổ đông này lại là sở hữu của các cổ đông khác, ví dụ, sở hữu của Rotshchilds là BNP Paribas sở hữu Banca Nazionale del Lavoro.

Ngoài ra, các ngân hàng này có tuổi rất già cỗi từ những ngày hoạt động cho vay nặng lãi, Banca Monte dei Paschi di Siena cổ lỗ nhất từ 1472; UniCredit 1473; Banca Carige 1483; Intesa Sanpaolo 1563;

Theo L. Larush, Venetian Assicurazioni Generali, cổ đông của Intesa Sanpaolo từ năm 1831 mới thực sự là thế lực tài chính thống trị Italy, hơn thế còn mở rộng ảnh hưởng ra khắp thế giới, "quyền lực của Venetian đã bảo lãnh rộng khắp, trong số các thứ khác nhau, là cung cấp tài chính cho Mussolini lên nắm quyền", là "kẻ kế thừa nhà nước Venetian (đảo Venice)", có 1 hội đồng điều hành một số quỹ, mỗi quỹ do 1 nhân vật đứng đầu đại diện, 1 quỹ là ngân hàng đầu tư châu Âu". Cũng như ngân hàng Allianz, Venetian là đối thủ của Assicurazioni Generali, ngân hàng có quan hệ thân cận với gia đình tầng lớp quí tộc châu Âu – dù cả 2 đều là Do Thái hay quan hệ thân cận. Các gia đình này, đã hàng thế kỷ dùng nợ để kiểm soát chính phủ và kinh doanh, quan điểm của họ, nợ là linh thiêng và phải trả, bất kể giá nào với nhà nước và dân chúng, đó là nền tảng của hệ thống tự do Anglo-Hà Lan.

Có đặc điểm là Banca d'Italia, cũng như 1 số NHTW là có giá trị tài sản bằng vàng khá cao, chiếm 24,8% (68,% giá trị bằng tiền), theo 1 số dữ liệu năm 2010, Banca d'Italia đã giữ và chuyển từ kho dự trữ của Italy 173 tấn vàng năm 1943 sang Milan và sau đó đến Fortezzu thì bỗng nhiên mất tích, dường như, nó đã đến Basel ở Thụy Sĩ.

Theo sắc lệnh TT Italia năm 2006 thay đổi quyền hạn của Banca d'Italia để cân bằng quyền lợi của ngân hàng với chính phủ, sắc lệnh này được ký bởi chủ tịch hội đồng quản trị Banca d'Italia Romano Prodi, TT Giorgio Napolitano, bộ trưởng kinh tế Tommaso Padoa-Schiopp. Theo sắc lệnh, chính phủ Ý yêu cầu có cổ phần trong ngân hàng nhưng nó đã không bao giờ được thực hiện. Và để hiểu được cuộc đấu giành ảnh hưởng ở Banca d'Italia cũng như sự chuyển đối của nó dưới sự bảo hộ của ECB, cần phải nhớ Rotshchild đã tòng phạm cưỡng bức tài sản của Monte dei Paschi di Siena và thủ tiêu các nhân chứng như thế nào..

De Nederlandsche Bank 4% được thành lập 1814 bởi vua William I, bị quốc hữu hóa 1948.

Bank of England 13.7%, thành lập 1694 theo kiểu mẫu ngân hàng Amsterdam, là ngân hàng tư nhân và bị quốc hữu hóa năm 1949. Nó là 1 trong 8 ngân hàng được quyền phát hành tiền tệ ở vương quốc Anh (United Kingdom) và kiểm soát các ngân hàng thương mại phát hành tiền ở Anh cùng xứ Wales, ngoại trừ Scotland và Ireland. 

- Phát hành tiền cho Scotland: Bank of Scotland, Royal Bank of Scotland (của Rotshchild), Clydesdale Bank;
- Phát hành tiền cho Ireland:
Northern Bank, First Trust Bank, Ulster Bank, Bank of Ireland;
- Phát hành tiền cho “lãnh thổ hải ngoại”: States of Guernsey, States of Jersey, Isle of Man Government;
- Độc quyền ấn loát tiền: De La Rue (cũng như Rotshchild có độc quyền in tiền ở Macau);

Nói cách khác, cổ phần kiểm soát ở ECB thuộc về 4 quốc gia: Germany (17,99%), France (14,18%), England (13,67%) and Italy (12,3%).

Một cách chính xác là 1 số cổ đông ECB lại không nằm trong eurozone – ví dụ Bank of England. Và quan trọng hơn, bản chất các NHTW các nước EU, theo “tiêu chuẩn quốc tế” là sở hữu tư nhân của các bộ lạc Do Thái và độc lập với nhà nước (cho dù nghị viện có được bầu thành viên quản trị). Các NHTW không trao cho chính phủ các nước này 1 đồng xu nào, chỉ cho vay. Điều đơn giản này có 1 thực tế là hầu hết dân chúng không hay biết. Do vậy:

- Italy phản ánh lợi ích “băng đảng tài chính mafia già nua” Venetian;
- Greece 65% vốn bị rửa trôi vào các ông chủ tư nhân, cùng lúc bị lệ thuộc thuộc địa vào tư bản toàn cầu.
- Belgium, theo nhiều dữ liệu, lệ thuộc vào Kahal tài chính Rotshchild, và hoàng gia thân cận với Vindzorami;

Nhìn chung, sự lệ thuộc của EU vào Kahal Rotshchild dường như là có điều kiện, cho dù vậy, bộ lạc Judais với sức tác động to lớn nhất chiếm phần quan trọng nhất trong cơ chế quản trị tài chính toàn cầu.

Khi 1 số nền quân chủ ở EU vẫn chưa hẳn "lên giường” với bộ lạc Do Thái, họ vẫn muốn thò tay vào NHTW độc lập, thể hiện ảnh hưởng của "quí tộc già" ở EU vẫn còn lớn mặc dù họ rất thân cận với Judaism. Tuy nhiên, kagal đã thắng, và do đó ký sinh trùng tài chính toàn cầu đã có tầm ảnh hưởng siêu quốc gia.

Hệ thống kiểm soát các NHTW càng phức tạp, chúng càng gây ra vấn đề lớn cho các quốc gia (như Greece, Ireland, Italy). Cần phải nhìn nhận hệ thống cho vay nặng lãi này đã chiếm đoạt thành công được đến như vậy là bởi thế giới quan Ki tô giáo và sau đó cả Chính thống giáo.

Cũng cần lưu ý, hầu hết những kẻ mới nhập đạo ECB, như Estonia, gặp phải cảnh thảm hại, "tự chuốc lấy", cùng lúc, bị cấu trúc bán thuộc địa đẩy vào tình trạng lệ thuộc đến tâm thần trong bối cảnh hệ thống XHCN tan rã, rối loạn, góp phần làm nổi lên quân đoàn thứ 5 phá hoại.
to be continued… 


Federal Reserve Cartel

Những đại gia đình đang thống trị thế giới

PUTIN CHỐNG TÀI PHIỆT QUỐC TẾ - P1

PUTIN CHỐNG TÀI PHIỆT QUỐC TẾ - P2 


HSBC: nhà băng bẩn nhất! 


Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...