CIA sử dụng chiến lược phát xít với cánh hữu Ukraine kể từ Chiến tranh Lạnh

CIA dường như đã bị bắt gặp đúng lúc sa đọa. Nằm ở gốc rễ của phong trào “kháng chiến” CIA và George Soros là những kẻ phát xít và pro-Nazi, bậc tiền bối tư tưởng của đảng cánh hữu phát xít Svoboda hiện này và các nhóm cực đoan chống Nga khác chủ yếu dựa vào tây Ukraina.

Một tài liệu CIA từ tháng 8 năm 1950 cho thấy cho sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, tình báo Mỹ đã khai thác thông tin tình báo và chiến lược của Đức Quốc xã áp dụng trên các nhóm dân tộc chủ nghĩa Ukraina trong WW-II. Thông tin tình báo này ở Ukraina đã bị bắt được bởi kẻ tiền nhiệm của CIA là Office of Strategic Services (OSS) trong những ngày cuối của WW-II. Tiết lộ về việc CIA sử dụng tình báo Đức Quốc xã ở Ukraina là rất có ý nghĩa trong bối cảnh chính phủ Mỹ hiện nay ủng hộ các nhóm dân tộc chủ nghĩa Ukraina chống Nga, trong các nhóm đó có nhiều kẻ là tân phát xít và khuynh hướng phát xít.

Trong WW-II, Đức quốc xã đã chống lưng cho một số nhóm dân tộc chủ nghĩa Ukraina chống Liên Xô. Sau chiến tranh, các nhóm này bắt đầu nhận được sự hỗ trợ của CIA trong phong trào kháng chiến bí mật chống Liên Xô, đặc biệt là ở miền tây Ukraina.

Báo cáo của tình báo Đức Quốc xã tìm thấy trong kho lưu trữ của CIA mang tên "Die national-ukrainische Widerstandssbewegung" hay "Kháng chiến quốc gia-Ukraina". CIA đã đóng dấu là báo cáo MẬT.

Nhiều nhóm người Ukraine được liệt kê trong báo cáo CIA do Nazi thành lập, là một phần của cái gọi là phong trào “Các dân tộc bị giam cầm" tập trung ở Washington tìm cách huy động du kích dân tộc chủ nghĩa chống Liên Xô và Đông Âu hậu WW-II. Rất nhiều bậc tiền bối tư tưởng của phe đối lập chống Viktor Yanukovych ở Ukraina hiện nay đã được đón rước từ hàng ngũ của cuộc Chiến tranh Lạnh.

Trong số các nhóm người Ukraine được xác định bởi Đức quốc xã để làm đồng minh tiềm năng của CIA là tổ chức dân tộc chủ nghĩa Ukraina (Quốc Dân Đảng – UUN Organization of Ukrainian Nationalists). Một trong những kẻ thừa kế tín điều chính trị của OUN là Oleh Tyahnybok - thủ lĩnh phong trào cực hữu phát xít mang tên Svoboda.

Tyahnybok là khách thường xuyên của Đại sứ Mỹ tại Ukraine - Geoffrey Pyatt, hắn là dân Do Thái và Zionist hăng hái, tên này đã dành một số tiền quá lớn và thì giờ để tham dự các sự kiện tưởng nhớ Holocaust ở Ukraina kể từ khi làm thủ lĩnh. Tyahnybok cùng với các thủ lĩnh đối lập Vitali Klitschko - cựu võ sĩ quyền Anh, và Arseniy Yatsenyuk - thành viên được đề cập là thành viên tiềm năng của chính phủ hậu Yanukovych và sẽ nhận lệnh từ Washington và EU.

Nhóm Ukraina khác ðýợc định danh bởi Đức quốc xã và ðýợc chấp nhận bởi CIA bao gồm Sluzhba Bezopasnosti hay an ninh của OUN, nhóm Bandera, nhóm Mel'nik, Hội du kích Taras Bulba (Borovets) ở Galicia, Quân ðoàn cách mạng Ucraina miền Tây và Galicia (mà là cờ Đỏ-Đen của nó xuất hiện trở lại là nhờ nhóm ðýợc George Soros tài trợ trong các cuộc biểu tình hiện nay ở Ukraina), Phong trào Hetman, Liên minh Giải phóng Ukraina (đặt trụ sở tại Paris) - thủ lĩnh là Levitsky, một tên Do Thái, và Phong trào Cossack quốc xã Ukraina (đặt trụ sở tại Berlin).

Tài liệu tình báo Đức Quốc xã cũng chỉ ra rằng nhiều thành phần dân tộc chủ nghĩa Ukraina, mà một số trong đó sau này gia nhập hàng ngũ CIA, ðýc ðào tạo trong "trại của quân đội Đức và cảnh sát ở Cracow, Neuhammer, Brandenburg, và Frankfurt-Oder" và sau đó "gửi đến miền đông tham gia chiến tranh du kích".

Ngýời liên lạc giữa tình báo Anh và Phong trào Cossack Ukraina được gọi là "Markotun". Gestapo xác định Markotun là thủ lĩnh Hội Tam điểm.

CIA đồng thời cũng đã sử dụng tin tức tình báo Gestapo về Hội Tam điểm ở miền đông và trung Âu để thiết lập liên lạc với các nhân vật ngầm và có tiềm năng chống Liên Xô và chống Cộng Sản. CIA phát hiện ra rằng trong WW-II và sau đó, Hội Tam điểm lẩn trốn tránh bị bắt bằng cách nói chuyện với nhau thông qua một mã số điện thoại đặc biệt, thường là ở Rumani. CIA, theo một báo cáo 12-5-1952, đã được thông báo rằng các thành viên Tam điểm Rumani (Grand Conseil Masonic Lodge) đã được chuẩn bị để tiến hành phá hoại chống chính phủ Rumani và các mục tiêu Liên Xô trong cả đất nước này.

Kiến trúc sư chính của hoạt động bí mật và phá hoại CIA chống các quốc gia khác ở phía đông và trung Âu là tiến sĩ Lev Dobriansky, một kẻ là người Ukraina bị trục xuất và lưu vong và là cha đẻ của cái gọi là phong trào “Quốc gia bị giam cầm”. Dobriansky và các đồng minh cánh hữu của hắn ta, đặc biệt là trong Hội đồng anh ninh Mỹ (American Security Council) mà trong đó Dobriansky là một sĩ quan, tập hợp phe cánh hữu Ukraina lưu vong chống Liên Xô. Hội đồng an ninh Mỹ có túi tiền lớn để tài trợ cho những kẻ phá hoại người Ukraina khi các thành viên của nó bao gồm giám đốc điều hành các hãng Mỹ lớn: US Steel, Motorola, General Electric, American Zinc, và Eversharp. Tuyên truyền của Dobriansky và các đồng nghiệp thường xuyên được nghe thấy trong những năm 1960 trên sóng phát thanh của WMAL-AM ở Washington, DC và các thủ lĩnh của nó duy trì liên lạc chặt chẽ với CIA dưới sự chỉ đạo của Đô đốc William F. Raborn, Jr.

Nhà lãnh đạp Liên Xô Nikita Khrushchev đã chế nhạo các hoạt động của lưu vong Ukraina-Mỹ và CIA và những kẻ bảo trợ trong quốc hội Mỹ năm 1960. Khrushchev hỏi, “Mỹ và người Mỹ cảm thấy như thế nào nếu Nghị viện Mexico đã, ví dụ, thông qua một... nghị quyết yêu cầu rằng Texas, Arizona, California được giải phóng khỏi ách nô lệ của Mỹ?”

Hợp tác chặt chẽ của CIA với người Ukraina và các nhóm chính trị cực hữu Ukraina và khác là dự án ‘thú cưng cá nhân’ của Richard Helms, phó giám đốc và giám đốc CIA. Helms điều trần trước Quốc hội rằng trong số các nhóm lưu vong của CIA là “nguồn tình báo tốt mà chúng đang tồn tại và được phát triển” thông qua các nhóm người nhập cư từ Ukraina, vùng Baltic, và các nước khác. Hội đồng các dân tộc châu Âu bị giam cầm(ACEN-Assembly of Captive European Nations) bao gồm một số nhân vật cánh hữu trong biên chế của CIA, bao gồm chủ tịch Vaclovas Sidzikauskas của Lithuania, phó chủ tịch Stefan Korbonski của Ba Lan, George M. Dimitrov của Bulgaria, Josef Lettrich của Tiệp Khắc, Ferenc Nagy của Hungary, và tiến sĩ Dobriansky đại diện cho Ukraina. Ngoài việc duy trì liên lạc với các bên đảng Cộng hòa và Dân chủ tại Mỹ, ACEN có quan hệ với Đảng Độc lập Mỹ. Đảng này năm 1968 có ứng cử viên tổng thống George Wallace và phó ứng cử cực hữu, tướng về hữu Curtis LeMay.

Thông qua Hội đồng an ninh Mỹ, Dobriansky, đồng nghiệp cánh hữu của hắn và một số kẻ với John Birch Society và Young Americans for Freedom, duy trì quan hệ chặt chẽ với các độc tài quân sự Mỹ Latin và các nhóm bán quân sự. Có mọi dấu hiệu cho thấy những quan hệ này tiếp tục tồn tại ngày nay kể từ khi bùng phát bạo lực ở Ukraina báo trước bạo lực tương tự ở Venezuela. Các cuộc biểu tình bạo lực chống chính phủ được bầu của tổng thống Venezuela Nicolas Maduro đã tìm được tài trợ bởi một số nhóm cánh hữu bán quân sự có quan hệ ở Colombia, một số trong đó có mối liên quan đến các yếu tố phát xít và zionnist chịu trách nhiệm giúp đỡ để thúc đẩy bạo lực ở Ukraina. Những yếu tố này bao gồm các Viện Doanh nghiệp Mỹ-AEI và Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế-CSIS.

Cái gọi là vấn đề “dân tộc” của Nga và các nước cộng hòa Liên Xô cũ thường được sử dụng làm vũ khí của CIA và các tổ chức mặt tiền, các hội chống lưng của nó. Dobriansky một lần làm ầm lên với Quốc hội về việc hầu hết người Mỹ chưa bao giờ nghe nói về kế hoạch của hắn ta để đưa đến sự căng thẳng sắc tộc ở lục địa Á-Âu. Hắn chế nhạo Mỹ, khi các nhà bình luận hỏi, “Người da trắng Ruthenia ở đâu? Người Cossackia ở đâu? Hắn nói thêm, “Nhiều người thừa nhận họ không bao giờ nghe nói về Idel-Ural hoặc Azerbaijan hay thậm chí là Turkestan”.

Ngày nay, những kẻ thừa kế Dobriansky, trong đó có con gái hắn Paula Dobriansky, là một quan chức Bộ Ngoại giao trong chính quyền Bush và hăng hái chủ nghĩa tân bảo thủ, đang giơ cao chiếc áo đẫm máu để phương Tây can thiệp vào Ukraina và Nga... Hùng biện ngớ ngẩn và ngu ngốc ngày nay cũng đã thấy trong thời những năm 1950 và thập niên 60 khi ông cha họ chỉ tìm thấy đồng minh ở các phần tử cực đoan cánh hữu, ở ngôi sao điện ảnh già nua như Ronald Reagan và Adolphe Menjou, và các cựu Đức quốc xã.

Mỹ siêu cường số 1 thế giới về cái gì?




1. Dân số Mỹ khoảng 5% thế giới nhưng nước Mỹ có hơn 2 triệu tù nhân, chiếm 25% số lượng tù nhân thế giới. Dự án kinh doanh nhà tù biến tù nhân Mỹ thành “Trại GULAG” khổng lồ.


2. Số lượng ô-tô bị đánh cắp
  


3. Số lượng người béo phì


4. Tiêu thụ nhiều nước giải khát có gas nhất, mỗi người Mỹ xài 0,5 lít/ngày.


5. Tiêu thụ đồ ăn nhanh, năm 2000 Mỹ tiêu thụ đến $110 tỷ, năm 1970 chỉ là $6 tỷ.

6. Xem TV 28 giờ/tuần.

7. Lừa lọc thẻ tín dụng, 27% lượng tiền bị đánh cắp từ thẻ tín dụng trên thế giới là của Mỹ, $3,56 ty năm 2010.

8. Số lượng sống độc thân, 26% gia đình Mỹ đơn thân

9. Tỷ lệ cưới và ly dị thấp 6,8 và 4.95 trên 1,000 người, kém xa nước Bỉ hâu như có 60 vụ ly dị mỗi 100 đám cưới nhưng xếp trên nếu tính tỷ lệ.

10. Số lượng thiếu nữ có thai dưới 20 tuổi.

11. Tỷ lệ trẻ sơ sinh chết vì cha mẹ lạm dụng là 20000 trong 10 năm. 75% số đó chết dưới 4 tuổi, thường là 1 tuổi rưỡi. Gấp 3 lần Canada và gấp 11 lần Italia.

12. Lượng luật sư trên đầu người, 1,1 triệu luật sư hay mỗi luật sư trên 256 người Mỹ, tỷ lệ luật sư/ tù 1:2. Để so sánh, Pháp có 1 luật sư trên 1403 người.

13. Hàng đầu sản xuất sản phẩm khiêu dâm (phim ảnh sách báo sextoys). 89% sản phẩm khiêu dâm thế giới đến từ Mỹ.

14. Lắm người lạm dụng thuốc men nhất thế giới, 36 triệu người. Mỗi năm 200 ngàn chết vì lạm dụng thuốc.

15. Thuốc men đắt đó nhất thế giới, đắt hơn đến 50% so với phần còn lại của thế giới.

16. Hàng đầu về sử dụng thuốc an thần và chống rối loạn tâm thần. Hơn 20% người lớn dùng ít nhất 1 loại an thần và chống rối loạn. 1/3 trẻ con nuôi ở Mỹ dùng ít nhất 1 loại thuốc an thần. Trẻ em Mỹ dùng thuốc an thần nhiều gấp 3 châu Âu. Lượng thuốc an thần Mỹ tiêu thụ đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 1996-2005.

17. Hàng đầu về chứng rối loạn tâm thần. 1 trong 5 người Mỹ lớn bị chứng rối loạn tâm thần.

18. Lắm thẻ tín dụng nợ nhất. Mỗi người Mỹ trung bình có đến 4 thẻ tín dụng ghi nợ (xài trước trả sau), cứ 1 trong 7 người Mỹ có đến 10 thẻ hoặc hơn. Đầu năm 2011 tổng nợ nần trên thẻ là $785 tỉ.


19. Nợ cầm cố thế chấp lớn nhất thế giới.


20. Tổng nợ phải chi trả cho học hành ở trường lên đến $1000 tỉ, là khoản nợ lớn nhất trong dân Mỹ.

21. Lắm người phẫu thuật thẩm Mỹ nhất thế giới, xét về tỷ lệ chắc chỉ thua Hàn Quốc.

22. Lắm cái chết vì thuốc an thần nhất thế giới.


23. Tỷ lệ tội phạm cao nhất thế giới gần 12 triệu vụ mỗi năm, xếp sau là Anh và Đức (nationmaster.com).

24. Lắm luật ngu nhất thế giới.

25. Tiêu lắm tiền vào tranh cử tổng thống nhất thế giới. Cuộc tranh cử năm 2012 đã tiêu tốn đến $11 tỉ, ở Nga mỗi người ứng cử chi tiêu không quá $50 triệu.

26. Thâm hụt nhập siêu lớn nhất thế giới. $558 tỉ năm 2011.

27. 5% dân số thế giới là Mỹ nhưng xài đến 30% tài nguyên khoáng sản thế giới.

28. 30% rác thải thế giới là ở Mỹ.

29. Lắm đất trồng cây biến đổi gen nhất thế giới, năm 2003 chiếm 68% thế giới.

30. Một nửa số nhà phân tích tâm lý thế giới là người Mỹ.

31. Nợ công lớn nhất thế giới mọi thời đại ($15 ngàn tỉ).

32. Chi tiêu quân sự lớn nhất thế giới mọi thời đại. vượt xa 12 nước đứng sau, bằng cả thế giới còn lại.

33. Lắm căn cứ quân sự nhất thế giới, có độ hơn 1000 cái xung quanh quả đất.

Ngoài ra, nước Mỹ lắm dân nhập cư nhất thế giới, độ 300 triệu dân nhập cư, trừ người Anh-điêng.




Dân chủ luôn luôn thất bại!


Nhiều người Mỹ tin họ đang sống trong nền dân chủ. Nhưng không. Đúng là có những cái tên trên lá phiếu, các chiến dịch tranh cử được tiến hành, phiếu bầu được bỏ, và kẻ chiến thắng giữ nhiệm kỳ Washington. Nhưng một số phiếu bầu được tính hơn những phiếu khác, hơn cách khác. Những kẻ bỏ phiếu với cuốn séc của họ tầm ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với những người chẳng có gì ngoài nút bấm hoặc kéo đòn trong phòng bỏ phiếu. Càng xa rời nguyên tắc "một người, một phiếu", thì càng có ít dân chủ. Ở đây tại Mỹ, người ta đã đi quá xa khỏi nguyên tắc lý tưởng này. Đặc biệt rõ rệt khi người Mỹ đang sống trong kỷ nguyên hậu quyết định của công dân Mỹ: Super-PAC (Siêu Hội đồng hành động chính trị - Super-Political action committee).

Thật không may, chẳng có từ ngữ tốt đẹp nào để mô tả những gì người Mỹ có ở Mỹ. Có thể gọi đó là Đầu sỏ chính trị, nhưng điều đó hàm ý sự tập trung quyền lực không có thực. Giới bề trên lập ra luật lệ Mỹ là một nhóm đa dạngtương đối lớn. Quyền lực phân tán rộng và lỏng lẻo, mặc dù hầu hết các môi giới quyền lực đều đến Washington, D.C. Nhưng giả sử rằng dân Mỹ đã sống trong nền dân chủ khi mà mọi lá phiếu đều bình đẳng. Thì thế nào nó cũng sẽ thất bại mà thôi, các nhà khoa học nói, dân Mỹ không đủ thông minh cho lắm để dân chủ phát triển.

Tiến trình dân chủ dựa trên giả định rằng công dân (phần lớn trong số họ, ít nhất) có thể nhận ra các ứng cử viên chính trị tốt nhất, hoặc ý tưởng chính sách tốt nhất, khi họ nhìn thấy nó. Nhưng 1 nghiên cứu đã tiết lộ khía cạnh bất hạnh của tâm lý con người dường nhưbác bỏ khái niệm này, và hàm ý rằng thay vì thế các cuộc bầu cử dân chủ cho ra các lãnh đạo và chính sách tầm thường.

Nghiên cứu, dẫn đầu bởi ông David Dunning, một nhà tâm lý học tại ĐH Cornell, cho thấy rằng kẻ không đủ năng lực vốn không thể đánh giá năng lực của kẻ khác, hoặc phẩm chất tư tưởng của kẻ khác. Ví dụ, nếu người thiếu chuyên môn về cải cách thuế, sẽ rất khó khăn cho họ để xác định ứng cử viên nào là chuyên gia thực thụ. Họ đơn giản là thiếu công cụ tinh thần cần thiết để thực hiện phán xử có ý nghĩa.

Hậu quả là, không có lượng thông tin hay dữ kiện nào về các ứng cử viên chính trị có thể làm cho sự bất lực cố hữu của nhiều cử tri có được đánh giá chính xác về chúng. Bên trên điều đó, "những ý tưởng rất thông minh sẽ khó được dân chúng tiếp nhận, bởi vì hầu hết mọi người không có sự tinh tế để nhìn nhận ra như thế nào là một ý tưởng tốt," - Dunning nói với tờ Little Mysteries Life.

Ông Dunning và đồng nghiệp Justin Kruger, trước đây là của ĐH Cornell và bây giờ là ĐH New York, đã chứng tỏ lần nữa và một lần nữa rằng dân chúng đang tự sướng và tự ảo tưởng khi nói đến kỹ năng trí tuệ của mình. Cho dù các nhà nghiên cứu là về thử nghiệm khả năng của dân chúng để đánh giá những chuyện khôi hài nhất, tính đúng đắn của ngữ pháp, hay thậm chí hành xử của mình trong một ván cờ vua, bộ đôi này đã thấy rằng người ta luôn luôn đánh giá thành tích của mình là "trên trung bình" chính những kẻ, khi thử nghiệm, thực sự đóng vai ở phần dưới đáy cùng của số đông. (Kẻ thiếu năng lực quá ngốc để biết nó - Incompetent People Too Ignorant to Know It).

Còn rất nhiều điều để nói về khả năng của dân chúng để đánh giá năng lực của chính mình hay những ý tưởng của người khác, nhưng hãy xem sự "thiếu công cụ tinh thần" của họ ảnh hưởng đến dân chủ như thế nào.

Trong một nền dân chủ lý tưởng, nơi thực sự có "một người, một phiếu", việc thiếu năng lực của dân chúng để đánh giá các ý tưởng và các vấn đề sẽ là một bài toán lớn. Nhưng người ta đang sống trong thế giới thực, không phải là thế giới lý tưởng. Càng đi xa khỏi nền dân chủ lý tưởng, quá trình bỏ phiếu trở nên càng ít lý trí. Ở đây tại Mỹ, bổn phận đảng phái và bầu cử đã chủ yếu trở thành quá trình cảm xúc. tất nhiên đối với các ứng cử viên hoặc những người làm việc trực tiếp cho các đảng phái chính trị hoặc những người mua lòng trung thành của họ, có mộtvàng ở cuối cầu vồng.

Nhưng vấn đề không quan trọng, chỉ đơn thuần là chuẩn mực tình cảm để cử tri hiểu rõ. Hầu như không có bất cứ điều gì là có lý đối với hầu hết các giá trị nhân bản. Sự ra đời của truyền thông đại chúng trong thế kỷ 20 đã thay đổi trò chơi một cách sâu sắc. Thông điệp tình cảm bây giờ có thể được phát tán xa rộng trong 30 giây hoặc 60 giây trả tiền ngay trên TV hoặc radio. Chắc chắn không thể có được sự thông thái để giải quyết vấn đề thực sự (ví dụ như chính sách thuế hoặc thâm hụt ngân sách của chính phủ) trong một khoảng thời gian ngắn đến như vậy. Showbiz, không phải là ý kiến có lý, chi phối quá trình bầu cử từ đầu đến cuối.

Trích dẫn bên trên của các nhà khoa học đã vạch trần dối trá, mà tác giả gọi là “Sự đổ tội cho tính hợp lý” trong bài viết “Loài người không phải kẻ giải quyết vấn đề có lý trí”. Nếu "thiếu chuyên môn" (hay bất lực) vấn đề thực sự, chúng ta có thể kết luận rằng DÂN CHỦ LUÔN LUÔN THẤT BẠI các cử tri không thể phân biệt các ý tưởng tốt với những ý tưởng tồi.

Kẻ thiếu năng lực nhất trong số chúng ta phục vụ như chim hoàng yến trong mỏ than báo hiệu nguy hiểm, biểu hiện tình thế khó khăn lớn hơn trong khái niệm dân chủ; kẻ thực sự dốt nát có thể là vị quan tòa tồi tệ đối với các ứng cử viên và ý tưởng, Dunning nói, nhưng chúng ta cùng chịu đựng một mức độ quáng xuất phát từ sự thiếu chuyên môn của cá nhân mình.

Mato Nagel, nhà xã hội học Đức gần đây đã ứng dụng lý thuyết của Dunning và Kruger mô phỏng một cuộc bầu cử dân chủ bằng máy tính. Trong mô hình toán học của mình về bầu cử, ông cho rằng kỹ năng lãnh đạo của cử tri được phân bố trên một đường cong hình chuông - một số là lãnh đạo thực sự tốt, một số thực sự tồi, nhưng phần nhiều là tầm thường - rằng mỗi cử tri không có khả năng nhận biết kỹ năng lãnh đạo củang cử viên chính trị khi nó tốt hơn so với của mình. Khi đó một cuộc bầu cử đã được mô phỏng, các ứng viên có kỹ năng lãnh đạo chỉ tốt hơn một chút so với trung bình luôn luôn giành chiến thắng.

Nagel kết luận rằng dân chủ hiếm khi hoặc không bao giờ bầu ra lãnh đạo tốt nhất. Lợi thế của dân chủ trước độc tài hoặc các dạng thức chính phủ khác chỉ đơn thuần là "có hiệu quả ngăn chặn các ứng cử viên thấp hơn mức trung bình trở thành lãnh đạo".

Như đã chỉ ra ở trên, vấn đề thực sự dân chủ lý tưởng (mỗi người một lá phiếu ngang bằng trọng lượng) không tồn tại. Cử tri ngu ngốc vấn đề thứ hai.

sẽ đi xa hơn. Dân chủ lý tưởng hay gần với lý tưởng cố hữu không ổn định và do đó phải thất bại. Chúng không bền vững. Lý do cho điều này rất đơn giản: dân chủ lý tưởng không tương thích với bản năng con người, nghĩa là quyền lực suy đồi, quản trị vốn hữu đòi hỏi con người phải sử dụng quyền lực, do đó quá trình dân chủ phải bị phá vỡ tại điểm này hay khác.

Dân chủ Mỹ đã thất bại nhiều thập kỷ trước,-chúng ta có thể tranh cãi chính xác khi nào điều đó đã xảy ra, nhưng chúng ta cũng đang nhìn thấy quá trình đó tác quái ở EU ngày nay. Hy Lạp và Italy đang vận hành bởi những quan chức không được bầu ở Brussels, cùng với ECB và các nhà băng tư nhân lớn, và sẽ càng cố thử ở các nước khác rìa phía Nam EU.

Quyền lực lớn đang bị giam cầm và tham nhũng là một bộ phần và cả bầy của điều đó. Nhưng quá trình điều hành trong các nước EU đang trở nên dân chủ hơn mỗi ngày. Nếu ai nghi ngờ, hãy hỏi một người Hy Lạp hay một người Ý. Năm tiếp theo bạn có thể hỏi người Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha.

Vì vậy mà dân chủ luôn luôn thất bại, chỉ là sớm hay muộn. Mặc dù Mỹ không bao giờ có dân chủ thuần túy, đáng chú ý khi cộng hòa duy trì được bao lâu. Nhưng khi Mỹ trở thành cường quốc toàn cầu lớn nhất sau WW-II, thì hy vọng đã hết. Chỉ là vấn đề thời gian cho đến khi Mỹ trở thành phi dân chủ như ngày nay. Có điều mỉa mai về việc này là người Mỹ càng ít sống trong dân chủ, thì càng nhiều tìm kiếm để duy trì hiện trạng huyên náo của ý tưởng Mỹ - dân chủ và tầm quan trọng của bỏ phiếu. Thành thật mà nói, đó là vô lý, và cho người ta một ví dụ khác về lối sống đã trở thành điên ở Mỹ.

Trên khía cạnh tâm lý, điều này trông giống như trường hợp lớn nhất của sự quá đà trong lịch sử nhân loại. Trên phương tiện truyền thông hoàn toàn không chấp nhận công khai thừa nhận họ không sống trong một nền dân chủ. Đó là điều cấm, cấm kỵ. Khi đối tượng là điều cấm kỵ, luôn luôn là một chỉ số nặng ký rằng sức mạnh tâm lý (tức là bản năng gốc hay cơ chế phòng vệ) đang đóng vai trò.


Còn rất nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng đó là đủ cho ngày hôm nay.


http://www.declineoftheempire.com/2012/03/democracies-always-fail.html


Bonus:

Tại sao bầu cử dân chủ lại tồi tệ:




Video — Nigel Farage luôn luôn thú vị:







Tại sao dân chủ luôn luôn thất bại - Peter Schiff:




Vấn đề gia đình, trong phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc

 Cuối năm 2021, trong Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, nêu bật tình hình, các hiện t...